|
III. MAHĀVAGGO - ĐẠI PHẨM (tiếp theo)
|
|
Buddha
Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka
|
Lời tiếng Việt:
(văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda
|
Lời tiếng Việt:
(văn vần) HT. Thích Minh Châu
|
|
6. SABHIYASUTTAṂ
|
6. KINH
SABHIYA
|
6. KINH
SABHIYA
|
|
Evaṃ me sutaṃ Ekaṃ samayaṃ
bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho
pana samayena sabhiyassa paribbājakassa purāṇasālohitāya
devatāya pañhā uddiṭṭhā honti: Yo te sabhiya samano vā brāhmaṇo
vā ime pañhe puṭṭho vyākaroti, tassa santike brahmacariyaṃ
careyyāsīti. |
Tôi đă nghe như vầy: Một thời đức
Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, ở Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các
con sóc. Vào lúc bấy giờ, có vị Thiên nhân, trước đây là thân
nhân cùng huyết thống của du sĩ ngoại đạo Sabhiya đă nêu lên
những câu hỏi rằng: “Này Sabhiya, vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào (có
thể) trả lời khi được ngươi hỏi những câu hỏi này, thỉ ngươi nên
thực hành Phạm hạnh ở nơi vị ấy.” |
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở
Ràjagaha, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy
giờ, du sĩ Sabhiya, một du sĩ ngoại đạo, được một Thiên
nhân trước kia là bà con huyết thống, nói lên những câu hỏi sau
đây: "Này Sabhiya, vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, khi được
hỏi những câu hỏi này, trả lời cho Ông, thời Ông hăy sống Phạm
hạnh với người ấy".
|
|
Atha kho sabhiyo paribbajāko
tassā devatāya santike te pañhe uggahetvā ye te samaṇabrāhmaṇā
saṅghino gaṇino gaṇācariyā ñātā yasassino titthakarā
sādhusammatā bahujanassa, seyyathīdaṃ: Pūraṇo kassapo makkhali
gosālo ajito kesakambalo pakudho kaccāyano sañjayo
bellaṭṭhiputto nigaṇṭho nātaputto. Te upasaṅkamitvā te pañhe
pucchati, te sabhiyena paribbājakena pañhe puṭṭhā na sampāyanti,
asampāyantā kopañca dosañca appaccayañca pātukaronti, api ca
sabhiyaññeva paribbājakaṃ paṭipucchanti. |
Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
đă học những câu hỏi ấy ở nơi vị Thiên nhân ấy, rồi đă đi đến
gặp những Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào là những vị có hội chúng, có
đồ chúng, là giáo thọ sư của tập thể, được biết tiếng, có danh
vọng, là các giáo chủ, được nhiều người đánh giá cao, như là
Pūraṇa Kassapa, Makkhalī Gosāla, Ajita Kesakambala, Pakudha
Kaccāyana, Sañjaya Bellaṭṭhiputta, Nigaṇṭha Nātaputta, sau khi
đến đă hỏi các vị ấy những câu hỏi. Các vị ấy, khi được du sĩ
ngoại đạo Sabhiya hỏi những câu hỏi, th́ không thể trả lời.
Trong khi không thể trả lời, các vị ấy trở nên giận dữ, sân hận,
tỏ vẻ sự bực bội, và thậm chí c̣n hỏi ngược lại chính du sĩ
ngoại đạo Sabhiya nữa.
|
Rồi du sĩ Sabhiya, sau khi
học những câu hỏi ấy từ vị Thiên nhân ấy, phàm có những Sa-môn,
Bà-la-môn nào có hội chúng, có đồ chúng, bậc đạo sư đồ chúng
được biết đến, có danh vọng, các ngoại đạo sư, được quần chúng
ái mộ, như Pùrana Kacsapa, Makkhali Gosàla, Ajita Kesa
Kambali, Pakudha Kacàyana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha
Nàtaputta, Sabhiya đi đến các vị ấy và hỏi những câu hỏi ấy.
Các vị ấy, được du sĩ Sabhiya hỏi những câu hỏi ấy, không
có thể giải đáp. Do không có thể giải đáp, họ biểu lộ phẩn nộ,
sân hận, bất măn. Họ vặn hỏi trở lại du sĩ Sabhiya.
|
|
Atha kho sabhiyassa
paribbājakassa etadahosi: Ye kho te bhonto samaṇabrāhmaṇā
saṅghino gaṇino gaṇācariyā ñātā yasassino titthakarā
sādhusammatā bahujanassa, seyyathīdaṃ: Pūraṇo kassapo —pe—
nigaṇṭho nātaputto, te mayā pañhe puṭṭhā na sampāyanti,
asampāyantā kopañca dosañca appaccayañca pātukaronti, api ca
mamaññevettha paṭipucchanti, yannunāhaṃ hīnāyāvattitvā kāme
paribhuñjeyyanti. |
Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
đă khởi ư điều này: “Những Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào là những vị
có hội chúng, có đồ chúng, là giáo thọ sư của tập thể, được biết
tiếng, có danh vọng, là các giáo chủ, được nhiều người đánh giá
cao, như là Pūraṇa Kassapa, —như trên— Nigaṇṭha Nātaputta, các
vị ấy khi được ta hỏi những câu hỏi, th́ không thể trả lời.
Trong khi không thể trả lời, các vị ấy trở nên giận dữ, sân hận,
tỏ vẻ sự bực bội, thậm chí ở đây c̣n hỏi ngược lại chính ta nữa;
có lẽ ta nên quay trở lại đời sống thấp kém và thọ hưởng các dục?”
|
Rồi
du sĩ Sabhiya suy nghĩ như sau: "Các vị Tôn giả, Sa-môn,
Bà-la-môn ấy có hội chúng, có đồ chúng, bậc đạo sư, đồ chúng
được biết đến, có danh vọng, có ngoại đạo sư, được quần chúng ái
mộ, như Pùrana Kassapa... Nigantha Nàtaputta. Các vị ấy
được ta hỏi những câu hỏi không có thể giải đáp. Do không có thể
giải đáp, họ biểu lộ phẩn nộ, sân hận, bất măn họ vặn hỏi trở
lại ta. Vậy ta haỹ trở lui đời sống hạ liệt, thọ hưởng các dục".
|
|
Atha kho sabhiyassa
paribbājakassa etadahosi: Ayampi samaṇo gotamo saṅghī ceva gaṇī
ca gaṇācariyo ca ñāto yasassī titthakaro sādhusammato
bahujanassa, yannūnāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ upasaṅkamitvā ime pañhe
puccheyyanti.
|
Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
đă khởi ư điều này: “Sa-môn Gotama này cũng là vị có hội chúng,
có đồ chúng, là giáo thọ sư của tập thể, được biết tiếng, có
danh vọng, là giáo chủ, được nhiều người đánh giá cao, có lẽ ta
nên đi đến gặp Sa-môn Gotama và hỏi những câu hỏi này?” |
Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ
như sau: "Có Sa-môn Gotama này, có hội chúng, có đồ chúng,
bậc lănh đạo hội chúng, được biết đến, có danh vọng, sáng lập ra
giáo phái, được quần chúng ái mộ, vậy ta hăy đi đến Sa-môn
Gotama và hỏi những câu hỏi này. |
|
Atha kho sabhiyassa
paribbajākassa etadahosi: Yepi kho te bhonto samaṇabrāhmaṇā
jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayo anuppattā therā rattaññū
cirapabbajitā saṅghino gaṇino gaṇācariyā ñātā yasassino
titthakarā sādhusammatā bahujanassa, seyyathīdaṃ: Pūraṇo kassapo
—pe— nigaṇṭho nātaputto. Tepi mayā pañhe puṭṭhā na sampāyanti,
asampāyantā kopañca dosañca appaccayañca pātukaronti, api ca
maññevettha paṭipucchanti. Kiṃ pana me samaṇo gotamo ime pañhe
puṭṭho vyākarissati, samaṇo hi gotamo daharo ceva jātiyā navo ca
pabbajjāyāti. |
Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
đă khởi ư điều này: “Thậm chí các ngài Sa-môn và Bà-la-môn già
cả, lăo niên, lớn tuổi, đă sống thọ, đă đạt đến đoạn cuối cuộc
đời, là các vị trưởng lăo, thâm niên, xuất gia đă lâu, có hội
chúng, có đồ chúng, là giáo thọ sư của tập thể, được biết tiếng,
có danh vọng, là các giáo chủ, được nhiều người đánh giá cao,
như là Pūraṇa Kassapa, —như trên— Nigaṇṭha Nātaputta. Ngay cả
các ngài ấy, khi được ta hỏi những câu hỏi, c̣n không thể trả
lời. Trong khi không thể trả lời, các ngài ấy trở nên giận dữ,
sân hận, tỏ vẻ sự bực bội, thậm chí ở đây c̣n hỏi ngược lại
chính ta nữa. Vậy th́ Sa-môn Gotama, khi được ta hỏi những câu
hỏi này, sẽ có trả lời chăng? Bởi v́ Sa-môn Gotama c̣n trẻ về
tuổi tác và c̣n mới mẻ trong việc xuất gia.”
|
Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya
suy nghĩ như sau: "Các vị Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy đă già,
đă lớn tuổi, đă đến tuổi trưởng thượng, đă đi quá nửa đời người,
đă đạt đến mức cuối tuổi thọ, là những bậc trưởng lăo, được
nhiều người biết đến, xuất gia đă lâu ngày, có hội chúng, có đồ
chúng, bậc lănh đạo hội chúng, được biết đến, có danh vọng, các
ngoại đạo sư được quần chúng ái mộ, như Pùrana Kassapa...
Nigantha Nàtaputta. Các vị ấy được ta hỏi những câu hỏi,
không có thể giải đáp. Do không có thể giải đáp, họ biểu lộ phẩn
nộ, sân hận, bất măn. Và họ vặn hỏi trở lại ta. Không biết Sa-môn
Gotama có thể trả lời những câu hỏi này của ta. Sa-môn
Gotama c̣n trẻ và mới được xuất gia". |
|
Atha kho sabhiyassa
paribbājakassa etadahosi: Samaṇo kho daharoti [na uññātabbo] na
paribhotabbo daharopi cesa samaṇo gotamo mahiddhiko hoti
mahānubhāvo, yannūnāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ upasaṅkamitvā ime pañhe
puccheyyanti.
|
Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
đă khởi ư điều này: “Quả [không nên khi dễ,[ không nên xem
thường vị Sa-môn c̣n trẻ; mặc dầu c̣n trẻ, nhưng Sa-môn Gotama
ấy có đại thần lực, có đại oai lực; có lẽ ta nên đi đến gặp Sa-môn
Gotama và hỏi những câu hỏi này?”
|
Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya
suy nghĩ như sau: "Không nên gạt bỏ, không nên khinh thường một
Sa-môn v́ vị ấy c̣n trẻ tuổi; nếu vị Sa-môn c̣n trẻ, nhưng vị ấy
có đại thần, đại uy lực. Vậy ta hăy đi đến Sa-môn Gotama
và hỏi những câu hỏi này". |
|
Atha kho sabhiyo paribbājako yena
rājagahaṃ tena cārikaṃ pakkāmi. Anupubbena cārikaṃ caramāno yena
rājagahaṃ veḷuvanaṃ kalandakanivāpo, yena bhagavā tenupasaṅkami,
upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi, sammodanīyaṃ kathaṃ
sārāṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho
sabhiyo paribbājako bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:
|
Sau đó, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
đă ra đi du hành về phía thành Rājagaha, trong khi tuần tự du
hành đă đi đến thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con
sóc, và đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă tỏ vẻ thân
thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xă giao thân thiện
rồi đă ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống ở một bên, du sĩ
ngoại đạo Sabhiya đă nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:
|
Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya
bộ hành ra đi đến Ràjagaha, tiếp tục bộ hành, đi đến
Vương Xá Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc, đi đến Thế Tôn,
sau khi đến nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên du sĩ Sabhiya nói
lên với Thế Tôn những bài kệ:
|
|
513. Kaṅkhī vecikicchī āgamaṃ (iti
sabhiyo)
pañhe pucchituṃ abhikaṅkhamāno,
tesantakaro bhavāhi pañhe me puṭṭho
anupubbaṃ anudhammaṃ vyākarohi me. |
513. (Sabhiya nói) “Có
sự phân vân, có sự hoài nghi, tôi đă đi đến, trong khi mong muốn
hỏi những câu hỏi, xin ngài hăy là người giải quyết dứt điểm
chúng. Được tôi hỏi những câu hỏi, xin ngài hăy tuần tự trả lời
tôi thuận theo pháp.” |
Sabhiya:
510. Sabhiya nói rằng:
Tôi đến, có nghi ngờ,
Hy vọng có thể hỏi
Những câu hỏi với Ngài.
Mong Ngài chấm dứt được,
Những câu hỏi cho tôi.
Những câu được tôi hỏi,
Hăy thứ lớp giải đáp.
|
|
514. Dūrato āgato si sabhiyā (ti
bhagavā)
pañhe pucchituṃ abhikaṅkhamāno,
tesantakaro bhavāmi puṭṭho
anupubbaṃ anudhammaṃ vyākaromi te.
|
514. (Đức Thế Tôn nói) “Này
Sabhiya, ngươi đă từ xa đi đến, trong khi mong muốn hỏi những
câu hỏi, Ta là người giải quyết dứt điểm chúng. Được hỏi, Ta (sẽ)
tuần tự trả lời ngươi thuận theo pháp. |
Thế Tôn:
511. Thế Tôn đáp du sĩ:
Ông từ xa đi đến,
Hy vọng có thể hỏi,
Những câu hỏi với Ta,
Ta sẽ chấm dứt được,
Những câu hỏi cho Ông
Những câu được Ông hỏi,
Ta thứ lớp giải đáp.
|
|
515. Puccha maṃ sabhiya pañhaṃ
yaṃ kiñci manasicchasi,
tassa tasseva pañhassa ahaṃ antaṃ karomi te ’ti. |
515.
Này Sabhiya ngươi hăy hỏi Ta bất cứ câu hỏi nào mà ngươi muốn ở
trong tâm, Ta (sẽ) giải quyết dứt điểm từng câu hỏi một cho
ngươi.” |
512. Du sĩ Sabhiya,
Hăy hỏi Ta câu hỏi,
Tuỳ theo ư Ông muốn,
Ông hỏi câu hỏi nào,
Ta sẽ chấm dứt được,
Câu hỏi ấy cho Ông. |
|
Atha kho sabhiyassa
paribbājakassa etadahosi: Acchariyaṃ vata bho abbhutaṃ vata bho
yaṃ vatāhaṃ aññesu samaṇabrāhmaṇesu okāsakammamattampi nālatthaṃ,
taṃ me idaṃ samaṇena gotamena okāsakammaṃ katanti attamano
pamodito udaggo pītisomanassajāto bhagavantaṃ pañhaṃ apucchi:
|
Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
đă khởi ư điều này: “Thật là kỳ diệu! Thật là phi thường! Quả
thật là việc mà ta đă không đạt được mảy may cơ hội ở các Sa-môn
và Bà-la-môn khác, cơ hội ấy đă được tạo ra cho ta bởi Sa-môn
Gotama.” Được hoan hỷ, vui mừng, phấn khởi, sanh tâm phỉ lạc, du
sĩ ngoại đạo Sabhiya đă hỏi đức Thế Tôn câu hỏi rằng:
|
Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ
như sau: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Ta không bao giờ
có được cơ hội, đối với các Sa-môn, Bà-la-môn khác. Nay cơ hội
này được Sa-môn Gotama tạo ra cho ta, hân hoan, hoan hỷ,
phấn chấn, hỷ lạc " Sabhiya hỏi Thế Tôn câu hỏi:
|
|
516. Kiṃ pattinamāhu bhikkhunaṃ (iti
sabhiyo)
sorataṃ kena kathañca dantamāhu,
buddhoti kathaṃ pavuccati
puṭṭho me bhagavā vyākarohi. |
516. (Sabhiya nói) “Đă
đạt được điều ǵ khiến người ta gọi là ‘tỳ khưu’? Do (thành tựu)
cái ǵ (gọi là) ‘khéo an tịnh’? Và như thế nào được gọi là ‘đă
được huấn luyện’? Như thế nào được gọi là ‘đức Phật’? Thưa đức
Thế Tôn, được tôi hỏi, xin ngài hăy trả lời.” |
Sabhiya:
513. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được những ǵ,
Được gọi là Tỷ-kheo?
Nhờ ǵ, gọi nhu ḥa?
Thế nào gọi chế ngự?
Và phải như thế nào,
Được gọi bậc Giác ngộ?
Được con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
|
|
517. Pajjena katena attanā (sabhiyāti
bhagavā)
parinibbānagato vitiṇṇakaṅkho,
vibhavañca bhavañca vippahāya
vusitavā khīṇapunabbhavo sa bhikkhu. |
517. (Đức Thế Tôn nói: “Này
Sabhiya,) vị đă tự ḿnh thực
hành theo đường lối, đă đi đến sự tịch diệt hoàn toàn (ô nhiễm),
đă vượt qua sự hoài nghi, đă ĺa bỏ (hai thái cực) phi hữu và
hữu, đă được hoàn măn, có sự tái sanh đă được cạn kiệt, vị ấy là
‘tỳ khưu.’ |
Thế Tôn:
514. Thế Tôn bèn đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai chính với con đường,
Do tự ḿnh tạo ra,
Đi đến sự tịch mịch,
Vượt qua các nghi hoặc,
Từ bỏ, đoạn tận hẳn
Cả hữu và phi hữu,
Phạm hạnh đă thành tựu,
Tái sanh đă đoạn tận,
Vị ấy được xứng danh,
Gọi là vị Tỷ-kheo.
|
|
518. Sabbattha upekkhako satīmā
na so hiṃsati kañci sabbaloke,
tiṇṇo samaṇo anāvilo
ussadā yassa na santi sorato so. |
518.
Vị hành xả trong mọi trường hợp, có niệm, vị ấy không hăm hại
bất cứ ai ở toàn thể thế gian, vị đă vượt qua, được tịnh lặng,
không bị vẩn đục, vị nào không có
các (thái
độ) kiêu ngạo, vị ấy là ‘khéo an
tịnh.’
|
515. Vị trú xả, chánh niệm,
Tại bất cứ chỗ nào,
Vị không làm hại ai,
Cùng khắp cả thế giới,
Vượt bộc lưu, tịnh ư,
Không có bị dao động,
Vị nào không đột khởi,
Vị ấy gọi nhu ḥa.
|
|
519. Yassindriyāni bhāvitāni
ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke,
nibbijjha imaṃ parañca lokaṃ
kālaṃ kaṅkhati bhāvito sa danto. |
519.
Vị nào có các giác quan đă được tu tập, ở nội phần và ở ngoại
phần, ở toàn thể thế gian, sau khi thấu triệt đời này và đời sau,
vị đă được tu tập chờ đợi thời điểm, vị ấy là ‘đă được huấn
luyện.’ |
516. Vị nào có các căn,
Được huấn luyện tu tập,
Cả nội và cả ngoại,
Trong tất cả thế giới,
Vị nào thông suốt được
Đời này và đời sau,
Đúng thời, nghi điều phục,
Vị ấy gọi chế ngự.
|
|
520. Kappāni viceyya kevalāni
saṃsāraṃ ubhayaṃ cutūpapātaṃ,
vigatarajamanaṅgaṇaṃ visuddhaṃ
pattaṃ jātikkhayaṃ tamāhu buddhanti. |
520.
Vị đă hiểu rơ toàn bộ các kiếp sống, về sự luân hồi ở cả hai
trường hợp chết và tái sanh, vị có ô nhiễm đă được xa ĺa, không
c̣n vết nhơ, hoàn toàn trong sạch, vị đă đạt đến sự diệt trừ tái
sanh, người ta gọi vị ấy là ‘đức Phật.’ |
517. Ai phân tích các kiếp,
Toàn diện và hoàn toàn,
Luân chuyển cả hai mặt,
Chết đi và sanh lại,
Bụi bặm được dứt sạch,
Không uế nhiễm, thanh tịnh,
Đạt được sanh đoạn diệt,
Vị ấy gọi Phật-đà.
|
|
Atha kho sabhiyo paribbājako
bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā attamano pamodito
udaggo pītisomanassajāto bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi:
|
Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
đă thích thú, đă tùy hỷ với lời giảng giải của đức Thế Tôn. Được
hoan hỷ, vui mừng, phấn khởi, sanh tâm phỉ lạc, du sĩ ngoại đạo
Sabhiya đă hỏi đức Thế Tôn thêm câu hỏi nữa rằng:
|
Rồi du sĩ Sabhiya, hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy, hoan hỷ, hân hoạn, phấn khởi, phát sanh
hỷ tâm, liền hỏi Thế Tôn thêm câu nữa.
|
|
521. Kiṃ pattinamāhu brāhmaṇaṃ (iti
sabhiyo)
samaṇaṃ kena kathañca nahātakoti,
nāgoti kathaṃ pavuccati
puṭṭho me bhagavā vyākarohi. |
521. (Sabhiya
nói) “Đă đạt được điều ǵ khiến người
ta gọi là ‘Bà-la-môn’? Do (thành tựu) cái ǵ (gọi là) ‘Sa-môn’?
Và như thế nào được gọi là ‘người gột rửa (tội)’? Như thế nào
được gọi là ‘bậc Long Tượng’?
Thưa đức Thế Tôn, được tôi hỏi, xin ngài hăy trả lời.”
|
Sabhiya:
518. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được những ǵ,
Được gọi là Bà-la-môn?
Nhờ ǵ, gọi Sa-môn?
Thế nào là tắm sạch?
Và phải như thế nào?
Được gọi là voi chúa?
Được con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
|
|
522. Bāhitvā sabbapāpāni (sabhiyāti
bhagavā)
vimalo sādhu samāhito ṭhitatto,
saṃsāramaticca kevalī so
asito tādi pavuccate brāhmā. |
522. (Đức Thế Tôn nói: “Này
Sabhiya,) sau khi loại trừ tất
cả các điều ác, là người không c̣n bợn nhơ, tốt lành, định tỉnh,
có bản thân vững chăi, vị ấy đă vượt qua luân hồi, có sự thành
tựu, không bị lệ thuộc, tự tại, được gọi là Bà-la-môn.” |
Thế Tôn:
519. Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai loại khỏi ra ngoài,
Tất cả các ác pháp,
Không uế, khéo định tĩnh,
Kiên tŕ, vững an trú,
Vượt qua được luân hồi,
Hoàn toàn về mọi mặt,
Không y chỉ vị ấy,
Được gọi Bà-la-môn.
|
|
523. Samitāvi pahāya puññapāpaṃ
virajo ñatvā imaṃ parañca lokaṃ,
jātimaraṇaṃ upātivatto
samaṇo tādi pavuccate tathattā. |
523.
Vị đă được yên lặng, sau khi từ bỏ thiện và ác, ĺa khỏi ô nhiễm,
sau khi biết được đời này và đời sau, đă vượt lên trên sanh và
tử, vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘Sa-môn.’ |
520. Được an tịnh, tịch tịnh,
Đoạn tận cả thiện ác,
Không cấu uế, rơ biết,
Đời này và đời sau,
Chế ngự và nhiếp phục,
Cả vấn đề sanh tử,
Vị đức tánh như vậy,
Được gọi là Sa-môn.
|
|
524. Ninhāya sabbapāpakāni
ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke,
devamanussesu kappiyesu
kappaṃ neti tamāhu nahātakoti. |
524.
Sau khi đă gột rửa sạch tất cả các điều ác, nội phần và ngoại
phần, ở toàn thể thế gian; giữa chư Thiên và nhân loại chịu sự
phân hạng, vị không đi đến sự phân hạng, người ta gọi vị ấy là
‘người gột rửa (tội).’ |
521. Ai gột sạch, tắm sạch
Tất cả các ác pháp,
Kể cả trong lẫn ngoài,
Khắp tất cả thế giới,
Giữa chư Thiên, loài Người,
Bị thời kiếp chi phối,
Không rơi vào thời kiếp,
Được gọi đă tắm sạch.
|
|
525. Āguṃ na karoti kiñci loke
sabbasaṃyoge visajja bandhanāni,
sabbattha na sajjatī vimutto
nāgo tādi pavuccate tathattāti. |
525.
Vị không làm bất cứ điều ác xấu nào ở thế gian, sau khi tháo gở
tất cả các sự ràng buộc (và) các sự trói buộc, không bám víu vào
bất cứ nơi đâu, đă được giải thoát, vị tự tại, có bản thể như
thế, được gọi là ‘bậc Long Tượng.’” |
522. Ai không làm điều ác,
Mọi điều ác ở đời,
Tất cả các kiết sử,
Không dính mắc, trói buộc,
Khắp tất cả mọi nơi,
Không dính, không trói buộc,
Vị đức tánh như vậy,
Được gọi là voi chúa.
|
|
Atha kho sabhiyo paribbājako —pe—
bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi:
|
Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
—như trên— đă hỏi đức Thế Tôn thêm câu hỏi nữa rằng: |
Rồi du sĩ Sabhiya lại hỏi
thêm câu nữa:
|
|
526. Kaṃ khettajinaṃ vadanti
buddhā (iti sabhiyo)
kusalaṃ kena kathañca paṇḍitoti,
muni nāma kathaṃ pavuccati
puṭṭho me bhagavā vyākarohi. |
526. (Sabhiya nói) “Người
nào chư Phật nói là ‘bậc chiến thắng đồng ruộng’? Do (thành tựu)
cái ǵ (gọi là) ‘bậc thiện xảo’? Và như thế nào được gọi là ‘bậc
sáng suốt? Như thế nào được gọi là ‘bậc hiền trí’? Thưa đức Thế
Tôn, được tôi hỏi, xin ngài hăy trả lời.” |
Sabhiya:
523. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Thế nào chư Phật gọi
Vị chiến thắng đất ruộng,
Do ǵ, gọi là thiện?
Thế nào gọi bậc trí,
Và phải như thế nào
Được gọi là ẩn sĩ?
Được con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
|
|
527. Khettāni viceyya kevalāni (sabhiyāti
bhagavā)
dibbaṃ mānusakañca brahmakhettaṃ,
sabbakhettamūlabandhanā pamutto
khettajino tādi pavuccate tathattā. |
527. (Đức Thế Tôn nói: “Này
Sabhiya,) Vị đă hiểu rơ toàn
diện về các đồng ruộng (mười hai xứ) thuộc cơi trời, thuộc loài
người, và đồng ruộng thuộc Phạm Thiên, được thoát khỏi sự trói
buộc căn bản của tất cả các đồng ruộng, vị tự tại, có bản thể
như thế, được gọi là ‘bậc chiến thắng đồng ruộng.’ |
Thế Tôn:
524. Thế Tôn bèn đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai quán sát nhiếp phục,
Ruộng đất thật toàn diện
Chư Thiên và loài Người,
Là đất ruộng Phạm thiên,
Giải thoát được trói buộc,
Cội gốc mọi đất ruộng,
Vị đức tánh như vậy,
Được gọi thắng đất ruộng.
|
|
528. Kosāni viceyya kevalāni
dibbaṃ mānusakañca brahmakosaṃ,
sabbakosamūlabandhanā pamutto
kusalo tādi pavuccate tathattā. |
528.
Vị đă hiểu rơ toàn diện về các kho
chứa (nghiệp) thuộc cơi trời, thuộc loài người, và kho chứa
thuộc Phạm Thiên, được thoát khỏi sự trói buộc căn bản của tất
cả các kho chứa, vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘bậc
thiện xảo.’ |
525. Ai quán sát nhiếp phục,
Kho tàng thật toàn diện,
Chư Thiên và loài Người,
Là đất ruộng Phạm thiên,
Giải thoát được trói buộc,
Cội gốc mọi kho tàng,
Vị đức tánh như vậy,
Được gọi vị thiện xảo. |
|
529. Tadubhayāni viceyya
paṇḍarāni
ajjhattaṃ bahiddhā ca suddhipañño,
kaṇhaṃ sukkam upātivatto
paṇḍito tādi pavuccate tathattā. |
529.
Vị đă hiểu rơ các xứ về cả hai lănh vực, nội phần và ngoại phần,
vị có sự trong sạch và trí tuệ, đă vượt lên trên đen và trắng,
vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘bậc sáng suốt.’ |
526. Ai quán sát nhiếp phục,
Cả hai tâm và ư,
Cả nội và cả ngoại,
Về trí tuệ thanh tịnh,
Nhiếp phục chế ngự được,
Các pháp đen và trắng,
Vị đức tánh như vậy,
Được gọi bậc Hiền trí, |
|
530. Asatañca satañca ñatvā
dhammaṃ
ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke,
devamanussehi pūjanīyo
saṅgaṃ jālamaticca so munīti. |
530.
Vị đă biết được bản chất của những kẻ xấu và của những người tốt,
nội phần và ngoại phần, ở tất cả thế gian, vị được tôn vinh bởi
chư Thiên và nhân loại, vị đă vượt qua sự quyến luyến và mạng
lưới, vị ấy là ‘bậc hiền trí.’” |
527. Sau khi đă biết được,
Pháp bất thiện, pháp thiện,
Cả nội và cả ngoại,
Trong tất cả thế giới,
Vị ấy được cúng dường,
Chư Thiên và loài Người,
Vượt qua lưới trói buộc,
Vị ấy gọi ẩn sĩ. |
|
Atha kho sabhiyo paribbājako —pe—
bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi:
|
Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
—như trên— đă hỏi đức Thế Tôn thêm câu hỏi nữa rằng: |
Rồi du sĩ Sabhiya... lại
hỏi Thế Tôn thêm câu hỏi nữa: |
|
531. Kiṃ pattinamāhu vedaguṃ (iti
sabhiyo)
anuviditaṃ kena kathañca viriyavāti,
ājāniyo kinti nāma hoti
puṭṭho me bhagavā vyākarohi. |
531. (Sabhiya nói) “Đă
đạt được điều ǵ khiến người ta gọi là ‘bậc đă đạt được sự thông
hiểu’? Do (thành tựu) cái ǵ (gọi là) ‘bậc đă nhận biết được’?
Và như thế nào được gọi là ‘bậc có sự tinh tấn’? Như thế nào
được có tên là ‘bậc thuần chủng’? Thưa đức Thế Tôn, được tôi hỏi,
xin ngài hăy trả lời.”
|
Sabhiya:
528. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được những ǵ
Được gọi bậc có trí?
Nhờ ǵ, gọi tùy trí?
Thế nào xưng tinh tấn?
Thế nào được danh xưng,
Là vị đă thuần thục?
Được con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
|
|
532. Vedāni viceyya kevalāni (sabhiyāti
bhagavā)
samaṇānaṃ yānidhatthi brāhmaṇānaṃ,
sabbavedanāsu vītarāgo
sabbaṃ vedamaticca vedagū so. |
532. (Đức Thế Tôn nói: “Này
Sabhiya,) Vị đă hiểu rơ toàn
diện về kiến thức các loại thuộc về các Sa- môn, thuộc về các Bà-la-
môn, vị đă xa ĺa sự luyến ái ở tất cả các cảm thọ, vị đă vượt
qua mọi kiến thức, vị ấy là ‘bậc đă đạt được sự thông hiểu.’ |
Thế Tôn:
529. Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai quán sát Vệ-đà,
Hoàn toàn và toàn diện,
Được Sa-môn, Phạm chí,
Đạt được rất đầy đủ,
Vị ấy gọi ly tham,
Trong tất cả cảm thọ,
Do vượt qua Vệ-đà,
Được gọi bậc Vệ-đà?
|
|
533. Anuvicca papañcanāmarūpaṃ
ajjhattaṃ bahiddhā ca rogamūlaṃ,
sabbarogamūlabandhanā pamutto
anuvidito tādi pavuccate tathattā, |
533.
Vị đă nhận biết được các pháp chướng ngại, danh và sắc nội phần
và ngoại phần, nền tảng của các tật bệnh, vị đă được thoát khỏi
sự trói buộc căn bản của tất cả các tật bệnh, vị tự tại, có bản
thể như thế, được gọi là ‘bậc đă nhận biết được.’ |
530. Do quán sát, quán triệt,
Các hư luận, danh sắc,
Kể cả nội và ngoại,
Về cội gốc bệnh hoạn,
Vị ấy thoát trói buộc,
Cội gốc các bệnh hoạn,
Vị đức tánh như vậy
Được gọi vị rơ biết
|
|
534. Virato idha sabbapāpakehi
nirayadukkhamaticca viriyavā so,
so viriyavā padhānavā
dhīro tādi pavuccate tathattā. |
534.
Vị đă lánh xa tất cả các việc ác xấu ở đời này, đă vượt qua sự
khổ đau ở địa ngục, có tinh tấn là nơi cư ngụ, vị ấy, có sự nỗ
lực, sáng suốt, vị tự tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘bậc
có sự tinh tấn.’ |
531. Vị ở đời từ bỏ
Tất cả các pháp ác,
Với tinh tấn vượt qua,
Mọi khổ đau địa ngục,
Vị ấy có tinh tấn,
Có tinh cần, siêng năng,
Vị đức tánh như vậy,
Được gọi vị có trí.
|
|
535. Yassassu lutāni bandhanāni
ajjhattaṃ bahiddhā ca saṅgamūlaṃ,
sabbasaṅgamūlabandhanā pamutto
ājāniyo tādi pavuccate tathattā ’ti. |
535.
Đối với vị nào, các sự trói buộc có thể đă được cắt ĺa, nội
phần và ngoại phần, gốc rễ của sự quyến luyến, vị đă được thoát
khỏi sự trói buộc căn bản của tất cả các sự quyến luyến, vị tự
tại, có bản thể như thế, được gọi là ‘bậc thuần chủng.’” |
532. Với ai các trói buộc,
Bị bựt đứt, huỷ hoại,
Nguồn gốc các tham ái,
Vị ấy được giải thoát,
Khỏi tất cả gốc tham,
Vị đức tánh như vậy,
Được gọi vị thuần thục.
|
|
Atha kho sabhiyo paribbājako —pe—
bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi:
|
Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya —như
trên— đă hỏi đức Thế Tôn thêm câu hỏi nữa rằng:
|
Rồi du sĩ Sabhiya ... lại
hỏi Thế Tôn thêm câu hỏi nữa:
|
|
536. Kiṃ pattinamāhu sottiyaṃ (iti
sabhiyo)
ariyaṃ kena kathañca caraṇavāti,
paribbājako kinti nāma hoti
puṭṭho me bhagavā vyākarohi. |
536. (Sabhiya nói) “Đă
đạt được điều ǵ khiến người ta gọi là ‘bậc thiện tri thức’? Do
(thành tựu) cái ǵ (gọi là) ‘bậc Thánh’? Và như thế nào được gọi
là ‘có tánh hạnh’? Như thế nào được có tên là ‘bậc du sĩ’? Thưa
đức Thế Tôn, được tôi hỏi, xin ngài hăy trả lời.” |
Sahiya:
533. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được những ǵ,
Được gọi vị được nghe?
Nhờ ǵ, gọi bậc Thánh?
Sở hành như thế nào,
Như thế nào được tên,
Là một người du sĩ?
Được con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
|
|
537. Sutvā sabbadhammaṃ abhiññāya
loke (sabhiyāti bhagavā)
sāvajjānavajjaṃ yadatthi kiñci,
abhibhuṃ akathaṃkathiṃ vimuttaṃ
anīghaṃ sabbadhimāhu sottiyoti. |
537. (Đức Thế Tôn nói: “Này
Sabhiya,) vị đă lắng nghe và
biết rơ mọi pháp ở thế gian, bất cứ điều ǵ có tội hay không có
tội, vị đă chế ngự, không c̣n hoài nghi, đă được giải thoát,
không phiền muộn về mọi phương diện, người ta đă gọi là ‘bậc
thiện tri thức.’ |
Thế Tôn:
534. Thế Tôn bèn đáp lại:
Hỡi này Sabhiya!
Do ở đời được nghe,
Thắng tri tất cả pháp,
Pháp có lỗi, không lỗi,
Phàm mọi pháp ở đời,
Là vị đă chiến thắng,
Đoạn nghi, được giải thoát,
Trọn vẹn không dao động,
Được gọi, vị có nghe.
|
|
538. Chetvā āsavāni ālayāni
vidvā so na upeti gabbhaseyyaṃ,
saññaṃ tividhaṃ panujja paṅkaṃ
kappaṃ neti tamāhu ariyoti. |
538.
Vị đă cắt đứt các lậu hoặc, (và) các pháp tiềm ẩn,
sau khi đă hiểu biết, vị ấy
không đi đến việc trú ở thai bào, sau khi đă xua đi ba loại
tưởng, (và) băi lầy (ngũ dục), vị không đi đến sự phân hạng,
người ta gọi vị ấy là ‘bậc Thánh.’
|
535. Sau khi đoạn, chặt đứt,
Mọi lậu hoăc chấp trước,
Vị ấy sau khi biết
Không đi đến thai tạng,
Đoạn trừ và từ bỏ,
Ba loại tưởng bùn nhơ,
Không đi vào thời kiếp,
Được gọi là bậc Thánh.
|
|
539. Yo idha caraṇesu pattipatto
kusalo sabbadā ājāni dhammaṃ,
sabbattha na sajjati vimutto
paṭighā yassa na santi caraṇavā so. |
539.
Vị nào đă đạt được mục đích về các tánh hạnh ở trong Giáo Pháp
này, vị thiện xảo vào mọi lúc, đă hiểu biết Giáo Pháp, không bám
víu vào bất cứ nơi đâu, đă được giải thoát, vị nào không có các
sự bất b́nh, vị ấy là ‘có tánh hạnh.’ |
536. Vị nào ở nơi đây,
Thành tựu các giới hạnh,
Thiện xảo mọi lănh vực,
Rơ biết được Chánh Pháp,
Cùng khắp cả mọi nơi,
Không chấp trước, giải thoát,
Không sân hận một ai,
Được gọi là có hạnh.
|
|
540. Dukkhavepakkaṃ yadatthi
kammaṃ
uddhamadho tiriyañcāpi majjhe,
paribbājayitvā pariññacārī
māyaṃ mānamathopi lobhakodhaṃ,
pariyantamakāsi nāmarūpaṃ
taṃ paribbājakamāhu pattipattanti. |
540.
Sau khi đă lánh xa bất kỳ nghiệp nào có quả báu khổ đau, ở bên
trên và bên dưới, luôn cả bên ngang và khoảng giữa, có sự du
hành với trí tuệ, vị đă làm chấm dứt sự xảo quyệt, ngă mạn, luôn
cả tham lam và giận dữ, danh và sắc, người ta đă gọi vị ấy là
‘bậc du sĩ” đă đạt được mục đích.” |
537. Ai không làm các nghiệp
Đưa đến quả đau khổ
Phía trên và phía dưới,
Bề ngang và chặng giữa,
Sống với sự liễu tri,
Từ bỏ, không chấp nhận,
Man trá và kiêu mạn,
Tham ái và phẫn nộ,
Làm cho đến cùng tận,
Cả danh và cả sắc,
Vị này đă đạt được,
Tên gọi là du sĩ.
|
|
Atha kho sabhiyo paribbājako
bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā attamano pamūdito
udaggo pītisomanassajāto uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ
karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ sammukhā
sāruppāhi gāthāhi abhitthavi: |
Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
đă thích thú, đă tùy hỷ với lời nói của đức Thế Tôn. Được hoan
hỷ, vui mừng, phấn khởi, sanh tâm phỉ lạc, du sĩ ngoại đạo
Sabhiya đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp
tay hướng về đức Thế Tôn, và đă ca ngợi trực tiếp đến đức Thế
Tôn bằng những lời kệ thích đáng rằng:
|
Rồi du sĩ Sabhiya hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy; hoan hỷ, hân hoan, phấn chấn, hỷ duyệt
sanh khởi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thương y vào một bên vai,
chấp tay hướng đến Thế Tôn, trước mặt Thế Tôn, thốt lên những
câu kệ thích đáng:
|
|
541. Yāni ca tīṇi yāni ca saṭṭhi
samaṇappavādasitāni bhūripañña,
saññakkharasaññanissitāni
osaraṇāni vineyya oghantamagā. |
541. “Thưa
bậc có tuệ bao la, bậc đă đi đến nơi tận cùng của các ḍng lũ,
sau khi đă xua tan ba và sáu mươi tà thuyết
được dựa vào giáo điều của
các Sa-môn (ngoại đạo), được nương tựa vào tưởng và sự suy diễn
của tưởng.
|
538. Ôi, bậc tuệ rộng lớn!
Nhiếp phục sự tụ họp,
Các Sa-môn tranh luận,
Có đến sáu (mươi) ba thuyết,
Các ngôn thuyết văn tự,
Y đây các tưởng khởi,
Vị ấy vượt qua được,
Ḍng nước mạnh sanh tử.
|
|
542. Antagū ’si pāragū dukkhassa
arahāsi sammāsambuddho khīṇāsavaṃ taṃ maññe,
jutimā mutimā pahūtapañño
dukkhassantakara atāresi maṃ. |
542.
Ngài là bậc đă đi đến tận cùng, bậc đă đi đến bờ kia của khổ đau.
Ngài là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, con nghĩ rằng Ngài có lậu
hoặc đă được cạn kiệt. Ngài sáng láng, sâu sắc, có trí tuệ dồi
dào. Thưa bậc đă làm chấm dứt khổ đau, ngài đă đưa con vượt qua
(hoài nghi). |
539. Ngài đi đến tận cùng,
Đến bờ kia đau khổ,
Bậc La-hán, Chánh Giác,
Con nghĩ Ngài lậu tận,
Ngài chói sáng, thông minh.
Với trí tuệ rộng lớn,
Ngài đoạn tận đau khổ,
Đưa con qua bờ kia.
|
|
543. Yaṃ me kaṃkhitamaññāsi
vicikicchā maṃ tārayī namo te,
muni monapathesu pattipatta
akhila-ādiccabandhu soratosi. |
543.
Khi ngài đă biết con có điều nghi ngờ, ngài đă đưa con vượt qua
sự hoài nghi, xin kính lễ ngài. Thưa bậc hiền trí, vị đă đạt
được mục đích ở đạo lộ trí tuệ, bậc không cứng nhắc, vị thân
quyến của mặt trời, ngài là khéo an tịnh. |
540. Ngài thấy, Ngài biết rơ
Những điều con nghi ngờ,
Ngài giúp con vượt qua,
Con xin đảnh lễ Ngài,
Bậc ẩn sĩ đạt được,
Con đường thật an tịnh,
Ôi, bà con mặt trời!
Không hoang vu, nhu ḥa.
|
|
544. Yā me kaṅkhā pure āsi taṃ me
vyākāsi cakkhumā,
addhā munīsi sambuddho natthi nīvaraṇā tava. |
544.
Thưa bậc hữu nhăn, nghi ngờ nào của con đă có trước đây, ngài
đều giải thích điều ấy cho con. Ngài quả thật là bậc hiền trí đă
được hoàn toàn giác ngộ, không có sự che lấp nào đối với ngài.
|
541. Điều xưa con nghi ngờ,
Đều được Ngài giải đáp,
Ôi, bậc có Pháp nhân!
Ngài thật là ẩn sĩ
Bậc Chánh Đẳng, Chánh Giác,
Ngài không c̣n triền cái.
|
|
545. Upāyāsā ca te sabbe
viddhastā vinalīkatā,
sītibhūto damappatto dhitimā saccanikkamo.
|
545.
Và mọi sự sầu muộn của ngài đều đă được tan vỡ, đă được làm cho
tiêu hoại. Ngài có trạng thái mát lạnh, đă đạt đến sự thu thúc,
có sự kiên quyết, có thế mạnh là sự chân thật. |
542. Với Ngài, mọi ưu năo,
Được phá tan, đoạn diệt,
Ngài tịnh tịch, chế ngự,
Tâm kiên tŕ, thành thực.
|
|
546. Tassa te nāganāgassa
mahāvīrassa bhāsato,
sabbe devānumodanti ubho nāradapabbatā. |
546.
Trong khi ngài đây, bậc long tượng của các loài long tượng, bậc
đại anh hùng đang nói, tất cả chư Thiên, luôn cả hai nhóm Nārada
và Pabbata, đều tùy hỷ. |
543. Ngài là bậc long tượng,
Trong các hàng long tượng,
Ngài là đại anh hùng
Chư Thiên đều hoan hỷ,
Cả hai Nàrada,
Và cả Pabbatà,
Đều hoan hỷ tín thọ,
Lời thuyết giảng của Ngài.
|
|
547. Namo te purisājañña namo te
purisuttama,
sadevakasmiṃ lokasmiṃ natthi te paṭipuggalo. |
547.
Thưa bậc siêu nhân, xin kính lễ ngài. Thưa bậc tối thượng nhân,
xin kính lễ ngài. Ở thế gian luôn cả chư Thiên, không có kẻ nào
sánh bằng ngài. |
544. Chúng con xin đảnh lễ,
Con người thuần thục nhất,
Chúng con xin đảnh lễ,
Con người tối thượng nhất,
Trong cảnh giới Trời, Người,
Không ai sánh được Ngài,
|
|
548. Tuvaṃ buddho tuvaṃ satthā
tuvaṃ mārābhibhū muni,
tuvaṃ anusaye chetvā tiṇṇo tāres’ imaṃ pajaṃ. |
548.
Ngài là đức Phật, ngài là bậc đạo sư, ngài là bậc hiền trí, đấng
chế ngự Ma Vương. Sau khi cắt đứt các pháp tiềm ẩn và đă vượt
qua, ngài đưa ḍng dơi này vượt qua. |
545. Ngài chính là Đức Phật,
Ngài chính là Đạo Sư,
Ngài là bậc ẩn sĩ,
Đă chiến thắng Ác ma,
Ngài chặt đứt tuỳ miên,
Đă vượt qua sanh tử,
Ngài giúp chúng sanh này,
Vượt qua bể sanh tử.
|
|
549. Upadhī te samatikkantā āsavā
te padāḷitā,
sīhosi anupādāno pahīnabhayabheravo. |
549.
Các mầm tái sanh đă được ngài vượt qua, các lậu hoặc đă được
ngài phá tan. Ngài là loài sư tử, không c̣n chấp thủ, đă dứt bỏ
nỗi sợ hăi và khiếp đảm. |
546. Ngài vượt khỏi sanh y,
Ngài phá tan lậu hoặc,
Ngài là bậc sư tử,
Không chấp thủ, chấp trước,
Mọi sợ hăi, hoảng hốt,
Ngài đoạn tận, trừ diệt.
|
|
550. Puṇḍarīkaṃ yathā vaggu toye
na upalippati,
evaṃ puññe ca pāpe ca ubhaye tvaṃ na lippasi,
pāde vīra pasārehi sabhiyo vandati satthuno ’ti. |
550.
Giống như đóa sen trắng xinh đẹp không bị vấy bẩn ở nước, tương
tự như thế, ngài không bị vướng bận ở thiện và ác, cả hai loại.
Thưa đấng anh hùng, xin ngài hăy duỗi ra hai bàn chân, Sabhiya
xin đảnh lễ hai bản chân của đấng đạo sư.” |
547. Như hoa sen tươi đẹp.
Nước không thể dính vào,
Cũng vậy cả thiện ác,
Cả hai không dính Ngài,
Ôi anh hùng vĩ đại,
Xin Ngài duỗi chân ra,
Sabhiya chúng con,
Đảnh lễ bậc Đạo Sư.
|
|
Atha kho sabhiyo paribbājako
bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavantaṃ etadavoca:
|
Khi ấy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
đă cúi xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và đă nói
điều này:
|
Rồi du sĩ Sabhiya lấy đầu
đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
|
|
Abhikkantaṃ bho gotama, —pe—
dhammañca bhikkhusaṅghañca labheyyāhaṃ bhante, bhagavato santike
pabbajjaṃ labheyyaṃ upasampadanti. |
“Bạch ngài Gotama, thật là tuyệt
vời! —như trên— Giáo Pháp, và Hội Chúng tỳ khưu. Con có thể xuất
gia trong sự hiện diện của ngài Gotama không? Con có thể tu lên
bậc trên không?” |
- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!...
Con xin quy y Thế Tôn, Pháp và chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, mong
Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, mong cho con thọ đại
giới.
|
|
Yo kho sabhiya, aññatitthiyapubbo
imasmiṃ dhammavinaye ākaṅkhati pabbajaṃ ākaṅkhati upasampadaṃ so
cattāro māse parivasati, catunnaṃ māsānaṃ accayena [parivuṭṭhaparivāsaṃ
] āraddhacittā bhikkhū pabbājenti upasampādenti bhikkhubhāvāya,
apica mettha puggalavemattatā viditāti. |
“Này Sabhiya, người nào, trước
đây theo ngoại đạo, mong mỏi sự xuất gia trong Pháp và Luật này,
mong mỏi việc tu lên bậc trên, người ấy (phải) sống thử thách
bốn tháng. Sau bốn tháng, có tâm được hài ḷng, các vị tỳ khưu (sẽ)
cho xuất gia, (sẽ) cho tu lên bậc trên để trở thành tỳ khưu; tuy
nhiên ở đây Ta biết được tính chất khác biệt của mỗi cá nhân.”
|
- Này Sabhiya, ai trước
kia thuộc ngoại đạo, nay xin xuất gia, xin thọ đại giới trong
Pháp Luật này cần phải sống biệt trú trong bốn tháng. Sau bốn
tháng, nếu tâm các Tỷ-kheo thỏa thuận, có thể cho vị ấy xuất gia,
cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng ở đây, Ta biết sự
sai biệt giữa các chúng sanh.
|
|
Sace bhante, aññatitthiyapubbā
imasmiṃ dhammavinaye ākaṅkhantā pabbajjaṃ ākaṅkhantā upasampadaṃ
cattāro māse parivasanti, catunnaṃ māsānaṃ accayena
[parivuṭṭhaparivāse] āraddhacittā bhikkhū pabbājenti
upasampādenti bhikkhubhāvāya, ahaṃ cattāri vassāni parivasissāmi,
catunnaṃ vassānaṃ accayena [parivuṭṭhaparivāsaṃ] āraddhacittā
bhikkhū pabbājentu upasampādentu bhikkhubhāvāyāti.
|
“Thưa ngài, nếu người trước đây
theo ngoại đạo mong mỏi sự xuất gia trong Pháp và Luật này, mong
mỏi việc tu lên bậc trên, (phải) sống thử thách bốn tháng. Sau
bốn tháng, có tâm được hài ḷng, các vị tỳ khưu (sẽ) cho xuất
gia, (sẽ) cho tu lên bậc trên để trở thành tỳ khưu, th́ con sẽ
sống thử thách bốn năm. Sau bốn năm, có tâm được hài ḷng, các
vị tỳ khưu hăy cho xuất gia, hăy cho tu lên bậc trên để trở
thành tỳ khưu.” |
- Bạch Thế Tôn, nếu những ai
trước kia thuộc ngoại đạo, nay xin xuất gia, xin thọ đại giới
trong Pháp Luật này, sống biệt trú bốn tháng. Sau bốn tháng, nếu
tâm các Tỷ-kheo thỏa thuận, có thể cho vị ấy xuất gia, cho thọ
đại giới để thành vị Tỷ-kheo, con sẽ sống biệt trú bốn năm. Sau
bốn năm, nếu tâm con thỏa thuận hăy cho xuất gia, cho con thọ
đại giới để trở thành Tỷ-kheo.
|
|
Alattha kho sabhiyo paribbājako
bhagavato santike pabbajjaṃ alattha upasampadaṃ, —pe— aññataro
ca kho panāyasmā sabhiyo arahattaṃ ahosīti.
|
Quả vậy, du sĩ ngoại đạo Sabhiya
đă đạt được sự xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn, đă
đạt được sự tu lên bậc trên. —như trên— Và thêm một vị nữa là
đại đức Sabhiya đă trở thành vị A-la-hán. |
Du sĩ Sabhiya được xuất
gia với Thế Tôn, được thọ đại giới... rồi Tôn giả Sabhiya
trở thành một vị A-la-hán.
|
|
Sabhiyasuttaṃ
niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Sabhiya.
|
|
|
|
|
|
|
7. SELASUTTAṂ
|
7. KINH SELA
|
7. KINH SELA
(Xem kinh Sela, Trung Bộ
Kinh, Tập II) |
|
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ
bhagavā aṅguttarāpesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena
saddhiṃ aḍḍhateḷasehi bhikkhusatehi yena āpaṇaṃ nāma
aṅguttarāpānaṃ nigamo tadavasari. |
Tôi đă nghe như vầy:
Một thời, đức Thế Tôn trong khi đi du hành ở xứ
sở Aṅguttarāpa cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai
trăm năm mươi vị tỳ khưu, đă ngự đến phố chợ của xứ sở
Aṅguttarāpa có tên là Āpaṇa.
|
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn du hành ở
Anguttarapa cùng với đại chúng Tỷ-kheo một ngàn hai trăm năm
mươi vị, và đi đến một thị trấn của Anguttarapa tên là Apana.
|
|
Assosi kho keṇiyo jaṭilo samaṇo
khalu bho gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito aṅguttarāpesu
cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ aḍḍhateḷasehi
bhikkhusatehi āpaṇaṃ anuppatto, taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ
evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato “itipi so bhagavā arahaṃ
sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro
purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā ”ti so
imaṃ lokaṃ sadevakaṃ samārakaṃ sabrahmakaṃ sassamaṇabrāhmaṇiṃ
pajaṃ sadevamunassaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti, so
dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhe kalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ
sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ
pakāseti, sādhu kho pana tathārūpānaṃ arahataṃ dassanaṃ hotī
”ti. |
Đạo sĩ bện tóc Keṇiya đă nghe
rằng: “Chắn chắn là ngài Sa-môn Gotama, con trai ḍng Sakya, từ
ḍng dơi Sakya đă xuất gia, trong khi đi du hành ở xứ sở
Aṅguttarāpa cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm
năm mươi vị tỳ khưu, đă ngự đến Āpaṇa. Hơn nữa, về ngài Gotama
ấy có tiếng đồn tốt đẹp đă được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế
Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư, Phật, Thế Tôn.’ Với thắng trí của ḿnh, vị ấy chứng ngộ và
công bố về thế gian này tính luôn cơi chư Thiên, cho đến ḍng
dơi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người. Vị ấy
thuyết giảng Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa,
toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ư nghĩa, thành tựu về văn tự,
giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ.
Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy.”
|
Bện tóc Keniya được nghe: "Sa-môn
Gotama là Thích tử, xuất gia từ ḍng họ Sakya, du hành ở
Anguttarapa cùng với đại chúng Tỷ-kheo một ngàn hai trăm năm
mươi vị, và đă đến Apana. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây về Tôn giả
Gotama được khởi lên: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí,
Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Phạm
thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và
loài Người. Khi đă chứng ngộ, Ngài c̣n tuyên thuyết điều Ngài đă
chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện văn
nghĩa đầy đủ. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong
sạch. Tốt đẹp thay sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!".
|
|
Atha kho keṇiyo jaṭilo yena
bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi,
sammodanīyaṃ kathaṃ sārāṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho keṇiyaṃ jaṭilaṃ bhagavā dhammiyā kathāya
sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi. |
Sau đó, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đă
đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă tỏ vẻ thân thiện với đức
Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xă giao thân thiện rồi đă ngồi
xuống ở một bên. Khi đạo sĩ bện tóc Keṇiya đă ngồi xuống ở một
bên, Đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo
niềm phấn khởi cho đạo sĩ bện tóc Keṇiya bằng bài Pháp thoại.
|
Rồi bện tóc Keniya đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi
xuống một bên. Thế Tôn với pháp thoại khai thị cho bện tóc
Keniya đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho
hoan hỷ. |
|
Atha kho keṇiyo jaṭilo bhagavatā
dhammiyā kathāya sandassito samādapito samuttejito sampahaṃsito
bhagavantaṃ etadavoca: Adhivāsetu me bhavaṃ gotamo svātanāya
bhattaṃ saddhiṃ bhikkhusaṅghenāti. |
Sau đó, khi đă được đức Thế Tôn
chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài
Pháp thoại, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đă nói với đức Thế Tôn điều
này: “Xin ngài Gotama hăy nhận lời tôi về bữa trai phạn vào ngày
mai cùng với hội chúng tỳ khưu.”
|
Bện tóc Keniya sau khi được Thế
Tôn với pháp thoại khai thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm
cho hoan hỷ, liền bạch Thế Tôn:
-- Mong Tôn giả Gotama nhận lời
mời của con ngày mai dùng cơm với chúng Tỷ-kheo. |
|
Evaṃ vutte bhagavā keṇiyaṃ
jaṭilaṃ etadavoca: Mahā kho keṇiya, bhikkhusaṅgho aḍḍhateḷasāni
bhikkhusatāni, tvañca kho brāhmaṇesu abhippasannoti. |
Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn
đă nói với đạo sĩ bện tóc Keṇiya điều này: “Này Keṇiya, hội
chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục vị tỳ
khưu, và ngươi đă đặt nhiều niềm tin vào các vị Bà-la-môn.”
|
Được nghe nói vậy, Thế Tôn nói
với bện tóc Keniya:
-- Này Keniya, chúng Tỷ-kheo
rất lớn, đến một ngàn hai trăm năm mươi Tỷ-kheo, và Ông có ḷng
tín thành với các Bà-la-môn.
|
|
Dutiyampi kho keṇiyo jaṭilo
bhagavantaṃ etadavoca: Kiñcāpi bho gotama, mahā bhikkhusaṅgho
aḍḍhateḷasāni bhikkhusatāni, ahañca brāhmaṇesu abhippasanno,
adhivāsetu me bhavaṃ gotamo svātanāya bhattaṃ saddhiṃ
bhikkhusaṅghenāti. |
Đến lần thứ nh́, đạo sĩ bện tóc
Keṇiya đă nói với đức Thế Tôn điều này: “Thưa ngài Gotama, dầu
cho hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục
vị tỳ khưu và (dầu cho) tôi đă đặt nhiều niềm tin vào các vị
Bà-la-môn, xin ngài Gotama hăy nhận lời tôi về bữa trai phạn vào
ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.”
|
Lần thứ hai, bện tóc Keniya bạch
Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, dầu
chúng Tỷ-kheo rất lớn, đến một ngàn hai trăm năm mươi Tỷ-kheo,
và dầu con có ḷng tín thành với các Bà-la-môn, mong Tôn giả
Gotama nhận lời mời của con, ngày mai dùng cơm với chúng Tỷ-kheo!
|
|
Dutiyampi kho bhagavā keṇiyaṃ
jaṭilaṃ etadavoca: Mahā kho keṇiya, bhikkhusaṅgho aḍḍhateḷasāni
bhikkhusatāni, tvañca kho brāhmaṇesu abhippasannoti. |
Đến lần thứ nh́, đức Thế Tôn đă
nói với đạo sĩ bện tóc Keṇiya điều này: “Này Keṇiya, hội chúng
tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục vị tỳ khưu,
và ngươi đă đặt nhiều niềm tin vào các vị Bà-la-môn.” |
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với bện
tóc Keniya:
-- Này Keniya, chúng Tỷ-kheo
rất lớn, đến một ngàn hai trăm năm mươi Tỷ-kheo, và Ông có ḷng
tín thành với các Bà-la-môn.
|
|
Tatiyampi kho keṇiyo jaṭilo
bhagavantaṃ etadavoca: Kiñcāpi bho gotama, mahā bhikkhusaṅgho
aḍḍhateḷasāni bhikkhusatāni, ahañca kho brāhmaṇesu abhippasanno,
adhivāsetveva me bhavaṃ gotamo svātanāya bhattaṃ saddhiṃ
bhikkhusaṅghenāti. |
Đến lần thứ ba, đạo sĩ bện tóc
Keṇiya đă nói với đức Thế Tôn điều này: “Thưa ngài Gotama, dầu
cho hội chúng tỳ khưu rất đông có đến một ngàn hai trăm năm chục
vị tỳ khưu và (dầu cho) tôi đă đặt nhiều niềm tin vào các vị
Bà-la-môn, xin ngài Gotama hăy nhận lời tôi về bữa trai phạn vào
ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.”
|
Lần thứ ba, bện tóc Keniya bạch
Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, dầu
chúng Tỷ-kheo rất lớn, đến một ngàn hai trăm năm mươi Tỷ-kheo,
và dầu con có ḷng tín thành với các vị Bà-la-môn, mong Tôn giả
Gotama nhận lời mời của con, ngày mai dùng cơm với chúng
Tỷ-kheo!
|
|
Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.
|
Đức Thế Tôn đă nhận lời bằng thái
độ im lặng. |
Thế Tôn im lặng nhận lời. |
|
Atha kho keṇiyo jaṭilo
bhagavantaṃ adhivāsanaṃ viditvā uṭṭhāyāsanā yena sako assamo
tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā mittāmacce ñātisālohite āmantesi:
|
Khi ấy, đạo sĩ bện tóc Keṇiya
hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đă từ chỗ ngồi đứng
dậy và đi về nơi cư ngụ của ḿnh, sau khi về đến đă bảo các bạn
bè thân hữu và thân quyến cùng huyết thống rằng:
|
Bện tóc
Keniya, sau khi được biết Thế Tôn đă nhận lời, từ chỗ ngồi đứng
dậy, đi đến tịnh xá của ḿnh, sau khi đến liền bảo các thân hữu,
bà con huyết thống:
|
|
Suṇantu me bhavanto mittāmaccā
ñātisālohitā samaṇo me gotamo nimantito svātanāya bhattaṃ
saddhiṃ bhikkhusaṅghena yena me kāyaveyyāvaṭikaṃ kareyyāthāti.
|
“Xin quư vị bạn bè thân hữu và
thân quyến cùng huyết thống hăy lắng nghe tôi, Sa-môn Gotama đă
được tôi thỉnh mời bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng
tỳ khưu, v́ thế mong các vị có thể làm giúp công việc phục
dịch.” |
-- Quư vị Thân hữu, bà con huyết
thống hăy nghe tôi. Sa-môn Gotama đă được tôi mời ngày mai đến
dùng cơm với chúng Tỷ-kheo. Vậy Quư vị hăy tự thân giúp việc cho
tôi.
|
|
Evaṃ bhoti kho keṇiyassa
jaṭilassa mittāmaccā ñātisālohitā keṇiyassa jaṭilassa paṭissutvā
appekacce uddhanāni khaṇanti, appekacce kaṭṭhāni phālenti,
appekacce bhājanāni dhovanti, appekacce udakamaṇikaṃ
patiṭṭhāpenti, appekacce āsanāni paññāpenti. Keṇiyo pana jaṭilo
sāmaṃyeva maṇḍalamālaṃ paṭiyādeti.
|
“Thưa ngài,
xin vâng,” các bạn bè thân hữu và thân quyến cùng huyết thống
của đạo sĩ bện tóc Keṇiya đă nghe theo đạo sĩ bện tóc Keṇiya,
một số đào bếp lữa, một số chẻ củi, một số rửa bát đĩa, một số
xếp đặt lu nước, một số bố trí các chỗ ngồi, c̣n đạo sĩ bện tóc
Keṇiya tự ḿnh thiết lập lều trại có mái che.
|
-- Thưa vâng, Tôn giả.
Các thân hữu, bà con huyết
thống của bện tóc Keniya vâng đáp bện tóc Keniya. Có người thời
đào hố (làm ḷ nấu); có người bửa củi; có người rửa chén bát; có
người sắp đặt ghè nước; có người sửa soạn ghế ngồi; c̣n bện tóc
Keniya tự ḿnh dựng lên một giàn hoa h́nh tṛn (Mandalamala).
|
|
Tena kho pana samayena selo
brāhmaṇo āpaṇe paṭivasati tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū
sanighaṇṭukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ
padako veyyākaraṇo lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayo tīṇi
māṇavakasatāni mante vāceti. |
Vào lúc bấy giờ, Bà-la-môn Sela
cư trú ở Āpaṇa, là vị tinh thông về ba tập Vệ Đà, về các từ vựng
và nghi thức, luôn cả về âm từ với sự phân tích, về truyền thống
là thứ năm, là nhà ngữ học, nhà văn phạm, tinh thông về thế gian
luận và các tướng của bậc đại nhân, đang chỉ dạy các chú thuật
cho ba trăm thanh niên Bà-la-môn.
|
Lúc bấy giờ Bà-la-môn Sela trú
tại Apana, vị này tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi,
ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn
phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Đại nhân tướng. Vị này dạy chú
thuật (manta) cho ba trăm thanh niên Bà-la-môn. |
|
Tena kho samayena keṇiye jaṭile
selo brāhmaṇo abhippasanno hoti. Atha kho selo brāhmaṇo tīhi
māṇavakasatehi parivuto jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno
anuvicaramāno yena keṇiyassa jaṭilassa assamo tenupasaṅkami.
Addasā kho selo brāhmaṇo keṇiyasmiṃ jaṭile appekacce uddhanāni
khaṇante, —pe— appekacce āsanāni paññāpente. Keṇiyaṃ pana
jaṭilaṃ sāmaṃyeva maṇḍalamālaṃ paṭiyādentaṃ, disvāna keṇiyaṃ
jaṭilaṃ etadavoca:
|
Vào lúc bấy giờ,
Bà-la-môn Sela đặt nhiều
niềm tin vào đạo sĩ bện tóc Keṇiya. Khi ấy, Bà-la-môn Sela được
tháp tùng bởi ba trăm thanh niên Bà-la-môn, trong lúc đi kinh
hành, trong lúc đi tản bộ cho việc thư giăn chân cẳng, đă đi đến
nơi cư ngụ của đạo sĩ bện tóc Keṇiya. Bà-la-môn Sela đă nh́n
thấy ở nơi đạo sĩ bện tóc Keṇiya một số người đang đào bếp lữa,
—như trên— một số bố trí các chỗ ngồi, c̣n đạo sĩ bện tóc Keṇiya
đang tự ḿnh thiết lập lều trại có mái che, sau khi nh́n thấy đă
nói với đạo sĩ bện tóc Keṇiya điều này:
|
Lúc bấy giờ bện tóc Keniya có
ḷng tín thành với Bà-la-môn Sela. Rồi Bà-la-môn Sela, với ba
trăm thanh niên Bà-la-môn vây quanh, tản bộ du hành đi đến tinh
xá của bện tóc Keniya. Bà-la-môn Sela thấy tại tinh xá của bện
tóc Keniya, có người thời đào hố (làm ḷ nấu); có người bửa củi;
có người rửa chén bát; có người sắp đặt ghè nước; có người sửa
soạn ghế ngồi; c̣n bện tóc Keniya tự ḿnh dựng lên một giàn hoa
h́nh tṛn. Thấy vậy, Bà-la-môn Sela bèn nói với bện tóc Keniya:
|
|
Kinnu bhoto keṇiyassa āvāho vā
bhavissati, vihāho vā bhavissati, mahāyañño vā paccupaṭṭhito,
rājā vā māgadho seniyo bimbisāro nimantito svātanāya saddhiṃ
balakāyenāti.
|
“Không lẽ ông Keṇiya sẽ có đám
rước dâu, hay là sẽ có đám đưa dâu, hay là sắp xếp cho buổi đại
lễ hiến tế, hay là đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha được mời
thỉnh vào ngày mai cùng với đội quân binh?” |
-- Có phải bện tóc Keniya sẽ rước
dâu hay sẽ đưa dâu, hay một đại tế đàn được chuẩn bị, hay vua
Seniya Bimbisara nước Magadha được mời ngày mai với cả binh lực?
|
|
Na me sela, āvāho bhavissati napi
vivāho bhavissati, napi rājā māgadho seniyo bimbisāro nimantito
svātanāya saddhiṃ balakāyena, api ca kho me mahāyañño
paccupaṭṭhito atthi. Samaṇo gotamo sakyaputto sakyakulā
pabbajito aṅguttarāpesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena
saddhiṃ aḍḍhateḷasehi bhikkhusatehi āpaṇaṃ anuppatto, taṃ kho
pana bhavantaṃ gotamaṃ —pe— buddho bhagavā ’ti, so me nimantito
svātanāya saddhiṃ bhikkhusaṅghenāti.
|
“Này Sela, không phải tôi sẽ có
đám rước dâu, cũng sẽ không có đám đưa dâu, cũng không phải đức
vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha được mời thỉnh vào ngày mai cùng
với đội quân binh, nhưng mà tôi có cuộc đại lễ hiến tế đă được
sắp xếp. Sa-môn Gotama, con trai ḍng Sakya, từ ḍng dơi Sakya
đă xuất gia, trong khi đi du hành ở xứ sở Aṅguttarāpa cùng với
đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ khưu,
đă ngự đến Āpaṇa. Hơn nữa, về ngài Gotama ấy —như trên— Phật,
Thế Tôn.’ Vị ấy đă được tôi thỉnh mời vào ngày mai cùng với hội
chúng tỳ khưu.”
|
-- Thưa Tôn giả Sela, tôi không
có rước dâu, cũng không đưa dâu, vua Seniya Bimbisara nước
Magadha không có được mời ngày mai với cả binh lực, nhưng tôi
chuẩn bị một đại tế đàn. Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ
ḍng họ Sakya, du hành ở Anguttarapa cùng với đại chúng Tỷ-kheo
một ngàn hai trăm năm mươi vị, và đă đến Apana. Tiếng đồn tốt
đẹp sau đây về Tôn giả Gotama được khởi lên: "Đây là Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư,
Phật, Thế Tôn." Vị ấy được con mời ngày mai đến dùng cơm với
chúng Tỷ-kheo. |
|
Buddhoti kho bho keṇiya, vadesi?
Buddhoti bho sela, vadāmi. Buddhoti bho keṇiya, vadesi? Buddhoti
bho sela vadāmīti. |
“Này ông Keṇiya, có phải ông nói:
‘Đức Phật’?” “Ồ ông Sela, tôi nói là: ‘Đức Phật.’” “Này ông
Keṇiya, có phải ông nói: ‘Đức Phật’?” “Ồ ông Sela, tôi nói là:
‘Đức Phật.’” |
-- Tôn giả Keniya, có phải Ông
nói đức Phật?
-- Tôn giả Sela, vâng, tôi nói
đức Phật.
-- Tôn giả Keniya, có phải Ông
nói đức Phật?
-- Tôn giả Sela, vâng, tôi nói
đức Phật.
|
|
Atha kho selassa brahmaṇassa
etadahosi: Ghosopi kho eso dullabho lokasmiṃ yadidaṃ buddho’ti.
Āgatāni kho pana asmākaṃ mantesu dvattiṃsamahāpurisalakkhanāni
yehi samannāgatassa mahāpurisassa dveva gatiyo bhavanti anaññā.
Sace agāraṃ ajjhāvasati, rājā hoti cakkavattī dhammiko
dhammarājā cāturanto vijitāvī janapadatthāvariyappatto
sattaratanasamannāgato. |
Khi ấy, Bà-la-môn Sela đă khởi ư
điều này: “Cái âm này thật khó được nghe ở thế gian, đó là từ:
‘Đức Phật.’ Hơn nữa, ba mươi hai tướng của bậc đại nhân đă được
lưu truyền ở các kinh thơ của chúng ta, bậc đại nhân có được các
tướng này chỉ có hai con đường, không có con đường khác: Nếu ở
tại gia th́ trở thành vua Chuyển Luân, bậc công chính, vị vua
công minh, bậc chinh phục bốn phương, đạt được sự bền vững của
xứ sở, có được bảy báu vật.
|
Rồi Tôn giả Bà-la-môn Sela suy
nghĩ: "Chỉ một âm thanh đức Phật này cũng khó t́m được trong
đời. Theo Thánh điển của chúng ta được truyền lại về ba mươi hai
Đại nhân tướng, những ai có ba mươi hai tướng ấy sẽ chọn một
trong hai con đường, không có con đường nào khác: nếu là tại
gia, sẽ thành vị Chuyển luân Thánh vương chinh phục mọi quốc độ,
đầy đủ bảy món báu.
|
|
Tassimāni sattaratanāni bhavanti,
seyyathīdaṃ: cakkaratanaṃ hatthiratanaṃ assaratanaṃ maṇiratanaṃ
itthiratanaṃ gahapatiratanaṃ pariṇāyakaratanameva sattamaṃ,
parosahassaṃ kho panassa puttā bhavanti sūrā vīraṅgarūpā
parasenappamaddanā, so imaṃ paṭhaviṃ sāgarapariyantaṃ adaṇḍena
asatthena dhammena abhivijiya ajjhāvasati. Sace kho panāgārasmā
anagāriyaṃ pabbajati arahaṃ hoti sammāsambuddho loke
vivattacchaddo. |
Bảy báu vật này là thuộc về vị
ấy, gồm có: bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc ma-ni báu, nữ
nhân báu, gia chủ báu, và tướng quân báu là thứ bảy. Hơn nữa, vị
này có hơn một ngàn con trai là những dũng sĩ, có vóc dáng anh
hùng, có khả năng tiêu diệt quân đội của kẻ thù. Vị ấy chinh
phục và ngự trị trái đất được biển bao quanh này một cách công
minh, không gậy gộc, không gươm đao. Nhưng nếu rời nhà xuất gia
sống không nhà th́ trở thành bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Giác,
khơi mở sự che lấp ở thế gian.”
|
Bảy món báu này là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ
báu, cư sĩ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Và vị này có hơn
một ngàn con trai là những vị anh hùng, oai phong lẫm liệt,
chiến thắng ngoại quân. Vị này sống thống lănh quả đất cùng tận
cho đến đại dương, và trị v́ với Chánh pháp, không dùng gậy,
không dùng đao. Nếu vị này xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không
gia đ́nh, vị này sẽ chứng quả A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, quét
sạch mê lầm ở đời." và ông ta nói: |
|
Kahaṃ pana bho keṇiya, etarahi so
bhavaṃ gotamo viharati arahaṃ sammāsambuddho’ti. |
“Này ông Keṇiya, vậy bây giờ ngài
Gotama, bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Giác ấy trú ở đâu?
|
-- Này Tôn giả Keniya, nay Tôn
giả Gotama ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy trú ở đâu?
|
|
Evaṃ vutte keṇiyo jaṭilo
dakkhiṇaṃ bāhaṃ paggahetvā selaṃ brāhmaṇaṃ etadavoca: Yenesā bho
sela nīlavanarājīti.
|
Khi được nói như vậy, đạo sĩ bện
tóc Keṇiya đă vươn cánh tay mặt và đă nói với Bà-la-môn Sela
điều này: “Này ông Sela, ở dải rừng xanh biếc kia.”
|
Khi nghe nói vậy, bện tóc
Keniya, duỗi cánh tay mặt, nói với Bà-la-môn Sela:
-- Tôn giả Sela, tại ngôi rừng
xanh kia.
|
|
Atha kho selo brāhmaṇo tīhi
māṇavakasatehi saddhiṃ yena bhagavā tenupasaṅkakami. Atha kho
selo brāhmaṇo te māṇavake āmantesi: Appasaddā bhonto āgacchantu
pade padaṃ nikkhipantā, durāsadā hi te bhagavanto sīhāva
ekacarā, yadā cāhaṃ bhonto, samaṇena gotamena saddhiṃ manteyyaṃ
mā me bhonto, antarantarā kathaṃ opātetha, kathāpariyosānaṃ me
bhavanto āgamentūti.
|
Sau đó, Bà-la-môn Sela cùng với
ba trăm thanh niên Bà-la-môn đă đi đến gặp đức Thế Tôn. Khi ấy,
Bà-la-môn Sela đă bảo các thanh niên Bà-la-môn ấy rằng: “Này quư
vị, hăy đi đến ít có tiếng động trong khi đặt bàn chân xuống
từng bước một, bởi v́ các đức Thế Tôn ấy là khó tiếp cận, tựa
như loài sư tử sống một ḿnh. Và này quư vị, khi ta chuyện tṛ
với Sa-môn Gotama, quư vị chớ làm gián đoạn cuộc nói chuyện ở
khoảng giữa, quư vị hăy chờ đợi đến khi ta dứt lời.”
|
Rồi Bà-la-môn Sela, với ba
trăm thanh niên đi đến Thế Tôn. Bà-la-môn bảo những thanh niên
ấy:
-- Quư vị hăy đến một cách im
lặng, đặt chân xuống từng bước một, các bậc Thế Tôn ấy như con
sư tử sống một ḿnh, rất khó đến gần (hay ưa thích an tịnh --
Durasada). Nếu ta có thảo luận với Sa-môn Gotama, chư Tôn giả
chớ ngắt lời ta. Chư Tôn giả hăy chờ ta nói xong.
|
|
Atha kho selo brāhmaṇo yena
bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi,
sammodanīyaṃ kathaṃ sārāṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
|
Sau đó,
Bà-la-môn Sela đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă tỏ vẻ
thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xă giao thân
thiện rồi đă ngồi xuống ở một bên.
|
Rồi Bà-la-môn Sela đi đến Thế
Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi
thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. |
|
Ekamantaṃ nisinno kho selo
brāhmaṇo bhagavato kāye dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇāni samannesi.
Addasā kho selo brāhmaṇo bhagavato kāye
dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇāni yebhuyyena ṭhapetvā dve, dvīsu
mahāpurisalakkhaṇesu kaṅkhati vicikicchati nādhimuccati na
sampasīdati, kosohite ca vatthaguyhe pahūtajivhatāya ca. |
Khi đă ngồi
xuống ở một bên, Bà-la-môn Sela đă t́m xem ba mươi hai tướng của
bậc đại nhân ở thân thể của đức Thế Tôn. Bà-la-môn Sela quả
đă
nh́n thấy hầu hết ba mươi hai tướng của bậc đại nhân ở thân thể
của đức Thế Tôn ngoại trừ hai tướng, nên phân vân, hoài nghi,
chưa xác quyết, chưa hài ḷng về hai tướng của bậc đại nhân là
nam căn được bọc lại và lưỡi lớn.
|
Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Sela t́m xem ba mươi hai Đại nhân
tướng trên thân Thế Tôn, Bà-la-môn Sela thấy phần lớn ba mươi
hai Đại nhân tướng trên thân Thế Tôn, trừ hai tướng. Đối với hai
Đại nhân tướng ấy, nghi hoặc sanh, do dự sanh, chưa được thỏa
măn, chưa được hài ḷng, tức là tướng mă âm tàng và tướng lưỡi
rộng dài. |
|
Atha kho bhagavato etadahosi:
Passati kho me ayaṃ selo brāhmaṇo dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇāni
yebhuyyena ṭhapetvā dve, dvīsu mahāpurisalakkhaṇesu kaṅkhati
vicikicchati nādhimuccati na sampasīdati, kosohite ca
vatthaguyhe pahūtajivhatāya cāti. |
Khi ấy, đức Thế Tôn đă khởi ư
điều này: “Bà-la-môn Sela này nh́n thấy hầu hết ba mươi hai
tướng của bậc đại nhân ở thân thể của Ta ngoại trừ hai tướng,
nên phân vân, hoài nghi, chưa xác quyết, chưa hài ḷng về hai
tướng của bậc đại nhân là nam căn được bọc lại và lưỡi lớn.”
|
Rồi Thế Tôn suy nghĩ:
"Bà-la-môn Sela này thấy trên thân Ta phần lớn ba mươi hai Đại
nhân tướng, trừ hai tướng, đối với hai Đại nhân tướng ấy, nghi
hoặc sanh, do dự sanh, chưa được thỏa măn, chưa được hài ḷng,
tức là tướng mă âm tàng và tướng lưỡi rộng dài".
|
|
Atha kho bhagavā tathārūpaṃ
iddhābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkhāsi yathā addasa selo brāhmaṇo
bhagavato kosohitaṃ vatthaguyhaṃ. Atha kho bhagavā jivhaṃ
ninnāmetvā ubhopi kaṇṇasotāni anumasi paṭimasi, ubhopi
nāsikasotāni anumasi paṭimasi, kevalampi laḷāṭamaṇḍalaṃ jivhāya
chādesi. |
Khi ấy, đức Thế Tôn đă thể hiện
thần thông khiến cho Bà-la-môn Sela đă nh́n thấy nam căn được
bọc lại của đức Thế Tôn. Sau đó, đức Thế Tôn đă nhe lưỡi ra rồi
đă liếm xuôi liếm ngược cả hai lỗ tai, đă
liếm xuôi liếm ngược cả
hai lỗ mũi, rồi đă dùng lưỡi che kín toàn bộ vầng trán.
|
Thế Tôn liền dùng thần thông
khiến Bà-la-môn Sela thấy được tướng mă âm tàng của Thế Tôn, và
Thế Tôn le lưỡi, rờ đến, liếm đến hai lỗ tai; rờ đến, liếm đến
hai lỗ mũi, và dùng lưỡi le khắp cả vùng trán.
|
|
Atha kho selassa brahmaṇassa
etahosi: Samannāgato kho samaṇo gotamo dvattiṃsa
mahāpurisalakkhaṇehi paripuṇṇehi no aparipuṇṇehi no ca kho naṃ
jānāmi buddho vā no vā, sutaṃ kho pana metaṃ brāhmaṇānaṃ
vuddhānaṃ mahallakānaṃ ācariyapācariyānaṃ bhāsamānānaṃ, ye te
bhavanti arahanto sammāsambuddhā te sake vaṇṇe bhaññamāne
attānaṃ pātukarontīti, yannūnāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ sammukhā
sāruppāhi gāthāhi abhitthaveyyanti. Atha kho sele brāhmaṇo
bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi: |
Khi ấy, Bà-la-môn Sela đă khởi ư
điều này: “Sa-môn Gotama quả đă có đầy đủ ba mươi hai tướng của
bậc đại nhân, không phải không đầy đủ, nhưng ta không biết vị ấy
có phải là đức Phật hay không phải. Vả lại, điều này đă được ta
nghe từ các vị Bà-la-môn lăo niên, lớn tuổi,
là các bậc thầy tổ, nói rằng: ‘Các vị
nào là bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Giác, các vị ấy phô bày bản
thân trong khi ân đức của ḿnh đang được nói lên. Hay là ta nên
trực diện ca ngợi Sa-môn Gotama bằng những lời kệ thích đáng?
Khi ấy, Bà-la-môn Sela đă trực diện ca ngợi đức Thế Tôn bằng
những lời kệ thích đáng rằng:
|
Rồi Bà-la-môn Sela suy nghĩ:
"Sa-môn Gotama thành tựu ba mươi hai Đại nhân tướng một cách đầy
đủ, không phải không đầy đủ, nhưng ta chưa biết vị ấy là Phật
hay không phải Phật. Tuy vậy, ta có nghe các vị Bà-la-môn niên
cao, lạp lớn, các bậc Tôn sư, Đại Tôn sư, nói như sau: "Các Thế
Tôn ấy, những bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, khi những lời tán
thán của những bậc ấy được nói đến, các bậc ấy tự hiện h́nh ra".
Vậy ta hăy trước mặt Thế Tôn tán thán những bài kệ xứng đáng".
Rồi Bà-la-môn Sela, tán thán trước mặt Sa-môn Gotama những bài
kệ xứng đáng như sau: |
|
551. Paripuṇṇakāyo suruci sujāto
cārudassano,
suvaṇṇavaṇṇosi bhagavā susukkadāṭhosi viriyavā. |
551. “‘Bạch
Thế Tôn, ngài có thân h́nh vẹn toàn, có ánh sáng rực rỡ, đă được
thiện sanh, có vẻ đáng mến, có màu da như vàng, có răng trắng
tinh, có sự tinh tấn.
|
Thân trọn đủ chói sáng,
Khéo sanh và đẹp đẽ,
Thế Tôn sắc vàng chói,
Răng trơn, láng, tinh cần.
|
|
552. Narassa hi sujātassa ye
bhavanti viyañjanā,
sabbe te tava kāyasmiṃ mahāpurisalakkhaṇā. |
552.
Bởi v́ những đặc điểm nào hiện hữu ở người đă được thiện sanh,
tất cả các đặc điểm ấy, những tướng trạng của bậc đại nhân, đều
có ở thân thể của Ngài. |
Đối với người khéo sanh,
Những tướng tốt trang trọng,
Đều có trên thân Ngài,
Tất cả Đại nhân tướng.
|
|
553. Pasannanetto sumukho brahā
uju patāpavā,
majjhe samaṇasaṅghassa ādicco ’va virocasi. |
553.
Ngài có cặp mắt trong sáng, khuôn mặt đầy đặn, cao to, đứng ngay
thẳng, oai vệ; ở giữa hội chúng Sa-môn, Ngài chói sáng tựa như
mặt trời. |
Mắt sáng, mặt tṛn đầy,
Cân đối, thẳng, hoàn mỹ,
Giữa chúng Sa-môn Tăng,
Ngài chói như mặt trời. |
|
554. Kalyāṇadassano bhikkhu
kañcanasannibhattaco,
kiṃ te samaṇabhāvena evaṃ uttamavaṇṇino. |
554.
Là vị tỳ khưu có vóc dáng đẹp đẽ, có làn da giống như vàng, có
màu da tối thượng như vậy, Ngài cần ǵ với bản thể Sa-môn?
|
Đẹp mắt vị Tỷ-kheo,
Da sáng như vàng chói,
Với hạnh Sa-môn, Ngài
Cần ǵ sắc tối thượng.
|
|
555. Rājā arahasi bhavituṃ
cakkavatti rathesabho,
cāturanto vijitāvī jambusaṇḍassa issaro. |
555.
Ngài xứng đáng để trở thành vị vua, đấng Chuyển Luân, người xa
phu xuất sắc, bậc có sự chiến thắng khắp bốn phương, chúa tể của
Jambusaṇḍa. |
Ngài xứng bậc Đại vương,
Chuyển Luân, bậc Điều Ngự,
Chiến thắng khắp thiên hạ,
Bậc tối thượng Diêm-phù. |
|
556. Khattiyā bhojarājāno
anuyuttā bhavanti te,
rājābhirājā manujindo rajjaṃ kārehi gotama. |
556.
Các vị Sát-đế-lỵ, các tộc trưởng và các vị vua đều phục tùng
ngài; ngài là vị vua đứng đầu các vị vua, là chúa của loài
người. Thưa ngài Gotama, xin ngài hăy cai trị vương quốc.” |
Vương tộc, hào phú vương,
Là chư hầu của Ngài,
Là vua giữa các vua,
Là Giáo chủ loài Người.
Hăy trị v́ quốc độ,
Tôn giả Gotama! |
|
557. Rājāhamasmi sela (iti
bhagavā) dhammarājā anuttaro,
dhammena cakkaṃ vattemi cakkaṃ appativattiyaṃ. |
557. (Đức Thế Tôn nói) “Này
Sela, Ta là đức vua, đấng Pháp vương vô thượng. Ta chuyển vận
bánh xe theo Giáo Pháp, là bánh xe không thể bị chuyển vận ngược
lại.” |
Thế Tôn liền trả lời:
Sela, Ta là vua,
Bậc Pháp vương vô thượng,
Ta chuyển bánh xe pháp,
Bánh xe chưa từng chuyển.
|
|
558. Sambuddho paṭijānāsi (iti
selo brāhmaṇo) dhammarājā anuttaro,
dhammena cakkaṃ vattemi iti bhāsasi gotama.
|
558. (Bà-la-môn Sela nói) “Ngài
tự nhận là bậc Toàn Giác, đấng Pháp vương vô thượng. Thưa ngài
Gotama, Ngài nói rằng: ‘Ngài chuyển vận bánh xe theo Giáo Pháp.’
|
(Sela):
Ngài tự nhận Giác giả
Sela lại hỏi thêm,
"Bậc Pháp vương vô thượng,
Ta chuyển bánh xe Pháp",
Ngài trả lời như vậy.
|
|
559. Ko nu senāpati bhoto sāvako
satthudanvayo,
ko te imaṃ anuvatteti dhammacakkaṃ pavattitaṃ. |
559.
Vậy vị nào là tướng quân của ngài, là đệ tử tiếp nối bậc đạo sư?
Vị nào tiếp tục vận chuyển cho Ngài bánh xe Pháp đă được chuyển
vận này?” |
Tôn giả Gotama,
Ai sẽ là tướng quân ?
Là Tôn giả đệ tử ?
Vị đệ tử tín thành ?
Xứng đáng bậc Đạo sư ?
Sau Ngài, ai sẽ chuyển,
Pháp luân Ngài đă chuyển ? |
|
560. Mayā pavattitaṃ cakkaṃ
(selāti bhagavā) dhammacakkaṃ anuttaraṃ,
Sāriputto anuvatteti anujāto tathāgataṃ. |
560. (Đức Thế Tôn nói: “Này
Sela,) bánh xe đă được Ta
chuyển vận là bánh xe Pháp vô thượng. Sāriputta kế thừa đức Như
Lai tiếp tục chuyển vận.
|
(Thế Tôn):
Này Sela,
Ta chuyển bánh xe Pháp,
Bánh xe Pháp vô thượng.
Chính Sariputta,
Chuyển bánh xe Chánh Pháp,
Thừa tự Như Lai vị.
|
|
561. Abhiññeyyaṃ abhiññātaṃ
bhāvetabbañca bhāvitaṃ,
pahātabbaṃ pahīnaṃ me tasmā buddhosmi brāhmaṇa.
|
561.
Điều cần biết rơ đă được biết rơ, việc cần tu tập đă được tu
tập, cái cần dứt bỏ đă được dứt bỏ bởi Ta; này Bà-la-môn, v́
thế Ta là đức Phật.
|
Cần biết, Ta đă biết,
Cần tu, Ta đă tu,
Cần bỏ, Ta đă bỏ.
Do vậy Ta là Phật,
Ôi, Tôn giả Phạm chí! |
|
562. Vinayassu mayi kaṅkhaṃ
adhimuccassu brāhmaṇa,
dullabhaṃ dassanaṃ hoti sambuddhānaṃ abhiṇhaso.
|
562.
Này Bà-la-môn, ngươi hăy dẹp bỏ sự hoài nghi về Ta, ngươi hăy
xác quyết; việc gặp gỡ các bậc Toàn Giác thường xuyên là điều
khó đạt được.
|
C̣n ǵ nghi ở Ta,
Hăy gác bỏ một bên,
Hăy giải thoát khỏi chúng,
Ôi, Tôn giả Phạm chí! |
|
563. Yesaṃ vo dullabho loke
pātubhāvo abhiṇhaso,
so’haṃ brāhmaṇa sambuddho sallakatto anuttaro.
|
563.
Quả vậy, việc tái xuất hiện ở thế gian của những vị này là điều
khó đạt được. Này Bà-la-môn, Ta đây là bậc Toàn Giác, phẫu thuật
gia vô thượng.
|
Thấy được bậc Chánh Giác,
Thật thiên nan vạn nan,
Bậc Chánh Giác ra đời,
Thật thiên nan vạn nan!
Ta là bậc Chánh Giác,
Bậc Y vương vô thượng,
Ôi, Tôn giả Phạm chí! |
|
564. Brahmabhūto atitulo
mārasenappamaddano,
sabbāmitte vasīkatvā modāmi akutobhayo. |
564.
Ta có tư cách Phạm Thiên, bậc không thể so sánh, người có sự
tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương, sau khi chế ngự tất cả đối
thủ, Ta hân hoan, không có sự sợ hăi từ bất cứ đâu.”
|
Là Phạm thiên khó sánh,
Nhiếp phục các ma quân.
Hàng phục mọi đối nghịch,
Ta sống tâm hoan hỷ,
Không sợ hăi một ai,
Không từ đâu run sợ. |
|
565. Imaṃ bhonto nisāmetha yathā
bhāsati cakkhumā,
sallakatto mahāvīro sīho va nadatī vane. |
565. “Này
quư vị, quư vị hăy lắng nghe lời mà bậc Hữu Nhăn, nhà phẫu
thuật, đấng Đại Hùng phát biểu, tựa như con sư tử rống ở khu
rừng. |
(Sela):
Chư Tôn giả, hăy nghe!
Như bậc có mắt giảng,
Bậc Y vương, Anh hùng,
Sư tử rống rừng sâu.
|
|
566. Brahmabhūtaṃ atitulaṃ
mārasenappamaddanaṃ,
ko disvā nappasīdeyya api kaṇhābhijātiko. |
566.
Người nào, cho dầu là kẻ có ḍng dơi thấp kém, sau khi nh́n thấy
bậc có tư cách Phạm Thiên, bậc không thể so sánh, người có sự
tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương, mà không tịnh tín?
|
Thấy Phạm thiên vô tỷ,
Nhiếp phục các ma quân,
Ai lại không tín thành,
Cho đến kẻ hạ tiện. |
|
567. Yo maṃ icchati anvetu yo vā
nicchati gacchatu,
idhāhaṃ pabbajissāmi varapaññassa santike. |
567.
Ai là người muốn theo ta, hoặc ai không muốn th́ hăy đi đi. Tại
đây, ta sẽ xuất gia trong sự chứng minh của bậc có trí tuệ cao
quư.”
|
Ai muốn, hăy theo Ta,
Không muốn, hăy ra đi,
Ở đây, Ta xuất gia,
Bậc Trí Tuệ tối thượng! |
|
568. Etañce ruccati bhoto
sammāsambuddhasāsanaṃ,
mayampi pabbajissāma varapaññassa santike. |
568. “Nếu
Giáo Pháp này của đấng Chánh Đẳng Giác được thích thú đối với
ngài, chúng tôi cũng sẽ xuất gia trong sự chứng minh của bậc có
trí tuệ cao quư.” |
(Các Bà-la-môn):
Nếu Tôn giả tín thành,
Giáo pháp bậc Chánh Giác,
Chúng con cũng xuất gia,
Bậc Trí Tuệ tối thượng!
|
|
569. Brāhmaṇā tisatā ime yācanti
pañjalikatā,
brahmacariyaṃ carissāma bhagavā tava santike. |
569.
Ba trăm vị Bà-la-môn này đă chắp tay thỉnh cầu: “Bạch đức Thế
Tôn, chúng con sẽ sống Phạm hạnh trong sự hiện diện của Ngài.”
|
(Sela):
Ba trăm Phạm chí ấy,
Chắp tay xin được phép:
Chúng con sống Phạm hạnh,
Do Thế Tôn lănh đạo!
|
|
570. Svākkhātaṃ brahmacariyaṃ
(selāti bhagavā) sandiṭṭhikamakālikaṃ,
yattha amoghā pabbajjā appamattassa sikkhatoti. |
570. (Đức Thế Tôn nói: “Này
Sela,) Phạm hạnh đă khéo được
thuyết giảng, hoàn toàn hiển nhiên, không bị chi phối bởi thời
gian, việc xuất gia trong Giáo Pháp ấy không phải là vô ích đối
với người đang (ra sức) học tập, không bị xao lăng.” |
Thế Tôn đáp:
Nầy Sela,
Phạm hạnh được khéo giảng,
Thiết thực ngay hiện tại,
Vượt khỏi thời gian tính.
Ở đây sự xuất gia,
Không uổng công hoang phí,
Với ai không phóng dật,
Tinh tấn chuyên tu học.
|
|
Alattha kho selo brāhmaṇo
sapariso bhagavato santike pabbajjaṃ alattha upasampadaṃ. |
Quả vậy, Bà-la-môn Sela
cùng với đồ
chúng đă đạt được
sự xuất gia, đă đạt được sự tu lên bậc trên trong sự hiện diện
của đức Thế Tôn. |
Bà-la-môn Sela cùng với hội
chúng được xuất gia dưới sự lănh đạo Thế Tôn, được thọ đại giới.
|
|
Atha kho keṇiyo jaṭilo tassā
rattiyā accayena sake assame paṇītaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ
paṭiyādāpetvā bhagavato kālaṃ ārocāpesi: Kālo bho gotama
niṭṭhitaṃ bhattanti.
|
Sau đó, khi trải qua đêm ấy đạo
sĩ bện tóc Keṇiya đă cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn hảo hạng loại
cứng loại mềm tại nơi cư ngụ của ḿnh rồi cho người thông báo
thời giờ đến đức Thế Tôn: “Bạch ngài Gotama, đă đến giờ, thức ăn
đă chuẩn bị xong.”
|
Rồi Bà-la-môn Keniya, sau đêm ấy, tại tinh xá của ḿnh, sau khi
cho sửa soạn các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm xong,
liền báo thời giờ lên Thế Tôn: "Tôn giả Gotama, đă đến giờ! Cơm
đă sửa soạn xong". |
|
Atha kho bhagavā pubbanhasamayaṃ
nivāsetvā pattacīvaramādāya yena keṇiyassa jaṭilassa assamo
tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi, saddhiṃ
bhikkhusaṅghena. Atha kho keṇiyo jaṭilo buddhapamukhaṃ
bhikkhusaṅghaṃ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā
santappesi sampavāresi.
|
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn
đă quấn y (nội) rồi cầm b́nh bát và y đi đến nơi cư ngụ của đạo
sĩ bện tóc Keṇiya, sau khi đến đă ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp
đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, đạo sĩ bện tóc
Keṇiya đă tự tay làm hài ḷng và toại ư hội chúng tỳ khưu có đức
Phật đứng đầu với thức ăn hảo hạng loại cứng loại mềm.
|
Rồi Thế Tôn
vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến tinh xá của bện tóc
Keniya, sau khi đến, liền ngồi trên chỗ đă soạn sẵn cùng với
chúng Tỷ-kheo. Rồi bện tóc Keniya sau khi tự tay mời chúng
Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu và làm cho thỏa măn với các
món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm.
|
|
Atha kho keṇiyo jaṭilo
bhagavantaṃ bhuttāviṃ onītapattapāṇiṃ aññataraṃ nīcaṃ āsanaṃ
gahetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho keṇiyaṃ jaṭilaṃ
bhagavā imāhi gāthāhi anumodi: |
Đến khi đức Thế Tôn đă thọ thực
xong có bàn tay đă rời khỏi b́nh bát, đạo sĩ bện tóc Keṇiya đă
cầm lấy một chiếc ghế thấp rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đạo sĩ
bện tóc Keṇiya đă ngồi xuống ở một bên, đức Thế Tôn đă nói lời
tùy hỷ đến đạo sĩ bện tóc Keṇiya bằng những lời kệ này:
|
Rồi bện tóc Keniya, sau khi Thế
Tôn ăn xong, tay đă rời khỏi bát, liền lấy một ghế ngồi thấp
khác và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với bện tóc Keniya lời
tùy hỷ công đức với những bài kệ sau đây:
|
|
571. Aggihuttamukhā yaññā sāvitti
chandaso mukhaṃ,
rājā mukhaṃ manussānaṃ nadīnaṃ sāgaro mukhaṃ. |
571. “Các
lễ hiến tế có sự cúng tế ngọn lửa là đứng đầu, kinh cổ Sāvittī
là đứng đầu về niêm luật, đức vua là đứng đầu loài người, biển
cả đứng đầu các con sông. |
Tế đàn là tối thượng,
Trong các lễ tế lửa,
Savitti là tối thượng,
Giữa bài thơ Veda.
Vua là bậc tối thượng,
Giữa thế giới loài Người,
Đại dương là tối thượng,
Giữa các loại sông ng̣i.
|
|
572. Nakkhattānaṃ mukhaṃ cando
ādicco tapataṃ mukhaṃ,
puññaṃ ākaṅkhamānānaṃ saṅgho ce yajataṃ mukhanti. |
572.
Mặt trăng đứng đầu các v́ sao, mặt trời đứng đầu các vật tỏa
sáng. Đối với những người mong mỏi phước báu đang cúng dường th́
Tăng Chúng là đứng đầu.”
|
Mặt trăng là tối thượng,
Giữa các v́ sao sáng,
Chúng Tăng thật tối thượng,
Với những ai bố thí,
Tâm mong ước nguyện cầu,
Gặt hái nhiều công đức.
|
|
Atha kho bhagavā keṇiyaṃ jaṭilaṃ
imāhi gāthāhi anumoditvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi. |
Sau đó, khi đă nói lời tùy hỷ đến
đạo sĩ bện tóc Keṇiya bằng những lời kệ này, đức Thế Tôn đă từ
chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. |
Thế Tôn sau khi dùng bài kệ
này nói những lời tùy hỷ công đức với bện tóc Keniya, từ chỗ
ngồi đứng dậy và ra đi.
|
|
Atha kho āyasmā selo sapariso eko
vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto na cirasseva
yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti,
tadanuttaraṃ brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ
abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi. Khīṇā jāti vusitaṃ
brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti abbhaññāsi.
Aññataro ca kho panāyasmā selo sapariso arahataṃ ahosi. |
Sau đó, đại đức Sela
cùng với đồ
chúng , một ḿnh đă
tách riêng, rồi trong khi sống không bị xao lăng, có sự nỗ lực,
có sự quyết tâm nên chẳng bao lâu sau, ngay trong kiếp hiện tại
này, nhờ vào thắng trí của ḿnh đă chứng ngộ, đạt đến, và an trú
vào mục đích tối thượng của Phạm hạnh, v́ mục đích này mà những
người con trai của các gia đ́nh cao quư rời nhà xuất gia một
cách chân chánh sống không nhà. Vị ấy đă biết rằng: “Sự tái sanh
đă cạn kiệt, Phạm hạnh đă sống, việc cần làm đă làm, không c̣n
ǵ khác (phải làm) đối với bản thể (A-la-hán) này nữa.” Và thêm
một vị nữa là đại đức Sela
cùng với đồ
chúng đă trở thành
vị A-la-hán.
|
Rồi Tôn giả Sela với
đồ chúng
sống một ḿnh an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, cần mẫn. Và
không bao lâu, Tôn giả chứng được mục đích tối cao mà các Thiện
nam tử đă xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh hướng
đến. Đó là vô thượng Phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự chứng đạt
và an trú. Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những ǵ nên làm đă
làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa. Vị này biết như
vậy và Tôn giả Sela với hội chúng trở thành các vị A-la-hán. |
|
Atha kho āyasmā selo sapariso
yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā
yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ gāthāhi
ajjhabhāsi.
|
Sau đó, đại đức Sela cùng với đồ
chúng đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đắp y một bên
vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đă nói với đức Thế Tôn
bằng những lời kệ rằng:
|
Rồi Tôn giả Sela với
đồ chúng
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đắp y vào một bên vai, chắp tay
hướng đến Thế Tôn và đọc lên Thế Tôn bài kệ sau đây:
|
|
573. Yaṃ taṃ saraṇamāgamma ito
aṭṭhami cakkhuma,
sattarattena bhagavā dantamha tava sāsane. |
573. “Bạch
đấng Hữu Nhăn, việc chúng con đi đến nương tựa vào Ngài đến nay
là ngày thứ tám. Bạch đức Thế Tôn, chúng con đă được huấn luyện
trong Giáo Pháp của Ngài bảy đêm.
|
Kính bạch bậc Pháp Nhăn,
Cách đây trước tám ngày,
Chúng con đă đến Ngài,
Xin phát nguyện quy y.
Thế Tôn trong bảy đêm,
Đă nhiếp phục chúng con,
Đă chế ngự chúng con,
Trong giáo lư của Ngài. |
|
574. Tuvaṃ buddho tuvaṃ satthā
tuvaṃ mārābhibhū muni,
tuvaṃ anusaye chetvā tiṇṇo tāres’ imaṃ pajaṃ. |
574.
Ngài là đức Phật, Ngài là bậc Đạo Sư, Ngài là bậc hiền trí, đấng
chế ngự Ma Vương. Sau khi cắt đứt các pháp tiềm ẩn và đă vượt
qua, Ngài đưa ḍng dơi này vượt qua.
|
Ngài là bậc Giác Giả,
Ngài là bậc Đạo Sư,
Ngài là bậc Mâu-ni,
Đă chiến thắng quần ma.
Sau khi Ngài đoạn trừ,
Vượt qua biển sanh tử,
Ngài giúp quần sanh này,
Cùng vượt qua bể khổ. |
|
575. Upadhī te samatikkantā āsavā
te padālitā,
sīhosi anupādāno pahīṇabhayabheravo. |
575.
Các mầm tái sanh đă được Ngài hoàn toàn vượt qua, các lậu hoặc
đă được Ngài phá tan, tựa như con sư tử, không c̣n chấp thủ, có
sự sợ hăi và khiếp đảm đă được dứt bỏ.
|
Sanh y Ngài vượt qua,
Lậu hoặc Ngài nghiền nát,
Ngài là Sư tử chúa,
Không chấp, không sợ hăi. |
|
576. Bhikkhavo tisatā ime
tiṭṭhanti pañjalīkatā,
pāde vīra pasārehi nāgā vandantu satthunoti. |
576.
Ba trăm vị tỳ khưu này đứng yên, chắp
tay. Bạch đấng Anh Hùng, xin Ngài hăy duỗi ra các bàn chân. Các
bậc long tượng hăy đảnh lễ (bàn chân của) bậc Đạo Sư.”
|
Ba trăm Tỷ-kheo này,
Đồng chắp tay đứng thẳng,
Ôi anh hùng chiến thắng,
Hăy duỗi chân bước tới.
Hăy để các Đại nhân
Đảnh lễ bậc Đạo Sư. |
|
Selasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh
Sela.
|
|
|
|
|
|
|
<Trang
Trước> |
<Mục Lục><Đầu
Trang> |
<Trang Kế> |
|