I. URAGAVAGGO - PHẨM RẮN (tiếp theo)
|
Buddha
Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka
|
Lời tiếng Việt:
(văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda
|
Lời tiếng Việt:
(văn vần) HT. Thích Minh Châu
|
4.
KASĪBHĀRADVĀJASUTTAṂ
|
4. KINH
KASĪBHĀRADVĀJA
|
4. KINH
BHĀRADVĀJA, NGƯỜI CÀY RUỘNG
|
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ
bhagavā magadhesu viharati dakkhiṇāgirismiṃ ekanāḷāyaṃ
brāhmaṇagāme, tena kho pana samayena kasībhāradvājassa
brāhmaṇassa pañcamattāni naṅgalasatāni payuttāni honti
vappakāle.
|
Tôi đă nghe
như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự ở xứ sở Magadha, tại vùng
Dakkhiṇāgiri, trong ngôi làng của những người Bà-la-môn có tên
là Ekanāḷā. Vào lúc bấy giờ, ở thời điểm gieo trồng, các lưỡi
cày của Bà-la-môn Kasībhāradvāja
với số
lượng năm trăm đă được buộc sẵn (vào ách).
--------------
Bà-la-môn
Kasībhāradvāja: người Bà-la-môn ấy sống bằng nghề trồng trọt (kasī)
và họ của ông ấy là Bhāradvāja, v́ thế được gọi tên như vậy
(SnA. i, 137). |
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân
chúng Magadha, tại núi Dakkhinàgini, trong một
làng Bà-la-môn tên Ekanàlà. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn
Kasibhàradvàja có khoảng năm trăm lưỡi cày sẵn sàng, v́ là
thời gieo mạ.
|
Atha kho
bhagavā pubbanhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena
kasībhāradvājassa brāhmaṇassa kammanto tenupasaṅkami. Tena kho
pana samayena kasībhāradvājassa brāhmaṇassa parivesanā vattati.
Atha kho bhagavā yena parivesanā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā
ekamantaṃ aṭṭhāsi. Addasā kho kasībhāradvājo brāhmaṇo
bhagavantaṃ piṇḍāya ṭhitaṃ. Disvāna bhagavantaṃ etadavoca: |
Khi ấy, vào
buổi sáng đức Thế Tôn đă quấn y (nội) rồi cầm b́nh bát và y đi
đến nơi làm việc của Bà-la-môn Kasībhāradvāja. Vào lúc bấy giờ,
việc phân phát thức ăn của Bà-la-môn Kasībhāradvāja đang được
tiến hành. Khi ấy, đức Thế Tôn đă đi đến nơi phân phát thức ăn,
sau khi đến đă đứng ở một bên. Bà-la-môn Kasībhāradvāja đă nh́n
thấy đức Thế Tôn đang đứng khất thực, sau khi nh́n thấy đă nói
với đức Thế Tôn điều này:
|
Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y,
cầm bát đi đến chỗ Bà-la-môn Kasibhàradvàja đang làm
việc. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Kasibhàradvàja đang phân phát
đồ ăn. Rồi Thế Tôn đi đến chỗ phân phát đồ ăn, sau khi đến, Ngài
đứng một bên, Bà-la-môn Kasibhàradvàja thấy Thế Tôn đang
đứng một bên để khất thực, liền nói với Thế Tôn: |
Ahaṃ kho samaṇa kasāmi ca vapāmi
ca kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmi. Tvampi samaṇa kasassu ca
vapassu ca kasitvā ca vapitvā ca bhuñjassūti. |
"Này Sa-môn,
tôi
cày và
tôi
gieo hạt. Sau khi cày và
sau khi gieo hạt,
tôi
ăn. Này Sa-môn, ông cũng hăy cày và hăy gieo hạt. Sau khi cày và
sau khi gieo hạt, ông hăy ăn."
|
- Này Sa-môn, ta cày và ta gieo,
sau khi cày, sau khi gieo, ta ăn. Và Sa-môn, hăy cày và gieo.
Sau khi cày và gieo, hăy ăn!
|
Ahampi kho brāhmaṇa kasāmi ca
vapāmi ca kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmīti. |
"Này
Bà-la-môn, Ta cũng cày và Ta cũng gieo hạt. Sau khi cày và sau
khi gieo hạt, Ta ăn."
|
- Này Bà-la-môn, Ta cũng cày và
cũng gieo. Sau khi cày và sau khi gieo, Ta ăn. |
Na kho pana mayaṃ passāma
gotamassa yugaṃ vā naṅgalaṃ vā phālaṃ vā pācanaṃ vā balivadde
vā, atha ca pana bhavaṃ gotamo evamāha: Ahampi kho brāhmaṇa
kasāmi ca vapāmi ca kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmīti. |
"Nhưng chúng tôi không nh́n thấy
cái ách, hoặc thân cày, hoặc lưỡi cày, hoặc gậy thúc hoặc các con
ḅ đực của ngài Gotama. Và hơn nữa, ngài Gotama đă nói như vầy:
‘Này Bà-la-môn, Ta cũng cày và Ta cũng gieo hạt. Sau khi cày và
sau khi gieo hạt, Ta ăn.’"
|
- Nhưng chúng tôi không thấy cái
ách, hay cái cày, hay lưỡi cày, hay gậy thúc trâu ḅ, hay các
con ḅ đực của Tôn giả Gotama. Vậy mà Tôn giả Gotama
nói: "Này Bà-la-môn, Ta có cày và Ta có gieo. Sau khi cày và
sau khi gieo, Ta ăn ". |
Atha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo
bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:
|
Khi ấy,
Bà-la-môn Kasībhāradvāja đă nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ
rằng: |
Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja
nói lên với Thế Tôn bài kệ:
|
76. Kassako paṭijānāsi na ca
passāma te kasiṃ,
kasiṃ no pucchito brūhi yathā jānemu te kasiṃ.
|
76.
"Ông
tự nhận là người đi cày, nhưng chúng tôi không nh́n thấy việc
cày của ông. Được chúng tôi hỏi, ông hăy nói về việc cày sao cho
chúng tôi có thế biết về việc cày của ông." |
Bhàradvàja:
76. Người tự nhận Người cày,
Ta không thấy Người cày,
Hăy trả lời chúng tôi,
Đă hỏi về Người cày,
Chúng tôi muốn rơ biết,
Người cày như thế nào? |
77. Saddhā bījaṃ tapo vuṭṭhi
paññā me yuganaṅgalaṃ,
hiri īsā mano yottaṃ sati me phālapācanaṃ.
|
77. "Đức tin
là hạt giống, khắc khổ là cơn mưa, tuệ của Ta là ách và thân
cày, liêm sỉ là cán cày, trí là sự buộc lại, niệm của Ta là lưỡi
cày và gậy thúc. |
Thế Tôn:
77. Ḷng tin là hột giống,
Khổ hạnh là cơn mưa,
Trí tuệ đối với Ta
Là ách và lưỡi cày,
Xấu hổ là cán cày,
Ư là sợi dây buộc,
Và niệm đối với Ta
Là lưỡi cày, gậy thúc. |
78. Kāyagutto vacīgutto āhāre
udare yato,
saccaṃ karomi niddānaṃ soraccaṃ me pamocanaṃ. |
78. Được ǵn
giữ ở thân, được ǵn giữ ở khẩu, được tiết chế vật thực ở bao
tử, Ta lấy sự chân thật làm vật bứng gốc (cỏ dại đối với thiện
pháp); trạng thái hân hoan là sự giải thoát của Ta.
|
78. Với thân khéo pḥng hộ,
Với lời khéo pḥng hộ,
Với món ăn trong bụng,
Biết tiết độ, chế ngự,
Ta tác thành chơn thực,
Để cắt dọn cỏ rác,
Sự giải thoát của Ta
Thật hiền lành nhu thuận. |
79. Viriyaṃ me dhuradhorayhaṃ
yogakkhemādhivāhanaṃ,
gacchati anivattantaṃ yattha gantvā na socati. |
79. Tinh tấn là (các con) thú
mang gánh nặng, đưa đến nơi an toàn khỏi các (ách) trói buộc.
Trong khi không quay trở lại, nó đi đến nơi nào mà người không
sầu muộn sau khi đi đến. |
79. Với tinh cần tinh tấn,
Ta gánh chịu trách nhiệm,
Ta tự ḿnh đem lại
An ổn khỏi khổ ách.
Như vậy, Ta đi tới,
Không trở ngại thối lui,
Chỗ nào Ta đi tới,
Chỗ ấy không sầu muộn. |
80. Evamesā kasīkaṭṭhā sā hoti
amatapphalā,
etaṃ kasiṃ kayītvāna sabbadukkhā pamuccatīti. |
Việc cày ấy
đă được cày như vậy. Nó có kết quả là sự Bất Tử. Sau khi đă cày
việc cày ấy, được thoát khỏi tất cả khổ đau." |
80. Cày bừa là như vậy,
Được quả là bất tử,
Sau cày bừa như vậy,
Mọi khổ được giải thoát. |
Atha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo
mahatiyā kaṃsapātiyā pāyāsaṃ vaḍḍhetvā bhagavato upanāmesi:
Bhuñjatu bhavaṃ gotamo pāyāsaṃ; kassako bhavaṃ yaṃ hi bhavaṃ
gotamo amataphalaṃ kasiṃ kasatīti. |
Khi ấy, Bà-la-môn Kasībhāradvāja
đă đặt đầy cơm sữa vào cái đĩa lớn bằng vàng rồi dâng đến đức
Thế Tôn (nói rằng):
“Ngài Gotama hăy ăn món cháo sữa. Ngài là người
cày, bởi v́ Ngài Gotama cày việc cày có kết quả là sự Bất Tử.”
|
Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja
lấy một bát bằng đồng lớn, cho đổ đầy với cháo sữa dâng đức
Phật và thưa: - Thưa Tôn giả Gotama, hăy
dùng cháo sữa, Tôn giả là người đi cày! Tôn giả Gotama đi
cày quả bất tử! |
81. Gāthābhigītaṃ me abhojaneyyaṃ
sampassataṃ brāhmaṇa nesadhammo,
gāthābhigītaṃ panudanti buddhā
dhamme satī brāhmaṇa vuttiresā.
|
81. "Vật nhận được sau khi ngâm
nga kệ ngôn là không được thọ dụng bởi Ta. Này Bà-la-môn, điều
ấy không phải là pháp của những bậc có nhận thức đúng đắn. Chư
Phật khước từ vật nhận được sau khi ngâm nga kệ ngôn. Này
Bà-la-môn, khi Giáo Pháp hiện hữu, điều ấy là cung cách thực
hành.
|
Thế Tôn:
81. Ta không hưởng vật dụng,
Do tụng kệ đem lại,
Đây không phải là pháp,
Của bậc có chánh kiến
Chư Phật đều bác bỏ,
Tụng hát các bài kệ,
Khi pháp có hiện hữu,
Truyền thống là như vậy. |
82. Aññena ca kevalinaṃ mahesiṃ
khīṇāsavaṃ kukkucca vūpasantaṃ,
annena pānena upaṭṭhahassu
khettaṃ hi taṃ puññapekhassa hotīti.
|
82. Ngươi hăy
cung ứng đến vị toàn hảo (đức hạnh), bậc đại ẩn sĩ có các lậu
hoặc đă được cạn kiệt, có các trạng thái hối hận đă được lắng
dịu, với cơm ăn nước uống khác, bởi v́ đó chính là thửa ruộng
của người mong mỏi phước báu.” |
82. Hỡi này Bà-la-môn,
Người cần phải cúng dường,
Đồ ăn vật uống khác,
Bậc đại sĩ toàn diện,
Đă đoạn các lậu hoặc,
Đă lắng dịu dao động,
Ta chính là thửa ruộng,
Cho những ai cầu phước. |
Atha kassa cāhaṃ bho gotama imaṃ
pāyāsaṃ dammīti,
|
"Thưa Ngài Gotama, vậy tôi nên
cho món cơm sữa này đến ai?"
|
- Vậy, thưa Tôn giả Gotama,
con sẽ cho ai cháo sữa này? |
Na khvāhaṃ taṃ brāhmaṇa passāmi
sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇīyā pajāya
sadevamanussāya yassa so pāyāso bhutto sammā pariṇāmaṃ gaccheyya
aññatra tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa vā, tena hi tvaṃ
brāhmamaṇa taṃ pāyāsaṃ appaharite vā chaḍḍehi, appāṇake vā udake
opilāpehīti,
|
“Này Bà-la-môn, ta không thấy
người nào trong thế gian tính luôn cơi của chư Thiên, cơi Ma
Vương, cơi Phạm Thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn, các
hạng chư Thiên và loài người mà cơm sữa ấy khi được người ấy ăn
vào có thể đem lại sự tiêu hóa tốt đẹp, ngoại trừ đức Như Lai
hay đệ tử của đức Như Lai. Này Bà-la-môn, chính v́ điều ấy ngươi
hăy đổ bỏ cơm sữa ấy ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống nước
không có sinh vật.”
|
- Này Bà-la-môn, Ta không thấy ai
ở thế giới, với chư Thiên, chư Ma, chư Phạm thiên, hay trên đời
này với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài
Người, có thể sau khi ăn, tiêu hóa được món cháo sữa này, trừ
Như Lai hay đệ tử của Như Lai. Vậy, này Bà-la-môn, Ông hăy đổ
cháo sữa này trên chỗ không có cỏ xanh, hay nhận ch́m trong nước
không có sinh vật.
|
Atha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo
taṃ pāyāsaṃ appāṇake udake opilāpesī. Atha kho so pāyāso udake
pakkhitto cicciṭāyati ciṭiciṭāyati sandhūpāyati sampadhūpāyati,
seyyathāpi nāma phālo divasasantatto udake pakkhitto cicciṭāyati
ciṭiciṭāyati sandhupāyati sampadhūpāyati, evameva so pāyāso
udake pakkhitto cicciṭāyati ciṭiciṭāyati sandhūpāyati
sampadhūpāyati.
|
Rồi Bà-la-môn Kasībhāradvāja đă
đổ cơm sữa ấy xuống nước không có sinh vật. Khi ấy, cơm sữa ấy
khi được đổ vào trong nước liền sủi bọt x́ xèo, bốc hơi, và tỏa
khói. Cũng giống như lưỡi cày đă được nung đỏ trọn ngày khi được
bỏ vào trong nước liền sủi bọt x́ xèo, bốc hơi, và tỏa khói;
tương tợ y như thế, cơm sữa ấy khi được đổ vào trong nước liền
sủi bọt x́ xèo, bốc hơi, và tỏa khói. |
Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja
đem nhận ch́m cháo sữa ấy vào nước không có sinh vật. Cháo
sữa ấy khi bị đổ xuống nước, nó sôi lên, sôi lên sùng sục, nó
phun khói, nó bốc khói lên. Ví như một lưỡi cày, phơi cả ngày
dưới ánh nắng, được đem quăng xuống nước, lưỡi cày ấy sôi lên
sùng sục, nó phun khói, nó bốc khói lên. Cũng vậy, cháo sữa ấy,
khi bị đổ xuống nước, nó sôi lên, sôi lên sùng sục, nó phun
khói, nó bốc khói lên. |
Atha kho kasībhāradvājo brāhmaṇo
saṃviggo lomahaṭṭhajāto
yena bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavato pādesu sirasā
nipatitvā bhagavantaṃ etadavoca: |
Khi ấy, Bà-la-môn Kasībhāradvāja
trở nên hoảng hốt, lông dựng đứng lên, rồi đă đi đến gặp đức Thế
Tôn, sau khi đến đă quỳ xuống đê đầu đảnh lễ hai bàn chân của
đức Thế Tôn rồi đă nói điều này:
|
Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja hoảng
hốt, rợn tóc gáy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, cúi đầu đảnh lễ
chân Thế Tôn, và bạch Thế Tôn: |
Abhikkantaṃ bho gotama
abhikkantaṃ bho gotama seyyathāpi bho gotama nikkujjitaṃ vā
ukkujjeyya paṭicchannaṃ vā vivareyya mūḷhassa vā maggaṃ
ācikkheyya andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni
dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo
pakāsito esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca
bhikkhusaṅghañca, labheyyāhaṃ bhoto gotamassa santike pabbajjaṃ,
labheyyaṃ upasampadanti.
|
“Thưa Ngài
Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời!
Thưa Ngài Gotama, giống như người có thể lật ngửa vật đă được úp
lại, hoặc mở ra vật đă bị che kín, hoặc chỉ đường cho kẻ lạc
lối, hoặc đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những
người có mắt sẽ nh́n thấy được các h́nh dáng;’ tương tự như thế
Pháp đă được Ngài Gotama giảng rơ bằng nhiều phương tiện. Con
đây xin đi đến nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng
tỳ khưu. Con có thể xuất gia trong sự hiện diện của Ngài Gotama
không? Con có thể tu lên bậc trên không?”
|
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Ví
như, thưa Tôn giả Gotama, một người dựng đứng lại những
ǵ bị quăng ngă xuống, mở toang ra những ǵ bị che kín, chỉ
đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để
những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, pháp được Tôn giả
Gotama dùng nhiều phương tiện tŕnh bày. Con xin qui y Tôn
giả Gotama, qui y Pháp, qui y chúng Tỷ-kheo. Mong rằng
con được xuất gia với Tôn giả Gotama, được thọ đại giới.
|
Alattha kho kasībhāradvājo
brāhmaṇo bhagavato santike pabbajjaṃ alattha upasampadaṃ,
acirūpasampanno kho panāyasmā bhāradvājo eko vūpakaṭṭho
appamatto ātāpī pahitatto viharanto na cirasseva yassatthāya
kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti
tadanuttaraṃ
brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā
sacchikatvā upasampajja vihāsi. Khīṇā jāti vusitaṃ brahmacariyaṃ
kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti abbhaññāsi aññataro ca kho
panāyasmā bhāradvājo arahataṃ ahosīti.
|
Sau đó, Bà-la-môn Kasībhāradvāja
đă đạt được sự xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn, đă
đạt được sự tu lên bậc trên. Và khi đă được tu lên bậc trên
không bao lâu, đại đức Bhāradvāja một ḿnh đă tách riêng, rồi
trong khi sống không bị xao lăng, có nhiệt tâm, có bản tánh
cương quyết nên chẳng bao lâu sau, ngay trong kiếp hiện tại, nhờ
vào thắng trí của ḿnh, đă chứng ngộ, đă đạt đến, và an trú vào
mục đích tối thượng ấy của Phạm hạnh, v́ mục đích này mà những
người con trai của các gia đ́nh cao quư rời nhà xuất gia một
cách chân chánh sống không nhà. Vị ấy đă biết rơ rằng: “Sự tái
sanh đă cạn kiệt, Phạm hạnh đă sống, việc cần làm đă làm, không
c̣n ǵ khác (phải làm) đối với bản thể (A-la-hán) này nữa.” Và
thêm một vị nữa là đại đức Bhāradvāja đă trở thành vị A-la-hán.
|
Rồi Bà-la-môn Kasibhàradvàja
được xuất gia với Sa-môn Gotama, được thọ đại giới. Thọ đại
giới không bao lâu, Tôn giả Bhàradvàja sống một ḿnh,
viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Không bao lâu, do
v́ mục đích ǵ, bậc thiên nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia
đ́nh, sống không gia đ́nh, vị ấy ngay trong hiện tại, tự
ḿnh với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú cứu cánh Phạm
hạnh ấy. Vị ấy thắng tri: "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành,
những việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này nữa
". Tôn giả Bhàradvàja trở thành một vị A-la-hán.
|
Kasībhāradvājasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh
Kasībhāradvāja.
|
|
|
|
|
5. CUNDASUTTAṂ
|
5. KINH CUNDA
|
5. KINH
CUNDA |
83. Pucchāmi muniṃ pahūtapaññaṃ
(iti cundo kammāraputto)
buddhaṃ dhammassāmiṃ vītataṇhaṃ,
dipaduttamaṃ sārathinaṃ pavaraṃ
kati loke samaṇā tadiṅgha brūhi. |
83. (Cunda, con trai người thợ
rèn nói):
“Con hỏi bậc Hiền Trí, vị có tuệ
bao la,
đức Phật, đấng Pháp chủ, có tham
ái đă được xa ĺa,
bậc tối thượng của loài người, vị
quư cao trong số các xa phu rằng:
Ở thế gian có
bao nhiêu hạng Sa-môn? Nào, xin Ngài hăy nói điều ấy.”
|
83. Người thợ rèn Cunda,
Nói lên lời như sau:
Con hỏi bậc Đại sĩ,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Đấng Giác ngộ, Pháp chủ,
Đă đoạn tận khát ái,
Bậc tối thượng hai chân,
Bậc đánh xe tối thắng,
Xin Ngài nói ở đời,
Có bao nhiêu Sa-môn? |
84. Caturo samaṇā na pañcamatthī
(cundāti bhagavā)
te te āvikaromi sakkhipuṭṭho,
maggajino maggadesako ca
magge jīvati yo ca maggadūsi.
|
84. (Đức Phật nói: “Này Cunda,)
có bốn hạng Sa-môn, không có hạng
thứ năm.
Được hỏi trực diện, Ta nói rơ các
hạng ấy cho ngươi:
Hạng chiến thắng Đạo Lộ, và hạng
thuyết giảng Đạo Lộ,
hạng sống
theo Đạo Lộ, và hạng làm ô uế Đạo Lộ.”
|
Thế Tôn:
84. Chỉ có bốn Sa-môn,
Không có hạng thứ năm,
Thế Tôn đáp Cunda,
Này Cunda, là vậy.
Ta tỏ bày cho Ông,
Được hỏi điều tự thấy,
Bậc chiến thắng con đường,
Bậc thuyết giảng con đường,
Bậc sống trên con đường,
Kẻ làm ô uế đạo. |
85. Kaṃ maggajinaṃ vadanti buddhā
(iti cundo kammāraputto)
maggakkhāyī kathaṃ atulyo hoti,
magge jīvati me brūhi puṭṭho
atha me āvikarohi maggadūsiṃ.
|
85. (Cunda, con trai người thợ
rèn nói):
“Chư Phật nói ǵ về hạng chiến
thắng Đạo Lộ,
bậc thuyết giảng Đạo Lộ là vô
song nghĩa là thế nào?
Được hỏi xin Ngài hăy nói cho con
về hạng sống theo Đạo Lộ,
rồi xin Ngài
hăy nói cho con rơ về hạng làm ô uế Đạo Lộ.”
|
Cunda:
85. Người thợ rèn Cunda,
Liền bạch với Thế Tôn:
Chư Phật nói thế nào,
Bậc chiến thắng con đường,
Bậc thiền định con đường,
Sao gọi không ước lường?
Con hỏi xin trả lời,
Vị sống đúng con đường?
Xin tŕnh bày cho con,
Kẻ làm đường ô uế. |
86. Yo tiṇṇakathaṃkatho visallo
nibbānābhirato anānugiddho,
lokassa sadevakassa netā
tādiṃ maggajinaṃ vadanti buddhā.
|
86. “Ai đă vượt qua sự nghi ngờ,
không c̣n mũi tên,
thỏa thích Niết Bàn, không c̣n
thèm muốn,
vị hướng đạo của thế gian luôn cả
chư Thiên,
chư Phật nói vị như thế ấy là
hạng chiến thắng Đạo Lộ.
|
Thế Tôn:
86. Ai vượt khỏi nghi hoặc,
Vị thoát khỏi mũi tên,
Ưa thích cảnh Niết-bàn,
Không tham đắm vật ǵ,
Bậc lănh đạo thế giới,
Chư Thiên và loài Người,
Chư Phật gọi vị ấy,
Bậc chiến thắng con đường.
|
87. Paramaṃ paramanti yodha ñatvā
akkhāti vibhajati idheva dhammaṃ,
taṃ kaṅkhacchidaṃ muniṃ anejaṃ
dutiyaṃ bhikkhūkamāhu maggadesiṃ. |
87. Ở đây, ai biết được tối
thượng (Niết Bàn) là tối thượng,
vị nói lên và phân tích Giáo Pháp
ở ngay đây,
vị ấy là bậc hiền trí, cắt đứt
nỗi hoài nghi, không c̣n dục vọng,
người ta đă gọi vị tỳ khưu thứ
nh́ là hạng thuyết giảng Đạo Lộ.
|
87. Ai ở
đời biết được,
Pháp tối thượng, tối thượng,
Nói lên và phân tích,
Pháp ở đây là vậy.
Vị chặt đứt nghi hoặc,
Bậc ẩn sĩ, không dục,
Bậc Tỷ-kheo thứ hai
Được gọi thuyết con đường.
|
88. Yo dhammapade sudesite
magge jīvati saññato satīmā,
anavajjapadāni sevamāno
tatiyaṃ bhikkhunamāhu maggajīviṃ.
|
88. Khi nền tảng Giáo Pháp đă
khéo được thuyết giảng, vị nào
sống theo Đạo Lộ, tự chế ngự, có
niệm,
đang thân cận các pháp không có
tính chất tội lỗi,
người ta đă gọi vị tỳ khưu thứ ba
là hạng sống theo Đạo Lộ.
|
88. Ai sống trên con đường,
Con đường pháp khéo giảng,
Sống chế ngự chánh niệm,
Bước đường không lỗi lầm,
Tỷ-kheo thứ ba này
Được gọi sống trên đường. |
89. Chadanaṃ katvāna subbatānaṃ
pakkhandi kuladūsako pagabbho,
māyāvī asaññato palāpo
patirūpena caraṃ sa maggadūsī.
|
89. Sau khi đă cải trang ở giữa
những vị có sự hành tŕ tốt đẹp,
kẻ xông xáo, kẻ làm hư hỏng các
gia đ́nh, xấc xược,
xảo quyệt, không tự chế ngự, loại
vỏ trấu,
sống trá h́nh, kẻ ấy là hạng làm
nhơ Đạo Lộ.
|
89. Ai
sống ưa che đậy,
Dưới h́nh thức giới cấm,
Xông xáo, nhớp gia đ́nh,
Bạt mạng và man trá,
Không chế ngự nhiếp phục,
Sống lắm mồm lắm miệng.
Người sở hành như vậy
Là kẻ ô uế đạo.
|
90. Ete ca paṭivijjhi yo gahaṭṭho
sutavā ariyasāvako sapañño,
sabbe te tādisāti ñatvā
iti disvā na hāpeti tassa saddhā,
kathaṃ hi duṭṭhena asampaduṭṭhaṃ
suddhaṃ asuddhena samaṃ kareyyāti.
|
90. Và người tại gia nào đă thấu
hiểu những hạng này,
là đệ tử các bậc Thánh, có sự
nghe nhiều, có tuệ,
sau khi biết rằng: ‘Tất cả các
hạng ấy là như thế ấy,’
sau khi nh́n thấy như thế, không
làm suy giảm niềm tin của người ấy,
bởi v́ làm thế nào vị không hư
hỏng với kẻ xấu xa,
vị trong sạch với kẻ không trong
sạch lại có thể xem như nhau?”
|
90. Vị cư sĩ thâm hiểu
Các hạng người như vậy,
Thánh đệ tử, nghe nhiều,
Có trí tuệ thông hiểu,
Sau khi rơ biết chúng,
Tất cả là như vậy.
Thấy vậy, vững ḷng tin,
Không có bị sút giảm
Làm sao lại lẫn lộn,
Kẻ ác với người thiện,
Làm sao xem giống nhau,
Bậc tịnh, kẻ không tịnh. |
Cundasuttaṃ
niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh
Cunda.
|
|
6. PARĀBHAVASUTTAṂ
|
6. KINH
THOÁI HÓA
|
6. KINH BẠI
VONG |
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ
bhagavā savatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā
kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami.
Upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.
|
Tôi đă nghe
như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu
viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, lúc đêm đă khuya, một vị
Thiên nhân nọ với màu sắc vượt trội đă làm cho toàn bộ Jetavana
rực sáng rồi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ
đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đứng ở một bên, vị Thiên nhân ấy
đă bạch với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:
|
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông
Anàthapindika. Rồi một Thiên nhơn, sau khi đêm gần măn, với
dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một
bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn với những bài kệ: |
91. Parābhavantaṃ purisaṃ mayaṃ
pucchāma gotamaṃ,
bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma kiṃ parābhavato mukhaṃ. |
91. “Chúng
tôi đi đến để hỏi đức Thế Tôn, chúng tôi hỏi Gotama về hạng
người thoái hóa: ‘Tiền đề của hạng người thoái hóa là ǵ?’” |
Thiên nhân:
91. Về bại vong con người,
Con hỏi Gotama,
Con đến hỏi Thế Tôn,
Cửa vào của bại vong? |
92. Suvijāno bhavaṃ hoti suvijāno
parābhavo,
dhammakāmo bhavaṃ hoti dhammadessī parābhavo. |
92. “Thật dễ nhận biết (thế nào)
là người tiến hóa, thật dễ nhận biết (thế nào) là người thoái
hóa. Người có sự mong muốn Giáo Pháp là người tiến hóa, người có
sự ghét bỏ Giáo Pháp là người thoái hóa.”
|
Thế Tôn:
92. Thật dễ hiểu thành công,
Thật dễ hiểu bại vong,
Ưa mến pháp, thành công,
Thù ghét pháp bại vong. |
93. Iti hetaṃ vijānāma paṭhamo so
parābhavo,
dutiyaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ. |
93. “Chúng tôi nhận biết điều này
y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ
nhất. Xin đức Thế Tôn hăy nói về tiền đề thứ nh́ của hạng người
thoái hóa là ǵ?”
|
Thiên nhân:
93. Như vậy, chúng con rơ,
Thứ nhất về bại vong,
Thứ hai, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong? |
94. Asantassa piyā honti sante na
kurute piyaṃ,
asataṃ dhammaṃ roceti taṃ parābhavato mukhaṃ.
|
94. “Người này yêu mến những kẻ
không tốt, không tỏ sự yêu mến những bậc tốt lành, thích thú
pháp của những kẻ không tốt, việc ấy là tiền đề của hạng người
thoái hóa.” |
Thế Tôn:
94. Ai mến kẻ bất thiện,
Không ái luyến bậc thiện,
Thích pháp kẻ bất thiện,
Chính cửa vào bại vong. |
95. Iti hetaṃ vijānāma dutiyo so
parābhavo,
tatiyaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.
|
95. “Chúng tôi nhận biết điều này
y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ
nh́. Xin đức Thế Tôn hăy nói về tiền đề thứ ba của hạng người
thoái hóa là ǵ?”
|
Thiên nhân:
95. Như vậy, chúng con rơ,
Thứ hai về bại vong,
Thứ ba, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong? |
96. Niddāsīlī sabhāsīlī anuṭṭhātā
ca yo naro,
alaso kodhapaññāṇo taṃ parābhavato mukhaṃ. |
96. "Người có bản tánh ưa ngủ, có
bản tánh ưa tụ hội, không năng động, lười biếng, có biểu hiện
giận dữ, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”
|
Thế Tôn:
96. Người tánh ưa thích ngủ,
Thích hội chúng, thụ động,
Biếng nhác, thường phẫn nộ,
Chính cửa vào bại vong. |
97. Iti hetaṃ vijānāma tatiyo so
parābhavo,
catutthaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ. |
97. “Chúng tôi nhận biết điều này
y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ
ba. Xin đức Thế Tôn hăy nói về tiền đề thứ tư của hạng người
thoái hóa là ǵ?”
|
Thiên nhân:
97. Như vậy, chúng con rơ,
Thứ ba về bại vong.
Thứ tư, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong? |
98. Yo mātaraṃ vā pitaraṃ vā
jiṇṇakaṃ gatayobbanaṃ,
pahū santo na bharati taṃ parābhavato mukhaṃ. |
98. “Người
trong khi có khả năng mà không phụng dưỡng mẹ hoặc cha già nua,
đă qua thời tuổi trẻ, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái
hóa.” |
Thế Tôn:
98. Ai với mẹ hay cha,
Già yếu, tuổi trẻ hết,
Tuy giàu không giúp đỡ,
Chính cửa vào bại vong. |
99. Iti hetaṃ vijānāma catuttho
so parābhavo,
pañcamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ. |
99. “Chúng tôi nhận biết điều này
y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng thứ
tư. Xin đức Thế Tôn hăy nói về tiền đề thứ năm của hạng người
thoái hóa là ǵ?”
|
Thiên nhân:
99. Như vậy, chúng con rơ,
Thứ tư về bại vong.
Thứ năm, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong? |
100. Yo brāhmaṇaṃ vā samaṇaṃ vā
aññaṃ vāpi vaṇibbakaṃ,
musāvādena vañceti taṃ parābhavato mukhaṃ. |
100. “Người lừa gạt vị Bà-la-môn
hoặc vị Sa-môn, hoặc luôn cả người nghèo khổ bằng lời dối trá,
việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”
|
Thế Tôn:
100. Ai nói dối lường gạt,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Hay các khất sĩ khác,
Chính cửa vào bại vong. |
101. Iti hetaṃ vijānāma pañcamo
so parābhavo,
chaṭṭhamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ. |
101. “Chúng
tôi nhận biết điều này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người
thoái hóa ấy là hạng thứ năm. Xin đức Thế Tôn hăy nói về tiền đề
thứ sáu của hạng người thoái hóa là ǵ?” |
Thiên nhân:
101. Như vậy, chúng con rơ,
Thứ năm về bại vong.
Thứ sáu, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong? |
102. Pahūtavitto puriso sahirañño
sabhojano,
eko bhuñjati sādūni taṃ parābhavato mukhaṃ. |
102. “Người có nhiều của cải, có
vàng, có thức ăn, mà thọ dụng các vật ngon ngọt một ḿnh, việc
ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”
|
Thế Tôn:
102. Người giàu có tài sản,
Có vàng bạc thực vật,
Hương vị ngọt một ḿnh,
Chính cửa vào bại vong. |
103. Iti hetaṃ vijānāma
chaṭaṭṭhamo so parābhavo,
sattamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ. |
103. “Chúng tôi nhận biết điều
này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng
thứ sáu. Xin đức Thế Tôn hăy nói về tiền đề thứ bảy của hạng
người thoái hóa là ǵ?”
|
Thiên nhân:
103. Như vậy, chúng con rơ
Thứ sáu về bại vong.
Thứ bảy, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong? |
104. Jātitthaddho dhanatthaddho
gottatthaddho ca yo naro,
saññātiṃ atimaññeti taṃ parābhavato mukhaṃ. |
104. “Người kiêu hănh về chủng
tộc, kiêu hănh về tài sản, kiêu hănh về ḍng họ rồi khinh khi
thân quyến của ḿnh, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái
hóa.”
|
Thế Tôn:
104. Người tự hào về sanh,
Về tài sản ḍng họ,
Khinh miệt các bà con,
Chính cửa vào bại vong. |
105. Iti hetaṃ vijānāma sattamo
so parābhavo,
aṭṭhamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ.
|
105. “Chúng tôi nhận biết điều
này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng
thứ bảy. Xin đức Thế Tôn hăy nói về tiền đề thứ tám của hạng
người thoái hóa là ǵ?”
|
Thiên nhân:
105. Như vậy, chúng con rơ,
Thứ bảy về bại vong,
Thứ tám, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong? |
106. Itthidhutto surādhutto
akkhadhutto ca yo naro,
laddhaṃ laddhaṃ vināseti taṃ parābhavato mukhaṃ. |
106. “Người đắm say đàn bà, đắm
say rượu chè, đắm say cờ bạc, tiêu phí mọi thứ thu nhập, việc ấy
là tiền đề của hạng người thoái hóa.”
|
Thế Tôn:
106. Người đắm say nữ nhân,
Đắm say rượu, cờ bạc,
Hoang phí mọi lợi đắc,
Chính cửa vào bại vong. |
107. Iti hetaṃ vijānāma aṭṭhamo
so parābhavo,
navamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ. |
107. “Chúng tôi nhận biết điều
này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng
thứ tám. Xin đức Thế Tôn hăy nói về tiền đề thứ chín của hạng
người thoái hóa là ǵ?”
|
Thiên nhân:
107. Như vậy, chúng con rơ,
Thứ tám về bại vong.
Thứ chín, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong? |
108. Sehi dārehasantuṭṭho
vesiyāsu padissati,
dissati paradāresu taṃ parābhavato mukhaṃ. |
“Không vui
thích với những người vợ của ḿnh, xuất hiện nơi những gái điếm,
được thấy ở những người vợ kẻ khác, việc ấy là tiền đề của hạng
người thoái hóa.” |
Thế Tôn:
108. Không vừa đủ vợ ḿnh,
Được thấy giữa dâm nữ,
Được thấy với vợ người,
Chính cửa vào bại vong. |
109. Iti hetaṃ vijānāma navamo so
parābhavo,
dasamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ. |
109. “Chúng tôi nhận biết điều
này y như vậy (theo lời Ngài dạy), người thoái hóa ấy là hạng
thứ chín. Xin đức Thế Tôn hăy nói về tiền đề thứ mười của hạng
người thoái hóa là ǵ?”
|
Thiên nhân:
109. Như vậy, chúng con rơ,
Thứ chín về bại vong.
Thứ mười, mong Ngài nói,
Cửa vào của bại vong? |
110. Atītayobbano poso āneti
timbarutthaniṃ,
tassā issā na supati taṃ parābhavato mukhaṃ. |
110. “Người nam đă qua thời tuổi
trẻ cưới về cô gái có ngực như trái cây
timbaru. Gă không ngủ được do
ghen tỵ với nàng, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa.”
|
Thế Tôn:
110. Người tuổi trẻ đă qua,
Cưới cô vợ vú tṛn,
Ghen nàng không ngủ được,
Chính cửa vào bại vong. |
111. Iti hetaṃ vijānāma dasamo so
parābhavo,
ekādasamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ. |
111. “Chúng tôi nhận biết điều
này y như vậy (theo lời Ngài dạy), kẻ thoái hóa ấy là hạng thứ
mười. Xin đức Thế Tôn hăy nói về tiền đề thứ mười một của hạng
người thoái hóa là ǵ?”
|
Thiên nhân:
111. Như vậy, chúng con rơ,
Thứ mười về bại vong.
Thứ mười một, xin nói,
Cửa vào của bại vong? |
112. Itthisoṇḍiṃ vikiraṇiṃ
purisaṃ vāpi tādisaṃ,
issariyasmiṃ ṭhāpeti taṃ parābhavato mukhaṃ. |
112. “Kẻ
thiết lập nữ nhân tham đắm, hoang phí, hoặc ngay cả nam nhân có
cùng cá tánh vào vị thế uy quyền, việc ấy là tiền đề của hạng
người thoái hóa.” |
Thế Tôn:
112. Đàn bà, hay đàn ông,
Rượu chè, tiêu hoang phí,
Được địa vị quyền thế,
Chính cửa vào bại vong. |
113. Iti hetaṃ vijānāma ekādasamo
so parābhavo,
dvādasamaṃ bhagavā brūhi kiṃ parābhavato mukhaṃ. |
113. “Chúng tôi nhận biết điều
này y như vậy (theo lời Ngài dạy), kẻ thoái hóa ấy là hạng thứ
mười một. Xin đức Thế Tôn hăy nói về tiền đề thứ mười hai của
hạng người thoái hóa là ǵ?”
|
Thiên nhân:
113. Như vậy, chúng con biết,
Thứ mười một bại vong.
Thứ mười hai, xin nói,
Cửa vào của bại vong? |
114. Appabhogo mahātaṇho khattiye
jāyate kule,
sodha rajjaṃ patthayati taṃ parābhavato mukhaṃ.
|
114. “Sanh ra ở gia tộc
Sát-đế-lỵ, có ít của cải, có tham vọng lớn, kẻ ấy ước muốn quyền
cai trị ở nơi này, việc ấy là tiền đề của hạng người thoái hóa. |
Thế Tôn:
114. Tài sản ít, ái lớn,
Sanh gia đ́nh hoàng tộc,
Ở đây muốn trị v́,
Chính cửa vào bại vong. |
115. Ete parābhave loke paṇḍito
samavekkhiya,
ariyo dassanasampanno sa lokaṃ bhajate sivanti.
|
115. Bậc sáng trí, sau khi xem
xét kỹ lưỡng các hạng người thoái hóa này ở thế gian, bậc thánh
thiện ấy, đầy đủ nhận thức, thân cận với thế giới hạnh phúc (cơi
trời).”
|
115. Bại vong này ở đời,
Bậc trí khéo quán sát,
Đầy đủ với chánh kiến,
Sống hạnh phúc ở đời.
|
Parābhavasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Thoái Hóa.
|
|
|
|
|
7. VASALASUTTAṂ
|
7. KINH NGƯỜI HẠ
TIỆN
|
7. KINH KẺ BẦN
TIỆN
|
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ
bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme,
atha kho bhagavā pubbanhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaraṃ ādāya
sāvatthiyaṃ piṇḍāya pāvisi. Tena kho pana samayena
aggikabhāradvājassa brāhmaṇassa nivesane aggi pajjalito hoti
āhuti paggahitā. Atha kho bhagavā sāvatthiyaṃ sapadānaṃ piṇḍāya
caramāno yena aggikabhāradvājassa brāhmaṇassa nivesanaṃ
tenupasaṅkami. Addasā kho aggikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ
dūrato’va āgacchantaṃ, disvāna bhagavantaṃ etadavoca:
|
Tôi đă nghe như vầy: Một thời đức
Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông
Anāthapiṇḍika. Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đă quấn y (nội)
rồi cầm b́nh bát và y đi vào thành Sāvatthi để khất thực. Vào
lúc bấy giờ, ở chỗ ngụ của Bà-la-môn Aggikabhāradvāja lửa đă
được đốt lên, vật cúng tế đă được đưa lên. Khi ấy, đức Thế Tôn
trong khi đi khất thực tuần tự theo từng nhà ở thành Sāvatthi đă
đi đến gần chỗ ngụ của Bà-la-môn Aggika-bhāradvāja. Bà-la-môn
Aggikabhāradvāja đă nh́n thấy đức Thế Tôn từ đằng xa đang đi
đến, sau khi thấy đă nói đức Thế Tôn điều này:
|
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvathi,
tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Thế
Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để
khất thực. Lúc bấy giờ, tại trú xứ của Bà-la-môn
Aggikabhàradvàja, lửa tế lễ được đốt cháy, đồ cúng dường
được dâng cao. Rồi Thế Tôn, trong khi thứ lớp khất thực ở
Sàvatthi, đi đến trú xứ của Bà-la-môn Aggibhàradvàja.
Bà-la-môn Aggibhàradvàja thấy Thế Tôn từ xa đi đến, thấy
vậy bèn nói với Thế Tôn:
|
Tatreva muṇḍaka tatreva samaṇaka
tatreva vasalaka tiṭṭhāhīti. |
“Này gă trọc đầu, ngay tại chỗ
đó. Này gă Sa-môn, ngay tại chỗ đó. Này người hạ tiện, hăy đứng
ngay tại chỗ đó.”
|
- Ở đây kẻ trọc đầu, ở đây kẻ
Sa-môn ti tiện, ở đây kẻ bần tiện, hăy đứng lại. |
Evaṃ vutte bhagavā
aggikabhāradvājaṃ brāhmaṇaṃ etadavoca: Jānāsi pana tvaṃ brāhmaṇa
vasalaṃ vā vasalakaraṇe vā dhammeti.
|
Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn
đă nói với Bà-la-môn Aggika-bhāradvāja điều này: “Này Bà-la-môn,
phải chăng ngươi biết về người hạ tiện hoặc các pháp tạo thành
người hạ tiện?”
|
Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với
Bà-la-môn Aggibhàradvàja:
- Này Bà-la-môn, Người có biết
người bần tiện hay những pháp tạo ra kẻ bần tiện không? |
Na khvāhaṃ bho gotama jānāmi
vasalaṃ vā vasalakaraṇe vā dhamme. Sādhu me bhavaṃ gotamo tathā
dhammaṃ desetu yathāhaṃ jāneyyaṃ vasalaṃ vā vasalakaraṇe vā
dhammeti. |
“Thưa Ngài
Gotama, tôi quả không biết về người hạ tiện hoặc các pháp tạo
thành người hạ tiện. Thật tốt lành thay, xin Ngài Gotama hăy
thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi, theo đó tôi có thể biết về người
hạ tiện hoặc các pháp tạo thành người hạ tiện.”
|
- Này Tôn giả Gotama, tôi
không biết kẻ bần tiện hay những pháp tạo ra kẻ bần tiện. Lành
thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp như thế nào cho tôi,
để tôi được biết về kẻ bần tiện hay các pháp tạo thành kẻ bần
tiện. |
Tena hi brāhmaṇa suṇāhi sādhukaṃ
manasi karohi bhāsissāmīti. |
“Này Bà-la-môn, chính v́ điều ấy
ngươi hăy lắng nghe, ngươi hăy khéo chú ư, Ta sẽ giảng.”
|
- Vậy này Bà-la-môn, hăy nghe và
khéo tác ư, Ta sẽ nói.
|
Evaṃ bhoti kho aggikabhāradvājo
brāhmaṇo bhagavato paccassosī, bhagavā etadavoca: |
“Thưa Ngài, xin vâng,” Bà-la-môn
Aggikabhāradvāja đă đáp lại đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đă nói điều
này:
|
- Thưa vâng, Tôn giả!
Bà-la-môn Aggibhàradvàja
vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: |
116. Kodhano upanāhī ca
pāpamakkhī ca yo naro,
vipannadiṭṭhi māyāvī taṃ jaññā vasalo iti. |
116. Kẻ nào giận dữ, có sự thù
hằn, ác độc và có sự gièm pha, có kiến thức bị hư hỏng, có sự
xảo trá, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’ |
116. Người phẫn nộ, hiềm hận,
Ác nhân, gièm pha người,
Ác tà kiến, man trá,
Được biết là bần tiện. |
117. Ekajaṃ va dvijaṃ vāpi yodha
pāṇāni hiṃsati,
yassa pāṇe dayā natthi taṃ jaññā vasalo iti. |
117. Ở đây, kẻ nào hăm hại các
sanh mạng, đơn sanh hoặc lưỡng sanh, kẻ nào không có ḷng trắc
ẩn đối với sanh mạng, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’
|
117. Ai ở đây hại vật,
Một sanh, hoặc hai sanh,
Không thương xót hữu t́nh,
Được biết là bần tiện. |
118. Yo hanti parirundhati gāmāni
nigamāni ca,
niggāhako samaññāto taṃ jaññā vasalo iti.
|
118. Kẻ nào hủy diệt, vây hăm các
làng mạc và các thị trấn, được biết tiếng là kẻ áp bức, có thể
biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’ |
118. Ai làm hại vây hăm,
Các làng, các thị trấn,
Kẻ cướp đoạt có tiếng,
Được biết là bần tiện. |
119. Gāme vā yadi vā raññe yaṃ
paresaṃ mamāyitaṃ,
theyyā adinnaṃ ādiyati taṃ jaññā vasalo iti.
|
119. Nếu ở làng hay ở rừng, kẻ
lấy vật thuộc sở hữu của những người khác, vật không được cho
theo lối trộm cắp, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’ |
119. Tại làng hay tại rừng,
Vật sở hữu của người,
Lấy trộm của không cho,
Được biết là bần tiện. |
120. Yo have iṇamādāya cujjamāno
palāyati,
na hi te iṇamatthīti taṃ jaññā vasalo iti. |
120. Kẻ nào, thật sự sau khi vay
nợ, trong khi bị quở trách liền trốn chạy (bảo rằng) ‘Tôi không
có nợ nần ǵ với ngươi,’ có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’
|
120. Ai vay nợ của người,
Bị đ̣i liền trốn tránh,
Ta đâu mắc nợ ngươi,
Được biết là bần tiện. |
121. Yo ve kiñcikkhakamyatā
panthasmiṃ vajataṃ janaṃ,
hantvā kiñcikkhamādeti taṃ jaññā vasalo iti. |
121. Kẻ nào quả thật v́ ḷng ham
muốn đồ lặt vặt, đă giết hại người đang đi trên đường rồi đoạt
lấy đồ lặt vặt, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’ |
121. Ai v́ ham vật mọn,
Kẻ đang đi trên đường,
Giết hại cướp vật mọn,
Được biết là bần tiện. |
122. Yo attahetu parahetu
dhanahetu ca yo naro,
sakkhīpuṭṭho musā brūti taṃ jaññā vasalo iti. |
122. Kẻ nào v́ nguyên nhân bản
thân, v́ nguyên nhân người khác, v́ nguyên nhân tài sản, và kẻ
nào khi được hỏi trực diện mà nói lời dối trá, có thể biết kẻ ấy
là ‘người hạ tiện.’ |
122. Ai v́ ḿnh, v́ người,
Hay v́ nhân tài sản,
Làm nhân họ nói láo,
Được biết là bần tiện. |
123. Yo ñātinaṃ sakhānaṃ vā
dāresu patidissati,
sahasā sampiyena vā taṃ jaññā vasalo iti. |
123. Kẻ nào
bị bắt gặp ở nơi những người vợ của thân quyến hoặc của bạn bè,
bằng vũ lực hoặc do thương yêu nhau, có thể biết kẻ ấy là ‘người
hạ tiện.’ |
123. Ai được thấy giữa vợ
Của bà con, bạn thân,
Ép buộc hay ưng thuận,
Được biết là bần tiện. |
124. Yo mātaraṃ vā pitaraṃ vā
jiṇṇakaṃ gatayobbanaṃ,
pahū santo na bharati taṃ jaññā vasalo iti. |
124. Kẻ nào trong khi có khả năng
mà không phụng dưỡng mẹ hoặc cha già nua, đă qua thời tuổi trẻ,
có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’
|
124. Ai với mẹ hay cha,
Già yếu, tuổi trẻ qua,
Tuy giàu không giúp đỡ,
Được biết là bần tiện. |
125. Yo mātaraṃ vā pitaraṃ vā
bhātaraṃ bhaginiṃ sasuṃ,
hanti roseti vācāya taṃ jaññā vasalo iti. |
125. Kẻ nào hành hạ, chọc giận
bằng lời nói đến mẹ hoặc cha, hoặc anh em trai, chị em gái, và
mẹ vợ, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’ |
125. Ai với mẹ hay cha,
Với anh chị, nhạc mẫu,
Làm hại, dùng lời mắng,
Được biết là bần tiện. |
126. Yo atthaṃ pucchito santo
anatthamanusāsati,
paṭicchannena manteti taṃ jaññā vasalo iti.
|
126. Kẻ nào trong khi được hỏi về
điều lợi ích lại chỉ dạy điều không lợi ích, và chỉ bảo theo lối
giấu diếm, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’
|
126. Ai được hỏi mục đích,
Lại khuyên lời trái đích,
Khuyên bảo nên che đậy,
Được biết là bần tiện. |
127. Yo katvā pāpakaṃ kammaṃ mā
maṃ jaññāti icchati,
yo paṭicchannakammanto taṃ jaññā vasalo iti. |
127. Kẻ nào sau khi làm việc ác
lại ước muốn rằng: ‘Chớ ai biết ta (làm),’ kẻ có hành động được
giấu diếm, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’
|
127. Ai làm các nghiệp ác,
Muốn không biết ḿnh làm,
Ai làm hạnh che đậy,
Được biết là bần tiện. |
128. Yo ve parakulaṃ gantvā
bhutvāna sucibhojanaṃ,
āgataṃ na paṭipūjeti taṃ jaññā vasalo iti. |
128. Kẻ nào quả thật đă đi đến
nhà người khác và đă thọ dụng vật thực tinh khiết, (nhưng) không
khoản đăi lại khi người ấy đi đến (nhà ḿnh), có thể biết kẻ ấy
là ‘người hạ tiện.’ |
128. Ai đến nhà người khác,
Ăn món ăn ngon lành,
Lại không đáp lễ lại,
Được biết là bần tiện.
|
129. Yo brāhmaṇaṃ vā samaṇaṃ vā
aññaṃ vāpi vaṇibbakaṃ,
musāvādena vañceti taṃ jaññā vasalo iti. |
129. Kẻ nào
lừa gạt vị Bà-la-môn hoặc vị Sa-môn, hoặc luôn cả người nghèo
khổ bằng lời dối trá, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’
|
129. Ai nói dối lường gạt,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Hay các người nghèo khác,
Được biết là bần tiện.
|
130. Yo brāhmaṇaṃ vā samaṇaṃ vā
bhattakāle upaṭṭhite,
roseti vācā na ca deti taṃ jaññā vasalo iti.
|
130. Kẻ nào chọc giận bằng lời
nói và không bố thí đến vị Bà-la-môn hoặc vị Sa-môn vào thời
điểm của bữa ăn đến gần, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’
|
130. Dùng lời mắng, không cho,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Khi thời ăn uống đến,
Được biết là bần tiện.
|
131. Asataṃ yodha pabrūti mohena
paḷiguṇṭhito,
kiñcikkhaṃ nijigiṃsāno taṃ jaññā vasalo iti. |
131. Ở đây, kẻ nào nói về diều
không có thật, bị si mê bao trùm, ham muốn đạt được đồ vật nhỏ
nhặt, có thể biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’ |
131. Ở đời nói không thật,
Bị si mê che đậy,
Tham cầu chút lợi nhỏ,
Được biết là bần tiện.
|
132. Yo cattānaṃ samukkaṃse
parañcamavajānati,
nihīno sena mānena taṃ jaññā vasalo iti. |
132. Kẻ nào đề cao bản thân và
khi dễ người khác, là hạ liệt do sự ngă mạn của ḿnh, có thể
biết kẻ ấy là ‘người hạ tiện.’
|
132. Ai đề cao tự ngă,
Khi miệt giá trị người,
Hạ ḿnh với tự cao,
Được biết là bần tiện.
|
133. Rosako kadariyo ca pāpiccho
maccharī saṭho,
ahiriko anottāpī taṃ jaññā vasalo iti. |
133. Kẻ chọc giận (người khác) và
keo kiệt, có ước muốn xấu xa, bỏn xẻn, xảo trá, không hổ thẹn
(tội lỗi), không ghê sợ (tội lỗi), có thể biết kẻ ấy là ‘người
hạ tiện.’
|
133. Ai gây hấn, hà tiện,
Ác dục và xan tham,
Xảo quyệt, không tàm quí,
Được biết là bần tiện.
|
134. Yo buddhaṃ paribhāsati atha
vā tassa sāvakaṃ,
paribbājaṃ gahaṭṭhaṃ vā taṃ jaññā vasalo iti. |
134. Kẻ nào chê bai đức Phật, hay
đệ tử của Ngài, vị xuất gia hoặc người tại gia, có thể biết kẻ
ấy là ‘người hạ tiện.’
|
134. Ai phỉ báng đức Phật,
Hay đệ tử của Ngài,
Hàng xuất gia, tại gia,
Được biết là bần tiện.
|
135. Yo ve anarahā santo arahaṃ
paṭijānati,
coro sabrahmake loke esa kho vasalādhamo,
ete kho vasalā vutthā mayā vo ye pakāsitā. |
135. Kẻ nào thật sự chưa trở
thành bậc A-la-hán mà tự nhận bậc A-la-hán, là kẻ cướp ở thế
gian tính luôn cơi Phạm Thiên, kẻ ấy quả là tệ nhất trong số
người hạ tiện. Những kẻ này quả đă được gọi là những người hạ
tiện, chúng đă được Ta giảng giải cho ngươi.
|
135. Ai không phải La-hán,
Tự nhận là La-hán,
Kẻ trộm Phạm thiên giới,
Chính tối hạ bần tiện.
Những hàng bần tiện này,
Ta nói rơ cho Ông.
|
136. Na jaccā vasalo hoti na
jaccā hoti brāhmaṇo,
kammanā vasalo hoti kammanā hoti brāhmaṇo.
|
136. Không phải do ḍng dơi mà trở thành hạ tiện, không phải do
ḍng dơi mà trở thành Bà-la-môn, do hành động mà trở thành hạ
tiện, do hành động mà trở thành Bà-la-môn. |
136. Bần tiện không v́ sanh,
Phạm chí không v́ sanh,
Do hành, thành bần tiện,
Do hành, thành Phạm chí.
|
137. Tadamināpi jānātha yathā
medaṃ nidassanaṃ,
caṇḍālaputto sopāko mātaṅgo iti vissuto.
|
137. Ngươi hăy biết việc ấy với
điều này nữa, giống như ví dụ này của Ta: Có gă nấu thịt chó
để ăn,
con trai của một kẻ thuộc giai cấp nô lệ, được biết tiếng là
Mātaṅga.
|
137. Do đây, nên hiểu biết,
Như Ta tŕnh bày rơ,
Màtanga được danh,
Bần tiện, ăn thịt chó.
|
138. So yasaṃ paramaṃ patto
mātaṅgo yaṃ sudullabhaṃ,
āgañchuṃ tassupaṭṭhānaṃ khattiyā brāhmaṇā bahū. |
138. Vị Mātaṅga ấy đă đạt đến
danh vọng tối cao, là điều khó đạt được. Nhiều Sát- đế- lỵ và
Bà-la-môn đă đi đến phục vụ cho người ấy.
|
138. Danh tối thượng khó đạt,
Màtanga đạt được,
Nhiều Sát-ly, Phạm chí,
Đến hầu hạ vị ấy. |
139. So devayānamāruyha virajaṃ
so mahāpathaṃ,
kāmarāgaṃ virājetvā brahmalokūpago ahū. |
139. Vị ấy đă leo lên Thiên xa,
con đường lớn không bụi bặm, đă ĺa khỏi sự luyến ái ở các dục,
và đă đi đến thế giới Phạm Thiên. |
139. Vị ấy leo thiên xa,
Trên đường lớn không bụi,
Từ bỏ mọi dục tham,
Đạt được Phạm thiên giới,
Thọ sanh không ngăn chận,
Vị ấy sanh Phạm thiên. |
140. Na naṃ jāti nivāresi
brahmalokūpapattiyā,
ajjhāyakakule jātā brāhmaṇā mattabandhuno. |
140. Ḍng dơi sanh ra đă không
cản ngăn được vị ấy trong việc sanh ra ở thế giới Phạm Thiên. Đă
được sanh ra ở gia tộc các vị thầy tŕ tụng (Vệ Đà), những người
Bà-la-môn là thân quyến của chú thuật. |
140. Có những Bà-la-môn,
Sanh gia đ́nh Đạo sư,
Hay sanh những gia đ́nh
Quyến thuộc với bùa chú,
Họ vẫn thường được thấy,
Làm các điều ác nghiệp. |
141. Te va pāpesu kammesu
abhiṇhamupadissare,
diṭṭheva dhamme gārayhā samparāye ca duggatiṃ,
na ne jāti nivāreti duggaccā garahāya vā.
|
141. Chính họ thường xuyên được
nh́n thấy ở các hành động ác xấu. Họ bị chê trách ngay trong
thời hiện tại và (đi đến) khổ cảnh trong thời vị lai. Ḍng dơi
sanh ra không ngăn chặn họ thoát khỏi khổ cảnh hoặc khỏi sự chê
trách. |
141. Hiện tại bị khinh miệt,
Đời sau sanh ác thú,
Thọ sanh không ngăn chận,
Sanh ác thú đáng khinh.
|
142. Na jaccā vasalo hoti na
jaccā hoti brāhmaṇo,
kammanā vasalo hoti kammanā hoti brāhmaṇo. |
142. Không phải do ḍng dơi mà
trở thành hạ tiện, không phải do ḍng dơi mà trở thành
Bà-la-môn, do hành động mà trở thành hạ tiện, do hành động mà
trở thành Bà-la-môn. |
142. Bần tiện không v́ sanh,
Phạm chí không v́ sanh,
Do hành thành bần tiện,
Do hành thành Phạm chí.
|
Evaṃ vutte aggikabhāradvājo
brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca: |
Khi được nói
như vậy, Bà-la-môn Aggikabhāradvāja đă nói với đức Thế Tôn điều
này:
|
Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Bhàradvàja bạch Thế Tôn:
|
Abhikkantaṃ bho gotama
abhikkantaṃ bho gotama. Seyyathāpi bho gotama nikkujjitaṃ vā
ukkujjeyya paṭicchannaṃ vā vivareyya mūḷhassa vā maggaṃ
ācikkheyya andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni
dakkhintīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo
pakāsito. Esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca
bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge
pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti. |
“Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt
vời! Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! Thưa Ngài Gotama, cũng
giống như người có thể lật ngửa vật đă được úp lại, hoặc mở ra
vật đă bị che kín, hoặc chỉ đường cho kẻ lạc lối, hoặc đem lại
cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ
nh́n thấy được các h́nh dáng;’ tương tự như thế Pháp đă được
Ngài Gotama giảng rơ bằng nhiều phương tiện. Con đây xin đi đến
nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Xin
Ngài Gotama hăy ghi nhận con là người cư sĩ đă đi đến nương nhờ
kể từ hôm nay cho đến trọn đời.” |
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama!
Thưa Tôn giả Gotama, ví như người dựng đứng lại những ǵ
bị quăng ngă xuống, mở toang ra những ǵ bị che kín, chỉ đường
cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những
ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Pháp được Tôn giả Gotama
dùng nhiều phương tiện tŕnh bày. Con nay qui y Tôn giả
Gotama, qui y Pháp và qui y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả
Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung,
con trọn đời qui ngưỡng.
|
Vasalasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh
Người Hạ
Tiện. |
|
<Trang
Trước> |
<Đầu Trang><Mục
Lục> |
<Trang Kế> |