IV. AṬṬHAKAVAGGO - PHẨM NHÓM TÁM (tiếp theo)
|
Buddha
Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka
|
Lời tiếng Việt:
(văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda
|
Lời tiếng Việt:
(văn vần) HT. Thích Minh Châu
|
9.
MĀGANDIYASUTTAṂ
|
9. KINH VỀ
MĀGANDIYA
|
(IX). KINH
MĀGANDIYĀ
|
839. Disvāna taṇhaṃ aratiṃ
ragañca
nāhosi chando api methunasmiṃ,
kimevidaṃ muttakarīsapuṇṇaṃ
pādāpi naṃ samphusituṃ na icche. |
839. Sau khi nh́n thấy tham ái,
bất măn, và luyến ái,
ngay cả sự mong muốn về việc đôi lứa đă không có.
Vật được chứa đầy nước tiểu và phân này là cái ǵ đây?
Ta không muốn chạm đến nó dầu là bàn chân. |
Thế
Tôn:
835.
Sau khi thấy khát ái,
Bất lạc và tham đắm,
Không thể có ưa muốn,
Đối với sự dâm dục.
Sao, với bao đầy tràn,
Nước tiểu, phân uế này,
Ta không có ước muốn,
Với chân động chạm nó. |
840. Etādisaṃ ce ratanaṃ na
icchasi
nāriṃ narindehi bahūhi patthitaṃ,
diṭṭhiggataṃ sīlavatānujīvitaṃ
bhavūpapattiñca vadesi kīdisaṃ. |
840. Nếu Ngài không ước muốn báu
vật như thế này, một người nữ được mong ước bởi nhiều vị vua
chúa, vậy Ngài nói về quan điểm, về giới, về phận sự, về cuộc
sống, và về sự sanh lên của hiện hữu thuộc loại như thế nào? |
Màgandiya:
836.
Nếu Ngài không ước muốn:
Ngọc báu như thế này,
Nữ nhân được mong cầu,
Bởi rất nhiều đế vương,
Hăy nói như thế nào,
Là tri kiến của Ngài,
Giới cấm và sinh mạng,
Cùng sự hữu phát sanh. |
841. Idaṃ vadāmīti na tassa hoti
(māgandiyāti bhagavā)
dhammesu niccheyya samuggahītaṃ,
passañca diṭṭhīsu anuggahāya
ajjhattasantiṃ pacinaṃ adassaṃ.
|
841. (Đức Thế Tôn nói: “Này
Māgandiya,) sau khi đă suy xét trong số các pháp (tà kiến), đối
với Ta đây không có điều ǵ đă được nắm bắt (nói rằng): ‘Ta nói
điều này.’ Và trong khi nh́n thấy mà không bám níu vào các tà
kiến, trong khi t́m ṭi, Ta đă nh́n thấy sự an tịnh ở nội phần.” |
Thế
Tôn:
837.
Thế Tôn liền trả lời,
Cho Màgandiya,
Với Ta không có nói,
Ta nói như thế này,
Sau khi quán sát kỹ
Sự chấp thủ trong pháp,
Trong tất cả tri kiến,
Ta không có chấp trước,
Ta thấy sự cất chứa,
Tịch tịnh trong nội tâm. |
842. Vinacchayā yāni pakappitāni
(iti māgandiyo)
te ve muni brūsi anuggahāya,
ajjhantasantīti yametamatthaṃ.
kathaṃ nu dhīrehi paveditaṃ taṃ. |
842. (Māgandiya nói rằng:) “Các
phán đoán nào đă được xếp đặt, này bậc hiền trí, ngài nói về
chính chúng mà không bám níu. Điều nào có ư nghĩa là ‘sự an tịnh
ở nội phần,’ điều ấy đă được tuyên bố thế nào bởi các bậc sáng
trí?” |
Màgandiya:
838.
Màgandiya nói:
Các lư thuyết quyết định,
Ngài nói vị ẩn sĩ,
Không nắm giữ thuyết nào.
C̣n về ư nghĩa này,
Của hai chữ nội tịnh,
Thế nào là bậc Hiền trí,
Hiểu biết hai chữ ấy? |
843. Na diṭṭhiyā na sutiyā na
ñāṇena (māgandiyāti bhagavā)
sīlabbatenāpi na suddhimāha,
adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā
asīlatā abbatā nopi tena,
ete ca nissajja anuggahāya
santo anissāya bhavaṃ na jappe. |
843. (Đức Thế Tôn nói: “Này
Māgandiya,) người ta đă nói rằng sự trong sạch không phải do
kiến, không phải do nghe, không phải do trí, không phải do giới
và phận sự, cũng không phải do (không có) điều ấy là do không
kiến, do không nghe, do không trí, do không giới, do không phận
sự. Và sau khi không nương tựa, không bám níu vào các điều này,
được an tịnh, không phụ thuộc, không c̣n tham muốn hữu.” |
Thế
Tôn:
839.
Thế Tôn nói như sau:
Này Màgandiya,
Không phải từ tri kiến,
Từ truyền thống, từ trí,
Không phải từ giới cấm,
Thanh tịnh được đem đến.
Người ta nói như vậy,
Nhưng cũng không phải là
Không kiến, không truyền thống,
Không trí, không giới cấm,
Từ bỏ tất cả chúng,
Không chấp thủ sự ǵ,
Bậc thiện không y chỉ,
Không ước muốn sanh hữu. |
844. No ce kira diṭṭhiyā na
sutiyā na ñāṇena (iti māgandiyo)
sīlabbatenāpi visuddhimāha,
adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā1
asīlatā abbatā nopi tena,
maññāmahaṃ momuhameva dhammaṃ
diṭṭhiyā eke paccenti suddhiṃ.
|
844. (Māgandiya nói rằng:) “Nếu
nói rằng sự trong sạch không phải do kiến, không phải do nghe,
không phải do trí, không phải do giới và phận sự, cũng không
phải do (không có) điều ấy, là do không kiến, do không nghe, do
không trí, do không giới, do không phận sự, tôi nghĩ rằng giáo
lư (ấy) thật mù mờ; một số người tin rằng trong sạch là do
kiến.” |
Màgandiya:
840.
Màgandiya nói:
Nếu không từ tri kiến,
Từ truyền thống, từ trí,
Không phải từ giới cấm,
Thanh tịnh được đưa đến.
Người ta nói như vậy,
Cũng không phải không kiến,
Không truyền thống, không trí,
Không giới luật giới cấm,
Thanh tịnh được đem đến
Con nghĩ rằng pháp vậy,
Là pháp kẻ ngu si,
V́ rằng thật có người,
Nhờ kiến đến thanh tịnh. |
845. Diṭṭhiñca nissāya
anupucchamāno (māgandiyāti bhagavā)
samuggahitesu pamohamāga,
ito ca nāddakkhi aṇumpi saññaṃ
tasmā tuvaṃ momuhato dahāsi. |
845. (Đức Thế Tôn nói: “Này
Māgandiya,) sau khi nương tựa vào kiến, trong khi t́m hiểu,
ngươi đă đi đến sự mê muội ở những điều đă được nắm bắt. Và từ
đây ngươi đă không tiếp thâu sự nhận thức dầu là nhỏ nhoi; do đó
ngươi ghi nhận (điều ấy) là mù mờ.” |
Thế
Tôn:
841.
Thế Tôn nói như sau:
Này Màgandiya,
Nếu y vẫn tri kiến,
Ông c̣n tiếp tục hỏi,
Chính do những chấp thủ,
Đi đến sự ngu si,
Từ đó, Ông không thấy,
Một chút ǵ về tưởng,
Do vậy, Ông chớ thấy,
Tất cả là ngu si. |
846. Samo vihesi uda vā nihīno
yo maññati so vivadetha tena,
tīsu vidhāsu avikampamāno
samo visesīti na tassa hoti. |
846. Bằng nhau, đặc biệt, hoặc
thấp hèn,
kẻ nào nghĩ vậy, kẻ ấy sẽ tranh căi v́ điều ấy.
Người không dao động ở ba trạng thái kiêu mạn ấy,
đối với người ấy không có (ư nghĩ): ‘bằng nhau’ hay ‘đặc biệt.’
|
842.
Bằng ta thắng hơn ta,
Hay thấp kém hơn ta,
Ai suy nghĩ như vậy,
Do vậy đấu tranh khởi,
Ai không bị dao động
Bởi ba vấn đề ấy,
Như vậy, đối vị ấy,
Không bằng, không thù thắng. |
847. Saccanti so brāhmaṇo kiṃ
vadeyya
musāti vā so vivadetha kena,
yasmiṃ samaṃ visamaṃ vāpi natthi
sa kena vādaṃ paṭisaṃyujeyya. |
847. Vị Bà-la-môn ấy có thể nói
ǵ (cho rằng): ‘Đây là sự thật’?
Hoặc vị ấy có thể tranh căi với ai rằng: ‘Đây là sai trái’?
Ở vị nào (ư niệm so sánh) bằng nhau hay không bằng nhau là không
có,
vị ấy có thể vướng víu vào sự tranh luận với ai đây?
|
843.
Sao Bà-la-môn ấy
Lại nói: "Đây sự thật ",
Đây chính là nói láo,
Để gây nên tranh luận,
Với ai không hề có,
Bằng nhau, không bằng nhau.
Do đâu nó có thể,
Mắc vào tranh luận được. |
848. Okam pahāya aniketasārī
gāme akubbaṃ muni santhavāni,
kāmehi ritto apurekkharāno
kathaṃ na viggayha janena kayirā. |
848. Sau khi từ bỏ chỗ ngụ, không
có sự vương vấn nhà ở,
vị hiền trí không nên tạo ra các sự thân thiết ở trong làng,
trống vắng đối với các dục, không ước vọng,
không nên tạo ra cuộc nói chuyện căi vă với người (khác). |
844.
Đoạn tận mọi nhà cửa,
Sống là kẻ không nhà,
Ẩn sĩ không thân thiết,
Với một ai ở làng,
Trống không các dục vọng,
Không xem trọng sự ǵ,
Không nói chuyện tranh luận,
Với một ai ở đời. |
849. Yehi vivitto vicareyya loke
na tāni uggayha vadeyya nāgo,
elambujaṃ kaṇṭakaṃ vārijaṃ yathā
jalena paṅkena canūpalittaṃ,
evaṃ munī santivādo agiddho
kāme ca loke ca anūpalitto. |
849. Sống ở thế gian, (bản thân)
đă được viễn ly với những điều nào, bậc long tượng sẽ không tiếp
thu và sẽ không nói về những điều ấy. Giống như cây sen có gai
(ở cuống), được sanh ra ở trong nước, không bị vấy bẩn bởi nước
và bùn, tương tự như vậy, bậc hiền trí nói về sự an tịnh, không
bị thèm khát, không bị vấy bẩn ở dục và ở thế gian. |
845.
Vị ấy sống viễn ly,
Mọi sự việc ở đời,
Bậc Long tượng không chấp,
Và không nói đến họ.
Như hoa sen có gai,
Sanh ra ở trong nước,
Không bị nước và bùn,
Mắc dính và thấm ướt.
Như vậy bậc ẩn sĩ,
Nói an tịnh, không tham,
Không bị dục và đời,
Mắc dính và thấm ướt. |
850. Na vedagū diṭṭhiyā na mutiyā
sa mānameti na hi tammayo so,
na kammunā nopi sutena neyyo
anūpanīto sa nivesanesu. |
850. Bậc hiểu biết sâu sắc không
do tà kiến, không do cảm giác mà vị ấy đi đến ngă mạn, bởi v́ vị
ấy không có điều ấy là bản tính. Không do hành động, cũng không
do điều đă được nghe mà vị ấy có thể bị dẫn đi, vị ấy không bị
dẫn dắt vào trong các sự chấp chặt. |
846.
Bậc trí, không do kiến,
Cũng không do thọ tưởng,
Đi đến sự kiêu mạn,
Không có tham dự vào,
Không để cho hành động,
Cho truyền thống dắt dẫn,
Không để bị chi phối,
Trong trú xứ của ư. |
851. Saññā virattassa na santi
ganthā
paññā vimuttassa na santi mohā,
saññañca diṭṭhiñca ye aggahesuṃ
te ghaṭṭayantā vicaranti loketi. |
851. Đối với vị đă xa ĺa tưởng,
các trói buộc không hiện hữu,
đối với vị đă được giải thoát do tuệ, các si mê không hiện hữu.
Và những người nào đă nắm giữ tưởng và tà kiến,
những người ấy sống, gây
va chạm,
ở thế gian. |
847.
Người không ưa thích tưởng,
Không có bị trói buộc,
Vị được tuệ giải thoát,
Không có sự si mê,
Và những ai chấp thủ,
Tư tưởng và tri kiến,
Người ấy sống xung đột,
Với mọi người ở đời. |
Māgandiyasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Māgandiya.
|
|
|
|
|
10. PURĀBHEDASUTTAṂ
|
10. KINH TRƯỚC KHI HOẠI RĂ
|
(X)
KINH TRƯỚC KHI BỊ HỦY HOẠI
|
852. Kathaṃdassī kathaṃsīlo
upasantoti vuccati,
taṃ me gotama pabrūhi pucchito uttamaṃ naraṃ. |
852. “Có sự hiểu biết thế nào, có
giới thế nào, được gọi là an tịnh? Thưa ngài Gotama, được hỏi về
con người tối thượng, xin ngài hăy nói về vị ấy.”
|
Người
hỏi:
848.
Người sống đời an tịnh,
Kiến và giới thế nào?
Con hỏi Gotama,
Là bậc người tối thượng.
|
853. Vītataṇho purā bhedā (iti
bhagavā) pubbamantamanissito,
vemajjhenupasaṅkheyyo tassa natthi purekkhataṃ. |
853. (Đức Thế Tôn nói): “Vị có
tham ái đă được xa ĺa trước khi hoại ră (xác thân) không nương
tựa vào thời gian trước (quá khứ), ở vào khoảng giữa (hiện tại)
không thể phân hạng; việc mong ước là không có đối với vị ấy.”
|
Thế
Tôn:
849.
Thế Tôn đáp như sau:
Ly ái trước thân hoại,
Không y chỉ ban đầu,
Không y chỉ cuối cùng,
Không kể đến vật giữa,
Không có ưa thích nào.
|
854. Akkodhano asantāsī avikatthi
akukkuco,
mantabhāṇī anuddhato sa ve vācāyato muni.
|
854. Không có sự giận dữ, không
xao động, không khoe khoang, không hối tiếc, có lời nói khôn
khéo, không cao ngạo, vị ấy quả thật là bậc hiền trí đă thu thúc
về khẩu. |
850.
Không phẫn nộ, không sợ,
Không khoa đại, không hối,
Nói ḥa nhă, không động,
Bậc ẩn sĩ thận ngôn. |
855. Nirāsatti anāgate atītaṃ
nānusocati,
vivekadassī phassesu diṭṭhīsu ca na nīyati.
|
855. Vị không có sự dính mắc ở
tương lai, không sầu muộn về quá khứ, có cái nh́n tách biệt ở
các xúc, và không bị dẫn đi bởi các tà kiến. |
Không ước vọng tương lai,
Không sầu muộn quá khứ,
Thấy viễn ly giữa xúc,
Không để kiến dắt dẫn. |
856. Patilīno akuhako apihālu
amaccharī,
appagabbho ajeguccho pesuneyye ca no yuto. |
856. Vị đă xa rời (các bất thiện
pháp), không xảo trá, không mong cầu, không bỏn xẻn, không xấc
xược, không gây nhờm gớm, và không can dự vào việc nói đâm thọc. |
852.
Sống riêng, không man trá,
Không thích, không xan tham,
Không xông xáo nhàm chán,
Không đi đến hai lưỡi. |
857. Sātiyesu anassāvi atimāne ca no yuto,
saṇho ca paṭibhānavā na saddho na virajjati. |
857. Vị không có sự buông xuôi
theo các khoái lạc, không can dự vào việc ngă mạn thái quá, tế
nhị, và có biện tài, không cả tin, không thờ ơ lănh đạm. |
853.
Không mê vật khả ái,
Cũng không có quá mạn,
Nhu ḥa, nhưng ứng biện,
Không vọng tín, không tham. |
858. Lābhakamyā na sikkhati
alābhe na ca kuppati,
aviruddho ca taṇhāya rasesu nānugijjhati. |
858. Vị học tập không v́ ham muốn
lợi lộc và không bực tức khi không được lợi lộc, không chống đối
và không thèm muốn các vị nếm do tham ái. |
854.
Không tu tập v́ lợi,
Không được lợi, không sân,
Không bị ái kích thích,
Không đam mê các vị. |
859. Upekkhako sadā sato na loke
maññate samaṃ,
na visesī na nīceyyo tassa no santi ussadā. |
859. Vị hành xả, luôn luôn có
niệm, ở thế gian không nghĩ (bản thân) là ngang bằng, không
(nghĩ) là có sự đặc biệt, không (nghĩ) là thấp hèn. Đối với vị
ấy, không có các (thái độ) kiêu ngạo. |
855.
Thường trú xả, chánh niệm,
Ở đời, không nghĩ ḿnh,
Bằng hơn hay thua người,
Vị ấy, không bồng bột. |
860. Yassa nissayatā natthi ñatvā
dhammaṃ anissito,
bhavāya vibhavāya vā taṇhā yassa na vijjati. |
860. Đối với vị nào không có sự
nương tựa—sau khi hiểu được Giáo Pháp (vị ấy) không c̣n nương
tựa—đối với vị ấy tham ái ở hữu và phi hữu không t́m thấy.
|
856.
Không y chỉ một ai,
Biết pháp, không y chỉ,
Vị ấy không có ái,
Đối với hữu, phi hữu. |
861. Taṃ brūmi upasantoti kāmesu
anapekkhinaṃ,
ganthā tassa na vijjanti atāri so visattikaṃ.
|
861. Ta nói rằng vị ấy là “bậc an
tịnh” không trông mong về các dục, đối với vị ấy các sự trói
buộc không t́m thấy; vị ấy đă vượt qua sự vướng mắc. |
857.
Ta gọi vị an tịnh,
Không mong cầu các dục,
Vị ấy không triền phược,
Vượt khỏi các tham trước. |
862. Na tassa puttā pasavo
khettaṃ vatthuṃ ca vijjati,
attā vāpi nirattā vā na tasmiṃ upalabbhati.
|
862. Đối với vị ấy, những người
con, các thú nuôi, ruộng vườn và đất đai đều không t́m thấy. Ngă
(thường kiến) và luôn cả phi ngă (đoạn kiến) cũng không tồn tại
ở vị ấy. |
858.
Vị ấy không con cái,
Thú vật, ruộng, đất đai,
Không có ǵ nắm lấy,
Là ta, là không ta. |
863. Yena naṃ vajju puthujjanā
atho samaṇabrāhmaṇā,
taṃ tassa apurekkhatā tasmā vādesu n’ ejati. |
863. V́ việc nào mà các phàm phu,
rồi các Sa-môn, và các Bà-la-môn có thể kết tội vị ấy, việc ấy
là không được mong ước bởi vị ấy; v́ thế vị ấy không run sợ ở
những lời (buộc tội). |
859.
Phàm phu có buộc tội,
Hoặc Sa-môn, Phạm chí,
Vị ấy không quan tâm,
Trong lời nói không động, |
864. Vītagedho amaccharī na
ussesu vadate muni,
na samesu na omesu kappaṃ neti akappiyo. |
864. Có sự thèm khát đă được xa
ĺa, không bỏn xẻn, bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong
số những người ưu việt, không trong số những người ngang bằng,
không trong số những người thấp kém, là vị không bị sắp đặt,
không đi đến sự sắp đặt (bởi tham ái và tà kiến). |
860.
Không tham, không xan lẫn,
Ẩn sĩ không nói cao,
Không nói bằng, nói thấp,
Không đi đến thời kiếp,
V́ vị ấy vượt khỏi,
Sự chi phối thời kiếp. |
865. Yassa loke sakaṃ natthi
asatā ca na socati,
dhammesu ca na gacchati sa ve santoti vuccatīti.
|
865. Đối với
vị nào, vật sở hữu ở thế gian là không có, vị không sầu muộn do
t́nh trạng không có, và không đi đến (sự lầm lẫn) trong mọi
pháp; thật vậy vị ấy được gọi là ‘bậc an tịnh.’” |
861.
Ai không có vật ǵ,
Không có, không sầu muộn,
Không đi đến các pháp,
Vị ấy gọi an tịnh. |
Purābhedasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Trước Khi Hoại Ră.
|
|
|
|
|
11. KALAHAVIVĀDASUTTAṂ
|
11. KINH CĂI CỌ VÀ TRANH CĂI
|
(XI)
KINH TRANH LUẬN
|
866. Kuto pahūtā kalahā vivādā
paridevasokā sahamaccharā ca,
mānātimānā sahapesunā ca
kuto pahūtā te tadiṅgha brūhi. |
866. “Từ đâu khởi sanh các sự căi
cọ, các sự tranh căi,
các sự than văn, các nỗi sầu muộn, và thêm các sự bỏn xẻn,
các sự ngă mạn, và ngă mạn thái quá, rồi thêm các việc nói đâm
thọc?
Từ đâu chúng khởi sanh? Nào, xin Ngài hăy nói về điều ấy.”
|
Người
hỏi:
862.
Từ đâu được khởi lên,
Các tranh luận, đấu tranh,
Than van và sầu muộn,
Cùng với tánh xan tham,
Mạn và tăng thượng mạn,
Kể cả với hai lưỡi,
Từ đâu chúng sanh nhiều,
Mong Ngài hăy nói lên. |
867. Piyā pahūtā kalahā vivādā
paridevasokā sahamaccharā ca,
mānātimānā sahapesunā1 ca
macchiriyayuttā kalahā vivādā
vivādajātesu ca pesunāni. |
867. “Từ vật được yêu thương,
khởi sanh các sự căi cọ, các sự tranh căi,
các sự than văn, các nỗi sầu muộn, và thêm các sự bỏn xẻn,
các sự ngă mạn, và ngă mạn thái quá, rồi thêm các việc nói đâm
thọc.
Các sự căi cọ, các sự tranh căi là có liên quan đến sự bỏn xẻn.
Và ở các cuộc tranh căi đă được sanh ra, có các việc nói đâm
thọc.” |
Thế
Tôn:
863.
Từ ái sanh khởi nhiều,
Các tranh luận, đấu tranh
Than van và sầu muộn,
Cùng với tánh xan tham,
Mạn và tăng thượng mạn,
Kể cả với hai lưỡi,
Các tranh luận, đấu tranh,
Đều liên hệ xan tham,
Những lời nói hai lưỡi,
Khởi lên từ tranh luận. |
868. Piyāsu lokasmiṃ kutonidānā
ye cāpi lobhā vicaranti loke,
āsā ca niṭṭhā ca kutonidānā
ye samparāyāya narassa honti.
|
868. “Vậy các vật được yêu thương
ở thế gian có căn nguyên từ đâu, và cũng do tham chúng (loài
người) sống ở thế gian? Mong mỏi và sự thành tựu (của mong
mỏi),―(nhân) đưa đến đời sống kế tiếp của con người,―có căn
nguyên từ đâu?” |
Người
hỏi:
864.
Do những nhân duyên nào,
Khả ái sanh ở đời?
Hay những tham lam nào,
Được lưu hành ở đời?
Ước vọng và thành đạt,
Là do nhơn duyên nào?
Khiến loài Người được sanh,
Trong thời gian tương lai? |
869. Chandanidānāni piyāni loke
ye cāpi lobhā vicaranti loke,
āsā ca niṭṭhā ca itonidānā
ye samparāyāya narassa honti. |
869. “Các vật được yêu thương ở
thế gian có mong muốn là căn nguyên, và cũng do tham chúng (loài
người) sống ở thế gian. Mong mỏi và sự thành tựu (của mong
mỏi),―(nhân) đưa đến đời sống kế tiếp của con người,―có căn
nguyên từ đây (sự mong muốn).” |
Thế
Tôn:
865.
Do ước muốn là nhân,
Khả ái sanh ở đời,
Hay với những tham lam,
Được lưu hành ở đời,
Ước vọng và thành đạt,
Do ước muốn làm nhân,
Khiến loài Người được sanh,
Trong thời gian tương lai. |
870. Chando nu lokasmiṃ
kutonidāno
vinicchayā vāpi kuto pahūtā,
kodho mosavajjañca kathaṃkathā ca
ye vāpi dhammā samaṇena vuttā. |
870. “Vậy mong muốn ở thế gian có
căn nguyên từ đâu?
Hoặc luôn cả các phán đoán được khởi sanh từ đâu?
Sự giận dữ, lời nói giả dối, và sự nghi ngờ,
hoặc luôn cả các pháp nào đă được bậc Sa-môn nói đến?” |
Người
hỏi:
866.
Ước muốn sanh ở đời
Là do nhân duyên nào?
Hay cả những quyết định,
Do nhân nào được sanh?
Phẫn nộ và vọng ngữ,
Cùng với cả nghi hoặc,
Hoặc là những pháp nào,
Được Sa-môn nói đến? |
871. Sātaṃ asātanti yamāhu loke
tamupanissāya pahoti chando,
rūpesu disvā vibhavaṃ bhavañca
vinicchayaṃ kurute jantu loke. |
871. “‘Khoái lạc, không khoái
lạc’ là điều người ở thế gian đă nói;
nương tựa vào điều ấy, mong muốn khởi sanh.
Sau khi nh́n thấy sự biến mất và sự h́nh thành ở các sắc,
con người ở thế gian tiến hành sự phán đoán. |
Thế
Tôn:
867.
Khả ư, bất khả ư,
Được gọi vậy ở đời,
Do y chỉ nơi chúng,
Ước muốn được sanh khởi.
Sau khi thấy trong sắc,
Cả hữu và phi hữu,
Chúng sanh mới làm được,
Những quyết định ở đời. |
872. Kodho mosavajjañca
kathaṃkathā ca
etepi dhammā dvayameva sante,
kathaṃkathī ñāṇapathāya sikkhe
ñatvā pavuttā samaṇena dhammā. |
872. Sự giận dữ, lời nói giả dối,
và sự nghi ngờ,
các pháp này (sanh lên) trong khi cặp đôi có mặt.
Kẻ có sự nghi ngờ nên học tập theo lộ tŕnh của trí.
Các pháp đă được bậc Sa-môn nói lên sau khi Ngài đă biết.”
|
868.
Phẫn nộ và vọng ngữ,
Cùng với cả nghi hoặc,
Những pháp này lưu hành,
Khi pháp đôi có mặt,
Kẻ nghi hăy học tập,
Trên con đường chánh trí,
Sau khi biết các pháp,
Do Sa-môn thuyết giảng. |
873. Sātaṃ asātañca kutonidānā
kismiṃ asante na bhavanti hete,
vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthaṃ
etaṃ me pabrūhi yatonidānaṃ. |
873. “Khoái lạc và không khoái
lạc có căn nguyên từ đâu?
Khi cái ǵ không có mặt, th́ hai pháp này không có mặt?
Về sự biến mất và sự h́nh thành, điều nào là ư nghĩa,
xin ngài hăy nói cho tôi điều ấy có căn nguyên từ đâu? |
Người
hỏi:
869.
Khả ư, bất khả ư,
Là do nhân duyên nào,
Do cái ǵ không có,
Họ không có hiện hữu.
C̣n về ư nghĩa này,
Về phi hữu và hữu,
Hăy nói cho chúng con,
Nguyên nhân ǵ chúng sanh? |
874. Phassanidānaṃ sātaṃ asātaṃ
phasse asante na bhavanti hete,
vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthaṃ
etaṃ te pabrūmi itonidānaṃ. |
874. “Khoái lạc và không khoái
lạc có xúc là căn nguyên.
Khi xúc không có mặt, hai pháp này không có mặt.
Về sự biến mất và sự h́nh thành, điều nào là ư nghĩa,
Ta nói cho ngươi điều ấy có căn nguyên từ đây.” |
Thế
Tôn:
870.
Do nhân duyên cảm xúc,
Khả ư, bất khả ư,
Nếu không có cảm xúc,
Họ cũng không hiện hữu,
C̣n về ư nghĩa này,
Về phi hữu và hữu,
Ta nói cho Ông rơ,
Nguyên nhân này, chúng sanh. |
875. Phasso nu lokasmiṃ
kutonidāno
pariggahā cāpi kuto pahūtā,
kismiṃ asante na mamattamatthi
kismiṃ vibhūte na phusanti phassā. |
875. “Vậy xúc ở thế gian có căn
nguyên từ đâu?
Và các sự bám giữ được khởi sanh từ đâu?
Khi cái ǵ không có mặt, th́ không có trạng thái chấp là của
tôi?
Khi cái ǵ bị biến mất, th́ các xúc không xúc chạm?” |
Người
hỏi:
871.
C̣n cảm xúc ở đời,
Do nhân ǵ sanh khởi,
Hay các loại chấp thủ,
Do từ đâu sanh nhiều,
Do cái ǵ không có,
Ngă sở hữu không có,
Cái ǵ không hiện hữu,
Khiến không có cảm xúc? |
876. Nāmañca rūpañca paṭicca
phassā
icchānidānāni pariggahāni,
icchāya ’santyā na mamattamatthi
rūpe vibhūte na phusanti phassā. |
876. “Các xúc tùy thuộc vào danh
và sắc.
Và các sự bám giữ có ước muốn là căn nguyên.
Khi ước muốn không có mặt th́ không có trạng thái chấp là của
tôi.
Khi sắc bị biến mất, th́ các xúc không xúc chạm.” |
Thế
Tôn:
872.
Do duyên danh và sắc,
Nên có các cảm xúc,
Do nhân các ước muốn,
Nên có những chấp thủ,
Nếu ước muốn không có,
Ngă sở hữu cũng không,
Do sắc không hiện hữu,
Khiến không có cảm xúc. |
877. Kathaṃ sametassa vibhoti
rūpaṃ
sukhaṃ dukhaṃ vāpi kathaṃ vibhoti,
etaṃ me brūhi yathā vibhoti
taṃ jānissāma iti me mano ahū. |
877. “Đối với vị đă thành đạt thế
nào th́ sắc biến mất?
Hạnh phúc hoặc luôn cả khổ đau biến mất thế nào?
Xin ngài hăy nói cho tôi việc ấy biến mất ra sao,
‘chúng tôi nên biết điều ấy,’ ư nghĩ của tôi đă là thế ấy.”
|
Người
hỏi:
873.
Sở hành như thế nào,
Sắc pháp không hiện hữu,
An lạc và khổ đau,
Thế nào không có mặt,
Hăy nói lên cho con,
Không có như thế nào,
Chúng con muốn được biết,
Tâm ư con nói vậy. |
878. Na saññasaññī na
visaññasaññī
nopi asaññī na vibhūtasaññī,
evaṃ sametassa vibhoti rūpaṃ
saññānidānā hi papañcasaṅkhā. |
878. “Không phải là có tưởng ở
tưởng, không phải là có tưởng ở tưởng sai lệch, cũng không phải
là không có tưởng, không phải là có tưởng bị biến mất; đối với
vị đă thành đạt như vậy th́ sắc biến mất, bởi v́ cái gọi là vọng
tưởng có tưởng là căn nguyên.” |
Thế
Tôn:
874.
Không có tưởng các tưởng,
Không có tưởng vô tưởng,
Phi tưởng cũng không có,
Vô hữu tưởng cũng không.
Do sở hành như vậy,
Sắc pháp không hiện hữu,
Do nhân duyên các tưởng,
Hư luận được h́nh thành. |
879. Yaṃ taṃ apucchimha akittayi
no
aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhi,
ettāvataggaṃ nu vadanti heke
yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se
udāhu aññampi vadanti etto. |
879. “Điều mà chúng tôi đă hỏi
ngài, ngài đă trả lời chúng tôi. Chúng tôi hỏi ngài điều khác.
Nào, xin Ngài hăy nói về điều ấy. Có phải một số bậc sáng suốt ở
nơi đây nói rằng sự trong sạch của chúng sanh đến chừng này là
cao nhất, hay là họ c̣n nói về điều khác so với điều này?”
|
Người
hỏi:
875.
Ngài đă nói chúng con,
Những điều chúng con hỏi,
Có điều nữa hỏi Ngài,
Mong Ngài trả lời cho,
Bậc Hiền trí nói rằng,
Như thế này tối thượng,
Nghĩa là ở đời này,
Sự thanh tịnh Dạ-xoa
Hay là chúng muốn nói,
Có điều ǵ khác nữa? |
880. Ettāvataggampi vadanti heke
yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se,
tesaṃ paneke samayaṃ vadanti
anupādisese kusalā vadānā. |
880. “Một số bậc sáng suốt ở nơi
đây nói rằng sự trong sạch của chúng sanh chỉ đến chừng này là
cao nhất. Trái lại, một số trong số đó nói về sự tịch diệt (đoạn
kiến), tuyên bố là thiện xảo về trạng thái không c̣n dư sót.”
|
Thế
Tôn:
876.
Bậc Hiền trí nói rằng,
Như thế là tối thượng,
Nghĩa là ở đời này,
Sự thanh tịnh Dạ-xoa,
Như có người nói rằng,
Chính là sự hoại diệt,
Lại một số thiện nhân,
Nói rằng: "Không dư y". |
881. Ete ca ñatvā upanissitāti
ñatvā munī nissaye so vimaṃsī,
ñatvā vimutto na vivādameti
bhavābhavāya na sameti dhīroti. |
881. Và sau khi nhận biết những
người này là ‘những kẻ nương tựa,’
sau khi nhận biết, bậc hiền trí ấy có sự cân nhắc về các sự
nương tựa,
sau khi nhận biết, bậc đă được giải thoát không đi đến tranh
căi,
bậc sáng trí không đi đến tái sanh ở hữu và phi hữu.”
|
877.
Biết được những pháp ấy,
Đều nương tựa y chỉ,
Biết vậy bậc ẩn sĩ,
Suy tư trên y chỉ,
Biết được, nên giải thoát,
Không đi đến tranh luận,
Bậc Hiền không t́m đến,
Cả hữu và phi hữu. |
Kalahavivādasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Căi Cọ và Tranh Căi.
|
|
|
|
|
12. CŪḶAVIYŪHASUTTAṂ
|
12. KINH SỰ DÀN TRẬN NHỎ
|
(XII) NHỮNG VẤN ĐỀ NHỎ BÉ |
882. Sakaṃ sakaṃ
diṭṭhiparibbasānā
viggayha nānā kusalā vadanti,
yo evaṃ jānāti sa vedi dhammaṃ
idaṃ paṭikkosamakevalī so. |
882. “Trong khi sống theo quan điểm của chính ḿnh, nhiều vị
khác nhau (tự xưng là) thiện xảo, giữ khư khư (quan điểm của
ḿnh), nói rằng: ‘Người nào biết như vầy, người ấy hiểu biết
pháp. Kẻ khinh miệt điều này, kẻ ấy là không toàn hảo.’
|
Người
hỏi:
878.
Mỗi người tự thiên chấp,
Về tri kiến của ḿnh,
Do chấp thủ sai biệt,
Bậc thiện xảo nói lên,
Ai biết như thế này,
Vị ấy biết được pháp,
Ai chỉ trích điểm này,
Vị ấy không hoàn toàn. |
883. Evampi viggayha vivādiyanti
bālo paro akkusaloti cāhu,
sacco nu vādo katamo imesaṃ
sabbeva hime kusalāvadānā. |
883. Sau khi giữ khư khư (quan điểm của ḿnh) như vậy, chúng
tranh căi, và đă nói rằng: ‘Người khác là ngu si, không thiện
xảo.’ Vậy th́ lời nói nào trong số này là sự thật, bởi v́ tất cả
những người này đều tuyên bố (họ) là thiện xảo?”
|
879.
Do chấp thủ như vậy,
Họ tranh luận với nhau,
Họ nói kẻ khác ngu.
Không có khéo thiện xảo.
Trong những lời nói này,
Lời nói ai chân thật,
Hay tất cả vị này,
Là những bậc khéo nói? |
884. Parassa ce dhammamanānujānaṃ
bālo mago hoti nihīnapañño,
sabbeva bālā sunihīnapaññā
sabbevime diṭṭhiparibbasānā.
|
884. “Nếu không thừa nhận pháp của người khác,
(kẻ ấy) là ngu si, là loài thú, có tuệ thấp kém,
tất cả quả là những kẻ ngu si, có tuệ vô cùng thấp kém,
tất cả những người này quả đang sống theo quan điểm (của ḿnh).
|
Thế
Tôn:
880.
Nếu không có chấp thuận,
Pháp của các người khác,
Nói kẻ khác là ngu,
Tuệ như vậy thấp kém.
Tất cả là ngu si,
Có tuệ thật thấp kém.
Tất cả tri kiến này.
Đều chỉ là thiên chấp. |
885. Sandiṭṭhiyā ceva na cevadātā
sa suddhapaññā kusalā mutīmā,
na tesaṃ koci parihīnapañño
diṭṭhi hi tesampi tathā samattā. |
885. Và nếu do quan điểm của ḿnh, những kẻ không trong sạch
trở nên có tuệ thanh tịnh, thiện xảo, có sự nhận thức,
không ai trong số họ là có tuệ hoàn toàn thấp kém,
bởi v́ quan điểm của họ cũng đă đạt đến bản thể thật.
|
881.
Nếu các cuộc tranh luận,
Được tri kiến gạn lọc,
Trí tuệ được thanh tịnh,
Thiện xảo trí sáng suốt,
Họ không có một ai,
Là trí tuệ hạ liệt,
Và tri kiến của họ,
Được hoàn toàn viên măn. |
886. Na cāham etaṃ tathīyanti
brūmi
yamāhu bālā mithu aññamaññaṃ,
sakaṃ sakaṃ diṭṭhimakaṃsu saccaṃ
tasmā hi bāloti paraṃ dahanti. |
886. Nhưng Ta không nói rằng: ‘Điều ấy là bản thể thật,’
là điều mà các kẻ ngu đă nói đối chọi lẫn nhau.
Họ đă tạo lập quan điểm của chính ḿnh là chân lư,
chính v́ điều ấy, họ đă xem người khác là ‘kẻ ngu si.’” |
882.
Ta không có nói rằng:
"Đây chính là sự thật".
Các người ngu với nhau,
Cùng nhau nói như vậy,
Với tri kiến tự ḿnh,
Họ nói là chân thật,
Do vậy các người khác,
Được họ xem là ngu. |
887. Yamāhu saccaṃ tathiyanti eke
tamāhu aññe tucchaṃ musāti,
evampi viggayha vivādiyanti
tasmā na ekaṃ samaṇā vadanti. |
887. “Điều mà một số kẻ đă nói: ‘Là sự thật, là bản thể thật,’
những kẻ khác đă nói điều ấy ‘Là rỗng không, là sai trái.’
Sau khi giữ khư khư (quan điểm của ḿnh) như vậy, họ tranh căi.
V́ sao các vị Sa-môn nói không đồng nhất?”
|
Người
hỏi:
883.
Một số người nói rằng:
"Đây mới là sự thật"
Họ nói các người khác,
Là trống không, giả dối,
Do chấp thủ như vậy,
Họ tranh luận đấu tranh,
V́ sao bậc Sa-môn,
Không cùng nói một lời? |
888. Ekaṃ hi saccaṃ na
dutiyamatthi
yasmiṃ pajā no vivade pajānaṃ,
nānā te saccāni sayaṃ thunanti
tasmā na ekaṃ samaṇā vadanti.
|
888. “Bởi v́ Sự Thật chỉ có một, không có cái thứ nh́,
trong khi nhận biết về Sự Thật ấy, chúng sanh sẽ không tranh
căi.
Chúng tự ḿnh nói về các sự thật khác nhau;
v́ thế, các vị Sa-môn nói không đồng nhất.”
|
Thế
Tôn:
884.
Sự thật chỉ có một,
Không sự thật thứ hai,
Người hiểu biết tranh luận,
Với người có hiểu biết,
Nhưng chân thật họ khen,
Chỉ sự thật của họ,
Do vậy bậc Sa-môn,
Không cùng nói một lời. |
889. Kasmā nu saccāni vadanti
nānā
pavādiyā se kusalā vadānā,
saccāni sutāni bahūni nānā
udāhu te takkamanussaranti. |
889. “Nhưng v́ sao họ—những nhà biện luận tuyên bố (ḿnh) là
thiện xảo—lại nói về các sự thật khác nhau? Phải chăng các sự
thật đă được nghe là có nhiều và khác nhau? Hay là các vị ấy
theo đuổi sự suy tư (của riêng ḿnh)?” |
Người
hỏi:
885.
V́ sao họ nói lên,
Những chân thật sai khác,
V́ sao bậc thiện xảo,
Lại nói lời tranh luận,
Nếu các sự thật ấy,
Là nhiều và sai biệt,
Hay họ chỉ nhớ đến,
Những suy luận của họ. |
890. Na heva saccāni bahūni nānā
aññatra saññāya niccāni loke,
takkañca diṭṭhīsu pakappayitvā
saccaṃ musāti dvayadhammamāhu.
|
890. “Đương nhiên là
không có nhiều sự thật khác nhau và thường c̣n ở thế gian, ngoại
trừ (các sự thật) do tưởng (tạo ra). Và sau khi xếp dặt sự suy
tư về các quan điểm (do chúng tạo ra), chúng đă nói về hai pháp
là: ‘Đúng và sai.’ |
Thế
Tôn:
886.
Thật sự các sự thật,
Không có nhiều sai biệt,
Từ các luồng tư tưởng,
Về thường c̣n ở đời,
Do họ suy nghĩ đến,
Tư tưởng các tri kiến,
Họ nói có hai pháp,
Sự thật và giả dối. |
891. Diṭṭhe sute sīlavate mute vā
ete ca nissāya vimānadassī,
vinicchaye ṭhatvā pahassamāno
bālo paro akkusaloti cāha.
|
891. Liên quan đến điều đă được thấy, đến điều đă được nghe, đến
giới và phận sự, hoặc đến điều đă được cảm giác, sau khi nương
tựa vào các điều này, rồi có sự coi khinh (người khác), sau khi
đứng vững ở các phán đoán, trong lúc hớn hở, (kẻ ấy) đă nói
rằng: ‘Người khác là ngu si, là không thiện xảo.’
|
887.
Các pháp được thấy nghe,
Được giữ giới, thọ tưởng,
Họ y cứ pháp này,
Họ suy tư, nh́n thấy,
An trú các quyết định,
Họ chê cười người khác,
Họ nói các người khác,
Là ngu si bất thiện. |
892. Yeneva bāloti paraṃ dahāti
tenātumānaṃ kusaloti cāha,
sayamattanā so kusalāvadāno
aññaṃ vimāneti tatheva pāvā. |
892. Bởi chính lư do
nào mà kẻ ấy xem người khác là ‘ngu si,’
th́ bởi lư do ấy kẻ ấy đă nói về bản thân là ‘thiện xảo.’
Kẻ ấy, trong khi tự ḿnh tuyên bố chính ḿnh là thiện xảo,
rồi khinh chê người khác, và đă phát biểu y như thế.
|
888.
V́ rằng đối người khác,
Nó xem là ngu si,
Tự ḿnh gọi chính ḿnh,
Là thiện xảo tốt đẹp,
Do chính ḿnh khen ḿnh,
Vị ấy gọi thiện xảo,
Khinh thường các người khác,
Lời người ấy là vậy. |
893. Atisāradiṭṭhiyā so samatto
mānena matto paripuṇṇamānī,
sayameva sāmaṃ manasābhisitto
diṭṭhīhi sā tassa tathā samattā. |
893. Với quan điểm
vượt quá giới hạn, kẻ ấy được thỏa măn,
bị say đắm v́ ngă mạn, có sự tự cao là toàn thiện,
rồi bằng tâm ư, tự ḿnh đăng quang cho chính ḿnh;
quan điểm ấy của kẻ ấy đă được tiếp nhận như thế.
|
889.
Vị ấy quá say mê,
Với tri kiến của ḿnh,
Nên trở thành kiêu mạn,
Viên măn tự ư ḿnh,
Tự ḿnh với tâm ư,
Làm lễ quán đảnh ḿnh,
Do vậy, bị say mê,
Trong tri kiến của ḿnh. |
894. Parassa ce hi vacasā nihīno
tumo sahā hoti nihīnapañño,
atha ce sayaṃ vedagū hoti dhīro
na koci bālo samaṇesu atthi. |
894. Bởi v́, nếu do
lời nói của kẻ khác mà trở thành thấp kém,
th́ bản thân, do điều ấy, (cũng) trở thành có tuệ thấp kém.
C̣n nếu do (lời nói) của ḿnh mà trở thành người thông hiểu,
sáng trí,
th́ không có bất cứ người nào là kẻ ngu trong số các vị Sa-môn.
|
890.
Nếu người khác nói rằng:
Nó là hạng hạ liệt.
Như vậy đối tự ḿnh,
Kẻ kia cũng liệt tuệ,
Nếu tự nó sáng suốt,
Bậc Hiền trí hiểu biết,
Không có ai ngu si,
Giữa các bậc Sa-môn. |
895. Aññaṃ ito yābhivadanti
dhammaṃ
aparaddhā suddhimakevali te,
evampi tithyā puthuso vadanti
sandiṭṭhirāgena hi tebhirattā.
|
895. Những kẻ nào
thuyết về pháp nào khác so với điều này,
những kẻ ấy bị thất bại về (đạo lộ) trong sạch, họ không toàn
hảo.
Các kẻ ngoại đạo cũng nói như vậy theo kiểu cách riêng,
bởi v́ họ bị nhiễm nặng do sự luyến ái với quan điểm của ḿnh. |
891.
Những ai tuyên bố pháp,
Sai khác với pháp này,
Đi ngược lại thanh tịnh,
Không là người hoàn toàn,
Như vậy các ngoại đạo,
Tuyên bố thật rộng răi,
Do ḷng tham tri kiến,
Họ quá sức đam mê. |
896. Idheva suddhiṃ itivādiyanti
nāññesu dhammesu visuddhimāhu,
evampi titthyā puthuso niviṭṭhā
sakāyane tattha daḷhaṃ vadānā. |
896. ‘Chỉ nơi đây có
sự trong sạch,’ họ nói như thế ấy.
Họ đă nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác.
Các kẻ ngoại đạo cũng đă gầy dựng như vậy theo kiểu cách riêng
về đường lối của họ, trong khi nói một cách khẳng khái về điều
ấy. |
892.
Những ai tuyên bố rằng,
Chính đây là thanh tịnh,
Họ nói không thanh tịnh,
Trong các pháp sai khác.
Như vậy các ngoại đạo,
An trú thật rộng răi,
Họ kiên tŕ tuyên bố,
Con đường riêng của ḿnh. |
897. Sakāyane cāpi daḷhaṃ vadāno
kamettha bāloti paraṃ daheyya,
sayameva so medhagaṃ āvaheyya
paraṃ vadaṃ bālamasuddhidhammaṃ. |
897. Và trong khi nói
một cách khẳng khái về đường lối của họ,
người nào khác ở đây mà kẻ ấy có thể xem là ‘ngu si’?
Kẻ ấy tự chính ḿnh đem lại sự gây gỗ,
trong khi nói kẻ khác là ngu si, là có pháp không trong sạch. |
893.
Ai kiên tŕ tuyên bố,
Con đường riêng của ḿnh,
Sao ở đây có thể,
Nói người khác là ngu?
Vị ấy tự chê ḿnh,
Đem lại tiếng liệt tuệ,
Người khác nói nói ngu,
Không được pháp thanh tịnh. |
898. Vinicchaye ṭhatvā sayaṃ
pamāya
uddhaṃ so lokasmiṃ vivādameti,
hitvāna sabbāni vinicchayāni
na medhagaṃ kurute jantu loketi. |
898. Sau khi đứng
vững ở sự phán đoán, sau khi ước lượng bản thân,
kẻ ấy đi đến sự tranh căi ở thế gian nhiều hơn.
Sau khi từ bỏ tất cả các sự phán đoán,
con người không tạo ra sự gây gỗ ở thế gian.”
|
894.
An trú trên quyết định,
Tự ḿnh lượng sức người
Vị ấy ở trên đời,
Chỉ tăng thêm tranh luận,
Ai từ bỏ tất cả,
Mọi quyết định, chủ trương,
Không bị người ở đời,
Chê là kẻ liệt tuệ. |
Cūḷaviyūhasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Sự Dàn Trận Nhỏ.
|
|
|
|
|
13. MAHĀVIYŪHASUTTAṂ
|
13. KINH SỰ DÀN
TRẬN LỚN
|
(XIII)
NHỮNG VẤN ĐỀ TO LỚN
|
899. Ye kecime diṭṭhi paribbasānā
idameva saccanti vivādayanti,
sabbeva te nindamanvānayanti
atho pasaṃsampi labhanti tattha. |
899.
“Bất cứ những người nào, trong khi sống theo quan điểm (riêng
của cá nhân), tranh căi rằng: ‘Chỉ điều này là chân lư,’ có phải
tất cả những người ấy đều mang lại sự chê trách, hay họ cũng đạt
được sự khen ngợi về việc ấy?” |
Người
hỏi:
895.
Với những ai thiên vị,
Đối với những tri kiến này,
Chỉ đây là sự thật,
Họ căi cọ tranh luận,
Tất cả những người ấy,
Đem lại sự chỉ trích,
Hay chính tại ở đây,
Họ được lời tán thán? |
900. Appaṃ hi etaṃ na alaṃ samāya
duve vivādassa phalāni brūmi,
evampi disvā na vivādayetha
khemābhipassaṃ avivādabhūmiṃ. |
900. “Bởi v́
việc (ca ngợi) này là nhỏ nhoi, không đủ để đưa đến sự yên lặng.
Ta nói đến hai kết quả của sự tranh căi. Và sau khi nh́n thấy như vậy, th́ không nên tạo
ra sự tranh căi, trong khi nhận thấy vùng đất không tranh căi là
an toàn (Niết Bàn).
|
Thế
Tôn:
896.
Đây chỉ là nhỏ bé,
Không đủ đem an tịnh,
Ta nói về hai quả
Của các loại đấu tranh.
Sau khi thấy như vậy,
Chớ có nên tranh luận,
Nên thấy rằng an ổn,
Không phải đất tranh luận. |
901. Yā kācimā sammutiyo puthujjā
sabbā ’va etā na upeti vidvā,
anūpayo so upayaṃ kimeyya
diṭṭhe sute khantimakubbamāno. |
901. Bất cứ
những thỏa thuận chung nào được sanh lên từ số đông, bậc đă hiểu
biết không tiếp cận tất cả những điều ấy. Trong khi không thể
hiện sự chấp nhận ở điều đă được thấy, ở điều đă được nghe, vị
ấy, không có sự vướng bận, tại sao lại đi đến với sự vướng bận?
|
897.
Phàm những thế tục này,
Được sanh giữa phàm phu,
Bậc trí không dựa vào,
Tất cả thế tục này,
Đă không có quan tâm,
Sao nay t́m quan tâm,
Sao có thể kham nhẫn,
Với vật được thấy nghe. |
902. Sīluttamā saññamenāhu
suddhiṃ
vataṃ samādāya upaṭṭhitā se,
idh' eva sikkhema athassa suddhiṃ
bhavūpanītā kusalā vadānā. |
902. Những kẻ chủ trương giới là
tối thượng đă nói sự trong sạch là do sự tự chế ngự. Sau khi thọ
tŕ phận sự, họ duy tŕ (nghĩ rằng): ‘Chúng ta hăy học tập ở
lănh vực này thôi, rồi sẽ có sự trong sạch;’ họ bị dẫn đến hữu
trong khi tuyên bố (ḿnh) là thiện xảo.
|
898.
Bậc xem giới tối thượng,
Nói tịnh nhờ chế ngự,
Chấp thủ giới cấm xong,
Họ an trú như vậy.
Ở đây họ tu tập,
Do đây được thanh tịnh,
Họ chỉ khéo nói năng,
Họ bị hữu dắt dẫn. |
903. Sace cuto sīlavatato hoti
sa vedhatī kammaṃ virādhayitvā,
sa jappatī patthayatīdha suddhiṃ
satthā va hīno pavasaṃ gharamhā. |
903. Nếu bị hư hỏng về giới và
phận sự,
kẻ ấy run rẩy sau khi thất bại về hành động,
kẻ ấy tham muốn, ước nguyện sự trong sạch ở nơi này,
ví như người bị bỏ lại bởi đoàn xe trong khi sống xa nhà.
|
899.
Nếu có ai vi phạm,
Giới hạnh và giới cấm,
Người ấy sẽ run sợ,
V́ sở hành khiếm khuyết.
Ở đây người ấy than,
Cố gắng được thanh tịnh,
Như lữ hành lạc đoàn,
Như kẻ bỏ gia đ́nh. |
904. Sīlabbataṃ vāpi pahāya
sabbaṃ
kammañca sāvajjanavajjametaṃ,
suddhiṃ asuddhinti apatthayāno
virato care santimanuggahāya. |
904. Hoặc là sau khi đă dứt bỏ
tất cả giới và phận sự,
cùng hành động có tội hoặc không có tội ấy,
trong khi không ước nguyện về ‘sự trong sạch hay không trong
sạch,’
đă ĺa bỏ, vị ấy sống, không nắm bắt sự an tịnh (do tà kiến).
|
900.
Đối với giới cấm thủ,
Sau khi đoạn tất cả,
Cùng với các sở hành,
Có tội,không có tội,
Không c̣n có cố gắng,
Thanh tịnh, không thanh tịnh,
Hăy sống hạnh viễn ly,
Không chấp thủ an tịnh. |
905. Tamūpanissāya jigucchitaṃ vā
athavāpi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā,
uddhaṃsarā suddhimanutthunanti
avītataṇhā se bhavābhavesu.
|
905. Sau khi nương tựa vào điều đă bị chán ghét
ấy (khổ hạnh),
hoặc vào điều ǵ đă được thấy, đă được nghe, hoặc
đă được cảm giác,
những kẻ chủ trương luân hồi hướng thượng
nói về sự trong sạch,
chúng chưa xa ĺa tham ái ở hữu và phi hữu.
|
901.
Người y chỉ khổ hạnh,
Người y chỉ nhàm chán,
Kẻ dựa vào nghe thấy,
Hay dựa vào thọ tưởng,
Họ là hạng nói lớn,
Tán thán sự thanh tịnh,
Chưa đoạn được tham ái,
Đối với hữu, phi hữu. |
906. Patthayamānassa hi jappitāni
pavedhitaṃ vāpi pakappitesu,
cutūpapāto idha yassa natthi
sa kena vedheyya kuhiṃva jappe. |
906.
Bởi v́ đối với những người đang ước nguyện, các sự tham muốn
hoặc sự run sợ về các điều đă được (họ) xếp dặt.
Ở đây, đối với vị nào tử và sanh là không có,
vị ấy có thế run rẩy v́ cái ǵ, có thể tham muốn về cái ǵ?
|
902.
Với ai có nỗ lực,
Cầu mong và ham muốn,
Họ mới phải run sợ,
Với những kiến của ḿnh,
Với những ai ở đời,
Không có sanh và chết,
Do ǵ, khiến họ sợ,
Họ tham vọng cái ǵ? |
907. Yamāhu dhammaṃ paramanti eke
tameva hīnanti panāhu aññe,
sacco nu vādo katamo imesaṃ
sabbeva h’ ime kusalā vadānā. |
907. Pháp nào mà một số vị đă nói là ‘tối cao,’
trái lại, những vị khác đă nói về chính pháp ấy là ‘thấp kém;’
vậy trong số những vị này, lời nói nào là sự thật,
bởi v́ tất cả các vị này đều tuyên bố (ḿnh) là thiện xảo? |
Người
hỏi:
903.
Có những người tuyên bố,
Pháp này là tối thượng,
Nhưng người khác lại nói,
Pháp ấy là hạ liệt.
Ai nói lời chân thật,
Giữa hai hạng người này,
Hay tất cả hạng này,
Đều là hạng khéo nói? |
908. Sakaṃ hi dhammaṃ
paripuṇṇamāhu
aññassa dhammaṃ pana hīnamāhu,
evampi viggayha vivādayanti
sakaṃ sakaṃ sammutimāhu saccaṃ. |
908. Bởi v́ họ đă tuyên bố pháp
của chính ḿnh là hoàn hảo,
hơn nữa, họ đă tuyên bố pháp của người khác là thấp kém.
Sau khi giữ khư khư (quan điểm của ḿnh) như vậy, chúng tranh
căi,
và đă tuyên bố quan điểm riêng của từng cá nhân là sự thật.
|
904.
Với pháp tự của ḿnh,
Nói pháp này viên măn
Chỉ trích pháp người khác,
Là thấp kém hạ liệt,
Do chấp thủ như vậy,
Họ luận tranh đấu tranh,
Mọi thế tục tự ḿnh,
Họ nói là chân thật. |
909. Parassa ce vambhayitena hīno
na koci dhammesu visesi assa,
puthū hi aññassa vadanti dhammaṃ
nihīnato samhi daḷhaṃ vadānā. |
909. Nếu là thấp kém do việc bị
khinh miệt của người khác,
th́ không có pháp nào là đặc biệt trong số các pháp,
bởi v́ số đông tuyên bố pháp của người khác
là thấp hèn, trong khi nói một cách chắc chắn về (pháp) của
ḿnh. |
Thế
Tôn:
905.
Nếu có bị người khác,
Khinh rẻ là hạ liệt,
Như vậy giữa các pháp,
Không ǵ thù thắng sao?
Kẻ phàm phu nói rằng
Pháp người khác hạ liệt,
Cương quyết tự đề cao,
Pháp ḿnh không hạ liệt. |
910. Sadhammapūjā ca panā tatheva
yathā pasaṃsanti sakāyanāni,
sabbeva vādā tathiyā bhaveyyuṃ
sudhī hi tesaṃ paccattameva. |
910. Họ ngợi khen đường lối của
chính ḿnh như thế nào,
th́ việc cúng dường đến học thuyết của họ sẽ là y như vậy.
Tất cả các học thuyết có thể là đúng đắn,
bởi v́ sự trong sạch của họ chỉ liên quan đến cá nhân. |
906.
Như mọi người tôn thờ,
Chánh pháp của tự ḿnh,
Giống như họ tán thán,
Mọi sở hành bản thân,
Tất cả những lời nói
Trở thành lời chân thật,
Sự thanh tịnh đối họ,
Tự mỗi người tác thành. |
911. Na brāhmaṇassa
paraneyyamatthi
dhammesu niccheyya samuggahītaṃ,
tasmā vivādāni upātivatto
na hi seṭṭhato passati dhammamaññaṃ. |
911. Sau khi suy xét về điều đă
được ôm giữ trong số các pháp (tà kiến), đối với vị Bà-la-môn,
không có việc bị dẫn dắt bởi người khác. Do điều ấy, vị
Bà-la-môn vượt lên trên các sự tranh căi, bởi v́ vị Bà-la-môn
nh́n thấy học thuyết khác là không tối thắng. |
907.
Với người Bà-la-môn,
Không người khác lănh đạo,
Sau khi đă nghiên cứu,
Chấp thủ trong các pháp,
Do vậy nên vị ấy
Vượt khỏi các tranh luận,
Không thấy pháp người khác,
Có thể thù thắng hơn. |
912. Jānāmi passāmi tatheva etaṃ
diṭṭhiyā eke paccenti suddhiṃ,
addakkhi ce kimhi tumassa tena
atisitvā aññena vadanti suddhiṃ.
|
912. (Nói rằng): ‘Tôi biết, tôi
thấy điều ấy chắc chắn là như thế,’
một số tin rằng sự trong sạch là do việc thấy.
Nếu đă nh́n thấy, điều ǵ có được cho bản thân với việc (thấy)
ấy?
Sau khi sai sót, chúng nói về sự trong sạch theo cách khác.
|
908.
Họ nói: "Tôi thấy, biết,
Cái này là như vậy".
Họ đi đến quan điểm,
Thanh tịnh nhờ tri kiến,
Vị ấy đă thấy vậy,
Cần ǵ kiến người khác,
Vượt qua được quan điểm,
Thanh tịnh nhờ pháp khác. |
913. Passaṃ naro dakkhiti
nāmarūpaṃ
disvāna vā ñassati tāni meva,
kāmaṃ bahuṃ passatu appakaṃ vā
na hi tena suddhiṃ kusalā vadanti. |
913. Một người, trong khi nh́n,
sẽ nh́n thấy danh và sắc,
hoặc sau khi nh́n thấy th́ sẽ biết được mỗi chúng mà thôi.
Hăy để người ấy nh́n nhiều hay ít theo ư thích,
các bậc thiện xảo hẳn nhiên không nói sự trong sạch là do điều
ấy. |
909.
Người có mắt thấy được,
Cả danh và cả sắc,
Sau khi thấy được họ,
Sẽ biết họ là vậy,
Hăy để họ được thấy,
Các dục nhiều hay ít,
Bậc thiện xảo không nói,
Thanh tịnh là nhờ dục. |
914. Nivissavādī na hi subbināyo
pakappitaṃ diṭṭhi purekkharāno,
yaṃ nissito tattha subhaṃ vadāno,
suddhiṃ vado tattha tathaddasā so. |
914. Trong khi sùng bái quan điểm
đă được xếp dặt,
kẻ đă chấp chặt vào học thuyết quả thật không dễ hướng dẫn.
Nương tựa vào cái ǵ th́ nói điều tốt đẹp về cái ấy,
với lời tuyên bố về sự trong sạch, kẻ ấy đă nh́n thấy sự thật ở
nơi ấy. |
910.
Người đă gọi cuồng tín,
Không đưa đến thanh tịnh,
V́ đă có thiên vị,
Với tri kiến tác thành,
Y chỉ nơi cái ǵ,
Nơi đấy là tinh sạch,
Người tuyên bố thanh tịnh,
Thấy ở đấy như vậy. |
915. Na brāhmaṇo kappamupeti
saṅkhaṃ
na diṭṭhisārī napi ñāṇabandhu,
ñatvā ca so sammatiyo puthujjā
upekkhati uggaṇhanti maññe. |
915. Sau khi cân nhắc, vị
Bà-la-môn không tiếp cận sự sắp đặt (của tham ái và tà kiến),
không có sự hùa theo quan điểm, cũng không có sự thân thiết với
các (thắng) trí. Và sau khi biết các sự đồng thuận được sanh lên
từ số đông, vị ấy thản nhiên (nói rằng): ‘Hăy để những kẻ khác
tiếp thu.’
|
911.
Phạm chí không rơi vào,
Thời gian và ước lượng,
Không theo các tri kiến,
Không bà con với trí,
Biết được các thế tục,
Do phàm phu chấp thủ,
Các người khác học hỏi,
Vị ấy sống hỷ xả. |
916. Visajja ganthāni munīdha
loke
vivādajātesu na vaggasāri,
santo asantesu upekkhako so
anuggaho uggaṇhantimaññe. |
916. Sau khi tháo gở các sự trói
buộc ở thế gian này, bậc hiền trí
không hùa theo phe nhóm ở các
cuộc tranh căi đă được sanh lên.
Vị ấy thản nhiên, an tịnh giữa
những người không an tịnh,
không tiếp thu, (nói rằng): ‘Hăy
để những kẻ khác tiếp thu.’
|
912.
Không chấp thủ triền phược,
ẩn sĩ sống ở đời,
Giữa tranh luận khởi lên,
Không theo phe phái nào,
Sống an tịnh, hỷ xả,
Giữa những người không tịnh,
Các người khác học hỏi,
Vị ấy sống không học. |
917. Pubbāsave hitvā nave akubbaṃ
na chandagū nopi nivissavādī,
sa vippamutto diṭṭhigatehi dhīro
na lippati loke anattagarahī. |
917. Sau khi từ bỏ các lậu hoặc
trước đây, không tạo ra những lậu hoặc mới, không là người đi
theo sự (tác động của) mong muốn, cũng không phải là kẻ đă chấp
chặt vào học thuyết, vị ấy đă được giải thoát khỏi các tà kiến,
là bậc sáng trí, không bị nhơ bẩn ở thế gian, không có sự chê
trách bản thân. |
913.
Từ bỏ lậu hoặc cũ,
Không tạo lậu hoặc mới,
Không đi đến ước muốn,
Không cuồng tín chấp thủ,
Vị Hiền trí như vậy,
Thoát khỏi các tà kiến,
Không tham dính ở đời,
Không bị ngă chỉ trích. |
918. Sa sabbadhammesu visenibhūto
yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā,
sa pannabhāro muni vippayutto
na kappiyo nūparato na patthiyoti. |
918. Vị ấy là người diệt đạo
binh ở tất cả các pháp (tà kiến),
về bất cứ điều ǵ đă được thấy,
đă được nghe, hoặc đă được cảm giác.
Bậc hiền trí ấy có gánh nặng đă
đặt xuống, đă được tách riêng,
không chịu sự phân hạng, không
phải kiêng chừa, không có ước nguyện.”
|
914.
Không có sự thù hằn
Đối với tất cả pháp,
Phàm có thấy nghe ǵ,
Cùng với tưởng và thọ,
ẩn sĩ không hệ lụy,
Đă đặt gánh nặng xuống
Không liên hệ thời gian,
Không chấm dứt, không cầu,
Thế Tôn nói như vậy. |
Mahāviyūhasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Sự Dàn Trận Lớn.
|
|
|
|
|
14. TUVAṬAKASUTTAṂ
|
14. KINH
MỘT CÁCH NHANH CHÓNG |
(XIV) KINH TUVATAKA (CON ĐƯỜNG MAU CHÓNG)
|
919. Pucchāmi taṃ ādiccabandhuṃ
vivekaṃ santipadañca mahesiṃ,
kathaṃ disvā nibbāti bhikkhu
anupādiyāno lokasmiṃ kiñci. |
919. “Tôi hỏi ngài, đấng quyến
thuộc của mặt trời,
bậc đại ẩn sĩ, về sự viễn ly và vị thế an tịnh.
Sau khi nh́n thấy như thế nào, vị tỳ khưu được tịch diệt,
không c̣n chấp thủ bất cứ cái ǵ ở trên đời?” |
Người
hỏi:
915.
Con hỏi bậc Đại tiên,
Bậc bà con mặt trời,
Con đường đến viễn ly,
Con đường đến an tịnh,
Tỷ-kheo sau khi thấy,
Làm thế nào mát lạnh,
Không có sự chấp thủ,
Một vật ǵ ở đời? |
920. Mūlaṃ papañcasaṅkhāya (iti
bhagavā)
mantā asmīti sabbamuparundhe,
yā kāci taṇhā ajjhattaṃ
tāsaṃ vinayā sadā sato sikkhe. |
920. (Đức Thế Tôn nói)
“Nên chận đứng tất cả gốc rễ của cái được gọi là vọng tưởng:
‘Tôi là’ nhờ vào trí tuệ. Bất cứ những tham ái nào ở nội phần,
sau khi dẹp bỏ chúng, nên học tập, luôn luôn có niệm. |
Thế
Tôn:
916.
Thế Tôn đáp như sau:
Hăy chặt đứt hoàn toàn,
Gốc rễ các hư luận,
Mọi tư tưởng "tôi là ",
Tất cả phải chấm dứt,
Phàm có nội ái nào,
Sau khi nhiếp phục chúng,
Thường chánh niệm học tập. |
921. Yaṃ kiñci dhammamabhijaññā
ajjhattaṃ athavāpi bahiddhā,
na tena mānaṃ kubbetha
na hi sā nibbuti sataṃ vuttā.
|
921. Bất cứ pháp (đức tính tốt)
nào có thể biết rơ
ở nội phần (nơi bản thân) hay là ở ngoại phần (nơi người khác),
không v́ điều ấy mà tạo ra sự ngă mạn,
bởi v́ điều ấy không được các bậc thiện nhân gọi là sự tịch
diệt.
|
917.
Phàm có loại pháp ǵ,
Được thắng tri hoàn toàn,
Hoặc thuộc về nội pháp,
Hay thuộc về ngoại pháp,
Chớ có làm kiên tŕ,
Bất cứ một pháp nào,
Trạng thái ấy không gọi,
Sự mát lạnh của tịnh. |
922. Seyyo na tena maññeyya
nīceyyo atha vāpi sarikkho,
phuṭṭho anekarūpehi
nātumānaṃ vikappayaṃ tiṭṭhe. |
922. Không nên v́ việc (ngă mạn)
ấy mà nghĩ rằng (bản thân) là tốt hơn,
kém thua, hoặc thậm chí là tương đương.
Bị tác động bởi nhiều h́nh thức,
trong khi sắp đặt về bản thân, không nên dừng lại ở điều ấy.
|
918.
Chớ có nghĩ như sau:
Cái kia là tốt hơn,
Đây là hạ liệt hơn,
Hay đây là ngang bằng,
Do phải bị xúc chạm,
Với các sắc sai biệt,
Hăy chớ để tự ḿnh,
An trú trên vọng tưởng. |
923. Ajjhattameva upasame
na aññato bhikkhu santimeseyya,
ajjhattaṃ upasantassa
natthi attā kuto nirattā vā. |
923. Nên an tịnh ngay ở nội tâm,
vị tỳ khưu không nên t́m kiếm sự an tịnh từ nơi khác.
Đối với vị đă được an tịnh ở nội tâm,
điều được nắm bắt là không có, từ đâu có điều được buông lơi? |
919.
Hăy giữ được an tịnh,
Về phía tự nội tâm,
Tỷ-kheo không cầu t́m,
An tịnh từ chỗ khác,
Với người được an tịnh,
Từ phía tự nội tâm,
Đă không có tự ngă,
Từ đâu có vô ngă. |
924. Majjhe yathā samuddassa hoti
ūmi no jāyatī ṭhito hoti,
evaṃ ṭhito anejassa
ussadaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci. |
924. Giống như ở giữa biển cả,
là đứng yên, sóng biển không sanh ra,
tương tự như vậy, nên trầm tĩnh, không dục vọng
vị tỳ khưu không nên tạo ra (thái độ) kiêu ngạo ở bất cứ đâu.”
|
920.
Như chính giữa trung ương,
Của biển cả đại dương,
Sóng biển không có sanh,
Biển hoàn toàn đứng lặng,
Cũng vậy, này Tỷ-kheo
Hăy đứng lặng không động,
Không tạo nên bồng bột,
Đối sự ǵ ở đời. |
925. Akittayi vivaṭacakkhu
sakkhidhammaṃ parissayavinayaṃ,
paṭipadaṃ vadehi bhaddante
pātimokkhaṃ athavāpi samādhiṃ. |
925. “Bậc có mắt được mở ra đă
nói về
pháp thực chứng, có sự xua đi các hiểm họa.
Thưa ngài đại đức, xin ngài hăy nói về đường lối thực hành,
về giới giải thoát, và luôn cả định nữa.” |
Người
hỏi:
921.
Vị có mắt rộng mở
Đă tuyên bố rơ ràng,
Pháp có thể chế ngự,
Mọi nguy hiểm khó khăn,
Bậc Hiền thiện mong Ngài,
Tuyên bố rơ con đường,
Hay về biệt giải thoát,
Hoặc về pháp thiền định? |
926. Cakkhūhi neva lolassa
gāmakathāya āvareyya sotaṃ,
rase ca nānugijjheyya
na ca mamāyetha kiñci lokasmiṃ. |
926. “Không nên buông thả với đôi
mắt,
nên che đậy lỗ tai đối với chuyện làng xóm,
và không nên thèm muốn ở các vị nếm,
và không nên chấp là của ta về bất cứ cái ǵ ở thế gian.
|
Thế
Tôn:
922.
Chớ có những con mắt,
Đầy dẫy những tham đắm!
Hăy chận đứng lỗ tai,
Nghe câu chuyện của làng.
Lại chớ nên đắm say,
Các mùi vị ngon lành,
Chớ xem là của ta,
Mọi sự vật ở đời! |
927. Phassena yadā phuṭṭhassa
paridevaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñca,
bhavaṃ ca nābhijappeyya
bheravesu ca na sampavedheyya. |
927. Khi nào bị xúc chạm bởi xúc
(bất hạnh),
vị tỳ khưu không nên thể hiện sự than văn về bất cứ điều ǵ,
và không nên tham đắm sự hiện hữu,
và không bị lay động ở các sự khiếp đảm.
|
923.
Trong khi được cảm giác,
Với các loại cảm xúc,
Tỷ-kheo không than van,
Bất cứ một điều ǵ.
Vị ấy không cầu mong,
Dầu lại sanh hữu nào,
Và không có run sợ,
Rơi vào các kinh hoàng. |
928. Annānamatho pānānaṃ
khādanīyānaṃ athopi vatthānaṃ,
laddhā na sannidhiṃ kayirā
na ca parittase tāni alabhamāno.
|
928. Đối với các thức ăn, rồi đối
với các thức uống,
đối với các vật thực cứng, rồi đối với các loại vải vóc,
sau khi nhận được, không nên tạo ra sự cất giữ,
và không nên băn khoăn trong khi không nhận được chúng.
|
924.
Các đồ ăn thâu được,
Cùng với các đồ uống,
Các món ăn nhai được,
Các đồ vải mặc được,
Chớ có cất chứa chúng,
Những đồ vật nhận được,
Chớ có quá lo âu,
Nếu không thâu được chúng. |
929. Jhāyī na pādalol’ assa
virame kukkuccā nappamajjeyya,
atha āsanesu sayanesu
appasaddesu bhikkhu vihareyya. |
929. Nên là vị có thiền, không
nên buông thả bàn chân (đi đó đây),
nên xa lánh trạng thái hối hận, không nên xao lăng,
và ở những chỗ ngồi, ở những chỗ nằm,
ở những nơi có ít tiếng động, vị tỳ khưu nên cư trú. |
925.
Hăy tu tập thiền định
Chớ làm kẻ lang thang,
Chớ ưa thích trạo cử,
Đừng rơi vào phóng dật,
Đối với các chỗ ngồi,
Cùng với các chỗ nằm,
Tỷ-kheo hăy an trú,
Những chỗ không tiếng động. |
930. Niddaṃ na bahulīkareyya
jāgariyaṃ bhajeyya ātāpī,
tandiṃ māyaṃ hassaṃ khiḍḍaṃ
methunaṃ vippajahe savibhūsaṃ.
|
930. Không nên thực hiện nhiều
việc ngủ nghỉ. Nên thân cận sự tỉnh thức, có sự tinh cần. Nên
dứt bỏ hẳn sự uể oải, xảo quyệt, cười cợt, đùa giỡn, việc đôi
lứa, cùng với việc trang điểm. |
926.
Ngủ nghỉ có chừng mực,
Chớ có ngủ quá nhiều,
Hăy luôn luôn tỉnh thức,
Nỗ lực và nhiệt tâm,
Hăy từ bỏ biếng nhác,
Man trá, cười, chơi đùa,
Hăy từ bỏ dâm dục,
Bỏ ưa thích trang điểm. |
931. Āthabbaṇaṃ supinaṃ lakkhaṇaṃ
no vidahe athopi nakkhattaṃ,
virutañca gabbhakaraṇaṃ
tikicchaṃ māmako na seveyya.
|
931. Không nên thực hành việc bùa
chú, giải mộng, bói tướng, và luôn cả chiêm tinh. Người đệ tử
thành tín không nên chuyên chú về việc giải đoán tiếng thú kêu,
việc thụ thai, và việc chữa bệnh. |
927.
Chớ có dùng bùa chú,
A-thar-va Vệ-đà,
Chớ tổ chức đoán mộng,
Coi tướng và xem sao,
Mong rằng đệ tử Ta,
Không đoán tiếng thú kêu,
Không chữa bệnh không sanh,
Không hành nghề lang băm. |
932. Nindāya nappavedheyya
na unnameyya pasaṃsito bhikkhu,
lobhaṃ saha macchariyena
kodhaṃ pesuniyañca panudeyya. |
932. Không nên run sợ v́ sự chê
bai, vị tỳ khưu khi được ca ngợi không nên kiêu hănh, nên xua đi
sự tham lam cùng với sự bỏn xẻn, sự giận dữ và việc nói đâm
thọc. |
928.
Tỷ-kheo không run sợ,
Khi bị người chỉ trích,
Cũng không có cống cao,
Khi được khen tán thán,
Hăy từ bỏ tham ái,
Cùng với tánh xan tham,
Kể luôn cả phẫn nộ,
Cùng với nói hai lưỡi. |
933. Kayavikkaye na tiṭṭheyya
upavādaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci,
gāme ca nābhisajjeyya
lābhakamyā janaṃ na lapayeyya. |
933. Không nên duy tŕ việc mua
bán,
vị tỳ khưu không nên tạo sự chê trách ở bất cứ nơi nào,
và không nên ràng buộc vào làng xóm,
không nên tỉ tê với người thế v́ mong muốn lợi lộc. |
929.
Tỷ-kheo không an trú,
Trong nghề nghiệp bán buôn,
Lại không có chỉ trích,
Bất cứ tại chỗ nào,
Khi ở tại thôn làng,
Không tức giận một ai,
Chớ có v́ lợi dưỡng,
Nói chuyện với quần chúng. |
934. Na ca katthiko siyā bhikkhu
na ca vācaṃ payutaṃ bhāseyya,
pāgabbhiyaṃ na sikkheyya
kathaṃ viggāhikaṃ na kathayeyya. |
934. Và vị tỳ khưu không nên là
kẻ nói khoe khoang,
và không nên nói lời nói ướm (liên quan bốn món vật dụng),
không nên học tập lối cư xử xấc xược,
không nên nói ra ngôn từ đưa đến sự căi vă. |
930.
Tỷ-kheo không nên nói,
Khoa trương quá mức độ,
Và cũng không nói lời
Có dụng ư lợi dưỡng.
Chớ có học tập theo,
Lối sỗ sàng trâng tráo,
Chớ có thốt ra lời
Khiêu khích xung đột ai! |
935. Mosavajje na niyyetha
sampajāno saṭhāni na kayirā,
atha jīvitena paññāya
sīlabbatena nāññamatimaññe. |
935. Không nên bị xui khiến trong
việc nói lời dối trá, không nên cố t́nh thực hiện các điều xảo
trá, và không nên khinh khi người khác về sự sinh sống, về sự
nhận thức, về giới và phận sự. |
931.
Chớ có bị dắt dẫn,
Rơi vào lời nói láo,
Không cố ư làm nên,
Điều man trá giả dối,
Chớ có khinh người khác,
Về vấn đề sinh mạng,
Về vấn đề trí tuệ,
Và vấn đề giới hạnh. |
936. Sutvā rusito bahuṃ vācaṃ
samaṇānaṃ puthuvacanānaṃ,
pharusena ne na paṭivajjā
na hi santo paṭiseniṃ karonti. |
936. Bị xúc phạm sau khi nghe
nhiều lời nói
của các vị Sa-môn, của những kẻ phàm phu,
không nên đáp trả lại những kẻ ấy một cách thô lỗ,
bởi v́ các bậc thiện nhân không thể hiện sự phản kháng. |
932.
Sau khi phẫn uất nghe
Nhiều ngôn từ lời lẽ
Của các vị Sa-môn,
Hay những kẻ phàm phu,
Chớ có phản ứng họ,
Với những lời thô ác,
Bậc hiền lành an tịnh,
Không phản pháo một ai. |
937. Etañca dhammamaññāya
vicinaṃ bhikkhu sadā sato sikkhe,
santīti nibbutiṃ ñatvā
sāsane gotamassa nappamajjeyya.
|
937. Và sau khi hiểu thông Giáo
Pháp này,
trong khi chọn lựa, vị tỳ khưu nên học tập, luôn luôn có niệm,
sau khi biết được sự diệt tắt là ‘an tịnh,’
không nên xao lăng về lời giáo huấn của đức Gotama. |
933.
Sau khi rơ biết được
Pháp này là như vậy,
Tỷ-kheo hăy học tập,
Sáng suốt và chánh niệm,
Rơ biết sự mát lạnh,
Được gọi bậc "an tịnh ",
Chớ có sống phóng dật,
Trong lời dạy Cù-đàm. |
938. Abhibhū hi so anabhibhūto
sakkhidhammaṃ anītihamadassī,
tasmā hi tassa bhagavato sāsane
appamatto sadā namassamanusikkhe ”ti. |
938. Bởi v́, vị ấy là đấng Chiến
Thắng, bậc không bị chế ngự, vị đă nh́n thấy pháp thực chứng,
không do nghe nói lại theo truyền thống. Chính v́ thế, luôn luôn
không xao lăng, trong lúc kính lễ, nên học tập theo lời giáo
huấn của đức Thế Tôn ấy.” |
934.
Bậc đă được chiến thắng,
Không ai chiến thắng nổi
Tự ḿnh thấy được pháp,
Không nghe theo tin đồn,
Do vậy hăy học tập
Luôn luôn không phóng dật,
Với tâm tư cung kính,
Lời dạy đức Thế Tôn,
Thế Tôn nói như vậy. |
Tuvaṭakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Một Cách Nhanh Chóng. |
|
|
|
|
15. ATTADAṆḌASUTTAṂ
|
15. KINH
UẾ HẠNH CỦA BẢN THÂN
|
(XV)
KINH CHẤP TRƯỢNG
|
939. Attadaṇḍā bhayaṃ jātaṃ janaṃ
passatha medhagaṃ,
saṃvegaṃ kittayissāmi yathā saṃvijitaṃ mayā. |
939. Sự sợ hăi sanh lên do
uế hạnh của bản thân.
Các người hăy nh́n xem loài người đang gây gỗ. Ta sẽ thuật lại
trạng thái chấn động đúng theo sự việc đă bị chấn động bởi Ta.
|
Thế
Tôn:
935.
Từ người cầm các trượng,
Sợ hăi được sanh ra,
Hăy xem các loài người,
Trong khi đấu tranh nhau,
Ta sẽ nói sợ hăi,
Như Ta đă được biết. |
940. Phandamānaṃ pajaṃ disvā
macche appodake yathā,
aññamaññehi vyāruddhe disvā maṃ bhayamāvisi. |
940. Sau khi nh́n thấy nhân loại
đang run rẩy tựa như những con cá ở chỗ ít nước, sau khi nh́n
thấy chúng chống đối lẫn nhau, sự sợ hăi đă xâm nhập Ta. |
936.
Thấy loài, người vùng vẫy,
Như cá trong nước cạn,
Thấy họ chống đối nhau,
Ta rơi vào sợ hăi. |
941. Samantamasāro loko disā
sabbā sameritā,
icchā bhavanamattano nāddasāsiṃ anositaṃ. |
941. Toàn bộ thế gian là không có
cốt lơi, tất cả các phương đều bị chuyển động. Trong khi ước
muốn chỗ trú ngụ cho bản thân, Ta đă không nh́n thấy (một nơi
nào là) không bị chiếm cứ. |
937.
Đời toàn không lơi cây,
Mọi phương đều dao động
Muốn cho ḿnh ngôi nhà,
Ta không thấy nhà ở. |
942. Osāne tveva vyāruddhe disvā
me aratī ahu,
athettha sallaṃ addakkhiṃ duddasaṃ hadayanissitaṃ. |
942. Nhưng ngay sau khi nh́n thấy
chúng chống đối vào giai đoạn cuối, sự chán ngán đă khởi lên ở
Ta. Và ở đây, Ta đă nh́n thấy mũi tên khó thể nh́n thấy đă được
cắm sâu vào trái tim (tâm thức).
|
938.
Cuối cùng là xung đột,
Thấy vậy Ta chán ngắt,
Đây Ta thấy mũi tên,
Khó thấy, gắn vào tim. |
943. Yena sallena otiṇṇo disā
sabbā vidhāvati,
tameva sallaṃ abbuyha na dhāvati na sīdati. |
943. Kẻ đă bị mũi tên đâm vào
chạy khắp tất cả các phương (luân hồi khắp các cơi), sau khi đă
nhổ chính mũi tên ấy lên th́ không chạy, (và) không ch́m xuống.
|
939.
Ai bị mũi tên đâm,
Chạy khắp mọi phương hướng,
Ai rút mũi tên ra,
Không chạy, liền ngồi xuống. |
944. Tattha sikkhānugīyanti
yāni loke gathitāni na tesu pasuto siyā,
nibbijjha sabbaso kāme
sikkhe nibbānamattano.
|
944. Ở nơi ấy, các môn học tập
được truyền tụng.
Những ǵ bị trói buộc vào thế gian, không nên quan tâm đến
chúng.
Sau khi thấu triệt các dục về mọi phương diện,
nên học tập về sự tịch diệt cho bản thân.
|
940.
Ở đây sự học tập,
Đă được nói rơ lên,
Phàm triền phược ở đời,
Chớ liên hệ với chúng,
Đâm thủng dục hoàn toàn,
Tự học tập Niết-bàn. |
945. Sacco siyā appagabbho amāyo
rittapesuno,
akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare muni. |
945. Nên chân thật, không hỗn
xược, không xảo quyệt, việc nói đâm thọc được buông bỏ, không
giận dữ, bậc hiền trí có thể vượt qua sự xấu xa của tham, (và)
sự keo kiệt. |
941.
Chân thật không xông xáo,
Không man trá, hai lưỡi,
Không phẫn nộ, ẩn sĩ,
Vượt tham ác, xan tham. |
946. Niddaṃ tandiṃ sahe thīnaṃ
pamādena na saṃvase,
atimāne na tiṭṭheyya nibbānamanaso naro. |
946. Người có tâm ư hướng Niết
Bàn nên khắc phục trạng thái ngủ gà ngủ gật, sự uể oải, sự dă
dượi, không nên cộng trú với sự xao lăng, không nên trụ lại ở sự
ngă mạn thái quá. |
942.
Người nghĩ đến Niết-bàn,
Bỏ ngủ, nhác, thụy miên,
Không sống với phóng dật,
Không an trú, quá mạn. |
947. Mosavajje na niyyetha rūpe
snehaṃ na kubbaye,
mānañca parijāneyya sāhasā virato care. |
947. Không nên bị lôi kéo vào
việc nói lời dối trá, không nên tạo ra sự thương yêu ở sắc, và
nên hiểu toàn diện về ngă mạn, nên sống tránh xa sự hung bạo.
|
943.
Không rơi vào nói láo,
Không tham ái các sắc,
Cần liễu tri quá mạn,
Sống từ bỏ bạo ác. |
948. Purāṇaṃ nābhinandeyya nave
khantiṃ na kubbaye,
hīyamāne na soceyya ākāsaṃ na sito siyā. |
948. Không nên thích thú cái cũ
(ngũ uẩn quá khư), không nên tạo ra sự ưa chuộng cái mới (ngũ
uẩn vị lai), trong khi (cái ǵ) đang bị tiêu hoại, không nên sầu
muộn, không nên nương tựa hư không (tham ái). |
944.
Không hoan hỷ việc cũ,
Không nhẫn chịu sự mới,
Trong tổn giảm không sầu,
Không liên hệ tham ái, |
949. Gedhaṃ brūmi mahoghoti
ājavaṃ brūmi jappanaṃ,
ārammaṇaṃ pakappanaṃ kāmapaṅko duraccayo. |
949. Ta gọi thèm khát là ‘ḍng lũ
lớn,’ ta gọi tham muốn là ḍng nước mạnh, sự bám vào (đối tượng)
là rung động, dục là băi lầy khó vượt qua được.
|
945.
Ái, Ta gọi bộc lưu,
Mong cầu gọi bọt nước,
Sở duyên gọi biến kể,
Bùn dục khó vượt qua. |
950. Saccā avokkamma muni thale
tiṭṭhati brāhmaṇo,
sabbaṃ so paṭinissajja sa ve santoti vuccati. |
950. Không chệch khỏi sự thật
(gọi là) bậc hiền trí, đứng ở đất liền (gọi là) vị Bà-la-môn. Vị
ấy sau khi xả bỏ tất cả, vị ấy quả thật được gọi là ‘bậc an
tịnh.’ |
946.
ẩn sĩ không rời chân,
Phạm chí trú đất liền,
Vị từ bỏ tất cả,
Thật được gọi an tịnh. |
951. Sa ve vidvā sa vedagū ñatvā
dhammaṃ anissito,
sammā so loke iriyāno na pihetīdha kassaci. |
951. Quả thật, vị ấy là bậc đă
hiểu biết, vị ấy là bậc đă đạt được sự thông hiểu, sau khi biết
pháp, vị ấy không nương tựa (vào tham ái và tà kiến). Vị ấy,
trong khi cư xử chân chánh ở thế gian, không mong cầu đối với
bất cứ người nào ở nơi này.
|
947.
Biết vậy, gọi người biết,
Biết rồi không y pháp,
Chơn chánh sống ở đời,
Không tham ái một ai. |
952. Yodha kāme accatari saṅgaṃ
loke duraccayaṃ,
na so socati nājjheti chinnasoto abandhano. |
952. Ở đây, vị nào vượt qua các
dục, sự quyến luyến ở thế gian khó vượt qua được, vị ấy không
sầu muộn, không ưu tư, có ḍng chảy đă được cắt đứt, không c̣n
sự trói buộc. |
948.
Ai ở đây vượt dục,
Ái khó vượt ở đời,
Không sầu, không tham muốn,
Cắt ḍng không trói buộc. |
953. Yaṃ pubbe taṃ visosehi
pacchā te māhu kiñcanaṃ,
majjhe ce no gahessasi upasanto carissasi. |
953. Điều ǵ trước đây (quá khứ),
ngươi chớ nắm lấy điều ấy. Chớ có bất cứ điều ǵ sanh khởi đến
ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi không nắm lấy ở khoảng giữa
(hiện tại), ngươi sẽ sống, được an tịnh. |
949.
Trước Ông làm khô cạn
Sau Ông không vật ǵ,
Ở giữa không nắm giữ,
Ông sẽ sống an tịnh. |
954. Sabbaso nāmarūpasmiṃ yassa
natthi mamāyitaṃ,
asatā ca na socati sa ve loke na jiyyati. |
954. Đối với vị nào không có vật
đă được chấp là của ta liên quan đến danh và sắc về mọi phương
diện, và (là vị) không sầu muộn do t́nh trạng không có, vị ấy
quả thật không bị thua thiệt ở thế gian. |
950.
Toàn diện đối danh sắc,
Không ǵ nghĩ "của ta"
Không có ǵ không sầu,
Không có già ở đời. |
955. Yassa natthi idaṃ meti
paresaṃ vāpi kiñcanaṃ,
mamattaṃ so asaṃvindaṃ natthi meti na socati.
|
955. Đối với vị nào, không có (ư
nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người
khác’ về bất cứ điều ǵ, trong lúc không t́m kiếm trạng thái sở
hữu chủ (nghĩ rằng): ‘Không có ǵ là của tôi,’ vị ấy không sầu
muộn. |
951.
Không nghĩ "đây của tôi ",
Không nghĩ "đây của người ",
Người không có tự ngă,
Không sầu v́ không ngă. |
956. Aniṭṭhurī ananugiddho anejo
sabbadhī samo,
tamānisaṃsaṃ pabrūmi pucchito avikampinaṃ. |
956. Không ganh tỵ, không tham
đắm, không dục vọng, b́nh đẳng ở mọi nơi, điều ấy là sự lợi ích
mà Ta (sẽ) nói, khi được hỏi về vị không dao động. |
952.
Không tàn bạo, không tham,
Không dục, thường đồng đẳng,
Được hỏi Ta nói lên,
Lợi ích bậc bất động. |
957. Anejassa vijānato natthi
kāci nisaṅkhiti,
virato so viyārambhā khemaṃ passati sabbadhi. |
957. Đối với vị không dục vọng,
đang nhận thức, không có bất cứ sự tạo tác nào. Đă tránh xa khỏi
sự tạo tác, vị ấy nh́n thấy an toàn ở mọi nơi.
|
953.
Bậc ly dục rơ biết,
Vị ấy không sở hành,
Thoát ly, không tinh cần,
Thấy an ổn khắp nơi. |
958. Na samesu na omesu na ussesu
vadate muni,
santo so vītamacchero nādeti na nirassatī ”ti. |
958. Bậc hiền trí không mô tả
(bản thân) là trong số những người ngang bằng, không trong số
những người thấp kém, không trong số những người ưu việt. Được
an tịnh, đă xa ĺa sự bỏn xẻn, vị ấy không nắm giữ, không buông
bỏ.” |
954.
Bậc ẩn sĩ, không nói,
Bằng nhau, thua, hơn nhau,
An tịnh, ly xan tham,
Không nhận, không bác bỏ.
Thế Tôn giảng như vậy. |
Attadaṇḍasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Uế Hạnh của Bản Thân.
|
|
|
|
|
16. SĀRIPUTTASUTTAṂ
|
16. KINH SĀRIPUTTA
|
(XVI) KINH SĀRĪPUTTA (XÁ-LỢI-PHẤT) |
959. Na me diṭṭho ito pubbe
(iccāyasmā sāriputto)
nasuto uda kassaci,
evaṃ vagguvado satthā
tusitā gaṇimāgato.
|
959. Từ đây trở về trước, con
chưa từng được thấy,
(Đại đức Sāriputta đă nói thế ấy),
hoặc chưa từng được nghe của bất cứ người nào,
tương tự như bậc Đạo Sư, vị có giọng nói êm dịu,
bậc có đồ chúng, đă đi đến từ cơi trời Tusitā. |
Sàriputta:
955.
Trước con chưa từng thấy,
Chưa ai từng được nghe,
Tiếng nói thật ngọt ngào,
Như tiếng bậc Đạo Sư,
Từ cơi Đâu-suất đến,
Xá-lợi-phất nói vậy. |
960. Sadevakassa lokassa yathā
dissati cakkhumā,
sabbaṃ tamaṃ vinodetvā ekova ratimajjhagā. |
960. Đối với thế gian có cả chư
Thiên, bậc Hữu Nhăn được nh́n thấy là như thế. Sau khi xua đi
tất cả tăm tối, Ngài, chỉ một ḿnh, đă đạt đến sự khoái cảm (của
việc xuất gia, của sự viễn ly, của sự an tịnh, của sự giác ngộ).
|
956.
Bậc có mắt xuất hiện,
Đời này và thiên giới,
Quét sạch mọi u ám,
Độc cư, chứng an lạc. |
961. Taṃ buddhaṃ asitaṃ tādiṃ
akuhaṃ gaṇimāgataṃ,
bahunnamidha baddhānaṃ atthi pañhena āgamaṃ. |
961. Với ư định (hỏi) câu hỏi cho
số đông đă được gắn bó ở đây, con đă đi đến gặp đức Phật, bậc
không nương tựa, đấng tự tại, vị không dối trá, bậc có đồ chúng,
đă đi đến ấy. |
957.
Bậc Giác ngộ, độc lập,
Như thật, không man trá,
Ngài đến ở đời này,
Lănh đạo các đồ chúng,
Từ nhiều người trói buộc,
Con đến với câu hỏi. |
962. Bhikkhuno vijigucchato
bhajato rittamāsanaṃ,
rukkhamūlaṃ susānaṃ vā pabbatānaṃ guhāsu vā. |
962. Đối với vị tỳ khưu nhờm gớm
(sanh, già, bệnh, chết, v.v...) đang thân cận chỗ ngồi trống
vắng, gốc cây, mộ địa, hoặc ở các hang động của những ngọn núi.
|
958.
Vị Tỷ kheo nhàm chán,
Sống an tọa, trống không,
Tại gốc cây, nghĩa địa,
Hay núi rừng hang sâu. |
963. Uccāvacesu sayanesu kīvanto
tattha bheravā,
yehi bhikkhu na vedheyya nigghose sayanāsane. |
963. Ở những chỗ trú ngụ cao
thấp, có bao nhiêu sự khiếp đảm ở nơi ấy mà vị tỳ khưu không nên
run sợ ở chỗ nằm ngồi không tiếng động? |
959.
Tại chỗ cao thấp ấy,
Có bao nhiêu sợ hăi,
Khiến Tỷ kheo không run,
Tại trú xứ vắng lặng? |
964. Katī parissayā loke gacchato
agataṃ disaṃ,
ye bhikkhu abhisambhave pantamhi sayanāsane. |
964. Đối với vị đang đi đến khu
vực chưa từng đi đến, có bao nhiêu hiểm họa ở thế gian mà vị tỳ
khưu cần khắc phục ở các chỗ nằm ngồi xa vắng? |
960.
Bao nguy hiểm ở đời,
Tỷ Kheo cần chinh phục,
Trong hướng đi bất tử,
Tại trú xứ xa vắng? |
965. Kyāssa vyappathayo assu
kyāssassu idha gocarā,
kāni sīlabbatānassu pahitattassa bhikkhuno. |
965. Cách thức nói năng của vị ấy
nên là như thế nào? Hành xứ ở nơi này của vị ấy nên là như thế
nào? Giới và phận sự của vị tỳ khưu có bản tánh cương quyết nên
là như thế nào?
|
961.
Ngôn ngữ và hành xứ
Của vị ấy là ǵ?
Có bao nhiêu giới cấm,
Tỷ Kheo cần tinh tấn? |
966. Kaṃ so sikkhaṃ samādāya
ekodi nipako sato,
kammāro rajatasseva niddhame malamattano. |
966. Sau khi thọ tŕ sự học tập
ǵ, vị có sự chuyên nhất (của tâm), chín chắn, có niệm ấy, có
thể loại bỏ bụi bặm (ô nhiễm) của bản thân, ví như người thợ kim
hoàn có thể loại bỏ cáu bẩn của bạc?” |
962.
Chấp nhận học tập ǵ,
Vị Tỷ Kheo nhất tâm,
Thông minh, giữ chánh niệm,
Tẩy sạch các cấu uế,
Trên tự ngă của ḿnh,
Như thợ lọc vàng bạc? |
967. Vijigucchamānassa yadidaṃ
phāsu
(Sāriputtāti bhagavā)
rittāsanaṃ sayanaṃ sevato ce,
sambodhikāmassa yathānudhammaṃ
taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ. |
967. (Đức Phật nói: “Này
Sāriputta,) Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi theo như Ta
nhận biết, tức là sự thoải mái (an trú) dành cho vị nhờm gớm
(sanh, già, bệnh, chết, v.v...) nếu vị ấy đang thân cận chỗ ngồi
nằm trống vắng, có mong muốn quả vị giác ngộ thuận theo Giáo
Pháp. |
Thế
Tôn:
963.
Này Sàriputta,
Thế Tôn bèn trả lời:
Với người biết nhàm chán,
Có ǵ là khoan khoái!
Khi sử dụng sàng tọa,
Tại chỗ tịnh trống không,
Với ai muốn giác ngộ,
Sống đúng với tùy pháp,
Ta sẽ nói người ấy,
Như Ta đă quán tri. |
968. Pañcannaṃ dhīro bhayānaṃ na
bhāye
bhikkhu sato sappariyantacāriṃ,
ḍaṃsādhipātānaṃ siriṃsapānaṃ
manussaphassānaṃ catuppadānaṃ. |
968. Vị tỳ khưu, sáng trí, có
niệm, sống trong khuôn khổ, không nên sợ hăi đối với năm điều sợ
hăi: đối với loài ruồi và muỗi ṃng, đối với loài rắn, đối với
các sự va chạm với con người, đối với loài bốn chân. |
964.
Vị Tỷ kheo có trí,
Chánh niệm sống biên địa,
Không có sợ năm điều,
Đáng sợ hăi ở đời.
Các loại ruồi, mối bay
Cùng các loài ḅ sát,
Xúc chạm của loài người,
Cùng các loại bốn chân. |
969. Paradhammikānampi na
santaseyya
disvāpi tesaṃ bahubheravāni,
athāparāni abhisambhaveyya
parissayāni kusalānuesī. |
969. Cũng không nên sợ sệt đối
với những kẻ theo các giáo phái khác, ngay cả sau khi nh́n thấy
nhiều điều khiếp đảm của họ. Và vị tầm cầu điều tốt đẹp c̣n phải
khắc phục những hiểm họa khác nữa. |
965.
Vị ấy không nên sợ,
Tri kiến của người khác,
Khi đă được thấy biết,
Nhiều sợ hăi của chúng,
Bậc t́m đến chí thiện,
Thấy được các nguy hiểm
Cần phải lo khắc phục
Tất cả nguy hiểm khác. |
970. Ātaṅkaphassena khudāya
phuṭṭho
sītaṃ athuṇhaṃ adhivāsayeyya,
so tehi phuṭṭho bahudhā anoko
viriyaṃ parakkamma daḷhaṃ kareyya. |
970. Bị tác động bởi sự xúc chạm
của bệnh tật, của cơn đói, nên chịu đựng sự lạnh, sự nóng. Bị
tác động bởi những việc ấy dưới nhiều h́nh thức, vị không trú xứ
ấy nên nỗ lực tinh tấn và nên thể hiện sự vững chăi. |
966.
Khi thọ lănh bệnh hoạn,
Khi cảm xúc đói khổ,
Với lạnh và cực nóng,
Cần phải nhiếp phục chúng,
Bị chúng cảm xúc nhiều,
Kẻ không bỏ nhà cửa
Cần tinh tấn cần mẫn,
Ḷng hết sức kiên tŕ. |
971. Theyyaṃ na kareyya na musā
bhaṇeyya
mettāya phasse tasathāvarāni,
yadā vilattaṃ manaso vijaññā
kaṇhassa pakkhoti vinodayeyya. |
971. Không nên thực hiện việc
trộm cắp, không nên nói lời dối trá,
nên tiếp xúc bằng từ tâm với các loài yếu hay mạnh,
khi nào nhận biết được trạng thái bị khuấy động của tâm,
nên xua đi (nghĩ rằng): ‘Nó là phần đen tối.’ |
967.
Chớ ăn trộm, ăn cắp,
Chớ nói lời nói láo,
Hăy cảm xúc từ tâm,
Đối kẻ yếu, kẻ mạnh,
Khi rơ biết tâm tư,
Trong t́nh trạng dao động,
Hăy gột sạch, tẩy sạch,
Phần hắc ám đen tối. |
972. Kodhātimānassa vasaṃ na
gacche
mūlampi tesaṃ palikhañña tiṭṭhe,
athappiyaṃ vā pana appiyaṃ vā
addhā bhavanto abhisambhaveyya.
|
972. Không nên rơi vào quyền lực
của sự giận dữ và ngă mạn thái quá, nên đứng vững sau khi đào
lên gốc rễ của chúng. Và trong khi khắc phục vật được yêu mến
hoặc không được yêu mến, nên chế ngự chúng một cách chắc chắn.
|
968.
Chớ để bị chi phối,
Bởi phẫn nộ, quá mạn,
Hăy đào chúng tận gốc,
Và an trú như vậy,
Đối những ǵ khả ái,
Hay đối không khả ái,
Hăy hoàn toàn nhiếp phục,
Chớ để bị chi phối. |
973. Paññaṃ purakkhatvā
kalyāṇapīti
vikkhambheyya tāni parissayāni,
aratiṃ sahetha sayanamhi pante
caturo sahetha paridevadhamme. |
973. Sau khi chú trọng về trí
tuệ, với sự hoan hỷ về thiện pháp,
nên loại trừ các hiểm họa ấy,
nên khống chế sự không thích thú ở chỗ trú ngụ xa vắng,
nên khống chế bốn pháp tạo nên sự than văn.
|
969.
Thiên trọng về trí tuệ,
Hoan hỷ trong chí thiện,
Hăy chận đứng loại bỏ,
Nguy hiểm ách nạn ấy,
Hăy khắc phục bất lạc,
Đối trú xứ vắng lặng,
Hăy khắc phục bốn pháp,
Khiến sầu muộn khóc than. |
974. Kiṃsu asissāmi kuvaṃ vā
asissaṃ
dukkhaṃ vata settha kuvajja sessaṃ,
ete vitakke paridevaneyye
vinayetha sekho aniketasārī. |
974. ‘Vậy ta sẽ ăn ǵ? Hoặc ta sẽ
ăn ở đâu?
Quả thật ta đă ngủ khổ sở. Hôm nay, ta sẽ ngủ ở đâu?’
Vị hữu học, không có sự vương vấn nhà ở,
nên loại bỏ những suy tầm có tính chất than văn này. |
970.
Ta sẽ ăn những ǵ,
Và được ăn tại đâu.
Thật khó khăn ta ngủ,
Nay ta ngủ tại đâu?
Với những tư tưởng ấy,
Vị ấy có thể than,
Bậc hữu học, không nhà,
Hăy nhiếp phục trừ chúng. |
975. Annañca laddhā vasanañca
kāle
mattaṃ so jaññā idha tosanatthaṃ,
sotesu gutto yatacāri gāme
rusitopi vācaṃ pharusaṃ na vajjā. |
975. Sau khi nhận lănh vật thực
và y phục đúng thời hạn,
vị ấy nên biết chừng mực ở đây với mục đích vừa ḷng.
Vị đă được bảo vệ ở các ḍng chảy (giác quan), sống thu thúc ở
trong làng,
dầu cho bị xúc phạm, không nên nói lời nói thô lỗ. |
971.
Với đồ ăn, vải mặc,
Đúng thời, thâu hoạch được,
Cần ước lượng vừa đủ,
Với mục đích thỏa măn,
Chế ngự đối với chúng,
Sống nhiếp phục trong ḷng,
Dầu phẫn uất, không nói,
Những lời độc thô ác. |
976. Okkhittacakkhu na ca
pādalolo
jhānānuyutto bahujāgarassa,
upekhamārabbha samāhitatto
takkā sayaṃ kukkuccañcupachinde.
|
976. Có mắt nh́n xuống và không
buông thả bàn chân (đi đó đây),
nên gắn bó với việc tham thiền, nên có nhiều tỉnh thức,
sau khi nỗ lực về hành xả, có bản thân định tĩnh,
nên cắt đứt nền tảng của sự suy tư và trạng thái hối hận. |
972.
Với mắt cúi nh́n xuống,
Chân không đi lang thang,
Chú tâm vào thiền định,
Với rất nhiều tỉnh giác,
Cố gắng tu tập xả,
Tự ngă khéo định tĩnh,
Hăy cắt đứt trừ khử,
Các nghi ngờ hối tiếc. |
977. Cudito vacīhi satimābhinande
sabrahmacārīsu khilaṃ pabhinde,
vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelaṃ
janavādadhammāya na cetayeyya. |
977. Bị quở trách bởi những lời
nói, vị (tỳ khưu) có niệm nên hoan hỷ.
Nên phá vỡ sự cay nghiệt đối với các vị đồng phạm hạnh.
Nên thốt lên lời nói tốt lành, không vượt quá giới hạn.
Không nên suy nghĩ về chuyện phiếm luận của những người (khác).
|
973.
Bị buộc, tội bằng lời,
Chánh niệm, tâm hoan hỉ,
Phá hoại sự cứng rắn,
Giữa các đồng Phạm hạnh,
Nói lên những lời nói,
Hiền thiện và đúng thời,
Không để tâm suy tư,
Các chủ thuyết người khác. |
978. Athāparaṃ pañca rajāni loke
yesaṃ satīmā vinayāya sikkhe,
rūpesu saddesu atho rasesu
gandhesu phassesu sahetha rāgaṃ. |
978. Và hơn thế nữa, có năm loại
bụi bặm ở thế gian, đối với chúng vị có niệm nên học tập để loại
bỏ. Nên khống chế sự luyến ái ở các sắc, ở các thinh, rồi ở các
vị, ở các hương, ở các xúc.
|
974.
Lại nữa, năm loại vua,
Hiện có ở trên đời,
Hăy học nhiếp phục chúng.
Luôn luôn giữ chánh niệm.
Đối với sắc và tiếng,
Đối với vị và hương,
Cùng đối các cảm xúc,
Hăy chế ngự tham ái. |
979. Etesu dhammesu vineyya chandaṃ
bhikkhu satīmā suvimuttacitto,
kālena so sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno
ekodibhūto vihane tamaṃ so ”ti. |
979. Vị tỳ khưu có niệm, có tâm
khéo được giải thoát, Nên loại bỏ sự mong muốn ở các pháp ấy. Vị
ấy, đúng thời điểm, trong khi suy xét toàn diện một cách đúng
đắn về Giáo Pháp, có trạng thái chuyên nhất (của tâm), vị ấy có
thể diệt trừ sự tăm tối.”
|
975.
Hăy chế ngự ước muốn,
Đối với những pháp ấy,
Vị Tỷ kheo chánh niệm,
Tâm tư khéo giải thoát,
Rồi đúng thời vị ấy,
Chơn chánh suy tư pháp,
Với chuyên tâm nhất trí,
Hăy đoạn tận hắc ám.
Thế Tôn nói như vậy. |
Sāriputtasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
Aṭṭhakavaggo catuttho.
|
Dứt Kinh
Sāriputta.
Phẩm Nhóm Tám là thứ tư.
|
|
TASSUDDĀNAṂ
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
|
|
Kāmaguhaṭṭha duṭṭhāva suddhaṭṭha
paramā jarā,
metteyyo ca pasūro ca māgandi purābhedanaṃ.
Kalahaṃ dveva vyuhāni punarevatuvaṭṭakaṃ,
attadaṇḍaṃ therasuttaṃ therapañhena soḷasa,
tāni etāni suttāni sabbānaṭṭhakavaggikā ”ti.
|
Nhóm Tám về Dục, về Hang, về Xấu
Xa, về Trong Sạch, về Tối Thắng, (bài Kinh về) Sự Già, vị
Tissametteyya, vị Pasūra, và (Bà-la-môn) Māgandiya, (bài Kinh)
Trước Khi Hoại Ră, sư Căi Cọ, hai (bài Kinh) Sự Dàn Trận, rồi
(bài Kinh) Một Cách Nhanh Chóng nữa, (bài Kinh) Uế Hạnh của Bản
Thân, bài Kinh vị trưởng lăo (Sāriputta) với câu hỏi của vị
trưởng lăo là mười sáu; tất cả những bài Kinh này đây là thuộc
về Phẩm Nhóm Tám.
|
|
|
|
|
<Trang
Trước> |
<Mục Lục><Đầu
Trang> |
<Trang Kế> |