VI.
CHAKKANIPĀTO - NHÓM SÁU KỆ NGÔN
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 234: |
Trang 235:
|
▪ 1.
AVĀRIYAVAGGO
|
▪ 1. PHẨM
GĂ CHÈO Đ̉ |
CHƯƠNG
SÁU
(Sáu bài kệ)
(Gs. Trần Phương Lan) |
848. Māssu kujjhi bhūmipati māssu
kujjhi rathesabha,
kuddhaṃ appaṭikujjhanto rājā raṭṭhassa pūjito.
|
848. “Tâu vị chúa tể của trái
đất, xin bệ hạ chớ nóng giận. Tâu đấng thủ lănh xa binh, xin bệ
hạ chớ nóng giận. Trong khi không nóng giận lại với kẻ đă nổi
nóng, đức vua được xứ sở tôn vinh. |
Đừng bao giờ giận, hỡi Minh
quân,
Chúa tể trần gian, chớ hận sân,
Đừng lấy ḷng sân bù mối hận
Quân vương như vậy đáng suy tôn. |
849. Gāme vā yadi vāraññe ninne
vā yadi vā thale,
sabbattha-m-anusāsāmi māssu kujjhi rathesabha.
|
849. Dầu ở làng hoặc ở rừng, dầu
ở đất trũng hoặc ở đất bằng, ở tất cả mọi nơi, thần khuyên bảo
rằng, tâu đấng thủ lănh xa binh, xin bệ hạ chớ nóng giận.” |
Dù ở rừng xanh hoặc ở làng,
Ở trên bờ biển, giữa trùng dương,
Chớ bao giờ giận, ta khuyên nhủ
Măi măi từ nay, hỡi Đại vương. |
850. Avāriyapitā nāma ahu gaṅgāya
nāviko,
pubbe janaṃ tārayitvā pacchā yācati vetanaṃ,
tenassa bhaṇḍanaṃ hoti na ca bhogehi vaḍḍhati.
|
850. “Người cha của nàng Avāriyā
đă là người chèo đ̣ ở sông Gaṅgā.
Gă đưa người qua sông trước, sau đó mới đ̣i hỏi tiền công.
V́ thế, có sự căi lộn dành cho gă, và gă không làm gia tăng các
của cải. |
Chú A-và-ri-ya,
Thuyền lướt sóng Hằng Hà,
Trước tiên đưa du khách,
Rồi mới hỏi tiền phà,
Do vậy ăn đ̣n măi,
Thật xui xẻo, dại khờ! |
851. Atiṇṇaṃyeva yācassu apāraṃ
tāta nāvika,
añño hi tiṇṇassa mano añño hoti taresino.
|
851. Này người chèo đ̣ thân mến,
ông hăy đ̣i hỏi khi người ta c̣n chưa qua đến bờ bên kia. Bởi
v́, người đă qua sông có ư nghĩ khác, người tầm cầu sự qua sông
có ư nghĩ khác. |
Hỏi tiền trước lúc chở qua
sông,
Chớ đến bờ kia hỏi nhọc công,
Chú chở bá nhơn nên bá tánh,
Tánh t́nh thay đổi trước sau luôn. |
852. Gāme vā yadi vāraññe ninne
vā yadi vā thale,
sabbatthamanusāsāmi māssu kujjhi nāvika.
|
852. Dầu ở làng hoặc ở rừng, dầu
ở đất trũng hoặc ở đất bằng, ở tất cả mọi nơi, ta khuyên bảo
rằng, này người chèo đ̣, xin ông chớ nóng giận.” |
Hỏi tiền trước lúc chở qua
sông,
Chớ đến bờ kia hỏi nhọc công,
Chú chở bá nhơn nên bá tánh,
Tánh t́nh thay đổi trước sau luôn. |
853. Yāyevānusāsaniyā rājā
gāmavaraṃ adā,
tāyevānusāsaniyā nāviko paharī mukhaṃ.
|
853. “Chỉ với lời khuyên bảo, đức
vua đă ban cho ân huệ một ngôi làng, với chính lời khuyên bảo
ấy, người chèo đ̣ đă đánh vào mặt. |
Vua nghe lời khuyến thiện, đă
ban
Lợi tức phần ta cả một làng,
Chú lái đ̣ nghe lời khyyến thiện
Lại đánh người cho ngă xuống đàng. |
854. Bhattaṃ bhinnaṃ hatā bhariyā
gabbho ca patito chamā,
migova jātarūpena na tenatthaṃ avaḍḍhitun ”ti.
1. Avāriyajātakaṃ.
|
854. Bữa ăn bị vỡ tan, người vợ
bị đánh, và bào thai bị sẩy rơi ở mặt đất. Tựa như con thú với
khổi vàng, gă chèo đ̣ không làm tăng trưởng lợi ích với lời
khuyên bảo ấy.”
1. Bổn sanh Gă Chèo Đ̣.
|
Cơm đổ, vợ y đánh tả tơi,
Thai nhi chết trước lúc ra đời,
Lời khuyên cho kẻ này vô dụng
Như vàng ṛng tặng thú hoang thôi.
Câu chuyện
376 |
855. Mā tāta kujjhi na hi sādhu
kodho
bahumpi te adiṭṭhaṃ assutañca,
mātā pitā disatā setaketu
ācariyamāhu disataṃ pasatthā.
|
855. “Này con, chớ nóng giận bởi
v́ sự giận dữ là không tốt,
cũng có nhiều việc con chưa được thấy và chưa được nghe.
Này Setaketu, mẹ cha là phương hướng,
các bậc xuất chúng đă nói thầy dạy học là phương hướng. |
Hiền hữu, hận sân chẳng lợi
ǵ,
Trí cao vượt quá chuyện ḿnh nghe:
"Một phương" phải hiểu là cha mẹ,
"Thầy giáo" được dùng chí hướng kia. |
856. Agārino annadapānavatthadā
avhāyikā tampi disaṃ vadanti,
esā disā paramā setaketu
yaṃ patvā dukkhī sukhino bhavanti.
|
856. Các gia chủ, những người cho
cơm ăn, cho nước uống và vải mặc,
các bậc Thánh nhân nói hạng người ấy cũng là phương hướng.
Này Setaketu, phương hướng kia là tuyệt đối (Niết Bàn),
sau khi đạt đến nơi ấy, những kẻ khổ đau trở nên an lạc.”
|
"Gia chủ" cho y phục, uống ăn,
Cửa thường rộng mở, chính là "phương",
C̣n "phương" trong nghĩa cao siêu nhất:
"Trạng thái vô ưu, lạc Niết-bàn". |
857. Kharājinā jaṭilā paṅkadantā
dumukkharūpā ye me japanti mante,
kacci nu te mānusike payoge
idaṃ vidū parimuttā apāyā.
|
857. “Có y da dê thô cứng, tóc
bện, có răng bị đóng bợn, có bộ dạng lấm lem dơ bẩn, các vị này
lẩm nhẩm các chú thuật, phải chăng các vị ấy, trong sự rèn luyện
thuộc về nhân gian, là những vị hiểu biết thế gian này, và đă
được hoàn toàn thoát khỏi các đọa xứ?" |
Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc
bện,
Miệng th́ thầm kinh thánh, dáng b́nh an,
Chẳng từ nan mọi phương tiện hiền nhân,
Chắc đă đạt Chân như và Giải thoát. |
Trang 236: |
Trang 237:
|
858. Pāpāni kammāni karitva rāja
bahussuto neva careyya dhammaṃ,
sahassavedāpi na taṃ paṭicca
dukkhā pamuñce caraṇaṃ apatvā.
|
858. “Tâu bệ hạ, sau khi làm các
hành động xấu xa, người có nhiều kiến thức c̣n có thể không thực
hành
thiện
pháp. Người đă không đạt được sự thực hành, dầu có một
ngàn sự hiểu biết, không v́ điều ấy mà có thể thoát khỏi khổ
đau.” |
Một trí nhân có thể làm ác
hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn. |
859. Sahassavedopi na taṃ paṭicca
dukkhā pamuñce caraṇaṃ apatvā,
maññāmi vedā aphalā bhavanti
sasaññamaṃ caraṇaññeva saccaṃ.
|
859. “Người đă không đạt được sự
thực hành, dầu có một ngàn sự hiểu biết, không v́ điều ấy mà có
thể thoát khỏi khổ đau. Ta nghĩ rằng các sự hiểu biết là không
có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là chân lư.
|
Một trí nhân có thể làm ác
hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngài bảo Vệ-đà là vật không cần,
Chỉ tu tập điều thân là thiết yếu. |
860. Naheva vedā aphalā bhavanti
sasaṃyamaṃ caraṇañceva saccaṃ,
kittiṃ hi pappoti adhicca vede
santaṃ punoti caraṇena danto ”ti.
2. Setaketujātakaṃ.
|
860. “Các sự hiểu biết không hẳn
là không có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là
chân lư. Bởi v́ người sau khi học tập các sự hiểu biết th́ đạt
được danh tiếng, c̣n với sự thực hành, người đă được huấn luyện
đạt đến sự an tịnh.”
2. Bổn sanh Bà-la-môn Setaketu.
|
Không, Vệ-đà không hoàn toàn
vô dụng,
Dù điều thân tu tập: đạo chánh chân,
Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
Song ta đạt Tối an nhờ chánh hạnh.
Câu chuyện
377 |
861. Paṅko ca kāmā palipo ca kāmā
bhayañca metaṃ timūlaṃ pavuttaṃ,
rajo ca dhūmo ca mayā pakāsitā
hitvā tuvaṃ pabbaja brahmadatta.
|
861. “Các dục là bùn nhơ, và các
dục là băi lầy,
và sự sợ hăi với ba gốc rễ này đă được ta nói đến,
bụi bặm và khói mù đă được ta giảng giải,
sau khi từ bỏ, này Brahmadatta, xin đức vua hăy xuất gia.”
|
Dục lạc chỉ là đám bùn dơ bẩn
"Nỗi kinh hoàng ba gốc" được gọi là,
Ta bảo rằng khói bụi với sương sa,
Hăy bỏ chúng, xuất gia ĺa thế tục. |
862. Gathito ca ratto
adhimucchito ca
kāmesvāhaṃ brāhmaṇa bhiṃsarūpaṃ,
taṃ nussahe jīvikattho pahātuṃ
kāhāmi puññāni anappakāni.
|
862. “Này Bà-la-môn, trẫm bị
vướng mắc, bị luyến ái, bị mê đắm trong các dục. Là người tầm
cầu mạng sống, trẫm không thể dứt bỏ dục có dáng vẻ hung tợn ấy.
Trẫm sẽ làm không ít các phước thiện.” |
Trẫm say đắm, lún sâu bùn tham
dục,
Bà-la-môn, dục lạc đáng kinh thay,
Song yêu đời, trẫm không thể bỏ ngay,
Trẫm xin nguyện suốt đời làm thiện sự. |
863. Yo atthakāmassa
hitānukampino
ovajjamāno na karoti sāsanaṃ,
idameva seyyo iti maññamāno
punappunaṃ gabbhamupeti mando.
|
863. “Trong khi được giáo huấn
bởi người có ḷng thương tưởng đến điều lợi ích, bởi người có
ḷng mong muốn sự tiến bộ, kẻ nào không làm theo lời giáo huấn,
trong khi nghĩ rằng: ‘Chính điều này là tốt hơn,’ kẻ ngu muội đi
đến thai bào lần này đến lần khác.
|
Ai bác bỏ lời bạn hiền khuyên
nhủ,
Thương xót và mong bạn tránh đọa đày,
Cứ tưởng rằng: "Cơi thế tốt lành thay",
Sẽ không dứt tái sinh đầu thai măi. |
864. So ghorarūpaṃ nirayaṃ upeti
subhāsubhaṃ muttakarīsapūraṃ,
sattā sakāye na jahanti giddhā
ye honti kāmesu avītarāgā.
|
864. Kẻ ấy đi đến bào thai, ví
như địa ngục, có dáng vẻ ghê rợn, nơi không đẹp đẽ đối với những
người tốt lành, bị ngập tràn bởi nước tiểu và phân. Những kẻ nào
có sự luyến ái chưa được xa ĺa khỏi các dục, những kẻ ấy bị
dính mắc, bị thèm khát, chúng không từ bỏ bụng mẹ.
|
Nơi đày đọa đáng kinh: phần kẻ
ấy
Đầy vật dơ, bị người thiện chê bai,
Kẻ tham kia dục vọng chẳng hề rời,
Thân xác chứa ngập đầy mầm nhục dục. |
865. Mīḷhena littā ruhirena
makkhitā
semhena littā upanikkhamanti,
yaṃ yaṃ hi kāyena phusanti tāvade
sabbaṃ asātaṃ dukkhameva kevalaṃ.
|
865. Chúng chào đời, bị lấm lem
bởi phẩn, bị bôi trét bởi máu, bị lấm lem bởi đàm. Vào khi ấy,
bất cứ cái ǵ chúng chạm đến bằng thân, tất cả đều không có
khoái lạc, toàn bộ chỉ là khổ đau.”
|
Đầu máu mủ, vật hôi tanh thế
tục,
Mọi hữu t́nh đều phải chịu tái sinh,
Những vật ǵ xúc chạm suốt đời ḿnh,
Chỉ cốt để đem khổ đau trần giới. |
Trang 238:
|
Trang 239:
|
866. Disvā vadāmi nahi aññato
savaṃ
pubbenivāsaṃ bahukaṃ sarāmi,
citrāhi gāthāhi subhāsitāhi
darīmukho nijjhāpayī sumedhan ”ti.
3. Darīmukhajātakaṃ.
|
866. “Ta nói, sau khi nh́n thấy,
không phải trong khi nghe từ người khác.
Ta nhớ lại vô số kiếp sống trước
đây.
Với những kệ ngôn phong phú đă
được khéo nói,
đức Phật Độc Giác Darīmukha đă
giúp cho vị vua khôn ngoan thấu hiểu.”
3. Bổn sanh Bà-la-môn Darīmukha.
|
Ta nói lên những điều ta trông
thấy,
Chứ không lo người khác nói ta nghe,
Ta nhớ rành các đời kiếp xưa kia.
Da-ri-muk đă rót vào tai bạn
Su-me-dha lắm vần kệ ngọt ngào,
Hiển bày ra cả trí tuệ tối cao.
Câu chuyện
378 |
867. Kākoḷā kākasaṅghā ca mayañca
patataṃ varā,
sabbeva sadisā homa imaṃ āgamma pabbataṃ.
|
867. “Các con quạ đen, các bầy
quạ thường, và chúng ta là cao quư trong số các loài có cánh;
toàn bộ tất cả chúng ta trở nên giống nhau về màu sắc sau khi đi
đến ngọn núi này. |
Hai chúng ta là loài chim ưu
tú
Trên núi này bên đám quạ, diều hâu,
Cả mọi loài cùng chỉ có một màu: |
868. Idha sīhā ca vyagghā ca
sigālā ca migādhamā,
sabbeva sadisā honti ayaṃ ko nāma pabbato.
|
868. Ở nơi này, các con sư tử,
các con hổ, và các con chó rừng là thấp kém trong số các loài
thú; toàn bộ tất cả chúng ta trở nên giống nhau về màu sắc. Ngọn
núi này có tên là ǵ?” |
Chó hạ liệt đua tranh cùng
loài hổ,
Và với chúa sơn lâm: đàn sư tử
Vậy núi này có tên gọi là sao? |
869. Imaṃ nerunti jānanti manussā
pabbatuttamaṃ,
idha vaṇṇena sampannā vasanti sabbapāṇino.
|
869. “Mọi người đều biết ngọn núi
tên Neru này là ngọn núi hạng nhất. Tất cả các sinh vật sống ở
nơi này đều có màu sắc vàng.” |
Ne-ru là tên gọi Núi tối cao,
Ở nơi đây muôn loài đều vàng óng. |
870. Amānanā yattha siyā santānaṃ
vā vimānanā,
hīnasammānanā vā ’pi na tattha vasatiṃ vase.
|
870. “Nơi nào có sự không kính
trọng hoặc có sự xem thường đối với những người tốt, hoặc thậm
chí có sự kính nể đối với những kẻ hạ liệt, không nên sống ở nơi
ấy. |
Hễ nơi nào thiện nhân không
được trọng,
Hoặc ít hơn người khác, hăy đi liền, |
871. Yatthālaso ca dakkho ca sūro
bhīru ca pūjiyā,
na tattha santo nivasanti avisesakare nage.
|
871. Nơi nào kẻ lười biếng và
người khôn khéo, bậc dũng cảm và kẻ nhút nhát đều được tôn vinh,
những người tốt không sống nơi đó, ở ngọn núi có sự hành xử
không phân biệt. |
Dẫu hiền ngu, can đảm hoặc ươn
hèn,
Đều nhất loạt được tôn sùng b́nh đẳng,
Thiện nhân chẳng thể cùng ngươi chung sống,
Hỡi Núi cao không phán đoán phân minh! |
872. Nāyaṃ neru vibhajati
hīnamukkaṭṭhamajjhime,
avisesakaro neru handa neruṃ jahāmase ”ti.
4. Nerujātakaṃ.
|
872. Núi Neru này không phân loại
hạ liệt, ưu tú, hay trung b́nh. Núi Neru có sự hành xử không
phân biệt. Nào, chúng ta nên ĺa bỏ núi Neru.”
4. Bổn sanh Núi Neru.
|
Dầu tối ưu, hạ liệt, hoặc
trung b́nh,
Ne-ru cũng chẳng thể nào suy xét,
Vậy, hỡi ôi! Chúng ta đành từ biệt
Núi Ne-ru không biết lẽ biệt phân.
Câu chuyện
379 |
873. Āsāvatī nāma latā jātā
cittalatāvane,
tassā vassasahassena ekaṃ nibbattate phalaṃ,
taṃ devā payirupāsanti tāva dūraphalaṃ satiṃ.
|
873. “Dây leo tên āsāvatī
mọc ở khu vườn Cittalatāvana (thuộc cơi trời), một ngàn năm, nó
chỉ sanh ra một trái. Chư Thiên trông chừng cây ấy cho đến khi
có được trái cây lâu năm (mới ra quả ấy). |
À-sà-ti mọc trên vườn Thiên
giới
Một ngàn năm chỉ sinh trái một lần,
Chư Thiên hằng kham nhẫn măi chờ trông. |
874. Āsiṃseva tuvaṃ rāja āsā
phalavatī sukhā,
āsiṃsetheva so pakkhī āsiṃsetheva so dijo.
|
874. Tâu bệ hạ, bệ hạ hăy luôn
ước nguyện. Niềm ao ước có được sự kết trái là hạnh phúc. Loài
chim ấy cũng luôn ước nguyện, loài lưỡng sanh ấy cũng luôn ước
nguyện. |
Quá hy vọng, Đại vương, đầy
ngon ngọt,
Chim hy vọng không bao giờ tổn thất,
Nó đạt tṛn mong ước dẫu xa vời. |
875. Tassa cāsā samijjhittha tāva
dūragatā satī,
āsiṃseva11 tuvaṃ rāja āsā phalavatī sukhā.
|
875. Và niềm ao ước của con chim
đă được thành tựu dầu cho đă đi đến nơi xa xôi. Tâu bệ hạ, bệ hạ
hăy luôn ước nguyện. Niềm ao ước có được sự kết trái là hạnh
phúc.”
|
Tâu Đại vương, quá hy vọng
ngọt bùi!
Cứ hy vọng, Đại vương, hy vọng măi. |
Trang 240: |
Trang 241:
|
876. Sampesi kho maṃ vācāya na ca
sampesi kammunā,
mālā sereyyakasseva vaṇṇavantā agandhikā.
|
876. “Nàng quả thật đă làm ta hài
ḷng với lời nói, nhưng chưa làm hài ḷng bằng hành động, tựa
như tràng hoa sereyyaka có sắc không hương. |
Lời nói nàng nghe quả thật dịu
êm,
Song hành động không thỏa ḷng mong đợi.
Hoa hữu sắc vô hương là cỏ dại, |
877. Aphalaṃ madhuraṃ vācaṃ yo
mittesu pakubbati,
adadaṃ avissajaṃ bhogaṃ sandhi tenassa jīrati.
|
877. Người nào bày tỏ lời nói
ngọt ngào với các bạn bè nhưng không có kết quả, không bố thí,
không ban phát của cải, sự liên kết về t́nh bạn với người ấy bị
phai nhạt. |
Lời hứa kia dẫu đẹp chẳng thi
hành
Với bạn thân, ta phải ném cho nhanh,
Chẳng đem tặng, cứ để dành măi măi,
T́nh bạn kia tất nhiên là suy thoái. |
878. Yaṃ hi kayirā taṃ hi vade
yaṃ na kayirā na taṃ vade,
akarontaṃ bhāsamānaṃ parijānanti paṇḍitā.
|
878. Có thể làm điều ǵ th́ nên
nói điều ấy, không thể làm điều ǵ th́ không nên nói điều ấy.
Các bậc sáng suốt biết rơ người nói mà không làm. |
Ta chỉ nên hứa trước việc ḿnh
làm,
Đừng hứa suông những việc chẳng đảm đang.
Nếu ta nói mà không làm phận sự,
Các trí nhân xét xem liền thấy rơ. |
879. Balañca vata me khīṇaṃ
pātheyyañca na vijjati,
saṅke pāṇūparodhāya handandāni vajāmahaṃ.
|
879. Thật sự sức lực của trẫm bị
cạn kiệt, và lương thực dự trữ không c̣n, trẫm hoài nghi về sự
tiêu tùng của mạng sống. Nào, giờ đây, trẫm ra đi.” |
Đạo quân ta hao tổn, cạn kho
lương,
Ta hoài nghi đời sống đă suy tàn,
Đă đến lúc ra đi, đành từ biệt. |
880. Etadeva hi me nāmaṃ yaṃ
nāmasmiṃ rathesabha,
āgamehi mahārāja pitaraṃ āmantayāmahan ”ti.
5. Āsaṅkajātakaṃ.
|
880. “Tâu đấng thủ lănh xa binh,
chính tiếng ấy đúng là tên của thiếp, thiếp có tên ấy. Tâu đại
vương, xin bệ hạ hăy đi dến gặp cha, thiếp xin thỉnh mời.”
5. Bổn sanh Nàng Āsaṅkā.
|
Tâu Đại vương, vừa nói ra tên
thiếp,
Hăy đến ngay, cha thiếp nhận cầu hôn.
Câu chuyện
380 |
881. Na me rucci migālopa yassa
te tādisā gati,
atuccaṃ tāta patasi abhūmiṃ tāta sevasi.
|
881. “Này Migālopa, đường bay của
con như thế ấy không làm cho cha ưa thích. Này con, con bay quá
cao. Này con, con lai văng vùng ở ngoài địa phận. |
Đường con bay bổng, hỡi con
thân,
Cha thấy chúng sao thật bất an,
Con vụt lên cao xa quá mức,
Vượt vùng ta sống thật an toàn. |
882. Catukkaṇṇaṃva kedāraṃ yadā
te paṭhavī siyā,
tato tāta nivattassu māssu etto paraṃ gami.
|
882. Khi nào đối với con, quả đất
trở thành tựa như khoảnh đất h́nh vuông, này con, từ nơi ấy con
nên quay trở lại, chớ bay cao hơn nơi ấy. |
Khi đất chỉ là một băi vuông
Hiện ra phía trước mắt con trông,
Th́ nên quay lại thôi con nhé,
Đừng táo bạo bay vút giữa không. |
883. Santi aññepi sakuṇā
pattayānā vihaṅgamā,
akkhittā vātavegena naṭṭhā te sassatīsamā.
|
883. Cũng có những loài chim khác
có sự di chuyển bằng cặp cánh, có sự đi lại ở không trung, bị
cuốn đi bởi sức mạnh của gió; chúng bị bỏ mạng, trong lúc nghĩ
rằng ḿnh là trường cửu.”
|
Chim sải cánh bay tận cơi
không,
Chúng thường gặp băo tố cuồng phong,
Khi đang nỗ lực lên cao măi,
V́ chúng kiêu căng phải mạng vong. |
884. Akatvā aparaṇṇassa pitu
vuddhassa sāsanaṃ,
kāḷe vāte atikkamma verambānaṃ vasaṃ gato.
|
884. “Chim kên kên Migālopa đă
không làm theo lời dạy của con chim cha già cả tên Aparaṇṇa. Nó
đă vượt quá làn gió đen và đă đi vào vùng tác động của các luồng
gió Veramba. |
Khinh lời khuyên nhủ thật khôn
ngoan
Của đấng lăo thân, gặp Hắc Phong,
Tên gọi Ve-ram-bha Băo tố, |
885. Tassa puttā ca dārā ca ye
caññe anujīvino,
sabbe vyasanamāpāduṃ anovādakare dije.
|
885. Các chim con, các con chim
mái, và những những con chim khác sống phụ thuộc vào nó, tất cả
đều gánh chịu điều bất hạnh khi con chim kên kên Migālopa không
làm theo lời giáo huấn (của chim cha).
|
Vợ con, gia sản phải tan hoang. |
886. Evampi idha vuddhānaṃ yo
vākyaṃ nāvabujjhati,
atisīmaṃ caro ditto gijjhovātītasāsano,
sabbe saṃkhya napapponti akatvā buddhasāsanan ”ti.
6. Migālopajātakaṃ.
|
886. Cũng y như vậy, ở đây người
nào không
nhận chân
được lời nói của các bậc
trưởng thượng, kẻ ấy có sự hành xử vượt quá giới hạn, cao ngạo,
tựa như con chim kên kên đă vượt qua lời chỉ dạy. Sau khi không
thực hành lời dạy của đức Phật, tất cả không đạt được sự hiểu
biết.”
6. Bổn sanh Kên Kên Migālopa.
|
Do vậy những ai chẳng chú tâm
Nghe lời huynh trưởng vẫn khuyên răng,
Như chim kiêu mạn bay đi lạc,
Bất phục lệnh trên, gặp tử thần.
Câu chuyện
381 |
Trang 242:
|
Trang 243:
|
887. Kā nu kāḷena vaṇṇena na cāsi
piyadassanā,
kā vā tvaṃ kassa vā dhītā kathaṃ jānemu taṃ mayaṃ.
|
887. “Nàng nào có màu da đen, và
không có vẻ đáng mến? Nàng là ai, hoặc là con gái của ai, làm
thế nào chúng tôi có thể biết về nàng?” |
Ai đây xanh thẩm
hóa đen huyền,
Không khả ái đâu trước mắt nh́n,
Con gái nhà ai, nàng ấy nhỉ,
Làm sao ta biết, hỡi cô tiên? |
888. Mahārājassahaṃ dhītā
virūpakkhassa caṇḍiyā,
ahaṃ kāḷī alakkhikā kāḷakaṇṇīti maṃ vidū,
okāsaṃ yācito dehi vasemu tava santike.
|
888. “Thiếp là con gái của đại
vương Virūpakkha có tánh dữ tợn. Thiếp là Kāḷī,
là người nữ
bất hạnh. Người ta
biết rơ thiếp là Kāḷakaṇṇī. Được yêu cầu về chỗ ngụ, xin ngài
hăy ban cho. Hăy để cho bọn thiếp cư ngụ bên cạnh ngài.” |
Quảng Mục Thiên
vương chính phụ thân,
Kà-li là Bất Hạnh, tai ương,
Xin ngài cho một pḥng lưu trú
Kề cận ngài như dạ ước mong. |
889. Kiṃ sīle kiṃ samācāre purise
nivisase tuvaṃ,
puṭṭhā me kāḷi akkhāhi yathā jānemu taṃ mayaṃ.
|
889. “Nàng để ư đến người nam có
giới đức ǵ, có tánh hạnh ǵ? Này Kāḷī, được tôi hỏi, xin nàng
hăy giải thích cho chúng tôi có thể biết về nàng.” |
Nàng vẫn sống theo
giới hạnh ǵ?
Đường nào nhân thế bước chân đi?
Đây là câu hỏi xin nàng đáp,
Ta muốn chú tâm để lắng nghe. |
890. Makkhī paḷāsī sārambhī
issukī maccharī saṭho,
so mayhaṃ puriso kanto laddhaṃ yassa vinassati.
|
890. “Người nam nào có sự gièm
pha, ác ư, hung hăng, ganh tỵ, bỏn xẻn, lường gạt, kẻ ấy, đối
với thiếp, là người nam đáng yêu; (thiếp sẽ làm cho) phần tài
sản của cải đă đạt được của kẻ ấy bị tiêu hoại.” |
Giả dối, buông
lung, cáu kỉnh luôn,
Vong ân, tật đố, dạ xan tham,
Ác nhân, ta giúp thành công để
Thắng lợi làm cho chúng diệt vong. |
891. Kodhano upanāhī ca pisuno ca
vibhedako,
kaṇṭakavāco pharuso so me kantataro tato.
|
891. “Người nam nào giận dữ, thù
hằn, đâm thọc, và là kẻ ly gián, có lời nói xóc xỉa, thô lỗ, kẻ
ấy, đối với thiếp, là người nam đáng yêu hơn người kia. |
Sâu hận lại c̣n
thân thiết hơn,
Giao tranh, phỉ báng, lẫn hung tàn, |
892. Ajjasuveti puriso sadatthaṃ
nāvabujjhati,
ovajjamāno kuppati seyyaso atimaññati.
|
892. Người nam không nhận chân
được việc có lợi ích (nghĩ rằng): ‘Việc hôm nay, hăy để đến ngày
mai,’ là kẻ bị bực tức trong khi được giáo huấn, khi dể người
vượt trội ḿnh. |
Kẻ ngu không biết
người lương thiện,
Oán ghét lời khuyên, lẫn thiện nhân. |
893. Davappaluddho puriso
sabbamittehi dhaṃsati,
so mayhaṃ puriso kanto tasmiṃ homi anāmayā.
|
893. Người nam bị dính mắc vào
các thú vui, bị các bạn bè ruồng bỏ, kẻ ấy, đối với thiếp, là
người nam đáng yêu; thiếp không phải sầu khổ với kẻ ấy.” |
Người nào hành
động trí ngu si,
Bằng hữu thảy đều phải chán chê,
Kẻ ấy với ta là bạn đó,
Ta t́m lạc thú ở người kia. |
894. Apehi etto tvaṃ kāḷi netaṃ
amhesu vijjati,
aññaṃ janapadaṃ gaccha nigame rājadhāniyo.
|
894. “Này Kāḷī, nàng hăy đi khỏi
đây, các điều ấy không t́m thấy ở chúng tôi. Nàng hăy đi đến xứ
sở khác, đến các thị trấn, đến các kinh thành.” |
Kà-li, nàng hăy
bước đi ngay,
Chẳng có ǵ vui thú ở đây,
Hăy đến các kinh thành xứ khác,
Biến nhanh ra khỏi chốn này. |
895. Ahampi kho taṃ jānāmi netaṃ
tumhesu vijjati,
santi loke alakkhikā saṅgharanti bahuṃ dhanaṃ,
ahaṃ devo ca me bhātā ubho naṃ vidhamāmase.
|
895. “Quả thật, thiếp cũng biết
được chàng, các điều ấy không t́m thấy ở chàng. Ở thế gian có
những kẻ không may mắn, họ tom góp được nhiều tài sản, thiếp và
vị Thiên nhân anh trai của thiếp, cả hai người thiếp có thể làm
tiêu tan tài sản ấy.” |
Ta vẫn biết ngài
rơ lắm thay,
Không ǵ vui thú ở nơi đây,
Những người ác tạo nhiều mưu kế,
Huynh đệ ta làm biến mất ngay. |
896. Kā nu dibbena vaṇṇena
pathabyā suppatiṭṭhitā,
kā vā tvaṃ kassa vā dhītā kathaṃ jānemu taṃ mayaṃ.
|
896. “Nàng nào đă khéo hiện ra ở
trái đất với màu sắc thuộc cơi Trời? Nàng là ai, hoặc là con gái
của ai, làm thế nào chúng tôi có thể biết về nàng?”
|
Ai đây màu sáng
chói Thiên thần
Trên đất b́nh yên, dáng thật chân,
Con gái nhà ai, nàng ấy nhỉ,
Làm sao ta biết, hỡi tiên nương? |
Trang 244: |
Trang 245: |
897. Mahārājassahaṃ dhītā
dhataraṭṭhassa sirīmato,
ahaṃ sirī ca lakkhī ca bhūripaññāti maṃ vidū,
okāsaṃ yācito dehi vasemu tava santike.
|
897. “Thiếp là con gái của đại
vương Dhataraṭṭha có sự vinh quang. Thiếp là Sirī, và là người
nữ may mắn. Người ta biết rơ thiếp là Bhūripaññā. Được yêu cầu
về chỗ ngụ, xin ngài hăy ban cho. Hăy để cho chúng tôi cư ngụ
bên cạnh ngài.” |
Tŕ Quốc Thiên
vương chính phụ thân,
Ta là Hạnh Phúc, trí am tường,
Thế nhân tán tụng, xin an trú
Đại sảnh cùng ngài dạ ước mong. |
898. Kiṃ sīle kiṃ samācāre purise
nivisase tuvaṃ,
puṭṭhā me lakkhi akkhāhi yathā jānemu taṃ mayaṃ.
|
898. “Nàng để ư đến người nam có
giới đức ǵ, có tánh hạnh ǵ? Này người nữ may mắn, được tôi
hỏi, xin nàng hăy giải thích cho chúng tôi có thể biết về nàng.” |
Nàng vẫn sống theo
giới hạnh ǵ?
Đường nào nhân thế bước chân đi?
Đây là câu hỏi xin nàng đáp,
Ta muốn chú tâm để lắng nghe. |
899. Yo cāpi sīte athavāpi uṇhe
vātātape ḍaṃsasiriṃsape ca,
khudaṃ pipāsaṃ abhibhuyya sabbaṃ
rattindivaṃ yo satataṃ niyutto,
kālāgatañca na hāpeti atthaṃ
so me manāpo nivaseva tamhi.
|
899. “Người nam nào chịu đựng tất
cả các sự lạnh hoặc là nóng, gió và nắng, ruồi và các loài ḅ
sát, đói, khát, người nam nào đêm ngày thường xuyên gắn bó (với
bổn phận), và không bê trễ việc lợi ích khi thời điểm đến, người
ấy là ưng ư đối với thiếp; thiếp để ư đến người ấy. |
Người nào dù nóng,
lạnh, phong ba,
Đói khát, ruồi gây bệnh, độc xà,
Phận sự ngày đêm làm tṛn vẹn,
Ta luôn quư mến sống cùng nhà.
|
900. Akkodhano mittavā cāgavā ca
sīlūpapanno asaṭhojubhūto,
saṅgāhako sakhilo saṇhavāco
mahattapattopi nivātavutti.
|
900. Người nam nào không giận dữ,
có sự thân thiện, và có sự xả thí,
có giới hạnh, không lường gạt, có bản tính ngay thẳng,
là người hào phóng, nói năng tử tế, có lời nói mềm mỏng,
dầu đạt được địa vị lớn lao, cũng vẫn có thái độ khiêm tốn.
|
Nhă nhặn, thiết
thân, hạnh chánh chân,
Khoan dung, thẳng thắn, dạ b́nh an,
Tín thành, thiện cảm, đầy kham nhẫn,
Ta điểm tô thêm mọi phước phần, |
901. Tasmāhaṃ pose vipulā bhavāmi
ummī samuddassa yathāpi vaṇṇaṃ,
yo cāpi mitte athavā amitte
seṭṭhe sarikkhe athavāpi hīne.
|
901. 902. V́ thế, ở nơi người nam
ấy, thiếp trở nên không c̣n nhỏ bé, cũng giống như đối với những
người đang quan sát màu sắc của biển cả, th́ các làn sóng đang
tiến đến chồng lên nhau đường như có vẻ đồ sộ. Và người nam nào,
đối với bạn hay thù, đối với người xuất sắc, tương đương, hoặc
kém cỏi, trong lúc thực hành điều lợi ích hay là không lợi ích,
có thể vận hành sự tiếp độ trực tiếp hay gián tiếp, không nói
lời thô lỗ bất cứ lúc nào, thiếp là thuộc về người nam ấy, dầu
đă chết hay c̣n sống. |
Như sóng lan dần
trên biển cả,
Một màu sáng chói ngập trùng dương.
Với bạn thân hay chẳng bạn thân,
Với người hơn, kém, hoặc ngang hàng, |
902. Atthaṃ carantaṃ athavā
anatthaṃ
āvī raho saṅgahameva vatte,
vācaṃ na vajjā pharusaṃ kadāci
matassa jīvassa ca tassa homi.
|
Ác nhân hay cả cừu
nhân nữa,
Dù tối trời hay giữa ánh quang,
Những kẻ nhân từ không ác ngữ
Tử sinh ta măi kết thân bằng. |
903. Etesa yo aññataraṃ labhitvā
kantā sirī majjati appapañño,
taṃ dittarūpaṃ visamaṃ carantaṃ
karīsajātaṃ va vivajjayāmi.
|
903. Người nam nào đă đạt được
một đức tính nào đó trong số các đức tính này, là kẻ thiểu trí
(nghĩ rẵng): ‘Nàng Sirī đáng yêu say mê ta,’ thiếp tránh xa kẻ
có bản chất ngạo mạn, đang hành xử không nhất quán ấy, tựa như
tránh xa đống phân. |
Song nếu kẻ ngu
được mến thương
Lại sinh ngạo mạn với kiêu căng,
Con đường bất thiện đầy ngoan cố,
Ta tránh xa như một vũng bùn. |
904. Attanā kurute lakkhiṃ
alakkhiṃ kurutattanā,
na hi lakkhiṃ alakkhiṃ vā añño aññassa kārako ”ti.
7. Sirikālakaṇṇijātakaṃ.
|
904. Mỗi người tự bản thân tạo ra
sự may mắn, tự bản thân tạo ra sự bất hạnh, bởi v́ không ai là
người tạo ra may mắn hay bất hạnh cho người khác.”
7. Bổn sanh Tiên Nữ Sirī và Kālakaṇṇī.
|
Họa, phúc nghiệp
riêng mỗi bản thân,
Chẳng ai tạo nghiệp của tha nhân,
Một người không thể gây tai họa,
Hạnh phúc cho ai ở cơi trần.
Câu chuyện
382 |
Trang 246: |
Trang 247: |
905. Sucittapattacchadana
tambacūḷa vihaṅgama,
oroha dumasākhāya mudhā bhariyā bhavāmi te.
|
905. “Hỡi loài chim có lớp vỏ bọc
bằng lông với màu sắc sặc sỡ, có mồng đỏ chói, từ nơi cành cây
chàng hăy đáp xuống, thiếp sẽ là người vợ không sính lễ của
chàng.” |
Chim có cánh hồng sáng rực
sao,
Mồng cao rũ xuống đẹp dường bao,
Thiếp nay ước muốn nên chồng vợ,
Bỏ cây xuống với thiếp đây nào! |
906. Catuppadī tvaṃ kalyāṇi
dvipadāhaṃ manorame,
migī pakkhī asaṃyuttā aññaṃ pariyesa sāmikaṃ.
|
906. “Này người đẹp, nàng có bốn
chân. Này cô nàng quyến rũ, ta có hai chân. Loài thú và loài
chim không kết hợp được, nàng hăy t́m kẻ khác làm chồng.” |
Cô nàng quyến rủ, đẹp xinh ôi!
Nàng có bốn chân, tôi chỉ hai,
Chim, thú không bao giờ kết hợp,
Hăy t́m chàng khác thật cân đôi. |
907. Komārikā te hessāmi mañjukā
piyabhāṇinī,
vinda maṃ ariyena vedena sāvayā maṃ yadicchasi.
|
907. “Thiếp sẽ là người vợ trinh
nguyên của chàng, có giọng nói ngọt ngào, có lời nói đáng yêu.
Chàng hăy tiếp nhận thiếp với niềm vui thánh thiện, nếu chàng
muốn chàng có thể tuyên bố thiếp là nữ tỳ.” |
Thiếp dâng chàng sắc đẹp thanh
xuân,
Lời nói dịu êm nhă nhặn luôn,
Làm vợ quư yêu hay thị nữ,
Tùy nghi đối xử hợp phu quân. |
908. Sakuṇādini lohitape cori
kukkuṭapothini,
na tvaṃ ariyena vedena mamaṃ bhattāramicchasi.
|
908. “Này cô nàng hút máu các
loài chim, này nữ tặc, này cô nàng sát hại gà trống, nàng muốn
ta làm chồng không v́ niềm vui thánh thiện.” |
Con Mèo hút máu họ nhà Gà,
Cướp giết bạo tàn thật xấu xa,
Vợ quư ư? Không hề quư trọng
Trong ḷng Mèo lúc tán dương ta. |
909. Evampi caturā nārī disvāna
pavaraṃ naraṃ,
nenti saṇhāhi vācāhi biḷārī viya kukkuṭaṃ.
|
909. “Cũng tương tự như vậy,
những người nữ khôn lanh, sau khi nh́n thấy người nam cao quư,
th́ dụ dỗ bằng những lời nói mềm mỏng, ví như con mèo cái dụ dỗ
con gà trống. |
Vậy khi chúng thấy một anh
hùng,
Cả bầy nhi nữ thật tinh khôn
Cố t́m cách để ḥng lôi cuốn.
(Cứ xem Mèo cái với Kê vương). |
910. Yo ve uppatitaṃ atthaṃ na
khippamanubujjhati,
amittavasamanveti pacchā ca-m-anutappati.
|
910. Thật vậy, người nào không
mau chóng nhận biết sự việc đă nảy sanh, rồi đi theo sự khống
chế của kẻ thù, về sau sẽ hối tiếc. |
Ai không đối phó trước nguy
nan
Đành phải ngă dài ở dưới chân
Cúi mặt phục tùng ngay địch thủ,
Trong niềm uất hận lẫn đau buồn. |
911. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ
khippameva nibodhati,
muccate sattusambādhā kukkuṭova biḷariyā ”ti.
8. Kukkuṭajātakaṃ.
|
911. Và người nào nhận chân sự
việc đă nảy sanh thật mau chóng, người ấy
thoát khỏi sự ngược đăi của kẻ thù, tựa như con gà trống với con mèo cái vậy.”
8. Bổn sanh Con Gà Trống.
|
Người kịp thời xem xét sự t́nh
Gian nguy xảy đến số phần ḿnh,
Như Gà trống lánh xa Mèo cái,
Cừu địch kia, cần tránh thật nhánh.
Câu chuyện
383 |
912. Dhammaṃ caratha ñātayo
dhammaṃ caratha bhaddaṃ vo,
dhammacārī sukhaṃ seti asmiṃ loke paramhi ca.
|
912. “Hăy thực hành đạo đức, này
các bà con. Hăy thực hành đạo đức, điều tốt lành sẽ đến với quư
vị. Người thực hành đạo đức nằm ngủ thoài mái ở đời này và đời
sau.” |
Hành tŕ đức hạnh, hỡi chư
huynh,
Cầu chúc chư huynh đệ phước lành!
Ta nói lại: hành tŕ đức hạnh
Đời này, đời kế đạt an b́nh. |
913. Bhaddako vatayaṃ pakkhī dijo
paramadhammiko,
ekapādena tiṭṭhanto dhammamevānusāsati.
|
913. “Con chim này quả thật là
bậc hiền thiện, loài lưỡng sanh,
bậc đạo đức cao tột. Trong
khi đứng bằng một chân, gă chỉ dạy thuần đạo đức.” |
Chim này chánh hạnh, phước ân
tràn,
Thuyết giảng chỉ cần đứng một chân. |
914. Nāssa sīlaṃ vijānātha
anaññāya pasaṃsatha,
bhutvā aṇḍañca chāpe ca dhammo dhammoti bhāsati.
|
914. “Các người không nhận biết
bản tính của con thú này, đă không biết các ngươi lại ca ngợi.
Sau khi ăn trứng và các chim con, nó luôn nói: ‘Đạo đức, đạo
đức.’ |
Các con không biết tính chim
này
Khi tán các con, ngu dại thay!
"Đức hạnh" nó rao, "đức hạnh" măi,
Rồi ăn cả trứng lẫn con bầy! |
915. Aññaṃ bhaṇati vācāya aññaṃ
kāyena kubbati,
vācāya no ca kāyena na taṃ dhammaṃ adhiṭṭhito.
|
915. Nó nói điều khác bằng lời
nói, nó làm bằng thân điều khác. Bằng lời nói chứ không bằng
thân, nó không đứng vững ở đạo đức ấy.
|
Những điều nó giảng, giọng
thanh thanh,
Song bọn chúng không thể thực hành,
"Đức hạnh" nó ồn ào trống rỗng,
Chánh chân của nó chẳng chân thành. |
Trang 248: |
Trang 249: |
916. Vācāya sakhilo manoviduggo
channo kūpasayova kaṇhasappo,
dhammadhajo gāmanigamāsu sādhu
sammato dujjāno purisena bālisena.
|
916. Nó có sự tử tế về lời nói,
có sự khúc mắc về tâm ư,
tựa như con rắn độc màu đen ẩn nấp ở trong hang hốc,
có biểu hiện đạo đức, là người tốt lành ở trong làng và thị
trấn,
được công nhận là khó có thể biết được bởi người thiểu trí.
|
Giả dối trong tâm, lưỡi phỉnh
phờ,
Nó là rắn hổ lén ḅ vô:
Nó nhờ áo khoác ngoài lừa gạt
Dân chúng, v́ chúng quá dại khờ. |
917. Imaṃ tuṇḍehi pakkhehi pādā
cimaṃ viheṭhatha,
chavaṃ himaṃ vināsetha nāyaṃ saṃvāsanāraho ”ti.
9. Dhammadhajajātakaṃ.
|
917. Hăy tấn công con chim này
với các mỏ, với các cánh, và bắng các bàn chân. Hăy tiêu diệt
loài tệ hại này. Hạng này không xứng đáng sống chung với chúng
ta.”
9. Bổn sanh Biểu Hiện Đạo Đức.
|
Lấy mỏ, cánh lôi nó đánh ngay,
Xé tan nó với móng chim này!
Đời tàn cho đáng, tên hèn hạ
Phản bội niềm tin chính nghĩa đây.
Câu chuyện
384 |
918. Sace brāhmaṇa gacchasi
sāketaṃ añjanāvanaṃ,
vajjāsi nandiyaṃ nāma puttaṃ asmāka-orasaṃ,
mātā pitā ca te vuddhā te taṃ icchanti passituṃ.
|
918. “Này Bà-la-môn, nếu ngài đi
đến khu rừng Añjanā ở Sāketa,
xin ngài nói với con trai ruột của chúng tôi tên là Nandiya
rằng:
‘Mẹ và cha của ngươi đă già, các vị ấy mong muốn được gặp
ngươi.’” |
Bà-la-môn, ngài có
vào ngự uyển,
Khi ngài đi qua xứ Oudh, kinh đô,
Xin t́m Nan-di yêu dấu của ta
Và nhắn gửi một đôi lời chân thật:
Qua tháng năm cha mẹ già kiệt lực,
Ḷng khát khao mong mỏi đợi con về. |
919. Bhuttā mayā nivāpāni rājino
pāṇabhojanaṃ,
taṃ rājapiṇḍaṃ avabhottuṃ nāhaṃ brāhmaṇamussahe.
|
919. “Tôi đă thọ dụng các vật
nuôi dưỡng, nước uống và thức ăn của đức vua, này Bà-la-môn, tôi
không thể ăn không vật thực ấy của đức vua mà không đền đáp. |
Ta đội ơn vua, ăn
uống tràn trề,
Chưa đi được, chờ khi làm ích lợi. |
920. Odahissāmahaṃ passaṃ
khurappāṇissa rājino,
tadāhaṃ sukhito mutto api passeyya mātaraṃ.
|
920. Tôi sẽ phô bày phần bên hông
về phía cung tên của đức vua, khi ấy tôi được tự do, thoải mái,
và tôi có thể gặp gỡ mẹ của tôi.” |
Trước cung vua, ta sẽ giơ sườn đợi,
Rồi về thăm cha mẹ để thanh minh. |
921. Migarājā pure āsiṃ kosalassa
niketave,
nandiyo nāma nāmena abhirūpo catuppado.
|
921. “Trước đây, ta đă là con nai
chúa ở Niketava thuộc xứ Kosala, tên là Nandiya, là loài bốn
chân có vóc dáng xinh đẹp. |
Xưa ta chính Lộc
vương trong xứ Oudh,
Tánh và danh là Hoan hỷ, Nan-di |
922. Taṃ maṃ vadhitumāgañji
dāyasmiṃ añjanāvane,
dhanuṃ adejjhaṃ katvāna usuṃ sandhāya kosalo.
|
922. Vị vua xứ Kosala đă đi đến
để giết chết chính ta ở vườn nai thuộc khu rừng Añjanā. Vị vua
đă kéo căng dây cung và kết hợp với mũi tên. |
Muốn giết ta trong
ngự uyển, ngày kia
Đức vua đến, tên nằm trên dây sẵn. |
923. Tassāhaṃ odahiṃ passaṃ
khurappāṇissa rājino,
tadāhaṃ sukhito mutto mātaraṃ daṭṭhumāgato ”ti.
10. Nandiyamigajātakaṃ.
|
923. Ta đă phô bày phần bên hông
về phía cung tên của vị vua ấy, khi ấy ta được tự do, thoải mái,
ta đă đi đến gặp gỡ mẹ của ta.”
10. Bổn sanh Con Nai Nandiyamiga.
|
Ta phơi sườn trước
tên vua đ̣i bắn,
Rồi về thăm cha mẹ để thanh minh.
Câu chuyện
385 |
Avāriyavaggo paṭhamo.
*****
|
Phẩm
Gă Chèo Đ̣ là thứ nhất.
*****
|
TASSUDDĀNAṂ
Atha kujjharathesabhaketuvaro
darīmukhasanerutā ca puna,
āsānandasirī ca sucittavaro
athadhammikanandi migena dasa.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Giờ chuyện đấng thủ lănh xa binh nóng giận, chuyện Setaketu,
Bà-la-môn Darīmukha, và núi Neru lần nữa,
niềm ao ước, không hoan hỷ, tiên nữ Sirī, và chuyện màu sắc sặc
sỡ,
rồi bậc đạo đức cao tột, với con nai Nandiya, là mười.
--ooOoo--
|
Trang 250: |
Trang 251:
|
▪ 2.
SENAKAVAGGO |
▪ 2. PHẨM
VUA SENAKA
|
CHƯƠNG
SÁU
(Sáu bài kệ)
(Gs. Trần Phương Lan) |
924. Saccaṃ kirevamāhaṃsu bhastaṃ
bāloti paṇḍitā,
passa bālo rahokammaṃ āvikubbaṃ na bujjhati.
|
924. “Nghe nói sự
thật là như vầy: Các bậc sáng suốt đă nói rằng: ‘Loài dê là ngu
dốt.’ Hăy nh́n xem kẻ ngu dốt không biết rằng ḿnh đang làm một
cách lộ liễu cái việc phải làm kín đáo.”
|
Bậc trí bảo dê quả thật ngu,
Những lời chân thật tự bao giờ,
Dê này không biết ḿnh phô diễn
Những việc phải làm kín đáo ư? |
925. Tvaṃ nu kho samma bālosi
kharaputta vijānahi,
rajjuyā hi parikkhitto vaṅkoṭṭho ohito mukho.
|
925. “Này bạn, bạn
thật là ngu si. Này lừa, bạn hăy biết thế. Bởi v́ bạn bị buộc
quanh bởi sợi dây thừng, cái hàm bị vặn vẹo, cái miệng bị bịt
lại. |
Này ông Lừa hỡi, nghĩ xem nào,
Rồi thấy là ông ngốc biết bao,
Ông bị buộc dây thừng trói chặt,
Hàm ông tréo, mắt chẳng nh́n cao. |
926. Aparampi samma te bālyaṃ yo
mutto na palāyasi,
so ca bālataro samma yaṃ tvaṃ vahasi senakaṃ.
|
926. Này bạn, bạn c̣n
có sự ngu dốt khác nữa là bạn không tẩu thoát khi được tự do. Và
này bạn, gă Senaka mà bạn chở đi c̣n ngu dốt hơn bạn nữa.” |
Khi được thả ra chẳng chạy
ngay,
V́ ông quen thói thật ngu thay,
Vua Se-nak ấy ông chuyên chở
C̣n thật ngu hơn cả chú mày! |
927. Yannu samma ahaṃ bālo
ajarāja vijānahi,
atha kena senako bālo taṃ me akkhāhi pucchito.
|
927. “Này bạn, việc
tôi là ngu dốt, này dê chúa, bạn biết rồi. C̣n v́ sao vua Senaka
là ngu dốt? Được hỏi, xin bạn hăy giải thích về điều ấy cho
tôi.” |
Vậy này Dê chúa, dám thưa
ngài,
Tôi đại ngu, ngài hiểu quá rồi,
C̣n chuyện vua Se-nak xuẩn ngốc,
Làm ơn giải thích rơ cho tôi. |
928. Uttamatthaṃ labhitvāna
bhariyāya yo padassati,
tena jahissatattānaṃ sā cevassa na hessati.
|
928. “Sau khi nhận
được chú thuật có lợi ích tối cao, vua Senaka sẽ ban tặng cho
vợ. V́ thế, vua sẽ mất mạng sống, c̣n hoàng hậu sẽ không thuộc
về vua nữa.” |
Vua có một kho báu hiển linh,
Lại v́ hoàng hậu ném cho nhanh,
Không khuyên hoàng hậu trung thành được,
Đành phải hy sinh tính mạng ḿnh. |
929. Na ve piyaṃ meti janinda
tādiso
attaṃ niraṃ katvā piyāni sevati,
attāva seyyo paramāva seyyo
labbhā piyā ocitatthena pacchā ”ti.
1. Kharaputtajātakaṃ.
|
929. “Tâu chúa thượng, thật sự người như bệ hạ đây không thể
nghĩ rằng: ‘Đây là vật yêu quư của ta,’ rồi xem nhẹ bản thân và
phục vụ các vật yêu quư ấy. Chính bản thân là tốt hơn, và tốt
hơn vật yêu quư khác, bởi v́ vật yêu quư là có thể đạt được sau
này bằng cách tuyển chọn.”
1. Bổn sanh Con Lừa.
|
Như ngài ở địa vị vương quân
Có thể mang nhiều nỗi ước mong,
Song phải bỏ ngay niềm ước vọng,
Nếu thân ngài phải chịu thương vong.
Đời người quả thật là quan
trọng
C̣n kiếm ǵ cao hơn bản thân?
Nếu tính mạng duy tŕ trọn vẹn,
Th́ không cần ước vọng cầu mong!
Câu chuyện
386 |
930. Akakkasaṃ apharusaṃ
kharadhotaṃ supāsiyaṃ,
sukhumaṃ tikhiṇaggañca ko sūciṃ ketumicchati.
|
930. “Người nào muốn mua cây kim
không sần sùi, không thô, được mài với đá mài, có thể xuyên
thủng dễ dàng, mảnh mai, và có mũi nhọn hoắt? |
Xâu nhanh, trơn láng, thẳng
ngay,
Được bôi bóng nhoáng bột mài xanh xanh,
Đầu kim sắc nhọn, thanh thanh,
Kim đây, ai muốn mua ḿnh trao tay? |
931. Sumajjañca supāsañca
anupubbaṃ suvattitaṃ,
ghanaghātimaṃ paṭitthaddhaṃ ko sūciṃ ketumicchati.
|
931. Người nào muốn mua cây kim
khéo được mài bóng, và có sự xuyên thủng suôn sẻ, được di chuyển
nhẹ nhàng theo tuần tự, đâm thủng được vật cứng, và rắn chắc?” |
Xâu nhanh, vững mạnh, thẳng
ngay,
Thân kim khèo luyện tṛn đầy đẹp sao!
Sắt kia cũng sẽ xuyên vào,
Kim đây ai muốn mua nào ai ơi! |
932. Itodāni patāyanti sūciyo
baḷisāni ca,
koyaṃ kammāragāmasmiṃ sūciṃ vikketumicchati.
|
932. “Hiện nay, các loại kim và
các loại lưỡi câu đều được bán ra từ nơi này. Người này là ai mà
muốn bán kim ở ngôi làng của các thợ rèn? |
Móc câu ta đă bán rồi,
Làng trên xóm dưới ai người chẳng hay?
Thợ rèn ta ở thành này,
C̣n ai bán được kim may nữa à? |
933. Ito satthāni gacchanti
kammantā vividhā puthū,
koyaṃ kammāragāmasmiṃ sūciṃ vikketumarahati.
|
933. Từ nơi này, sản xuất ra các
vũ khí, các dụng cụ nhiều loại khác nhau. Người này là ai mà
muốn bán kim ở ngôi làng của các thợ rèn?”
|
Nghề rèn nổi tiếng chúng ta,
Việc làm khí cụ ai mà sánh ngang?
Thợ rèn ta ở trong làng,
Ai c̣n đem bán kim mang tới ḿnh? |
Trang 252:
|
Trang 253:
|
934. Sūciṃ kammāragāmasmiṃ
vikketabbā pajānatā,
ācariyāva jānanti kammaṃ sukatadukkataṃ.
|
934. “Người có tài trí nên bán
kim ở ngôi làng của các thợ rèn. Chính các bậc thầy biết được
sản phẩm đă được làm tốt hay làm vụng. |
Thợ rèn ta ở trong thành,
Nhưng người tài bán kim ḿnh mới hay!
Tổ sư nghề sẵn trong tay,
Món hàng đệ nhất mua ngay kẻo hoài! |
935. Imañca te pitā bhadde sūciṃ
jaññā mayā kataṃ,
tayā ca maṃ nimanteyya yañcatthaññaṃ ghare dhanan ”ti.
2. Sūcijātakaṃ.
|
935. Này cô nương, và nếu cha của
nàng biết được cây kim này đă được tôi làm, ông sẽ gă nàng cho
tôi cùng với các tài sản khác có ở trong nhà.”
2. Bổn sanh Cây Kim.
|
Một khi nghiêm phụ biết rồi
Cây kim này đă do tôi tự làm,
Tôn ông chắc chắn sẽ ban
Gia tài sản nghiệp cùng nàng cho tôi!
Câu chuyện
387 |
936. Navachandake dāni dīyati
puṇṇāyaṃ doṇi suvāminī ṭhitā,
bahuke jane pāsapāṇike
no ca kho me paṭibhāti bhuñjituṃ.
|
936. “Giờ đây, được cho ăn cách
thức mới,
cái máng thức ăn th́ đầy ắp, bà chủ th́ đứng gần,
có nhiều người với bẫy thú ở bàn tay,
và em thật sự không có hứng thú để ăn. |
Em lo chuyện lạ hôm nay,
Mẹ ḿnh đứng cạnh máng đầy thức ăn,
Người cầm tḥng lọng đứng gần,
Đến ăn chắc hẳn hại thân ḿnh rồi. |
937. Tasasi bhamasi leṇamicchasi
attāṇosi kuhiṃ gamissasi,
appossukko bhuñja tuṇḍila
maṃsatthāya hi posiyāmase.
|
937. “Em run rẩy, em đi loanh
quanh, em t́m nơi trú ẩn,
em không có sự nương tựa, vậy em sẽ đi đâu?
Này heo Tuṇḍila, em hăy vô tư lự, em hăy ăn đi,
chúng ta được nuôi dưỡng chỉ v́ mục đích lấy thịt. |
Hăi kinh, cầu cứu, run hoài,
Không ai cứu giúp em đ̣i trốn đâu?
Ăn đi, Heo bé chớ sầu,
Mẹ nuôi ta béo v́ cầu thịt heo! |
938. Ogaha rahadaṃ akaddamaṃ
sabbaṃ sedamalaṃ pavāhaya,
gaṇhāhi navaṃ vilepanaṃ
yassa gandho na kadāci chijjati.
|
938. Em hăy lội xuống hồ nước
không có bùn.
Em hăy tẩy sạch tất cả mồ hôi và cáu bẩn.
Em hăy lấy dầu thoa mới,
loại dầu có mùi thơm không bao giờ bị phai nhạt.” |
Nhào vô ao nước trong veo,
Mồ hôi cấu uế thật nhiều, rửa đi!
Rồi em sẽ thấy diệu kỳ,
Dầu thơm mát dịu không hề biến suy. |
939. Katamo rahado akaddamo
kiṃsu sedamalanti vuccati,
katamañca navaṃ vilepanaṃ
kassa gandho na kadāci chijjati.
|
939. “Hồ nước nào là không có
bùn?
Cái ǵ được gọi là mồ hôi và cáu bẩn?
Và dầu thoa mới loại nào,
mùi thơm của cái ǵ không bao giờ bị phai nhạt?” |
Ǵ là ao nước pha lê,
Mồ hôi cấu uế nói về điều chi?
Dầu xoa kỳ diệu là ǵ?
Mùi hương ngào ngạt chẳng khi nào tàn? |
940. Dhammo rahado akaddamo
pāpaṃ sedamalanti vuccati,
sīlañca navaṃ vilepanaṃ
tassa gandho na kadāci chijjati.
|
940. “Giáo Pháp là hồ nước không
có bùn.
Việc xấu xa nói đến mồ hôi và cáu bẩn.
Và giới hạnh là dầu thoa mới,
mùi thơm của giới hạnh không bao giờ bị phai nhạt. |
Pháp là ao nước trong ngần,
Mồ hôi cấu uế lỗi lầm mê si,
Dầu thơm đức hạnh tẩm đi,
Mùi hương măi măi chẳng hề tàn phai. |
941. Nandanti sarīraghātino
na ca nandanti sarīradhārino,
puṇṇāya ca puṇṇamāsiyā
ramamānāva jahanti jīvitan ”ti.
3. Tuṇḍilajātakaṃ.
|
941. Những kẻ có sự hủy hoại mạng
sống vui mừng, và những kẻ có sự duy tŕ mạng sống không vui
mừng. Những người thật sự vui thích với sự đầy đủ về giới hạnh
buông bỏ mạng sống vào những ngày trai giới.”
3. Bổn sanh Con Heo Tuṇḍila.
|
Người không sinh mạng là vui,
Người c̣n sinh mạng bời bời lo toan.
Con người phải chết, chớ buồn,
Hăy vui như hội trăng tṛn quanh năm.
Câu chuyện
388 |
Trang 254:
|
Trang 255:
|
942. Siṅgī migo āyatacakkhunetto
aṭṭhittaco vārisayo alomo,
tenābhibhūto kapaṇaṃ rudāmi
hare sakhā kissa nu maṃ jahāsi.
|
942. “Con vật có càng, có mắt
lồi,
có lớp vỏ cứng, sống ở trong nước, không có lông.
Bị nó chế ngự, tôi khóc lóc thảm thương.
Nè, này bạn, tại sao bạn lại bỏ rơi tôi?” |
Một chú càng vàng với mắt lồi,
Ở hồ, trần trụi, bọc xương mai,
Chụp tôi, nghe tiếng tôi kêu thét
Sao bỏ bạn thân quư mến ngài? |
943. So passasanto mahatā phaṇena
bhujaṅgamo kakkaṭamajjhapatto,
sakhā sakhāraṃ paritāyamāno
bhujaṅgamaṃ kakkaṭako gahesi.
|
943. “Là bạn bè đang bảo vệ bạn
bè, con rắn ấy, trong lúc thở ph́ ph́ bằng cái mang lớn, đă lao
đến con cua. Con cua đă kẹp lấy con rắn.” |
Con Rắn bỗng nhào lên chú Cua,
Nó không muốn bỏ bạn bây giờ:
Rắn giương mào rộng vừa lao đến,
Cua tấn công ngay chú Rắn ḅ. |
944. Na vāyasaṃ no pana
sapparājaṃ
ghāsatthiko kakkaṭako adeyya,
pucchāmi taṃ āyatacakkhunetta
atha kissa hetumha ubho gahītā.
|
944. “Con cua đă kẹp lấy con quạ
và luôn cả con rắn chúa không phải v́ mục đích thức ăn. Này con
thú có mắt lồi, ta hỏi ông rằng: V́ nguyên nhân ǵ mà cả hai
chúng tôi bị ông ḱm kẹp?” |
Chẳng phải v́ lo kiếm miếng
mồi
Mà Cua bắt Rắn, Quạ trên trời,
Mắt lồi hăy nói cho tôi biết
Sao chú lại kềm kẹp chúng tôi? |
945. Ayaṃ puriso mama atthākāmo
yo maṃ gahetvāna dakāya neti,
tasmiṃ mate dukkhamanappakaṃ me
ahañca eso ca ubho na homa.
|
945. “Người này có sự mong muốn
điều lợi ích cho tôi;
vị này đă vớt tôi lên và đưa ra khỏi hồ nước.
Nếu vị ấy chết đi, khổ đau sẽ có cho tôi không phải là ít.
Tôi và vị này không phải là hai người. |
Ngài đem ta tự dưới ao kia,
Bày tỏ ân cần, quư mến ta,
Nếu chết, thời ta đây khổ năo,
Ngài và ta, chỉ một thôi mà. |
946. Mamañca disvāna
pavaḍḍhakāyaṃ
sabbo jano hiṃsitumeva micche,
sāduñca thullañca muduñca maṃsaṃ
kākāpi maṃ disvā viheṭhayeyyuṃ. |
946. Và sau khi nh́n thấy tôi có
thân thể phát triển,
tất cả mọi người đều mong muốn giết chết tôi ngay,
(nghĩ rằng) thịt con cua này ngọt, béo, và mềm mại.
Các con quạ cũng vậy, sau khi nh́n thấy, cũng sẽ hăm hại tôi.” |
Thấy ta nay đă lớn lên dần,
Ai nấy đều mong giết hưởng phần:
Cua mập ngọt ngon đầy mỹ vị,
Nh́n ta, Quạ muốn xé tan thân. |
947. Sace tassa hetumha ubho
gahītā
uṭṭhātu poso visamācamāmi,
mamañca kākañca pamuñca khippaṃ
pure visaṃ gāḷhamupeti maccaṃ.
|
947. “Nếu cả hai chúng tôi bị ông
ḱm kẹp v́ nguyên nhân người ấy,
th́ hăy giải độc cho người ấy, tôi sẽ hút ra chất độc.
Và hăy lập tức phóng thích tôi và con quạ,
trước khi chất độc ngấm sâu vào trong người ấy.” |
Nếu Cua kẹp Rắn, Quạ v́ ngài,
Ta sẽ rút chất độc ấy thôi,
Ngài tỉnh dậy, mau tha Rắn, Quạ,
Thấm sâu chất độc, ắt tàn đời. |
948. Sappaṃ pamokkhāmi na tāva
kākaṃ
paṭibaddhako hohiti tāva kāko,
purisañca disvāna sukhiṃ arogaṃ
kākaṃ pamokkhāmi yatheva sappaṃ.
|
948. “Tôi sẽ phóng thích con rắn,
nhưng con quạ th́ chưa;
hăy để con quạ là vật được giữ lại làm con tin.
Và sau khi nh́n thấy người ấy khỏe khoắn, không bệnh,
tôi sẽ phóng thích con quạ, giống y như con rắn vậy.” |
Ta thả Rắn, không thả Quạ đây,
Con tin là Quạ buộc nơi này,
Ta không thả nó đi nơi khác,
Cho đến khi an ổn với ngài. |
949. Kāko tadā devadatto ahosi
māro pana kaṇhasappo ahosi,
ānandabhaddo kakkaṭako ahosi
ahaṃ tadā brāhmaṇo homi satthā ”ti.
4. Suvaṇṇakakkaṭakajātakaṃ.
|
949. “Khi ấy, con quạ đă là
Devadatta,
c̣n Ma Vương đă là con rắn độc màu đen,
Ānanda hiền thiện đă là con cua,
khi ấy, ta đă là vị đạo sư Bà-la-môn.”
4. Bổn sanh Con Cua Vàng.
|
Con Rắn hổ là chính Ác ma,
Đề-bà-đạt, ấy Quạ đen kia,
A-nan thiện hạnh là Cua nọ,
Điền chủ La-môn ấy chính Ta.
Câu chuyện
389 |
Trang 256:
|
Trang 257:
|
950. Sakuṇo mayhako nāma
girisānudarīcaro,
pakkaṃ pipphalim āruyha mayhaṃ mayhanti kandati.
|
950. “Loài chim tên
Mayhaka có sự sinh sống ở hang
động của đồi núi. Nó đậu ở cây
pipphalī có trái chín và kêu khóc ‘mayhaṃ,
mayhaṃ.’
|
Có con chim được gọi May-ha,
Nó sống trong hang dưới núi xa,
Trái chín trên cây sung cổ thụ,
"Của ta, ta nữa", nó kêu la. |
951. Tassevaṃ vilapantassa
dijasaṅghā samāgatā,
bhutvāna pipphaliṃ yanti vilapitveva so dijo.
|
951. Trong khi nó đang kêu than
như vậy, có bầy chim đă tụ tập lại. Sau khi ăn xong, chúng bay
đến cây pipphalī khác. Con
chim ấy chỉ có kêu than. |
Bầy chim kia lúc nó kêu vang,
Tụ tập chung quanh cả một đàn,
Ăn trái thỏa ḷng tuy thấy thế,
May-ha vẫn cất tiếng kêu than. |
952. Evameva idhekacco
saṅgharitvā bahuṃ dhanaṃ,
nevattano na ñātīnaṃ yathodhiṃ paṭipajjati.
|
952. Tương tự y như vậy, ở đây,
một người nào đó, sau khi gom góp được nhiều tài sản, nhưng đối
với bản thân cũng như đối với các thân quyến lại không phân chia
theo từng phần phù hợp để sử dụng. |
Cũng vậy, người kia lắm bạc
vàng,
Nhưng không chia sẻ giữa thân bằng,
|
953. Na so acchādanaṃ bhattaṃ na
mālaṃ na vilepanaṃ,
anubhoti sakiṃ kiñci na saṅgaṇhāti ñātake.
|
953. Người ấy không một lần hưởng
thụ bất cứ vật ǵ về y phục, vật thực, tràng hoa, dầu thoa, và
cũng không giúp đỡ cho các thân quyến. |
Cũng không thọ hưởng lần nào
cả
Y phục và luôn các thức ăn,
Hương liệu cùng ṿng hoa rực
rỡ,
Cũng không ân huệ với thân nhân. |
954. Tassevaṃ vilapantassa
mayhaṃ mayhanti rakkhato,
rājāno athavā corā dāyādāyeva appiyā,
dhanamādāya gacchanti vilapitveva so naro.
|
954. Tương tự như vậy đối với
người ấy, trong lúc ǵn giữ và đang kêu than ‘của tôi, của tôi,’
các vị vua hoặc các kẻ trộm cướp, ngay cả những người thừa kế
không được yêu mến đă đoạt lấy tài sản rồi ra đi. Người ấy chỉ
có kêu than. |
"Của ta, ta măi", kêu rền rĩ,
Nó giữ kho tàng thỏa dạ tham.
Vua chúa cường gian, các đứa
con
Chỉ mong sao nó sớm từ trần,
Cướp tài sản nó, trong khi ấy
Kẻ bủn xỉn kêu khóc tiếc than. |
955. Dhīro ca bhoge adhigamma
saṅgaṇhāti ca ñātake,
tena so kittiṃ pappoti pecca sagge ca modatī ”ti.
5. Mayhakajātakaṃ.
|
955. Và bậc sáng trí, sau khi
thành tựu các của cải, th́ giúp đỡ cho các thân quyến, nhờ thế,
vị ấy đạt được danh tiếng, và vui sướng ở cơi trời sau khi chết
đi.”
5. Bổn sanh Loài Chim Mayhaka.
|
Người có trí khôn được bạc
vàng
Thường đem giúp đỡ các thân bằng,
Do vầy danh vọng trên trần thế,
Thiên giới đời sau được phước phần.
Câu chuyện
390 |
956. Dubbaṇṇarūpaṃ tuvam
ariyavaṇṇī
purakkhatvā pañjaliko namassasi,
seyyo nu te so udavā sarikkho
nāmaṃ parassattano cāpi brūhi.
|
956. “Ngài là người có vóc dáng
cao cả, và ngài tôn vinh, chắp tay lại, lễ bái đến vị có bề
ngoài xấu xí. Vị ấy là tốt hơn hay là tương đương với ngài? Xin
ngài hăy nói tên của vị ấy và luôn cà tên của bản thân ngài.”
|
Dung mạo thanh cao, lại cúi
đầu,
Sau người dị tướng, bước theo hầu,
Người này hơn, kém, hay b́nh đẳng,
Xin nói tánh danh, trẫm thỉnh cầu. |
957. Na nāmagottaṃ gaṇhanti rāja
sammaggatānujjugatāna devā,
ahañca te nāmadheyyaṃ vadāmi
sakkohamasmi tidasānamindo.
|
957. “Tâu bệ hạ, chư Thiên trong
số các vị đă đi đúng đường lối hoặc đă đi theo con đường ngay
thẳng th́ không nắm giữ danh xưng và ḍng họ. Và tôi nói cho bệ
hạ tên gọi của tôi. Tôi là Thiên Chủ Sakka, chúa của chư Thiên
cơi Tam Thập. |
Chư Thiên không nói họ cùng
tên
Của thiện nhân toàn hảo, Thánh hiền,
Riêng chỉ phần ta nêu tước hiệu
Sak-ka Thiên chủ của chư Thiên. |
958. Yo disvā bhikkhuṃ
caraṇūpapannaṃ
purakkhatvā pañjaliko namassati,
pucchāmi taṃ devarājetamatthaṃ
ito cuto kiṃ labhate sukhaṃ so.
|
958. “Người nào sau khi nh́n thấy
vị tỳ khưu thành tựu về giới hạnh,
th́ tôn vinh, chắp tay lại, lễ bái.
thưa Thiên Vương, trẫm hỏi ngài về ư nghĩ của việc này,
người ấy nhận được hạnh phúc ǵ sau khi từ nơi này chết đi?”
|
Người kính yêu hiền Thánh vẹn
toàn
Sau ngài, tiến bước dáng nghiêm trang,
Phần ǵ thừa hưởng, này Thiên chủ,
Phước đức đời sau sẽ phát ban? |
959. Yo disvā bhikkhuṃ
caraṇūpapannaṃ
purakkhatvā pañjaliko namassati,
diṭṭheva dhamme labhate pasaṃsaṃ
saggañca so yāti sarīrabhedā.
|
959. “Người nào sau khi nh́n thấy
vị tỳ khưu thành tựu về giới hạnh,
th́ tôn vinh, chắp tay lại, lễ bái,
ngay trong kiếp hiện tại này, nhận được sự khen ngợi,
và người ấy đi đến cơi trời khi cơ thể ră tan.”
|
Người kính yêu hiền Thánh vẹn
toàn,
Sau ngài, cất bước dáng nghiêm trang,
Tiếng khen trần thế nay thừa hưởng,
Thiên giới đời sau lúc mạng chung. |
Trang 258: |
Trang 259:
|
960. Lakkhī vata me udapādi ajja
yaṃ vāsavaṃ bhūtapataddasāma,
bhikkhuñca disvāna tavajja sakka
kāhāmi puññāni anappakāni.
|
960. “May mắn quả thật đă sanh
khởi đến trẫm hôm nay,
là việc chúng tôi đă nh́n thấy vị Thiên Chủ, chúa của các Thiên
thần.
Và thưa Sakka, hôm nay sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu của ngài,
trẫm sẽ làm các việc phước thiện không phải là ít.” |
Mặt trời số phận chiếu hôm
nay,
Mắt trẫm nh́n Thiên chủ hiển bày
Bậc Thánh xuất trần, này Đế Thích,
Trẫm làm thiện sự kể từ rày.
|
961. Addhā have sevitabbā sapaññā
bahussutā ye bahuṭhānacintino,
bhikkhuñca disvāna mamañca rāja
karohi puññāni anappakāni.
|
961. “Quả thật, đúng vậy, nên
thân cận các bậc có trí tuệ,
các bậc đa văn, là những vị có những suy nghĩ bao quát.
Và tâu bệ hạ, sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu của ta,
bệ hạ hăy làm các việc phước thiện không phải là ít.” |
Chân chánh thay sùng bái Thánh
nhân,
Tâm tư hướng đến trí cao thâm,
Giờ đây long nhăn đă chiêm ngưỡng
Thiên chủ Sak-ka với Thánh nhân,
Mong ước từ nay nhiều phước nghiệp
Sẽ là phận sự của minh quân. |
962. Akkodhano niccapasannacitto
sabbātithīyācayogo bhavitvā,
nihacca mānaṃ abhivādayissaṃ
sutvāna devinda subhāsitānī ”ti.
6. Dhajaviheṭhajātakaṃ.
|
962. “Thưa vị Chúa của chư Thiên,
sau khi lắng nghe những lời khéo nói,
trẫm sẽ không có sự giận dữ, thường xuyên có tâm tịnh tín,
sau khi đáp ứng sự yêu cầu của tất cả những người khách lạ,
trẫm sẽ dẹp bỏ sự ngă mạn, và sẽ chí thành đảnh lễ.
6. Bổn sanh Phá Hủy Biểu Tượng.
|
Tư tưởng mang đầy đủ phước ân,
Từ nay ḷng dạ trẫm ly sân,
Lắng tai nghe ngoại nhân cầu thỉnh,
Trẫm nhận lời khuyên nhủ chánh chân,
Trẫm sẽ diệt tan ḷng ngă mạn,
Phụng thờ Thiên chủ, dạ tôn sùng.
Câu chuyện
391 |
963. Yametaṃ vārijaṃ pupphaṃ
adinnaṃ upasiṅghasi,
ekaṅgametaṃ theyyānaṃ gandhatthenosi mārisa.
|
963. “Ông hít ngửi đóa hoa sen
này c̣n chưa được cho đến ông. Việc này là một tội trộm cắp. Này
ông, ông là kẻ trộm cắp hương thơm.” |
Ngài không được phép ngửi
hương hoa,
Dù chỉ một hoa mới nở ra,
Đó thật là h́nh thức đạo tặc,
Sa-môn, ngài trộm ngửi hương hoa. |
964. Na harāmi na bhañjāmi ārā
siṅghāmi vārijaṃ,
atha kena nu vaṇṇena gandhatthenoti vuccati.
|
964. “Tôi không lấy đi, không bẻ
găy, tôi hít ngửi bông hoa từ xa, vậy th́ với lư do ǵ mà gọi là
‘kẻ trộm cắp hương thơm’? |
Ta chẳng hái, không bẻ găy
hoa,
Mùi hương ta ngửi tự đằng xa,
Ta không thể bảo nào duyên cớ
Nàng nói ta đang ngửi trộm hoa. |
965. Yoyaṃ bhisāni khaṇati
puṇḍarīkāni bhañjati,
evaṃ ākiṇṇakammanto kasmā eso na vuccati.
|
965. Người đào bới các củ sen, bẻ
găy các bông hoa sen là kẻ có việc làm vung văi như vậy, tạo sao
kẻ ấy lại không bị nói đến?” |
Kẻ nọ đang đào bới củ sen,
Phá thân cây găy, đó nh́n xem,
Sao nàng không bảo cách hành động
Kẻ ấy là bừa băi, thấp hèn? |
966. Ākiṇṇaluddo puriso
dhāticeḷaṃva makkhito,
tasmiṃ me vacanaṃ natthi tañca arahāmi vattave.
|
966. “Người tàn bạo dẫy đầy tội
lỗi bị hoen ố tựa như vải che thân của người vú em. Ta không có
lời nói nào cho kẻ ấy, và ta dành để nói cho ông. |
Những người phóng túng sống
buông lơi,
Như áo vú em, đáng chán rồi,
Ta chẳng nói năng ǵ kẻ ấy,
Song ta chiếu cố nói ngài thôi. |
967. Anaṅgaṇassa posassa niccaṃ
sucigavesino,
vāḷaggamattaṃ pāpassa abbhāmattaṃva khāyati.
|
967. Đối với người không có ô
nhiễm, thường xuyên tầm cầu sự thanh tịnh, th́ việc xấu xa bằng
đầu cọng lông được xem như là đám mây đen lớn.” |
Khi bỏ dục tham của thế nhân,
Và đi t́m cách tịnh thân tâm,
Tội dù chỉ nhỏ như đầu tóc
Chẳng khác trên trời đám hắc vân! |
968. Addhā maṃ yakkha jānāsi atho
maṃ anukampasi,
punapi yakkha vajjāsi yadā passasi edisaṃ.
|
968. “Thật vậy, này Dạ-xoa, ngài
hiểu biết về tôi, vậy xin ngài hăy thương xót đến tôi. Thêm nữa,
này Dạ-xoa, khi nào ngài nh́n thấy việc như thế này, xin ngài
hăy lên tiếng.” |
Hiển nhiên Thần nữ hiểu tinh
tường,
Nên với ta, nàng đă đoái thương,
Nếu thấy ta rày c̣n tái phạm,
Xin nàng nói nữa, khẩn cầu nàng. |
969. Neva taṃ upajīvāma napi te
bhatakamhase,
tvameva bhikkhu jāneyya yena gaccheyya suggatin ”ti.
7. Bhisapupphajātakaṃ.
|
969. “Chúng tôi không sống gần
ông, và cũng không phải là người làm thuê cho ông. Này tỳ khưu,
chính ông nên biết lối nào có thể đi đến chốn an vui.”
7. Bổn sanh Củ Sen và Hoa Sen.
|
Ta chẳng sống đây phụng sự
ngài,
Chúng ta không ở mướn cho ai,
Xin ngài tự kiếm đường đi tới
Hạnh phúc tối cao giữa cơi đời.
Câu chuyện
392
|
Trang 260:
|
Trang 261:
|
970. Susukhaṃ vata jīvanti ye
janā vighāsādino,
diṭṭheva dhamme pāsaṃsā samparāye ca suggati.
|
970. “Những người nào là những
người ăn vật thực c̣n thừa thật sự sống vô cùng thoài mái, họ
được sự khen ngợi ngay trong thời hiện tại và chốn an vui trong
thời vị lai.” |
Hạnh phúc là ai sống giữa đời
Bằng tàn dư bố thí mà thôi,
Được người tán thán trên trần thế,
Số phận đời sau: lạc cơi trời. |
971. Sukassa bhāsamānassa na
nisāmetha paṇḍitā,
idaṃ suṇātha sodariyā amhe vāyaṃ pasaṃsati.
|
971. “Các vị sáng suốt không để
tâm đến con két đang nói tiếng người. Này các anh em, hăy lắng
nghe con chim này. Nó khen ngợi chúng ta đấy.” |
Bậc trí phải chăng nên lắng tai
Khi Anh vũ nói giọng như người,
Hăy nghe, các bạn, chim ca tụng
Bọn chúng ta đây, rơ tuyệt vời! |
972. Nāhaṃ tumhe pasaṃsāmi
kuṇapādā suṇātha me,
ucchiṭṭhabhojino tumhe na tumhe vighāsādino.
|
972. “Tôi không khen ngợi các
người, này những kẻ ăn thịt xác chết, hăy lắng nghe tôi. Các
người là những kẻ ăn thức ăn bị bỏ đi, các người không phải là
những người ăn vật thực c̣n thừa.” |
Chẳng phải ta ca tụng các thầy,
Bọn ăn xác chết, hăy nghe đây:
Các thầy ăn món đồ thừa thải,
Chẳng phải tàn dư bố thí này. |
973. Sattavassā pabbajitā
mejjhāraññe sikhaṇḍino,
vighāseneva yāpento mayañce bhoto gārayhā,
ke nu bhoto pasaṃsiyā.
|
973. “Là những người đă xuất gia
bảy năm, ở giữa rừng, có để chỏm tóc, đang nuôi sống chỉ bằng
vật thực c̣n thừa, nếu chúng tôi đáng bị chê trách đối với ngài,
vậy th́ đối với ngài, những ai đáng được khen ngợi?” |
Xuất thế bảy năm, cạo tóc đen,
Nơi đây ta sống tháng ngày liền,
Ăn đồ tàn thực, sao chim trách,
Vậy thế ai người thật đáng khen? |
974. Tumhe sīhānaṃ vyagghānaṃ
vāḷānañcāvasiṭṭhakaṃ,
ucchiṭṭheneva yāpentā maññivhā vighāsādino.
|
974. “Các người ăn vật c̣n sót
lại của các con sư tử, của các con hổ, và của các loài thú dữ,
trong khi nuôi sống chỉ bằng thức ăn bị bỏ đi, các người tưởng
rằng ḿnh là những người ăn vật thực c̣n thừa.” |
Món thừa sư, hổ, thú săn mồi,
Là thứ cần dùng của các người,
Quả thật chúng là đồ phế thải
Dù người gọi "chỉ tàn dư thôi". |
975. Ye brāhmaṇassa samaṇassa
aññassa ca vaṇibbino,
datvāna sesaṃ bhuñjanti te janā vighāsādino ”ti.
8. Vighāsajātakaṃ.
|
975. “Những người nào sau khi cho
đến vị Bà-la-môn, đến vị Sa-môn, và đến người ăn xin khác rồi ăn
phần c̣n lại, những người ấy là những người ăn vật thực c̣n
thừa.”
8. Bổn sanh Vật Thực C̣n Thừa.
|
Người nào bố thí các Sa-môn,
Để đáp ứng ngay mọi thứ cần,
Rồi thọ những ǵ c̣n để lại,
Sống nhờ của bố thí dư tàn.
Câu chuyện
393 |
976. Paṇītaṃ bhuñjase bhattaṃ
sappitelañca mātula,
atha kena nu vaṇṇena kiso tvamasi vāyasa.
|
976. “Thưa cậu, cậu ăn thức ăn
hảo hạng là bơ lỏng và dầu ăn; vậy th́ thưa cậu quạ, v́ lư do ǵ
mà cậu lại gầy ốm?”
|
Bơ, dầu đủ món cao lương,
Chú ơi, thực phẩm chú toàn thơm ngon,
Cho tôi biết rơ nguồn cơn
Tại sao chú phải gầy ṃn thế ư? |
977. Amittamajjhe vasato tesu
āmisamesato,
niccaṃ ubbiggahadayassa kuto kākassa daḷhiyaṃ.
|
977. “Làm sao loài quạ có được sự
mạnh khỏe khi đang sống ở giữa những kẻ thù, đang kiếm ăn ở nơi
chúng nó, có tâm thường xuyên bị hoảng hốt? |
Ta đang sống giữa kẻ thù,
Ḷng ta cứ phải ưu tư ră rời,
Hăi kinh đi kiếm miếng mồi,
Muốn thành béo mập, Cút ơi, cách nào? |
978. Niccaṃ ubbedhino kākā dhaṅkā
pāpena kammunā,
laddho piṇḍo na pīṇeti kiso tenasmi vaṭṭaka.
|
978. Loài quạ thường xuyên chịu
sự kích động, bị ám ảnh bởi ác nghiệp. Thức ăn kiếm được không
đủ cho nhu cầu; này chim cút, v́ thế ta bị gầy ốm. |
Suốt đời Quạ sống lo âu,
Trí luôn cảnh giác, đương đầu nguy nan,
Miếng mồi kiếm chẳng đủ ăn,
Cút ơi, v́ thế gầy ṃn thân ta. |
979. Lūkhāni tiṇabījāni
appasnehāni bhuñjasi,
atha kena nu vaṇṇena thūlo tvamasi vaṭṭaka.
|
979. Này chim cút, ngươi ăn cỏ và
các hạt giống thô cứng, có ít chất béo, vậy th́ v́ lư do ǵ
ngươi lại mập bự?” |
Cỏ khô, hạt thóc quả là
Thức ăn của Cút chẳng no béo ǵ,
V́ sao Cút mập thế kia,
Lại ăn ít ỏi, nói đi, bạn vàng! |
980. Appicchā appacintāya
avidūragamanena ca,
laddhā laddhena yāpento thūlo tenasmi vāyasa.
|
980. “Do ít ham muốn, d0 ít suy
nghĩ, và do việc không phải đi xa, trong khi nuôi sống với bất
cứ vật ǵ đă kiếm được, thưa cậu quạ, v́ thế, tôi mập bự. |
Ta mong vừa đủ an nhàn,
Thong dong bay lượn quăng đường ngắn kia,
Kiếm ăn bất cứ vật ǵ,
Nên ta béo mập khó b́, Quạ ơi! |
981. Appicchassa hi posassa
appacintisukhassa ca,
susaṅgahitamānassa vuttī susamudāniyā ”ti.
9. Vaṭṭakajātakaṃ.
|
981. Bởi v́ đối với người có ít
ham muốn và có sự an lạc do ít suy nghĩ, đối với người có sự
chừng mực đă khéo được duy tŕ, sinh kế của người ấy là dễ dàng
đạt được.”
9. Bổn sanh Chim Cút.
|
Tràn đầy hạnh phúc, an vui,
Trong ḷng biết đủ, thảnh thơi tháng ngày,
Mục tiêu dễ đạt lắm thay,
Đây phần ưu thắng đời này ta theo.
Câu chuyện
394 |
Trang 262:
|
Trang 263:
|
982. Cirassaṃ vata passāma
sahāyaṃ maṇidhārinaṃ,
sukatāya massukuttiyā sobhate vata me sakhā.
|
982. “Quả thật lâu lắm rồi chúng
ta mới nh́n thấy bạn bè mang ngọc ma-ni. Quả thật bạn của tôi
sáng ngời với cḥm râu khéo tỉa. |
Ông bạn cũ ơi, hăy
ngắm xem,
Nữ trang sáng rực rỡ đeo lên,
Bộ râu tỉa gọn oai ra phết,
Trông bạn thật tươi trước mắt nh́n! |
983. Parūḷhakacchanakhalomo ahaṃ
kammesu vyāvaṭo,
cirassaṃ nahāpitaṃ laddhā lomantaṃ apahārayiṃ.
|
983. “Các móng và lông đă mọc
dài. Ta bị bận rộn về nhiều công việc. Cuối cùng, sau khi có
được người thợ cạo, ta đă cho cạo sạch lông ấy.” |
Các lông, móng cứ
mọc nhanh ghê,
Làm vương víu ta khắp mọi bề,
Thợ hớt tóc sau cùng bước tới,
Nên ta thoát lớp vỏ xù x́! |
984. Yaṃ nu lomaṃ ahāresi
dullabhaṃ laddhakappakaṃ,
atha kiñcarahi te samma kaṇṭhe kiṇakiṇāyati.
|
984. “Sau khi đạt được người thợ
cạo, là việc khó đạt được, bạn đă bảo người ấy cạo lông. C̣n bây
giờ, này bạn, cái ǵ kêu leng keng ở cổ của bạn?” |
Dĩ nhiên Quạ được
vặt lông đen,
Chú thợ cạo kia thật khéo khen!
Quanh cổ th́ sao, xin nói rơ,
Cái ǵ lúng lẳng tựa chuông reng? |
985. Manussasukhumālānaṃ maṇi
kaṇṭhesu lambati,
tesāhamanusikkhāmi mā tvaṃ maññi davā kataṃ.
|
985. “Ngọc ma-ni được đeo ở cổ
của những người thanh lịch. Ta học theo bọn họ. Bạn chớ nghĩ
rằng việc đă làm là việc đùa giỡn. |
Những người thanh
lịch vẫn đeo hoài
Quanh cổ ngọc châu, thói ở đời,
Muốn bắt chước người, ta cũng vậy,
Bạn đừng tưởng đó chuyện đùa chơi! |
986. Sacepi maṃ pihayasi
massukuttiṃ sukāritaṃ,
kārayissāmi te samma maṇiñcāpi dadāmi te.
|
986. Nếu bạn cũng thích cḥm râu
khéo tỉa này, này bạn, ta sẽ bảo làm cho bạn, và ta cũng sẽ cho
bạn ngọc ma-ni nữa.” |
C̣n nếu bạn ganh tỵ bộ ria
Được khéo điểm tô chải chuốt kia,
Ta sẽ nhờ người này cạo giúp,
Rồi đeo ngọc, bạn cũng như ta. |
987. Tvaññeva maṇinā channo
sukatāya ca massuyā,
āmanta kho taṃ gacchāmi piyaṃ me tava dassanan ”ti.
10. Kākajātakaṃ.
|
987. “Chính bạn mới phù hợp với
ngọc ma-ni và với cḥm râu khéo tỉa. Sau khi tŕnh bày với bạn
th́ ta ra đi. Ta ưa thích việc không nh́n thấy bạn.”
10. Bổn sanh Con Quạ.
|
Không, chính ông phù hợp nhất
đời
Với râu và ngọc khéo ra oai,
Thấy ông hiện diện gây phiền toái,
Ta giă biệt ông, cất bước thôi!
Câu chuyện
395 |
Senakavaggo dutiyo.
***** |
Phẩm
Vua Senaka là thứ
nh́.
***** |
TASSUDDĀNAṂ
Atha passa sasūci ca tuṇḍilako
migamayhaka pañcama sakkavaro,
atha pañjalivārija mejjha puna
atha vaṭṭaka kapotavarena dasa.
Chakkanipāto niṭṭhito.
***** |
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Giờ hăy nh́n xem, với cây kim, và con heo Tuṇḍila,
con thú (cua vàng), chim Mayhaka là thứ năm, chuyện Sakka,
rồi chắp tay lại, và đóa hoa sen, thêm nữa ở giữa rừng,
rồi chim cút, với chuyện chim bồ câu, là mười.
Nhóm Sáu Kệ Ngôn được chấm dứt.
***** |
TATRA VAGGUDDĀNAṂ BHAVATI
Atha vaggaṃ pakittissaṃ chanipātavaruttame,
avāriyo senako dveva vuttā subyañjanā ”ti.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC CÁC PHẨM Ở NHÓM NÀY
LÀ
Giờ tôi đă thuật lại các phẩm ở Nhóm Sáu cao quư tối thượng,
hai phẩm, Avāriya và Senaka, được nói đến với văn tự hoàn hảo.
--ooOoo--
|
<Trang trước> |
<Trang Kế> |