XXI.
ASĪTINIPĀTO - NHÓM TÁM MƯƠI KỆ NGÔN
(tiếp theo)
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 378: |
Trang 379:
|
▪ 4.
KUṆĀLAJĀTAKAṂ
|
▪ 4. BỔN
SANH CHIM CHÚA KUṆĀLA |
536. Chuyện Chúa
Chim Kunàla
(Tiền thân
Kunàla) |
Evamakkhāyati evamanusūyati:
|
Câu chuyện đã được thuyết như
vầy, đã được nghe như vầy: |
Đây là chuyện tương truyền và
danh tiếng phát ra từ đó: |
Sabbosadhadharaṇidhare
nekapuppha-mālyavitate gaja-gavaja-mahisa -rurucamara
pasada-khagga-gokaṇṇa-sīhavyagghadīpi-accha-koka-taraccha-uddāraka
-kadalimiga-biḷāra-sasakaṇṇakānucarite
ākiṇṇanelamaṇḍala-mahāvarāha-nāgakula-kaṇeru saṅghādhivutthe
issamiga-sākhamiga-sarabhamiga-eṇimiga
-vātamiga-pasadamiga-purisallu
-kimpurisa-yakkha-rakkhasa-nisevite
amajja-mañjarī-dhara-brahaṭṭha -puppapupphitagga
-nekapādapagaṇavitate
kuraracakoravāraṇamayūra-parābhūta-jīvañjīvaka-celāvaka-bhiṅkāra-karavīka-mattavihaṅga
satasampaghuṭṭhe
añjana-manosilā-haritāla-hiṅgulakahemarajatakanakānekadhātusatavinaddha-patimaṇḍitappadese
evarūpe khalu bho ramme vanasaṇḍe kuṇālo nāma sakuṇo paṭivasati
ativiya citto ativiya cittapattacchadano.
|
Ở một vùng núi non có đủ
mọi thứ dược liệu, được trải dài với nhiều khóm hoa, được lui
tới bởi các loài thú như voi, bò tót, trâu, nai vàng, bò mộng,
hươu sao, tê ngưu, nai đốm, sư tử, cọp, báo, gấu, chó sói, chó
rừng, rái cá, linh dương, mèo rừng, thỏ tai dài, được trú ngụ
đông đúc bởi các đoàn thú nhỏ, các bầy heo rừng, các đàn voi
đực, các nhóm voi cái, được lai vãng bởi các loài gấu đen, khỉ,
nai sarabha, sơn dương, nai
gió, nai nhiều màu, nữ dạ-xoa mõm lừa, nhân điểu, dạ-xoa, quỷ
sứ, được trải dài với nhiều lùm cây rậm rạp có các chồi non và
các nụ hoa, có những bông hoa nở rộ ở đầu cành, được náo nhiệt
với hàng trăm con chim đang say sưa nhảy nhót như chim ưng, chim
trĩ, chim đại bàng, chim công, chim cu gáy, gà lôi, chim
celāvaka, chim
bhiṅkāra, chim cu rừng; ở vùng
đất được tô điểm và được bao phủ bởi hàng trăm khoáng chất như
ăng-ti-mon, thạch tín, hùng hoàng, thần sa, vàng, bạc, vàng
khối; quả thật thưa ông, ở khu rừng rậm thật sự đáng yêu với
hình thức như vậy, có con chim tên Kuṇāla vô cùng xinh đẹp, có
sự che phủ với bộ lông vô cùng sặc sỡ, trú ngụ.–
|
Một vùng đất kia có đủ loại cây
cỏ mọc lên, được phủ với nhiều khóm hoa, nhiều dã thú lai vãng
như voi, gayal, trâu, nai, trâu rừng (yak), hươu sao, tê giác,
nai lớn, sư tử, hổ, báo, gấu, sói, linh cẩu, rái cá, linh dương
kadalì, mèo rừng, thỏ tai dài, vô số đàn voi đủ loại trú ngụ, đủ
loại hươu nai lui tới, là nơi nương náu của bầy yakkha (dạ-xoa)
mặt ngựa, yêu tinh, ma quỷ...
Vùng ấy lại được một khóm cây rậm rạp che phủ, nở hoa ở trên
ngọn, thân mảnh mai cao, không có lỏi bên trong, vang dội tiếng
chim líu lo, sung sướng như điên cuồng, nào là chim ưng, gà gô,
chim voi, công trĩ, cu gáy; vùng ấy lại được tô điểm với hàng
trăm khoáng chất như thủy ngân, thạch tín trắng, thạch tín vàng,
son đỏ, vàng và bạc. Chính trong khu rừng kỳ thú này có con chim
Kunàla (một loại sơn ca), màu sắc rực rỡ với bộ lông sáng chói.
|
Trang 380: |
Trang 381: |
Tasseva khalu bho kuṇālassa
sakuṇassa aḍḍhuḍḍhāni itthisahassāni paricārikā dijakaññāyo.
Atha khalu bho dve dijakaññāyo kaṭṭhaṃ mukhena ḍasitvā taṃ
kuṇālaṃ sakuṇaṃ majjhe nisīdāpetvā uḍḍenti “mā naṃ kuṇālaṃ
sakuṇaṃ addhānapariyāyapathe kilamatho ubbāheyyā ”ti. –
|
Thưa ông, quả thật có ba ngàn năm
trăm con chim mái làm công việc hầu hạ cho chính con chim Kuṇāla
ấy. Và quả thật, thưa ông, hai con chim mái dùng mỏ ngậm khúc
cây rồi đặt con chim Kuṇāla ấy ngồi ở giữa (khúc cây) rồi bay
lên (nghĩ rằng): “Chớ để sự mệt nhọc ở con đường di chuyển xa
xôi làm cho chim Kuṇāla ấy rơi khỏi chỗ ngồi.”– |
Chim Kunàla này có ba ngàn năm
trăm chim mái theo hầu. Thời ấy hai con chim ngậm một khúc cây
trong mỏ đặt chim Kunàla ở giữa và bay lên, vì sợ rằng nỗi gian
lao trong quãng đường xa sẽ làm chim này nhích ra khỏi chỗ đậu
và rơi xuống. |
Pañcasatā dijakaññāyo heṭṭhato
heṭṭhato ḍenti “sacāyaṃ kuṇālo sakuṇo āsanā paripaṭissati, mayaṃ
taṃ pakkhehi paṭiggahessāmā ”ti.–
|
Năm trăm con chim mái bay ở phía
bên dưới (nghĩ rằng): “Nếu chim Kuṇāla này rơi khỏi chỗ ngồi,
chúng ta sẽ đón lấy chim ấy bằng những cặp cánh.”– |
Năm trăm chim mái bay phía dưới
và chúng suy nghĩ: "Nếu chúa Kunàla này rơi xuống khỏi chỗ đậu,
thì chúng ta sẽ giữ lấy ngài trong đôi cánh của ta". |
Pañcasatā dijakaññāyo uparūpari
ḍenti “mā naṃ kuṇālaṃ sakuṇaṃ ātapo paritāpī ”ti. –
|
Năm trăm con chim mái bay ở phía
bên trên (nghĩ rằng): “Chớ để sức nóng thiêu đốt chim Kuṇāla
ấy.”– |
Năm trăm chim khác bay phía trên,
vì sợ rằng sức nóng làm cháy da chim Kunàla. |
Pañcasatā (pañcasatā) dijakaññāyo
ubhato passena ḍenti “mā naṃ kuṇālaṃ sakuṇaṃ sītaṃ vā uṇhaṃ vā
tiṇaṃ vā rajo vā vāto vā ussāvo vā upapphusī ”ti.–
|
Năm trăm con chim mái bay ở phía
hai bên hông (nghĩ rằng): “Chớ để sự lạnh, sự nóng, cỏ rác, bụi
bặm, gió máy, hay mù sương đến gần và chạm vào chim Kuṇāla ấy.”–
|
Năm trăm chim khác bay mỗi bên
ngai, để cản nóng, lạnh, cỏ cây, bụi bặm, gió, sương đụng vào
ngài. |
Pañcasatā dijakaññāyo purato
purato ḍenti “mā naṃ kuṇālaṃ sakuṇaṃ gopālakā vā pasupālakā vā
tiṇahārakā vā kaṭṭhahārakā vā vanakammikā vā kaṭṭhena vā
kaṭhalāya vā pāṇinā vā (pāsāṇena vā) leḍḍunā vā daṇḍena vā
satthena vā sakkharāya vā pahāraṃ adaṃsu. Māyaṃ kuṇālo sakuṇo
gacchehi vā latāhi vā rukkhehi vā sākhāhi vā thambhehi vā
pāsāṇehi vā balavantehi vā pakkhīhi saṅgāmesī ”ti. –
|
Năm trăm con chim mái bay ở phía
trước (nghĩ rằng): “Chớ để những kẻ chăn bò, những kẻ chăn thú,
những kẻ cắt cỏ, những kẻ nhặt củi, hay những kẻ làm rừng dùng
que củi, mảnh sành, nắm tay, (tảng đá), cục đất, cây gậy, con
dao, hay viên sỏi công kích chim Kuṇāla ấy. Chớ để chim Kuṇāla
này xung đột với những bụi cây, với các giống cây leo, với những
thân cây, với những cành cây, với những cột trụ, với những tảng
đá, hoặc với những con chim có sức mạnh.”–
|
Năm trăm chim bay phía trước vì
sợ rằng bọn chăn trâu bò, cắt cỏ, lượm củi, tiều phu, kiểm lâm
đánh chim Kunàla bằng que củi, hay mảnh sành, nắm tay hay hòn
đất, cây gậy hay con dao, hòn sỏi, hoặc lo rằng chim Kunàla sẽ
va chạm vào bụi cây, dây leo, hay cây lớn, cột trụ, tảng đá hoặc
một con chim lớn nào đó. |
Pañcasatā dijakaññāyo pacchato
pacchato ḍenti saṇhāhi sakhilāhi mañjūhi madhurāhi vācāhi
samudācarantiyo “māyaṃ kuṇālo sakuṇo āsane pariyukkaṇṭhī ”ti.–
|
Năm trăm con chim mái bay ở phía
sau chăm sóc bằng những lời nói mềm mỏng, trìu mến, dịu dàng,
ngọt ngào (nghĩ rằng): “Chớ để chim Kuṇāla này chán nản ở nơi
chỗ ngồi.”– |
Năm trăm chim bay phía sau, nói
với Ngài những lời dịu dàng, thân ái bằng những âm điệu du
dương, ngọt ngào vì e rằng chim Kunàla mệt mỏi trong khi đậu tại
đó. |
Pañcasatā dijakaññāyo diso disaṃ
ḍenti neka rukkha-vividha-vikati-phalamāharantiyo “māyaṃ kuṇālo
sakuṇo khudāya parikilamitthā ”ti.– |
Năm trăm con chim mái bay đi đó
đây mang về trái cây đủ thứ đủ loại của nhiều giống cây (nghĩ
rằng): “Chớ để chim Kuṇāla này mệt nhọc vì đói.”– |
Năm trăm chim bay lượn vòng quanh
đây đó, mang về đủ loại trái cây khác nhau vì sợ rằng chim
Kunàla phải chịu đói khổ. |
Atha khalu bho tā dijakaññāyo taṃ
kuṇālaṃ sakuṇaṃ ārāmeneva ārāmaṃ uyyāneneva uyyānaṃ
nadītittheneva nadītitthaṃ pabbatasikhareneva pabbatasikharaṃ
ambavaneneva ambavanaṃ jambuvaneneva jambuvanaṃ labujavaneneva
labujavanaṃ nāḷikerasañcāriyeneva nāḷikerasañcāriyaṃ khippameva
abhisambhonti ratatthāya. –
|
Và quả thật, thưa ông, những con
chim mái ấy đã nhanh chóng đưa con chim Kuṇāla ấy đi thưởng
ngoạn từ khu vườn này đến khu vườn khác, từ vườn hoa này đến
vườn hoa khác, từ bến sông này đến bến sông khác, từ đỉnh núi
này đến đỉnh núi khác, từ rừng xoài này đến rừng xoài khác, từ
rừng mận đỏ này đến rừng mận đỏ khác, từ rừng mít này đến rừng
mít khác, từ trảng dừa này đến trảng dừa khác nhằm mục đích tiêu
khiển.– |
Thời ấy bầy chim nhanh nhẹn đưa
chim Kunàla đi du ngoạn từ lạc viên này đến lạc viên khác, khu
vườn này đến khu vườn khác, bờ sông này đến bờ sông khác, đỉnh
núi này đến đỉnh núi khác, vườn xoài này đến vườn xoài khác,
vườn hồng đào này đến vườn hồng đào khác, vườn mít này đến vườn
mít khác, rừng dừa này đến rừng dừa khác. |
Atha khalu bho kuṇālo sakuṇo tāhi
dijakaññāhi divasaṃ paribbūḷho evaṃ apasādeti “nassatha tumhe
vasaliyo, vinassatha tumhe vasaliyo coriyo dhuttiyo asatiyo
lahucittāyo katassa appatikārikāyo anilo viya yena kāmaṅgamāyo
”ti.
|
Và quả thật,
thưa ông, con chim Kuṇāla ấy, được những con chim mái ấy cung
phụng mỗi ngày, lại miệt thị như vầy: “Hãy đi hết đi, các nàng
là những kẻ hạ tiện! Hãy biến mất hết đi, các nàng là những kẻ
hạ tiện, trộm cướp, vô lại, lơ là, có tâm thay đổi, không biết
ân nghĩa, đi lại tùy tiện như là làn gió vậy!”
|
Cứ thế ngày nọ sang ngày kia,
chim Kunàla được bầy chim này hộ tống như vậy, lại trách mắng
chúng:
- Này lũ xấu xa kia, chết đi, chết tiệt cả đi, chúng bây là quân
trộm cắp, lừa đảo, vô tâm, phù phiếm, bạc nghĩa vong ân, như gió
cuốn đi bất cứ nơi nào chúng bây muốn. |
Trang 382: |
Trang 383: |
Tasseva khalu bho himavato
pabbatarājassa puratthimadisābhāge
susukhuma-sunipuṇa-girippabhavā haritūpayantiyo.–
|
Thưa ông, quả thật ở về khu vực
phía Đông của chính ngọn núi chúa Hi-mã-lạp ấy, có những dòng
nước trong xanh phát xuất từ ngọn núi, vô cùng tinh khiết, vô
cùng hoàn hảo.– |
Trên sườn Đông của dãy Tuyết Sơn,
chúa tể của núi đồi, là những dòng suối xanh biếc, bắt nguồn từ
những sườn núi thoai thoải, |
Uppala-kumuda-paduma -nalina
-satapatta-sogandhika-mandālava
-sampativirūḷha-sucigandha-manuññapāvakappadese.–
|
Ở vùng đất có hương thơm trong
lành, dễ chịu, sáng sủa, đã vươn lên những loài hoa ở nước có
trăm cánh, có mùi thơm dịu như sen sanh, súng trắng, sen hồng,
sen trắng.– |
trong một vùng thơm ngát, mê hồn,
sáng tươi, diễm lệ với hoa sen nở rộ đủ màu xanh, trắng, sen
bách diệp, súng trắng và cây hoa thần tiên, |
Kuravaka-mucalinda-ketaka-vetasa
-vañjulapunnāgavakulatilaka-piyaka-hasanasāla-salala
-campakāsoka-nāgarukkha-tirīṭa -bhujapatta-lodda-candanoghavane,
kāḷāgaḷu -padmaka -piyaṅgu-devadārukacoca-gahaṇe
kakudhakuṭaja-aṅkola-kaccikāra-kaṇikāra-kaṇṇakāra-kaṇavera-koraṇḍa
-koviḷāra-kiṃsuka-yodhi
-navamallikam-anaṅgaṇa-manavajja-bhaṇḍi-surucira-bhaginimālādimālya
dhare jātisumana-madhugandhika-dhanukāri-tāḷīsa-tagara-usīra-koṭṭha-kacchavitate, atimuttaka
-saṅkusumita-latāvitata-patimaṇḍitappadese,
haṃsa-pilava-kādamba-kāraṇḍavābhinadite
vijjādhara-siddha-samaṇa-tāpasagaṇādhivutthe varadeva
-yakkha-rakkhasa-dānava-gandhabba-kinnara-mahoragānuciṇṇappadese,
evarūpe khalu bho ramme vanasaṇḍe puṇṇamukho nāma phussakokilo
paṭivasati ativiya madhuragiro vilasitanayanamattakkho.
|
Ở khu rừng với những chòm cây như
cây kuravaka, cây
mucalinda, cây
ketaka, cây
vetasa, cây
vañjula, cây nguyệt quế, cây
vakula, cây
tilaka, cây
piyaka, cây
asana, cây sa-la, cây
salala, cây cầy, cây vô ưu,
cây lim, cây tirīṭa, cây
bhujapatta, cây
lodda, cây trầm hương; ở những
rừng cây rậm với những cây kāḷāgaḷu,
cây padmaka, cây thuốc
piyaṅgu, cây thông, cây chuối;
ở những bụi cây mang những chùm hoa như cây
kakudha, cây
kuṭaja, cây
aṅkola, cây
kaccikāra, cây
kaṇikāra (có hoa lớn), cây
kaṇṇakāra (có hoa nhỏ), cây
trúc đào, cây koraṇḍa, cây
koviḷāra, cây
kiṃsuka, cây hoa nhài, cây hoa
nhài rừng, cây anaṅgaṇa, cây
manavajja, cây
bhaṇḍi, cây
surucira, cây
bhaginimāla, v.v..., được trải
dài với những đầm lầy mọc những giống cây có mùi thơm như cây
hoa nhài trâu, cây madhugandhika,
cây dhanukāri, cây
tāḷīsa, cây
tagara, cây
usīra, cây
koṭṭha; ở vùng đất trải dài
được tô điểm với những giống dây leo đã nở rộ hoa toàn bộ như
giống dây leo atimuttaka; ở
vùng đất được vang dội tiếng kêu của các loài chim thiên nga,
vịt trời, ngỗng xám, ngỗng đen, được cư ngụ bởi những nhóm các
thầy chú thuật, các vị làm trỏ quỷ thuật, các Sa-môn, và các đạo
sĩ khổ hạnh, được tới lui bởi các Thiên thần, các Dạ-xoa, các
quỷ sứ, các yêu tinh, các Càn-thát-bà, các loài nhân điểu, và
các mãng xà; thưa ông, quả thật ở khu rừng rậm thật sự đáng yêu
với hình thức như vậy, có con chim cu cu chúa tên Puṇṇamukha có
giọng hót vô cùng ngọt ngào, có cặp mắt rực sáng tựa như cặp mắt
đỏ ngầu của những kẻ say đắm dục lạc, trú ngụ.
|
một miền bát ngát mỹ miều với đủ
loại kỳ hoa dị thảo, cây leo, vang vọng tiếng thiên nga, vịt,
ngỗng, có từng đoàn ẩn sĩ khổ hạnh, những vị có đủ thần thông
biến hóa, lại có các thần linh, ma quỷ, dạ-xoa, yêu quái, nhạc
thần, tiên nữ và mãng xà. Chính trong một khu rừng kỳ ảo như vậy
sơn ca chúa Punnamukha đã cư trú. Giọng sơn ca thật du dương êm
ái, chính đôi mắt tươi vui ấy là đôi mắt của con chim say sưa
với nhiều hoan lạc. |
Tasseva khalu bho puṇṇamukhassa
phussakokilassa aḍḍhuḍḍhāni itthisatāni paricārikā dijakaññāyo.
Atha khalu bho dve dijakaññāyo kaṭṭhaṃ mukhena ḍasitvā taṃ
puṇṇamukhaṃ phussakokilaṃ majjhe nisīdāpetvā uḍḍenti “mā naṃ
puṇṇamukhaṃ phussakokilaṃ addhānapariyāyapathe kilamatho
ubbāhetthā ”ti.– |
Thưa ông, quả thật có ba trăm năm
mươi con chim mái làm công việc hầu hạ cho chính con chim cu cu
chúa Puṇṇamukha ấy. Lúc bấy giờ, thưa ông, hai con chim mái dùng
mỏ ngậm khúc cây rồi đặt con chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy ngồi
ở giữa (khúc cây) rồi bay lên (nghĩ rằng): “Chớ để sự mệt nhọc ở
con đường di chuyển xa xôi làm cho chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy
rơi khỏi chỗ ngồi.”– |
Ba ngàn năm trăm chim mái theo hộ
tống chim sơn ca Punnamukha này. Cũng vậy, có hai con chim vừa
ngậm khúc cây trong mỏ và đặt Punnamukha ở giữa vừa bay lên
không gian, vì sợ chim chúa phải chịu mệt nhọc... |
Paññāsa dijakaññāyo heṭṭhato
heṭṭhato ḍenti “sacāyaṃ puṇṇamukho phussakokilo āsanā
paripatissati, mayaṃ taṃ pakkhehi paṭiggahessāmā ”ti.– |
Năm mươi con chim mái bay ở phía
bên dưới (nghĩ rằng): “Nếu chim cu cu chúa Puṇṇamukha này rơi
khỏi chỗ ngồi, chúng ta sẽ đón lấy chim ấy bằng những cặp
cánh.”– |
|
Paññāya dijakaññāyo uparūpari
ḍenti “mā naṃ puṇṇamukhaṃ phussakokilaṃ ātapo paritāpī ”ti. – |
Năm mươi con chim mái bay ở phía
bên trên (nghĩ rằng): “Chớ để sức nóng thiêu đốt chim cu cu chúa
Puṇṇamukha ấy.”– |
|
Paññāsa (paññāsa) dijakaññāyo
ubhato passena ḍenti “mā naṃ puṇṇamukhaṃ phussakokilaṃ sītaṃ vā
uṇhaṃ vā tiṇaṃ vā rajo vā vāto vā ussāvo vā upapphusī ”ti.–
|
Năm mươi con
chim mái bay ở phía hai bên hông (nghĩ rằng): “Chớ để sự lạnh,
sự nóng, cỏ rác, bụi bặm, gió máy, hay mù sương đến gần và chạm
vào chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy.”–
|
|
Trang 384: |
Trang 385:
|
Paññāsa dijakaññāyo purato purato
ḍenti “mā naṃ puṇṇamukhaṃ phussakokilaṃ gopālakā vā pasupālakā
vā tiṇahārakā vā kaṭṭhahārakā vā vanakammikā vā kaṭṭhena vā
kaṭhalāya vā pāṇinā vā (pāsāṇena vā) leḍḍunā vā daṇḍena vā
satthena vā sakkharāhi vā pahāraṃ adaṃsu. Māyaṃ puṇṇamukho
phussakokilo gacchehi vā latāhi vā rukkhehi vā sākhāhi vā
thambhehi vā pāsāṇehi vā balavantehi vā pakkhīhi saṃgāmesī ”ti.–
|
Năm mươi con chim mái bay ở phía
trước (nghĩ rằng): “Chớ để những kẻ chăn bò, những kẻ chăn thú,
những kẻ cắt cỏ, những kẻ nhặt củi, hay những kẻ làm rừng dùng
que củi, mảnh sành, nắm tay, (tảng đá), cục đất, cây gậy, con
dao, hay viên sỏi công kích chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy. Chớ
để chim cu cu chúa Puṇṇamukha này xung đột với những bụi cây,
với các giống cây leo, với những thân cây, với những cành cây,
với những cột trụ, với những tảng đá, hoặc với những con chim có
sức mạnh.”– |
|
Paññāsa dijakaññāyo pacchato
pacchato ḍenti saṇhāhi sakhilāhi mañjūhi madhurāhi vācāhi
samudācarantiyo “māyaṃ puṇṇamukho phussakokilo āsane
pariyukkaṇṭhī ”ti.–
|
Năm mươi con chim mái bay ở phía
sau chăm sóc bằng những lời nói mềm mỏng, trìu mến, dịu dàng,
ngọt ngào (nghĩ rằng): “Chớ để chim cu cu chúa Puṇṇamukha này
chán nản ở nơi chỗ ngồi.”– |
|
Paññāsa dijakaññāyo disodisaṃ
ḍenti neka rukkha-vividha-vikati-phalamārahantiyo “māyaṃ
puṇṇamukho phussakokilo khudāya parikilamitthā ”ti.–
|
Năm mươi con chim mái bay đi đó
đây mang về trái cây đủ thứ đủ loại của nhiều giống cây (nghĩ
rằng): “Chớ để chim cu cu chúa Puṇṇamukha này mệt nhọc vì đói.”–
|
|
Atha khalu bho tā dijakaññāyo taṃ
puṇṇamukhaṃ phussakokilaṃ ārāmeneva arāmaṃ uyyāneneva uyyānaṃ
nadītittheneva nadītitthaṃ pabbatasikhareneva pabbatasikharaṃ
ambavaneneva ambavanaṃ jambuvaneneva jambuvanaṃ labujavaneneva
labujavanaṃ nāḷikerasañcāriyeneva nāḷikerasañcāriyaṃ khippameva
abhisambhonti ratatthāya. –
|
Và quả thật, thưa ông, những con
chim mái ấy đã nhanh chóng đưa con chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy
đi thưởng ngoạn từ khu vườn này đến khu vườn khác, từ vườn hoa
này đến vườn hoa khác, từ bến sông này đến bến sông khác, từ
đỉnh núi này đến đỉnh núi khác, từ rừng xoài này đến rừng xoài
khác, từ rừng mận đỏ này đến rừng mận đỏ khác, từ rừng mít này
đến rừng mít khác, từ trảng dừa này đến trảng dừa khác nhằm mục
đích tiêu khiển.–
|
|
Atha khalu bho puṇṇamukho
phussakokilo tāhi dijakaññāhi divasaṃ paribbūḷho evaṃ pasaṃsati
“sādhu sādhu bhaginiyo etha kho bhaginiyo tumhākaṃ patirūpaṃ
kuladhītānaṃ yaṃ tumhe bhattāraṃ paricareyyāthā ”ti.
|
Và quả thật, thưa ông, con chim
cu cu chúa Puṇṇamukha ấy, đã được những con chim mái ấy cung
phụng mỗi ngày, nên khen ngợi như vầy: “Tốt lắm, tốt lắm, này
các cô em! Hãy đến, này các cô em! Việc các nàng phục vụ người
chồng là thích đáng với những cô con gái gia tộc danh giá các
nàng!” |
Thuở ấy chim Punnamukha được đàn
chim này hộ tống ban ngày, đã ca ngợi chúng như vầy:
- Các hiền muội thật đáng tuyên dương, hành động này của các
hiền muội rất phù hợp với các mệnh phụ cao sang, vì các hiền
muội đã phụng sự chúa công mình. |
Atha khalu bho puṇṇamukho
phussakokilo yena kuṇālo sakuṇo tenupasaṅkami. Addasaṃsu kho
kuṇālassa sakuṇassa paricārikā dijakaññāyo taṃ puṇṇamukhaṃ
phussakokilaṃ dūratova āgacchantaṃ, disvāna yena puṇṇamukho
phussakokilo tenupasaṅkamiṃsu, upasaṅkamitvā taṃ puṇṇamukhaṃ
phussakokilaṃ etadavocuṃ: “Ayaṃ samma puṇṇamukha, kuṇālo sakuṇo
ativiya pharuso atitiviya pharusavāco appevanāma tvampi āgamma
piyavācaṃ labheyyāmā ”ti. “Appevanāma bhaginiyo ”ti vatvā yena
kuṇālo sakuṇo tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā kuṇālena sakuṇena
saddhiṃ paṭisammoditvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho
puṇṇamukho phussakokilo taṃ kuṇālaṃ sakuṇaṃ etadavoca: “Kissa
tvaṃ samma kuṇāla, itthīnaṃ sujātānaṃ kuladhītānaṃ sammā
paṭipannānaṃ micchā paṭipannosi. Amanāpabhāṇīnampi kira samma
kuṇāla, itthīnaṃ manāpabhāṇinā bhavitabbaṃ, kimaṅgaṃ pana
manāpabhāṇīnan ”ti.–
|
Và quả thật, thưa ông, con chim
cu cu chúa Puṇṇamukha đã đi đến gặp con chim Kuṇāla. Các con
chim mái hầu hạ chim Kuṇāla đã nhìn thấy con chim cu cu chúa
Puṇṇamukha ấy từ đằng xa đang đi lại; sau khi nhìn thấy, chúng
đã đi đến gặp con chim cu cu chúa Puṇṇamukha; sau khi gặp, chúng
đã nói với con chim cu cu chúa Puṇṇamukha điều này: “Này bạn cu
cu chúa, con chim Kuṇāla này vô cùng thô lỗ, có lời nói vô cùng
thô lỗ. Hy vọng sau khi ngài đến, chúng tôi có thể nhận được lời
nói trìu mến.” “Này các chị, hy vọng là vậy.” Nói xong, con chim
cu cu chúa đã đi đến gặp con chim Kuṇāla, sau khi đến đã tỏ ra
vui vẻ với con chim Kuṇāla rồi ngồi xuống ở một bên. Sau khi
ngồi xuống ở một bên, con chim cu cu chúa Puṇṇamukha đã nói với
con chim Kuṇāla ấy điều này: “Này bạn Kuṇāla, tại sao bạn lại cư
xử sái quấy đối với các chim mái thuộc dòng dõi cao sang, là
những cô con gái gia tộc danh giá, và đã cư xử đúng đắn? Này bạn
Kuṇāla, nghe rằng, ngay cả đối với những phụ nữ có lời nói không
hợp ý, cũng nên có lời nói hợp ý, huống hồ là đối với những phụ
nữ có lời nói hợp ý?”– |
Lúc ấy, thực ra sơn ca Punnamukha
đến gần nơi chim Kunàla đang đậu, và đàn chim hầu cận chim
Kunàla đã thấy chim kia, trong khi chim ấy còn ở đằng xa, chúng
kéo lại gần chim Punnamukha và cầu thân như vầy:
- Này Hiền hữu Punnamukha, chim Kunàla là một con chim hung bạo
với giọng lưỡi thô tục. Có lẽ nhờ hiền hữu giúp đỡ, chúng tôi
may ra mới nghe được lời nói tử tế của vị ấy.
- Thưa các quý nương, có lẽ chúng ta làm được việc ấy.
Nói vậy xong, chim ấy đến gần Kunàla, sau lời chào hỏi ân cần,
chim ấy cung kính đậu một bên và nói với Kunàla như vầy:
- Này Hiền hữu Kunàla, tại sao Hiền hữu đối xử tàn tệ với các
quý nương này mặc dù họ giữ phẩm hạnh tốt đẹp? Hiền hữu Kunàla,
ta nên nói lời dịu ngọt ngay cả với các nữ nhân có lời lẽ thiếu
tao nhã, huống hồ đối với các quý nương thanh cao thế này. |
Evaṃ vutte kuṇālo sakuṇo taṃ
puṇṇamukhaṃ phussakokilaṃ evaṃ apasādesi: “Nassa tvaṃ samma
jamma vasala, vinassa tvaṃ samma jamma vasala, ko nu tayā
viyatto jāyājinenā ”ti. Evaṃ apasādito ca pana puṇṇamukho
phussakokilo tato heva paṭinivatti.
|
Khi được nói như vậy, con chim
Kuṇāla đã miệt thị con chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy như vầy:
“Ngươi hãy đi đi, này ông bạn thấp hèn, hạ tiện! Hãy biến mất
đi, này ông bạn thấp hèn, hạ tiện. Ai mà giống như ngươi, là kẻ
thông thái mà còn thua mụ vợ?” Và bị miệt thị như vậy, con chim
cu cu chúa Puṇṇamukha đã từ nơi ấy quay trở về. |
Khi chim ấy nói vậy xong, Kunàla
liền phỉ báng Punnamukha như sau:
- Này quân khốn nạn kia, hãy chết đi, chết tiệt cả đi. Ai lại
giống như ngươi cứ mềm lòng trước lời van xin của nữ giới?
Khi bị khiển trách như vậy, chim Punnamukha liền bỏ đi. |
Trang 386: |
Trang 387:
|
Atha khalu bho puṇṇamukhassa
phussakokilassa aparena samayena na cirasseva (accayena) kharo
ābādho uppajji, lohitapakkhandikā bāḷhā vedanā vattanti
māraṇantikā. Atha khalu bho puṇṇamukhassa phussakokilassa
paricārikānaṃ dijakaññānaṃ etadahosi: “Ābādhiko kho ayaṃ
puṇṇamukho phussakokilo, appevanāma imamhā ābādhā vuṭṭhaheyyā
”ti. Taṃ ekakaṃ adutiyaṃ ohāya yena kuṇālo sakuṇo
tenupasaṅkamiṃsu. Addasā kho kuṇālo sakuṇo tā dijakaññāyo
dūratova āgacchantiyo, disvāna tā dijakaññāyo etadavoca: “Kahaṃ
pana tumhaṃ vasaliyo bhattā ”ti. “Ābādhiko kho samma kuṇāla
puṇṇamukho phussakokilo, appevanāma tamhā ābādhā vuṭṭhaheyyā
”ti. Evaṃ vutte kuṇālo sakuṇo tā dijakaññāyo evaṃ apasādesi
“nassatha tumhe vasaliyo, vinassatha tumhe vasaliyo coriyo
dhuttiyo asatiyo lahucittāyo katassa apaṭikārikāyo anilo viya
yena kāmaṅgamāyo ”ti vatvā yena puṇṇamukho phussakokilo
tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā taṃ puṇṇamukhaṃ phussakokilaṃ
etadavoca: “Haṃ samma puṇṇamukhā ”ti. “Haṃ samma kuṇālā ”ti.–
|
Và quả thật, thưa ông, vào một
lúc khác không lâu sau đó, có cơn bệnh thô tháo đã sanh khởi đến
chim cu cu chúa Puṇṇamukha, có sự xuất huyết, có các cảm thọ
khốc liệt xuất hiện, có sự cận kề cái chết. Và quả thật, thưa
ông, các con chim mái hầu hạ chim cu cu chúa Puṇṇamukha đã khởi
ý rằng: “Chim cu cu chúa Puṇṇamukha này bị bệnh, hy vọng có thể
qua khỏi cơn bệnh này.” Sau khi bỏ bê chim ấy chỉ một mình,
không kẻ thứ hai, chúng đã đi đến gặp chim Kuṇāla. Con chim
Kuṇāla đã nhìn thấy các con chim mái ấy từ đằng xa đang đi lại,
sau khi gặp những con chim mái ấy, nó đã nói điều này: “Chồng
của lũ hạ tiện các ngươi ở đâu?” “Thưa bạn Kuṇāla, chim cu cu
chúa Puṇṇamukha bị bệnh, hy vọng có thể qua khỏi cơn bệnh ấy.”
Khi được nói như vậy, con chim Kuṇāla đã miệt thị các con chim
mái rằng: “Hãy đi hết đi, các nàng là những kẻ hạ tiện! Hãy biến
mất hết đi, các nàng là những kẻ hạ tiện, trộm cướp, vô lại, lơ
là, có tâm thay đổi, không biết ân nghĩa, đi lại tùy tiện như là
làn gió vậy!” Nói xong, nó đã đi đến gặp chim cu cu chúa
Puṇṇamukha, sau khi đến đã nói với chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy
điều này: “Chào bạn Puṇṇamukha.” “Chào bạn Kuṇāla.”– |
Rồi chẳng bao lâu sau đó,
Punnamukha lâm bệnh nặng, và chịu đau đớn kịch liệt vì chứng
xuất huyết, làm chim gần chết. Bầy chim hầu cận sơn ca
Punnamukha liền suy nghĩ: "Sơn ca này bị bệnh nặng, chắc là phải
được vực dậy từ căn bệnh này".
Nghĩ vậy, chúng liền rời bỏ chim ấy một mình và kéo đến gần chim
Kunàla.
Kunàla nhìn chúng bay lại từ xa, khi thấy chúng liền hỏi:
- Lũ khốn nạn kia, chúa của bây đâu?
- Hiền hữu Kunàla, chim Punnamukha bị bệnh. Có lẽ chim ấy phải
được vực dậy từ cơn bệnh này.
Khi chúng nói vậy xong, chim Kunàla nguyền rủa chúng:
- Hãy chết đi, lũ khốn nạn kia, chết tiệt đi, chúng bây là lũ
trộm cắp, lừa đảo, vô tâm, phù phiếm, bạc nghĩa vong ân như gió
cuốn đi nơi nào bây muốn.
Nói vậy xong, chim ấy đến gần nơi
sơn ca Punnamukha nằm và nói như sau:
- Chào Hiền hữu Punnamukha.
- Chào Hiền hữu Kunàla - Chim kia đáp. |
Atha khalu bho kuṇālo sakuṇo taṃ
puṇṇamukhaṃ phussakokilaṃ pakkhehi ca mukhatuṇḍena ca
pariggahetvā vuṭṭhāpetvā nānābhesajjāni pāyāpesi. Atha khalu bho
puṇṇamukhassa phussakokilassa so abādho paṭippassambhī ”ti.
|
Và quả thật, thưa ông, chim
Kuṇāla đã ôm choàng lấy chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy bằng cặp
cánh và cái mỏ, nâng đứng dậy, rồi đã cho uống nhiều loại thuốc
khác nhau. Và quả thật, thưa ông, cơn bệnh ấy của chim cu cu
chúa Puṇṇamukha đã được thuyên giảm. |
Sau đó, chim Kunàla dùng đôi cánh
và mỏ ôm lấy Punnamukha và vừa nâng bạn lên, vừa cho uống đủ thứ
thuốc. Nhờ thế, bệnh tình của sơn ca đã thuyên giảm. |
Atha khalu bho kuṇālo sakuṇo taṃ
puṇṇamukhaṃ phussakokilaṃ gilānā vuṭṭhitaṃ aciravuṭṭhitaṃ
gelaññā etadavoca: “Diṭṭhā mayā sammā puṇṇamukha, kaṇhā
dvepitikā pañcapatikāya chaṭṭhe purise cittaṃ paṭibaddhantiyā
yadidaṃ kavandhe pīṭhasappimhīti. Bhavati ca panuttarettha
vākyaṃ.
|
Và quả thật, thưa ông, khi con
chim cu cu chúa Puṇṇamukha ấy đã qua khỏi cơn bệnh, khi con chim
chúa vừa qua khỏi cơn bệnh không lâu lắm, chim Kuṇāla đã nói với
con chim chúa điều này: “Này bạn Puṇṇamukha, tôi đã nhìn thấy
nàng Kaṇhā có hai người cha, năm người chồng, và tâm của nàng
đang gắn bó vào người đàn ông thứ sáu, là gã có cổ rụt, bị què
quặt. Hơn nữa, ở đây, còn có thêm lời nói rằng: |
Thời ấy chim Kunàla nói với sơn
ca Punnamukha, vừa mới được vực dậy từ giường bệnh:
- Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã thấy Kanhà, một nữ nhân có hai
cha và năm chồng, lại còn luyến ái một nam nhi thứ sáu là một gã
lùn có đầu thụt vào cổ và què chân nữa.
Ở đây chúng ta cũng có thêm một vần kệ: |
4114. Athajjuno nakulo bhīmaseno
yudhiṭṭhilo sahadevo ca rājā,
ete patī pañcamaticca nārī
akāsi khujjavāmanakena pāpan ”ti.
|
4114. ‘Ajjuna, Nakula, Bhīmasena,
Yudhiṭṭhila, và đức vua Sahadeva,
sau khi đã qua mặt năm người
chồng này, người đàn bà
đã làm việc xấu xa cùng với gã
lùn bị gù lưng.’
|
1. Chuyện cổ, Kan-hà, được kể
rằng:
Cả năm hoàng tử gả cho nàng,
Tham lam, nàng vẫn còn ham muốn
Một gã gù lưng, gái điếm đàng! |
“Diṭṭhā mayā samma puṇṇamukha
saccatapāvī nāma samaṇī susānamajjhe vasantī catutthabhattaṃ
pariṇāmayamānā tulāputtakena pāpamakāsi.
|
Này bạn Puṇṇamukha, tôi đã nhìn
thấy nữ Sa-môn Saccatapāvī, trong lúc đang sống ở giữa bãi tha
ma và cho đi bữa ăn thứ tư (năm ngày ăn một bữa), đã làm việc
xấu xa cùng với con trai của người thợ kim hoàn. |
- Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã
thấy trường hợp một nữ ẩn sĩ khổ hạnh tên Saccatapàvì sống trong
nghĩa địa và bỏ cả buổi ăn thứ tư, song lại phạm tội lỗi với một
thợ vàng. |
Trang 388: |
Trang 389:
|
Diṭṭhā mayā sammā puṇṇamukha
kākātī nāma devī samuddamajjhe vasantī bhariyā venateyyassa
naṭakuverena pāpamakāsi.–
|
Này bạn Puṇṇamukha, tôi đã nhìn
thấy bà hoàng hậu tên Kākātī, vợ của Kim-sỉ-điểu chúa Venateyya,
trong lúc đang sống ở giữa biển khơi, đã làm việc xấu xa cùng
với nhạc công Naṭakuvera. |
- Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã
chứng kiến trường hợp nàng Kàkàti, vợ của vua Venateyya, sống
giữa biển cả, tuy thế đã phạm tội lỗi với nhạc công Natakuvera
(Tiền thân số 327, tập III). |
Diṭṭhā mayā samma puṇṇamukha
kuruṅgadevī nāma lomasundarī eḷakamārakaṃ kāmayamānā
chaḷaṅgakumāradhanantevāsinā pāpamakāsi.
|
Này bạn Puṇṇamukha, tôi đã nhìn
thấy cô công chúa xinh đẹp với lớp lông vàng ở bụng tên
Kuruṅgadevī, trong lúc đang yêu Eḷakamāraka, đã làm việc xấu xa
cùng với tướng quân Chaḷaṅgakumāra và người hầu Dhanantevāsi của
vị tướng quân ấy.
|
- Này Hiền hữu Punnamukha, ta đã
thấy nàng tóc vàng Kurangavì, mặc dù yêu Elakamàra, lại phạm tội
lỗi với Chalangakumara và Dhanantevàsì. |
4115. Evaṃ hetaṃ mayā ñātaṃ
brahmadattassa mātaraṃ,
ohāya kosalarājaṃ pañcālacaṇḍena pāpamakāsi.
|
4115. Tôi còn biết chuyện như vầy
về người mẹ của Brahmadatta, sau khi ruồng bỏ vị vua xứ Kosala,
đã làm việc xấu xa cùng với Pañcālacaṇḍa. |
Ta cũng biết chuyện mẹ của
Brahmadatta đã bỏ vua Kosala và phạm tội lỗi với Pancàlacanda ra
sao. |
4116. Etā ca aññā ca akaṃsu pāpaṃ
tasmāhaṃ itthīnaṃ na vissase nappasaṃse,
mahī yathā jagati samānarattā
vasundharā itarītarā patiṭṭhā
sabbaṃsahā aphandanā akuppā
tathitthiyo tāyo na vissase naro.
|
4116. Các nàng này và các nàng
khác đã làm việc xấu xa;
vì thế, tôi không tin tưởng các
nữ nhân, không ca ngợi họ.
Giống như đại địa cầu, quả đất,
có sự yêu thích đồng đều,
là nơi cất giữ của cải, nơi chứa
đựng thứ này thứ khác (tốt lẫn xấu),
có sự cam chịu tất cả, không có
xao động, không bị chuyển dịch,
các nữ nhân là tương tự, người
nam không nên tin tưởng các nàng.
|
Các người này cùng nhiều nữ nhân
khác đã theo tà dục, ta không nên đặt lòng tin vào họ hoặc ca
ngợi họ. Ví như quả đất có khuynh hướng vô tư đối với toàn thế
giới, đem lại tài sản cho mọi loài, cung cấp mái ấm cho mọi
người (tốt cũng như xấu) chịu đựng tất cả, không hề rung động,
không gì lay chuyển, đối với nữ giới cũng phải như vậy. Đàn ông
không nên tin tưởng họ. |
4117. Sīho yathā
lohitamaṃsabhojano
vāḷamigo pañcahattho suruddo,
pasayha khādī parahiṃsane rato
tathitthiyo tāyo na vissase naro.
|
4117. Giống như loài sư tử có
thức ăn là máu và thịt,
là loại thú dữ, có năm chân (tính
thêm cái miệng), vô cùng tàn nhẫn,
ra sức hành hạ rồi ăn thịt, thích
thú việc hãm hại động vật khác,
các nữ nhân là tương tự, người
nam không nên tin tưởng các nàng.
|
2. Sư tử sống bằng máu thịt
tươi,
Dùng năm móng sắc xé con mồi,
Tìm vui trong nỗi đau loài khác
Cẩn thận! Nữ nhân cũng một nòi! |
Na khalu bho samma puṇṇamukha
vesiyo nāriyo gamaniyo, nahetāva bandhakiyo nāma vadhikāyo nāma
etāyo, yadidaṃ vesiyo nāriyo gamaniyo ”ti.–
|
Quả thật, này bạn Puṇṇamukha,
những người đàn bà này không phải là các gái điếm hay các kỹ nữ,
bởi vì những người đàn bà này không có bản chất của gái điếm hay
kỹ nữ, các nàng này được gọi là các dâm phụ, được gọi là các ác
phụ. |
- Này Hiền hữu Punnamukha. Thực
vậy, bọn súc sinh này không chỉ là bọn gái giang hồ, điếm đàng,
đầu đường xó chợ, chúng không lẳng lơ đĩ thỏa cho bằng sát nhân.
Ta muốn nói đến bọ gái đứng đường buôn hương bán phấn này.
|
Corā viya veṇikatā madirā viya
diddhā vāṇijā viya vācāsanthutiyo issasiṅgamiva viparivattāyo
uragamiva dujivhāyo sobbhamiva paṭicchannā pātālamiva duppūrā
rakkhasī viya duttosā yamovekantahāriyo sikhiriva sabbabhakkhā
nadīriva sabbavāhinī anilo viya yena kāmañcarā neru viya
avisesakarā visarukkho viya niccaphalitāyo ”ti. Bhavati ca
panuttarettha vākyaṃ.
|
Các nàng như là lũ trộm cướp có
búi tóc đã được bện lại, như là rượu tẩm thuốc độc, như là
thương buôn với lời nói ca ngợi (hàng hóa của mình), cong queo
tựa như sừng của loài nai issa,
tựa như loài rắn có hai lưỡi, tựa như cái hố đã được che đậy,
tựa như vực thẳm ở đại dương khó lấp đầy, như là quỷ cái khó làm
hài lòng, tựa như Diêm Vương chỉ có bắt đem đi, tựa như ngọn lửa
có sự thiêu đốt mọi thứ, tựa như dòng sông có sự cuốn trôi tất
cả, như là làn gió có sự di chuyển theo ý thích, như là núi Neru
làm cho mọi thứ trở nên không còn khác biệt, như là giống cây
độc hại thường xuyên kết trái. Hơn nữa, ở đây, còn có thêm lời
nói rằng:
|
Chúng giống như quân cường đạo
với cuộn tóc vàng kết lại, chúng như thuốc độc, như lũ lái buôn
tự khoe mình, quanh co như sừng dê, miệng lưỡi độc địa như loài
rắn, như cái hố có nắp đậy, tham lam vô tận như địa ngục, khó
làm thỏa mãn như quỷ cái, ngốn ngấu mọi loài như Diêm vương, tàn
phá mọi sự như ngọn lửa, cuốn trôi mọi vật ở trước nó như dòng
sông; như cơn gió thổi tới nơi nào nó muốn, không biết phân biệt
gì như đỉnh núi Neru, kết trái quanh năm như loài cây độc.
Ở đây lại có thêm một vần kệ nữa: |
Trang 390: |
Trang 391:
|
4118. Yathā coro yathā diddho
vāṇijova vikatthanī,
issasiṅgamivāvaṭṭā dujivhā urago yathā.
|
4118. ‘Giống như kẻ trộm cướp,
giống như đã bị tẩm thuốc độc, như là thương buôn có sự ca ngợi,
cong queo như là sừng của loài nai issa, giống như con rắn có
hai lưỡi. |
3. Như độc dược, quân cướp bạo
tàn,
Quanh co như gạc của sơn dương,
Mãnh xà hai lưỡi là loại chúng,
Chực sẵn khoe khoang tựa lái buôn. |
4119. Sobbhamiva paṭicchannā
pātālamiva duppurā,
rakkhasī viya duttosā yamovekantahāriyo,
yathā sikhī nadī vāho anilo kāmacāravā.
|
4119. Tựa như cái hố đã được che
đậy, tựa như vực thẳm khó lấp đầy, như là quỷ cái khó làm hài
lòng, tựa như Diêm Vương chỉ có bắt đem đi, giống như ngọn lửa,
dòng sông có sự mang đi, tựa như làn gió có sự di chuyển theo ý
thích. |
4. Giết hại như là hố đậy che,
Như mồm địa ngục, thỏa không hề,
Như loài quỷ dữ tham vô độ,
Thần chết mang theo mọi vật kia.
5. Ngốn ngấu khác đâu ngọn lửa
nồng,
Mạnh như hồng thủy hoặc cuồng phong, |
4120. Nerūva avisesā ca
visarukkho viya niccaphalā,
nāsayanti ghare bhogaṃ ratanānantakaritthiyo ”ti.
|
4120. Và tựa như núi Neru làm cho
không còn khác biệt, như là giống cây độc hại thường xuyên kết
trái, những người đàn bà làm tiêu hoại của cải ở trong nhà và
làm biến mất các loại báu vật.’
|
Như Ne-ru đỉnh màu vàng chói
Thiện ác không hề biết biệt phân.
6. Não hại như cây độc sát
nhân,
Chúng luôn tàn phá cả năm phần,
Gia tài sự nghiệp đều tiêu tán,
Phung phí bạc vàng, mọi bảo trân. |
Cattārimāni samma puṇṇamukha yāni
parakule na vāsetabbāni goṇaṃ dhenuṃ yānaṃ bhariyaṃ, cattāri
etāni paṇḍito yāni gharā na vippavāsaye.
|
Này bạn Puṇṇamukha, bốn thứ này
không nên để ở nhà của người khác: bò đực, bò sữa, cỗ xe, người
vợ; bậc sáng suốt không nên để bốn loại phương tiện này rời khỏi
nhà. |
- Này hiền hữu Punnamukha, có bốn
thứ tỏ ra tai hại khi gặp hoàn cảnh; ta bảo bốn thứ này không
được đặt vào nhà láng giềng, đó là: bò đực, bò cái, cỗ xe và vợ.
Một người có trí phải tránh xa việc này ra khỏi nhà mình: |
4121. Goṇaṃ dhenuñca yānañca
bhariyaṃ ñātikule na vāsaye,
bhuñjanti rathaṃ ayānakā
ativāhena hananti puṅgavaṃ,
dohena hananti vacchakaṃ
bhariyā ñātikulesu dussatī ”ti.
|
4121. Bò đực, bò cái, cỗ xe,
và người vợ, không nên để ở gia
tộc của thân quyến.
Không rành rẽ về cỗ xe, chúng phá
hỏng cỗ xe.
Do việc kéo quá nặng, chúng giết
chết con bò đực.
Do việc vắt sữa, chúng giết chết
con bò cái.
Ở trong các gia tộc của thân
quyến, người vợ bị hư hỏng.
|
7- 8. Chớ cho hàng xóm mượn bò
xe,
Chớ gửi vợ ta đến bạn bè,
Bò đực chết vì làm quá độ,
Phá xe vì chúng thiếu tay nghề,
Sữa bò cái vắt cho khô cạn,
Vợ đến bà con hỏng thói lề! |
Cha imāni samma puṇṇamukha yāni
vatthūni kicce jāte anatthacarāni bhavanti.
|
Này bạn Puṇṇamukha, sáu thứ này
là không có sự lợi ích, khi có công việc phải làm. |
Này hiền hữu Punnamukha, có sáu
điều tỏ ra tai hại khi gặp hoàn cảnh: một cái cung thiếu dây,
một cô vợ ở gia đình bà con, một chiếc thuyền (không lái), một
chiếc xe gãy trục, một bạn thân vắng mặt, một bạn đường độc ác,
đôi khi thật tai hại. |
4122. Aguṇaṃ dhanu ñātikule ca
bhariyā
pāraṃ nāvā akkhabhaggañca yānaṃ,
dūre mitto pāpasahāyako ca
kicce jāte anatthacārinī bhavantī ”ti.
|
4122. Cây cung không có dây, và
người vợ ở gia tộc của thân quyến,
chiếc thuyền ở bờ bên kia, và cỗ
xe bị gãy trục,
bạn bè ở xa, và kẻ cộng sự ác
xấu,
khi có công việc phải làm, chúng
không có sự lợi ích.
|
Aṭṭhahi khalu samma puṇṇamukha
ṭhānehi itthi sāmikaṃ avajānāti: daḷiddatā āturatā jiṇṇatā
surāsoṇḍatā muddhatā pamattatā sabbakiccesu anuvattitā
sabbadhanam anuppadānena, imehi khalu samma puṇṇamukha aṭṭhahi
ṭhānehi itthi sāmikaṃ avajānāti. Bhavati ca panuttarettha
vākyaṃ.
|
Quả thật, này bạn Puṇṇamukha, nữ
nhân khi dễ người chồng do tám sự việc: do nghèo khó, do bệnh
tật, do già cả, do nghiện rượu, do ngu khờ, do xao lãng, cặm cụi
trong mọi công việc, không trao tất cả tài sản (cho vợ). Quả
thật, này bạn Puṇṇamukha, nữ nhân khi dễ người chồng do tám sự
việc này. Hơn nữa, ở đây, còn có thêm lời nói rằng:
|
Này hiền hữu Punnamukha, thật
vậy, có tám duyên cớ khiến đàn bà khinh bỉ chồng: đó là do nghèo
khó bệnh tật, già cả, nghiện rượu, ngu đần, phóng túng, bôn ba
đủ mọi thứ việc, xao lãng bổn phận đối với vợ. Thật vậy, đàn bà
khinh bỉ chồng mình vì tám duyên cớ ấy. |
Trang 392:
|
Trang 393:
|
4123. Daḷiddaṃ āturañcāpi
jiṇṇakaṃ surāsoṇḍakaṃ,
pamattaṃ muddhapattañca rattaṃ kiccesu hāpanaṃ,
sabbakāmappadānena avajānanti sāmikan ”ti.
|
4123. ‘Các nữ nhân khi dễ người
chồng nghèo khó, bệnh tật, già cả, nghiện rượu, bị xao lãng, có
tình trạng ngu khờ, bị say đắm trong các công việc nên có sự lơ
là, d0 việc ban cho mọi ước muốn (của vợ).’ |
9. Bệnh, nghèo, già, nghiện
rượu, buông lung,
Việc quá bôn ba, hoặc độn đần,
Hoặc thấy chồng không lo bổn phận,
Vợ thường chẳng trọng đấng phu quân. |
Navahi khalu samma puṇṇamukha
ṭhānehi itthi padosamāharati: Ārāmagamanasīlā ca hoti,
uyyānagamanasīlā ca hoti, nadītitthagamanasīlā ca hoti,
ñātikulagamanasīlā ca hoti, parakulagamanasīlā ca hoti,
ādāsadussamaṇḍanānuyogamanuyuttasīlā ca hoti, majjapāyinī ca
hoti, nillokanasīlā ca hoti, padvāraṭṭhāyinī ca hoti. Imehi
khalu samma puṇṇamukha navahi ṭhānehi itthi padosamāharatī ”ti.
Bhavati ca panuttarettha vākyaṃ.
|
Quả thật, này bạn Puṇṇamukha, nữ
nhân mang lại sự xấu xa do chín sự việc: có thói quen đi đến
vườn hoa, có thói quen đi đến vườn thượng uyển, có thói quen đi
đến bến tắm ở sông, có thói quen đi đến nhà thân quyến, có thói
quen đi đến nhà người khác, có thói quen gắn bó với gương soi,
vải vóc, và việc trang điểm, thường uống chất say, có thói quen
nhìn qua cửa số, thường đứng ở cửa ra vào. Quả thật, này bạn
Puṇṇamukha, nữ nhân mang lại sự xấu xa do chín sự việc này. Hơn
nữa, ở đây, còn có thêm lời nói rằng: |
Thật vậy, do chín nguyên nhân
này, một nữ nhân phạm lỗi lầm: giả sử nàng thích lui tới các
công viên, vườn hoa, bờ sông, thích thăm viếng nhà bà con hoặc
người xa lạ, ham mê trang điểm y phục của hạng quý phái, hoặc
nàng nghiện rượu mạnh, ưa nhìn quanh quẩn bên mình, hoặc đứng
tựa cửa, thì này ta bảo, do chín duyên cớ này, một nữ nhân phạm
lỗi lầm.
Ở đây lại thêm vần kệ này: |
4124. Ārāmasīlā ca uyyānaṃ
nadī ñātiparakulaṃ,
dussamaṇḍanamanuyuttā
yā citthi majjapāyinī.
|
4124. ‘Có thói quen đi đến vườn
hoa, vườn thượng uyển,
bến sông, thân quyến, và nhà người khác,
gắn bó với vải vóc, và việc trang điểm,
là nữ nhân thường uống chất say,– |
10. Đàn bà ưa mặc áo quần
sang,
Nghiện rượu, rong chơi, dạ vẫn ham
Vườn cảnh, công viên, trên bến nước,
Đến nhà người lạ hoặc thân bằng. |
4125. Yā ca nillokanasīlā
yā ca padvāraṭṭhāyinī,
navahetehi ṭhānehi
padosamāharantitthiyo ”ti.
|
4125. –nàng có có thói quen nhìn
qua cửa số,
và thường đứng ở cửa ra vào;
do chín sự việc này,
các nữ nhân mang lại sự xấu xa.’ |
Nàng thường đến đứng bên khung
cửa,
Lơ đãng nhìn quanh quẩn mặt đàng,
Theo chín cách này hư hỏng sớm,
Lạc xa đường đức hạnh hiền lương. |
Cattālīsāya khalu samma
puṇṇamukha ṭhānehi itthi purisaṃ accāvadati: vijambhati vinamati
vilāsati vilikhati vilajjati nakhena nakhaṃ ghaṭṭeti pādena
pādaṃ akkamati kaṭṭhena paṭhaviṃ likhati dārakaṃ ullaṃgheti
olaṃghāpeti kīḷati kīḷāpeti cumbati cumbāpeti bhuñjati
bhuñjāpeti dadati āyācati katamanukaroti uccaṃ bhāsati nīcaṃ
bhāsati aviviccaṃ bhāsati viviccaṃ bhāsati naccena gītena
vāditena roditena vilasitena vibhūsitena jagghati pekkhati kaṭiṃ
cāleti guyhabhaṇḍakaṃ sañcāleti ūruṃ vivarati ūruṃ pidahati
thanaṃ dasseti kacchaṃ dasseti nābhiṃ dasseti akkhiṃ nikhaṇati
bhamukaṃ ukkhipati oṭṭhaṃ palikhati (jivhaṃ palikhati - PTS)
jivhaṃ nillāleti dussaṃ muñcati dussaṃ paṭibandhati sirasaṃ
muñcati sirasaṃ bandhati imehi khalu samma puṇṇamukha
cattāḷīsāya ṭhānehi itthi purisaṃ accāvadati.
|
Quả thật, này bạn Puṇṇamukha, nữ
nhân quyến rủ nam nhân bằng bốn mươi sự việc: ưỡn người lên, cúi
xuống, làm dáng, (gãi nhẹ ở làn da), làm bộ e thẹn, bấm ngón tay
này với ngón tay kia, gác chân này lên chân kia, vạch lên mặt
đất bằng thanh gỗ, bảo gã trai tơ nhảy lên nhảy xuống, chơi giỡn
và bảo gã trai tơ chơi giỡn, hôn và bảo gã trai tơ hôn, ăn và
bảo gã trai tơ ăn, ban cho, van xin, nhái lại hành động, nói lớn
tiếng, nói hạ giọng, nói công khai, nói lén lút, cười giỡn bằng
các việc múa - hát - tấu nhạc - khóc lóc - làm dáng - trang
điểm, nhìn chăm chú, lắc hông, lắc háng, phô bày bắp vế, che đậy
bắp vế, khoe vú, khoe nách, khoe rún, nheo mắt, nhướng mày, cắn
môi, (cắn lưỡi), liếm môi, nới lỏng xiêm y, buộc lại xiêm y, xõa
tóc, buộc tóc; nữ nhân quyến rủ nam nhân bằng bốn mươi sự việc
này.
|
Thật vậy, này hiền hữu
Punnamukha, nữ nhân làm xiêu lòng nam nhi bằng bốn mươi cách
khác nhau: Nàng uốn người lên, nàng cong người xuống, nàng nhảy
tung tăng, nàng làm vẻ e thẹn, nàng bóp chặt các đầu ngón tay,
nàng đặt chân này lên chân kia, nàng lấy que cào mặt đất, nàng
tung chàng trai lên rồi hạ xuống, nàng nô đùa và khiến chàng
trai nô đùa, nàng hôn chàng và bảo chàng hôn nàng, nàng ăn và
cho chàng ăn, nàng trao tặng hoặc cầu xin vật gì đó, nàng nhại
lại những gì chàng làm, nàng nói với giọng lúc bổng lúc trầm,
nàng cất tiếng khi rõ ràng khi khó hiểu, nàng lôi cuốn chàng
bằng múa ca đàn địch, bằng những giọt nước mắt hay cách làm
dáng, hoặc với áo quần lộng lẫy, nàng cười cợt hay trừng mắt,
nàng rủ áo hay vén xiêm, khoe đùi ra hoặc che đùi lại, nàng khoe
ngực khoe nách, khoe rốn, nàng nhắm mắt, nàng nhướng mày, nàng
mím môi, nàng lè lưỡi, nàng thả lỏng hay kéo sát xiêm y, nàng
buông lơi hay quấn chặt khăn trùm đầu. Quả thật nàng lôi cuốn
nam nhi bằng bốn mươi cách này. |
Trang 394:
|
Trang 395:
|
Pañcavīsāya khalu samma
puṇṇamukha ṭhānehi itthi paduṭṭhā veditabbā bhavati: Sāmikassa
pavāsaṃ vaṇṇeti pavutthaṃ na sarati āgataṃ nābhinandati avaṇṇaṃ
tassa bhaṇati vaṇṇaṃ tassa na bhanati anatthaṃ tassa carati
atthaṃ tassa na carati akiccaṃ tassa karoti kiccaṃ tassa na
karoti paridahitvā sayati parammukhī nipajjati parāvattakajātā
kho pana hoti kuṅkumiyajātā dīghaṃ assasati dukkhaṃ vedayati
uccārapassāvaṃ abhiṇhaṃ gacchati vilomaṃ ācarati
parapurisasaddaṃ sutvā kaṇṇasotavivaramodahati nihatabhogā kho
pana hoti paṭivissakehi santhavaṃ karoti nikkhantapādā kho pana
hoti visikhānucārinī aticārinī kho pana hoti sāmike agāravā
paduṭṭhamanasaṅkappā abhiṇhaṃ dvāre tiṭṭhati kacchāni aṅgāni
thanāni dasseti disodisaṃ gantvā pekkhati. Imehi khalu samma
puṇṇamukha pañcavīsāya ṭhānehi itthi paduṭṭhā veditabbā bhavati.
Bhavati ca panuttarettha vākyaṃ.
|
Quả thật, này bạn Puṇṇamukha, nữ
nhân hư đốn được nhận biết do hai mươi lăm sự việc: nàng ca ngợi
việc vắng nhà của chồng, không nhớ nhung khi chồng vắng nhà,
không vui mừng khi chồng trở về, nói lời chê bai chồng, không
nói lời ca ngợi chồng, thực hiện điều bất lợi cho chồng, không
thực hiện điều lợi ích cho chồng, làm việc không phải là bổn
phận đối với chồng, không làm bổn phận đối với chồng, mặc đồ kín
đáo đi ngủ, nằm quay mặt hướng khác, nằm trăn qua trở lại và còn
quấy rối nữa, thở dài, kêu than khổ, đi tiêu tiểu thường xuyên,
cư xử trái khoáy, nghe âm thanh của nam nhân khác thì chăm chú
lắng nghe, lại còn phá của, giao du thân mật với các người láng
giềng, lại còn quen thói đi ra ngoài, hay đi dạo ở đường phố,
lại còn ngoại tình nữa, không tôn trọng chồng và có tâm tư xấu
xa, thường xuyên đứng ở cửa ra vào, cho nhìn thấy các đồ lót, cơ
thể, và bộ ngực, đi chỗ này chỗ nọ ngắm nhìn. Quả thật, này bạn
Puṇṇamukha, nữ nhân hư đốn được nhận biết do hai mươi lăm sự
việc này. Hơn nữa, ở đây, còn có thêm lời nói rằng: |
Thật vậy này hiền hữu Punnamukha,
một nữ nhân hư đốn được biết rõ qua hai mươi lăm cách khác nhau:
nàng ca ngợi việc chồng nàng vắng mặt, nàng chẳng thích chồng
trở về, nàng chê bai chồng, nàng không lên tiếng khen chồng,
nàng làm thương tổn chồng, và không làm lợi ích chồng, nàng làm
những việc có hại cho chồng chứ không muốn làm gì giúp đỡ chồng,
nàng mặc cả xiêm y lúc đi ngủ và nằm ngoảnh mặt làm ngơ chồng,
nàng lăn lóc qua lại, gây chuyện ầm ĩ, thở dài sườn sượt, kêu
đau nhức mình mẩy, thường hay đi tiểu tiện, xử sự mất nết, hễ
nghe tiếng người lạ, nàng chổng tai chăm chú, nàng phung phí tài
sản của chồng, nàng giao du thân mật với bạn hàng xóm, nàng hay
đi lang thang ra ngoài, thơ thẩn dạo phố, nàng phạm tội ngoại
tình, vì khinh bỉ chồng, nàng có nhiều tư tưởng xấu xa trong
lòng.
Quả thật, này hiền hữu Punnamukha, một nữ nhân hư hỏng được biết
qua hai mươi lăm cách này.
Và đây lại thêm các vần kệ cảm thán: |
4126. Pavāsamassa vaṇṇeti
gataṃ nānusocati,
disvā patiṃ āgataṃ nābhinandati
bhattāravaṇṇaṃ na kadāci bhāsati
ete paduṭṭhāya bhavanti lakkhaṇā.
|
|
11. Đồng tình sự vắng mặt phu
quân
Chàng bước ra đi, chẳng não lòng,
Dạ chẳng vui mừng chàng trở lại,
Chẳng bao giờ tán thán công chồng,
Đây là dấu hiệu nêu cho rõ
Lề thói thông thường ác nữ nhân. |
4127. Anatthaṃ tassa carati
asaññatā
atthañca hāpeti akiccakāriṇī,
paridahitvā sayati parammukhī
ete paduṭṭhāya bhavanti lakkhaṇā.
|
|
12. Bất tuân, tính kế hại phu
quân,
Làm việc không nên, bỏ lợi chồng.
Mặt ngoảnh đi, nàng nằm xuống ngủ
Bên chàng, xiêm áo phủ hoàn toàn,
Đây là dấu hiệu nàng hư đốn
Chắc chắn lộ ra thật rõ ràng. |
4128. Parāvattajātā ca bhavati
kuṅkumī
dīghañca assasati dukkhavedinī,
uccārapassāvamabhiṇhagacchati
ete paduṭṭhāya bhavanti lakkhaṇā.
|
|
13. Trằn trọc, chẳng nằm một
lát yên,
Thở dài sườn sượt, lại kêu rên,
Hoặc nàng cứ giả vờ đau bụng,
Như muốn tiểu, nàng vẫn đứng lên,
Các dấu hiệu này người thấy rõ
Tính tình của phụ nữ hư hèn. |
4129. Vilomamācarati akiccakāriṇī
saddaṃ nisāmeti parassa bhāsato,
hatabhogā ca karoti santhavaṃ
ete paduṭṭhāya bhavanti lakkhaṇā.
|
|
14. Độc ác trong hành động của
nàng,
Nàng làm những việc phải can ngăn,
Nghe lời người lạ cầu ân huệ,
Tài sản chồng, nàng thật phí hoang
Để được ngoại tình, là dấu hiệu
Mọi người thấy rõ tính tà gian. |
Trang 396:
|
Trang 397:
|
4130. Kicchena laddhaṃ
kasirenābhataṃ dhanaṃ
vittaṃ vināseti dukkhena sambhataṃ,
paṭivissakehi ca karoti santhavaṃ
ete paduṭṭhāya bhavanti lakkhaṇā.
|
|
15. Bạc vàng góp nhặt bởi công
chồng,
Đồ đạc chất đầy thật khổ thân,
Nàng phí phạm nhanh, cùng lối xóm
Nàng thân mật quá độ dần dần,
Chính nhờ dấu hiệu này ta biết
Tính nết gian tà của nữ nhân. |
4131. Nikkhantapādā
visikhānucārinī
niccaṃ sa sāmimhi paduṭṭhamānasā,
aticāriṇī hoti tathevagāravā
ete paduṭṭhāya bhavanti lakkhaṇā.
|
|
16. Hãy ngắm nàng đi dạo phố
phường,
Phủ phàng đối xử với phu quân
Khinh khi thô lỗ nhất trần thế,
Chẳng ngớt ngoại tình, loạn trí tâm.
Nhờ dấu hiệu này, ta thấy rõ
Bọn hồng quần quả thật tà gian. |
4132. Abhikkhaṇaṃ tiṭṭhati
dvāramūle
thanāni kacchāni ca dassayantī,
disodisaṃ pekkhati bhantacittā
ete paduṭṭhāya bhavanti lakkhaṇā.
|
|
17. Nàng vẫn đứng ngay trước
cửa nàng
Coi thường mọi phép tắc đoan trang,
Khoe thân trơ trẽn cho hành khách,
Buồn bực nhìn quanh quẩn mọi phương,
Các dấu hiệu này cho thấy rõ
Thói tà gian của bọn hồng quần. |
4133. Sabbā nadī vaṅkagatī sabbe
kaṭṭhamayā vanā,
sabbitthiyo kare pāpaṃ labhamāne nivātake.
|
|
18. Như rừng cây được gỗ làm
thành,
Như các dòng sông chảy uốn quanh,
Vậy cứ tạo thời cơ thuận tiện,
Nữ nhân đều lạc lối vô minh. |
4134. Sace labhetha khaṇaṃ vā
raho vā
nivātakaṃ vāpi labhetha tādisaṃ,
sabbāva itthī kareyyu no pāpaṃ
aññaṃ alattha pīṭhasappināpi saddhiṃ.
|
|
19. Tạo nơi kín đáo, hợp thời
cơ,
Con đường đức hạnh phải rời xa,
Nữ nhân tất cả đều hư đốn
Nếu có chốn nơi, lại đúng giờ
Ví các tình nhân kia chẳng đến,
Chúng liền phạm tội với tên gù. |
4135. Narānamārāmakarāsu nārisu
anekacittāsu aniggahāsu ca,
sabbattanāpītikarāpi ce siyā
na vissase titthasamā hi nāriyo.(ti)
|
|
20. Đàn bà phục vụ thú đàn
ông,
Chớ một ai tin bọn nữ nhân,
Lòng dạ chúng thường thay đổi mãi,
Dục tham chúng lại cứ buông lung.
Nữ nhân xứng gọi người cầu lạc
Hèn mạt nhất trong đám hạ tầng,
Chúng vẫn giống như là bến tắm
Thường chung chạ với mọi nam nhân. |
4136. Yaṃ ve disvā
kaṇḍarīkinnarānaṃ
sabbitthiyo na ramanti agāre,
taṃ tādisaṃ maccaṃ cajitvā bhariyā
aññaṃ disvā purisaṃ pīṭhasappiṃ.
|
|
21. Từ chuyện Kin-na, Kan-da
vương
Có nhiều việc tỏ lộ ra rằng:
Nữ nhân tất cả đều không thấy
Thích thú trong nhà chúng trú an;
Người vợ bỏ rơi chồng cách ấy,
Dù chồng thắm thiết lại hùng cường,
Vẫn thường đi với đàn ông khác,
Ngay với gã què cũng lạc đường. |
4137. Bakassa ca pāvārikassa
rañño
accantakāmānugatassa bhariyā,
avācari baddhavasānugassa
kaṃ vāpi itthī nāticare tadaññaṃ.
|
4137. Nàng Pañcapāpī là vợ của vua Baka và vua Pāvārika,
hai vị vua đeo đuổi dục lạc tột đỉnh. Nàng đã làm điều tà hạnh
với kẻ thuộc quyền sai khiến của chồng, vậy còn người nam nào
khác nữa mà nữ nhân sẽ không cư xử vượt quá giới hạn?
|
22. Pà-và chánh hậu, Ba-ka
vương,
Tham dục hai vua thật khó lường,
Tuy thế, nàng kia còn phạm tội
Với tên nô lệ của chồng nàng.
Vậy còn tên hạ tiện nào khác
Nàng lại không mong thuốn phạm gian? |
Trang 398:
|
Trang 399:
|
4138. Piṅgiyānī sabbalokissarassa
rañño piyā brahmadattassa bhariyā,
avācari baddhavasānugassa
taṃ vāpi sā nājjhagā kāmakāminī.
|
|
23. Kiều nữ Ping-ya, ái hậu vua
Brah-ma-dat ngự trị sơn hà,
Tuy nhiên, nàng với tên nô lệ,
Của đấng quân vương phạm dục tà,
Do bởi hoang dâm, nàng mất hết
Cả quân vương lẫn gã gia nô. |
4139. Khuddānaṃ lahucittānaṃ
akataññūna dūbhinaṃ,
nādevasatto puriso thīnaṃ saddhātumarahati.
|
|
24. Hèn hạ, đổi thay ấy nữ nhân,
Chúng còn bội nghĩa với vong ân
Nam nhân, ví thử không si ám,
Chẳng hạ cố tin chúng nói năng. |
4140. Na tā pajānanti kataṃ na
kiccaṃ
na mātaraṃ pitaraṃ bhātaraṃ vā,
anariyā samatikkantadhammā
sasseva cittassa vasaṃ vajanti.
|
|
25. Chúng ít quan tâm bổn phận
mình,
Hoặc lời kêu gọi của ân tình,
Vô tâm trước tấm lòng cha mẹ,
Hoặc mối buộc ràng của đệ huynh.
Chúng đóng vai người không hổ thẹn
Khi vi phạm luật lệ công bình,
Mọi hành vi chúng đều tuân phục
Ước vọng trong tâm của chính mình. |
4141. Cirānuvutthampi piyaṃ
manāpaṃ
anukampakaṃ pāṇasamampi santaṃ,
āvāsu kiccesu ca naṃ jahanti
tasmāhaṃ itthīnaṃ na vissasāmi.
|
|
26. Dù ở với chàng bao tháng năm,
Dù chàng yêu dấu lại ân cần,
Nồng nàn trong dạ và thân thiết
Như chính đời chàng quả thật chân,
Trong lúc gian lao và khốn khổ,
Chúng đành lòng bỏ đức phu quân.
Về phần ta chẳng bao giờ nữa
Còn đặt lòng tin bọn nữ nhân. |
4142. Thīnaṃ hi cittaṃ yathā
vānarassa
kannappakannaṃ yathā rukkhachāyā,
calācalaṃ hadayaṃ itthiyānaṃ
cakkassa nemi viya parivattati.
|
|
27. Tâm nữ nhân thường thấy đổi
thay
Như là loài vượn khỉ leo cây,
Hoặc như tàn lá cây soi bóng
Trên đỉnh non cao, vực thẳm dày.
Chủ đích ở trong lòng nữ giới
Sao cũng chập chờn cứ chuyển lay
Như thể bánh xe lăn vút mãi
Không hề có lúc nghỉ ngừng quay. |
4143. Yadā tā passanti
samekkhamānā
ādeyyarūpaṃ purisassa vittaṃ,
saṇhāhi vācāhi nayantimetaṃ
kambojakā jalajeneva assaṃ.
|
|
28. Khi đã nghĩ suy thật kỹ càng,
Chúng nhìn quanh quẩn kiếm tìm đàng
Ðể đi bắt một người giàu có,
Biến gã thành mồi của chúng săn,
Những bọn dại khờ như vậy đó,
Chúng dùng lời mặt ngọt chiêu hàng,
Như chàng giữ ngựa miền Cam-bốt
Dùng cỏ thơm câu ngựa dã man. |
4144. Yadā na passanti
samekkhamānā
ādeyyarūpaṃ purisassa vittaṃ,
samantato taṃ parivajjayanti
tiṇṇo nadīpāragatova kullaṃ.
|
4144. Vào lúc các nàng, trong lúc xem xét, không nhìn
thấy tài sản của người đàn ông có vẻ có thể thâu tóm, các nàng
lánh xa người ấy ở mọi nơi, tựa như người đã vượt qua, đã đi đến
bờ bên kia của dòng sông, xa lánh chiếc bè. |
29. Song nếu nhìn quanh thật kỹ
càng
Mà không tìm thấy được con đường
Ðể mong chiếm đoạt phần tài sản
Biến gã thành mồi của chúng săn,
Chúng đuổi gã ngay như một kẻ
Ðã lên bờ nọ lúc sang ngang,
Tức thì bỏ mặc thuyền trôi dạt,
Thuyền ấy từ đây chúng chẳng màng. |
4145. Silesūpamā sikhīriva
sabbabhakkhā
tikkhamāyā nadīriva sīghasotā,
sevanti hetā piyamappiyañca
nāvā yathā orakulaṃ parañca.
|
4145. Nữ nhân giống như chất kết dính, tựa như ngọn lửa
có sự thiêu đốt tất cả. Các nàng có sự phỉnh lừa chóng vánh, tựa
như con sông có dòng nước chảy xiết. Bởi vì các nàng ấy hầu hạ
người yêu mến lẫn người không yêu mến, giống như con thuyền ghé
vào bến đò ở hạ nguồn và ở thượng nguồn.
|
30. Như ngọn lửa thiêu đốt bạo
hung
Chúng ôm ghì gã chặt trong lòng,
Hoặc là đẩy gã như dòng nước
Lũ lụt chảy cuồn cuộn tứ tung!
Chúng tán tỉnh chàng nào chúng ghét
Cũng nhiều như kẻ chúng tôn sùng,
Như con thuyền vẫn thường kề sát
Cả bến bờ xa lẫn bến gần! |
Trang 400:
|
Trang 401:
|
4146. Na tā ekassa na dvinnaṃ
āpaṇova pasārito,
yo tā mayhanti maññeyya vātaṃ jālena bādhaye.
|
4146. Các nàng ấy không thuộc về một người, không thuộc
về hai người, các nàng ấy tựa như cửa tiệm đã được trưng bày. Kẻ
nào nghĩ rằng: ‘Các nàng ấy là thuộc về ta,’ kẻ ấy tưởng rằng có
thể tóm gọn làn gió bằng cái lưới. |
31. Chúng chẳng thuộc về một hoặc
hai,
Chúng như hàng quán mở ra mời;
Người dùng lưới bắt nhanh làn gió,
Như nữ nhân cầm giữ bọn trai. |
4147. Yathā nadī ca pantho ca
pānāgāraṃ sabhā papā,
evaṃ lokitthiyo nāma velā tāsaṃ na vijjati.
|
4147. Giống như dòng sông, con đường, quán nước, phòng
hội, lều nghỉ chân, các nữ nhân ở thế gian được gọi là như vậy,
giới hạn của các nàng ấy không thể biết được. |
32. Như quán nước, sông suối, mặt
đường,
Hoặc như nhà trọ, sảnh công đường,
Nữ nhân buông thả cùng tất cả,
Tội chúng làm sao có thể lường! |
4148. Ghatāsanasamā hetā
kaṇhasappasirūpamā,
gāvo bahi tiṇasseva omasanti varaṃ varaṃ.
|
4148. Thật vậy, các nàng ấy như
là ngọn lửa tế thần, tương tự như đầu con rắn độc màu đen, tựa
như bầy bò đối với cọng cỏ ở bên lề, chúng chỉ gặm những cọng
ngon nhất.
|
33. Ðộc hại như đầu rắn hổ đen,
Tham mồi như ngọn lửa vừa nhen,
Như bò lựa cỏ ngon lành nhất,
Chúng muốn tình lang lắm của tiền! |
4149. Ghatāsanaṃ kuñjaraṃ
kaṇhasappaṃ
muddhābhisittaṃ pamadā ca sabbā,
ete naro niccayatto bhajetha
tesaṃ have dubbidū saccabhāvo.
|
4149. Ngọn lửa tế thần, con voi, rắn độc màu đen,
người đã được làm lễ phong vương,
và tất cả các nữ nhân,
năm hạng này, người nam thường
xuyên thận trọng mới có thể giao thiệp.
Thật vậy, mọi ý định của những
hạng ấy khó mà biết được.
|
34. Tránh loài voi, rắn hổ đen
mun,
Ngọn lửa tưới bằng lạc cháy bùng,
Người được phong vương và quán đảnh,
Bọn hồng quần, phải chạy nhanh chân.
Những ai biết sống luôn phòng hộ
Xem các thứ này tựa địch quân.
Quả thật chính là tâm địa chúng
Làm sao biết rõ, khó vô cùng! |
4150. Nāccantavaṇṇā na bahūna
kantā
na dakkhiṇā pamadā sevitabbā,
na parassa bhariyā na dhanassa hetu
etitthiyo pañca na sevitabbā.
|
4150. Không nên thân cận với người nữ có sắc đẹp quá mức,
với người nữ được nhiều người yêu thương, với người phụ nữ tài
hoa, với nữ nhân là vợ của kẻ khác, với nữ nhân thân cận vì
nguyên nhân tài sản; năm hạng nữ nhân này không nên thân cận.”
|
35. Má hồng tài trì thật thông
minh,
Hay có hình dung tuyệt đẹp xinh,
Và đám mày râu thường ái mộ,
Bọn này ta phải tránh cho nhanh;
Vợ người hàng xóm, cô nàng kiếm
Một phú ông loan phượng hợp thành,
Năm hạng nữ nhi này tất cả,
Nam nhân không được kết ân tình! |
Atha khalu bho ānando gijjharājā
kuṇālassa sakuṇassa ādimajjhakathā -pariyosānaṃ viditvā tāyaṃ
velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi.
|
|
|
4151. Puṇṇampi cemaṃ paṭhaviṃ
dhanena
dajjitthiyā puriso sammatāya,
laddhā khaṇaṃ atimaññeyya tampi
tāsaṃ vasaṃ asatīnaṃ na gacche.
|
|
36. Dù một nam nhân chứa bạc vàng
Cả trần gian để tặng riêng nàng
Mà tim chàng vẫn yêu thương nhất,
Nàng cũng làm ô nhục đến chàng,
Nếu có thời cơ nào thuận tiện.
Vậy nên cẩn thận kẻo e rằng
Bạn sẽ rơi vào tay độc ác
Của bọn người hèn hạ dối gian! |
4152. Uṭṭhāhakañcepi alīnavuttiṃ
komārabhattāraṃ piyaṃ manāpaṃ,
āvāsu kiccesu ca naṃ jahanti
tasmā hi itthīnaṃ na vissasāmi.
|
4152. Dầu cho chàng sốt sắng, có thói quen hoạt động,
là người chồng từ lúc còn son
trẻ, đáng yêu, và hợp ý,
các nàng vẫn từ bỏ chàng vào
những lúc rủi ro và những lúc hữu sự;
chính vì thế, ta không tin tưởng
các nữ nhân.
|
37. Chàng phô dáng khỏe mạnh hùng
cường,
Không phạm lỗi lầm của thế gian,
Chàng đến cầu hôn cô thiếu nữ,
Chàng vừa tuấn tú lại yêu thương.
Gặp cơn hoạn nạn và đau khổ,
Nàng sẽ rời xa, sẽ bỏ chàng.
Ta chẳng bao giờ tin tưởng chúng,
Phần ta đối với bọn hồng nhan! |
4153. Na vissase icchati manti
poso
na vissase rodati me sakāse,
sevanti hetā piyamappiyañca
nāvā yathā orakulaṃ parañca.
|
4153. Người nam không nên tin tưởng nữ nhân (vì nghĩ
rằng): ‘Nàng thích ta,’ không nên tin tưởng (vì nghĩ rằng):
‘Nàng khóc trong sự hiện diện của ta,’ bởi vì các nàng ấy hầu hạ
người yêu mến lẫn người không yêu mến, giống như con thuyền ghé
vào bến đò ở hạ nguồn và ở thượng nguồn.
|
38. Chàng chớ tin vì cứ nghĩ
rằng:
"Nàng yêu ta đó, đúng rồi chăng?"
Chàng đừng tin lẽ thường nhi nữ
Trước mặt chàng tuôn lệ ướt đầm! |
Trang 402:
|
Trang 403:
|
4154. Na vissase
sākhapurāṇasanthataṃ
na vissase mittapurāṇacoraṃ,
na vissase rājā sakhā mamanti
na vissase itthi dasannamātaraṃ.
|
4154. Không nên tin tưởng tấm thảm trải bằng lá cũ,
không nên tin tưởng kẻ trộm cướp
dầu là người bạn cũ,
không nên tin tưởng vị vua (nghĩ
rằng): ‘Là bạn hữu của ta,’
không nên tin tưởng nữ nhân dầu
nàng là mẹ của mười đứa con.
|
39. Chớ tin cái ổ lót cành khô
Cùng các lá cây tự thuở xưa
Người bạn ngày xưa, đừng tín nhiệm,
Ngày nay có thể hóa người thù,
Chớ tin vua chúa vì suy nghĩ:
"Người ấy, bạn ta thuở trước giờ"
Và chớ tin vào người phụ nữ
Dù sinh cho bạn chục con thơ! |
4155. Na vissase rāmakarāsu
nārisu
accantasīlāsu asaññatāsu,
accantapemānugatassa bhariyā
na vissase titthasamā hi nāriyo.
|
4155. Không nên tin tưởng các nữ nhân là những người tạo
ra lạc thú, có thói quen vượt qua lễ giáo, không tự kiềm chế.
Người vợ dầu đã gắn bó và có sự yêu thương rất mực, cũng không
nên tin tưởng nàng, bởi vì các nữ nhân thì tương tự như những
bến tắm (là nơi công cộng của tất cả). |
40. Cầu lạc chính là bọn nữ nhân,
Dục tham sao cứ mãi buông lung,
Lũ người vi phạm nền luân lý,
Bọn chúng, bạn đừng có cậy trông.
Vợ cứ giả vờ trò luyến ái
Bao la, vô hạn trước ông chồng,
Chớ tin nàng ấy,vì nhi nữ
Chung chạ như bao bến tắm sông! |
4156. Haneyyu chindeyyumpi
chedayeyyuṃ
kaṇṭhampi chetvā rudhiraṃ pibeyyuṃ,
mā dīnakāmāsu asaññatāsu
bhāvaṃ kare gaṅgatitthūpamāsu.
|
4156. Các nàng có thể giết, có
thể chém, có thể cho người chém, thậm chí sau khi cắt đứt cổ
họng, các nàng có thể uống máu tươi. Chớ nên đặt sự yêu thương ở
những nữ nhân có dục vọng thấp kém, không tự kiềm chế, (vì các
nàng ấy) giống như những bến tắm ở dòng sông.
|
41 . Sẵn sàng chém giết hoặc phân
thây,
Không có việc gì chẳng nhúng tay,
Khi đã diễn xong trò cắt cổ,
Chúng còn uống máu của chàng ngay!
Bọn mày râu chớ say mê chúng,
Một lũ dục tham hạ liệt đầy,
Phóng đãng và còn chung chạ nữa
Như là bến tắm sông Hằng vầy! |
4157. Musā tāsaṃ yathā saccaṃ
saccaṃ tāsaṃ yathā musā,
gāvo bahi tiṇasseva omasanti varaṃ varaṃ.
|
4157. Nói dối đối với các nàng ấy giống như nói thật, nói
thật đối với các nàng ấy giống như nói dối, tựa như bầy bò đối
với cọng cỏ ở bên lề, chúng chỉ gặm những cọng ngon nhất. |
42. Lời nói chúng thường chẳng
biệt phân
Giữa điều chân thật với tà gian,
Như bò lựa cỏ ngon lành nhất,
Chúng kiếm tình nhân lắm bạc vàng. |
4158. Gatenetā palobhenti
pekkhitena mihitena ca,
athopi dunnivatthena mañjunā bhaṇitena ca.
|
4158. Các nàng ấy cám dỗ (nam nhân) bằng cách đi, bằng
việc nhìn, và bằng việc nở nụ cười, rồi với việc ăn bận xộc
xệch, và với lời nói dịu dàng.
|
43. Dụ một chàng bằng mắt, nụ
cười,
Chàng kia bằng cách bước đi chơi,
Giả trang lôi cuốn vài chàng nữa
Ðám khác bằng câu chuyện ngọt bùi! |
4159. Coriyo kaṭhinā hetā vāḷā ca
lapasakkharā,
na tā kiñci na jānanti yaṃ manussesu vañcanaṃ.
|
|
44. Hung bạo, nhẫn tâm, lại bất
lương,
Song lời lẽ chúng ngọt như đường,
Không gì bọn nữ nhi không biết
Ðể gạt chàng nào chúng kết hôn! |
4160. Asā lokitthiyo nāma velā
tāsaṃ na vijjati,
sārattā ca pagabbhā ca sikhī sabbaghaso yathā.
|
|
45. Quả thật đàn bà thảy ác gian,
Việc ô nhục của chúng vô lường,
Chúng đều tham đắm và liều lĩnh
Thiêu đốt nhanh như ngọn lửa bừng. |
4161. Natthitthīnaṃ piyo nāma
appiyopi na vijjati,
sevanti hetā piyamappiyañca nāvā yathā orakulaṃparañca.
|
|
46. Nữ nhân chẳng phải được sinh
ra
Ðể thích người này, ghét kẻ kia,
Chúng tán chàng nào mà chúng ghét
Cũng nhiều như kẻ chúng tôn thờ,
Như con thuyền vẫn thường kề sát
Cả bến bờ gần lẫn bến bờ xa. |
4162. Natthitthīnaṃ piyo nāma
appiyopi na vijjati,
dhanattā pativellanti latāva dumanissitā.
|
|
47. Vì phải đâu là chuyện ghét
thương
Mà ta thường thấy ở hồng quần,
Ðàn ông chúng bám vì vàng bạc
Như bám vào cây, đám bọ trùng! |
4163. Hatthibandhaṃ assabandhaṃ
gopurisañca caṇḍālaṃ,
chavaḍāhakaṃ pupphachaḍḍakaṃ sadhanamanupatanti nāriyo.
|
|
48. Kẻ làm nghề đốt xác người ta,
Hoặc quét hoa khô khỏi điện thờ,
Hoặc gã giữ voi hay giữ ngựa,
Ðến cùng là đứa giữ trâu bò,
Tuy nhiên vì bạc tiền, nhi nữ
Vẫn chạy theo phường hạ đẳng kia. |
Trang 404:
|
Trang 405:
|
4164. Kulaputtampi jahanti
akiñcanaṃ chavakasamasadisampi,
anugacchanti anupatanti dhanahetu hi nāriyo ”ti.
|
4164. Các nàng ruồng bỏ người con trai gia đình danh giá
không có tài sản cũng giống như ruồng bỏ kẻ dòng dõi hạ tiện,
bởi vì các nữ nhân đeo đuổi, xiêu lòng vì nguyên nhân tài sản.”
|
49. Bỏ rơi quý tộc nếu nghèo
nàn,
Nhưng chính tên vô loại, hạ tầng,
Ðối với tên này, như xác thối,
Nếu giàu, chúng cũng chạy nhanh chân. |
Atha khalu bho nārado
devabrāhmaṇo ānandassa gijjharājassa ādimajjhakathā pariyosānaṃ
viditvā tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi.
|
|
- Thật vậy, lúc ấy Nàrada, khi
nghe kể đoạn khởi đầu, đoạn giữa và đoạn cuối của câu chuyện mà
Ànanda, thứu vương cần phải nói ra, đến đây, liền ngâm các vần
kệ này: |
4165. Cattāro me na pūrenti te me
suṇātha bhāsato,
samuddo brāhmaṇo rājā itthi cāpi dijampati.
|
|
50. Bốn vật chẳng hề biết thỏa
thuê,
Những lời ta nói, lắng tai nghe:
Ðại dương, đạo sĩ và vua chúa,
Hỡi Ðiểu vương, và bọn nữ nhi. |
4166. Saritā sāgaraṃ yanti yā
kāci paṭhaviṃsitā,
tā samuddaṃ na pūrenti ūnattā hi na pūrati.
|
4166. Mọi dòng sông ở quả đất đều chảy về biển cả. Chúng
không làm tràn đầy biển cả, bởi vì sự thiếu thốn (của biển cả)
không được làm cho đầy đủ (do biển cả quá rộng lớn so với lượng
nước được đổ vào). |
51. Mọi dòng trong đất gặp quê
hương
Cũng chẳng làm đầy đủ đại dương,
Vẫn có cái gì còn thiếu thốn,
Dù cùng nước biển thảy hòa tan. |
4167. Brāhmaṇo ca adhīyāna
vedamakkhānapañcamaṃ,
bhiyyopi sutamiccheyya ūnattā hi na pūrati.
|
4167. Vị Bà-la-môn, sau khi học xong kinh Vệ Đà và truyền
thống là thứ năm, mong muốn kiến thức càng nhiều hơn nữa, bởi vì
sự thiếu thốn (của vị Bà-la-môn) không được làm cho đầy đủ.
|
52. Bà-la-môn thuộc các kinh thơ,
Tri kiến theo truyền thuyết thuở xưa,
Thánh kiến, tuy nhiên, còn thiếu thốn
Và khao khát mãi, mãi chưa vừa. |
4168. Rājā ca paṭhaviṃ sabbaṃ
sasamuddaṃ sapabbataṃ,
ajjhāvasaṃ vijinitvā anantaratanocitaṃ,
pāraṃ samuddaṃ pattheti ūnattā hi na pūrati.
|
|
53. Vị vua chinh phục cõi trần
ai,
Tất cả núi đồi, các biển khơi,
Có thể gọi kho tàng bất tận
Chứa đầy tài sản của mình thôi,
Vẫn mơ thế giới bên kia biển
Vì nghĩ bên này quá nhỏ nhoi! |
4169. Evamekāya itthiyā aṭṭhaṭṭha
patino siyā,
sūrā ca balavantā ca sabbakāmarasāharā,
kareyya navame chandaṃ ūnattā hi na pūrati.
|
|
54. Nhi nữ kết duyên với tám
chồng
Sẵn sàng tuân phục ý riêng nàng,
Anh hùng gan dạ đầy tài giỏi
Nhiệm vụ tình quân thảy vẹn toàn;
Tuy vậy nàng yêu chàng thứ chín
Bởi vì còn thiếu thốn trong lòng! |
4170. Sabbitthiyo sikhiriva
sabbabhakkhā
sabbitthiyo nadīriva sabbavāhinī,
sabbitthiyo kaṇṭakānaṃ va sākhā
sababitthiyo dhanahetū vajanti.
|
|
55. Ðàn bà như lửa nuốt con mồi,
Như nước lũ tuôn thảy cuốn trôi,
Tai họa, gai đâm là bọn chúng,
Chúng thường đi lạc kiếm vàng thôi! |
4171. Vātañca jālena naro
parāmase
osiñciyā sāgaramekapāṇinā,
sakena hatthena haneyya ghosaṃ
yo sabbabhāvaṃ pamadāsu ossaje.
|
4171. Nam nhân có thể bắt giữ làn gió bằng cái lưới,
có thể tát cạn biển cả bằng một
bàn tay,
có thể dập tắt âm thanh bằng cánh
tay của mình,
là người có thể buông bỏ mọi yêu
thương ở các nữ nhân.
|
56. Chàng kia dùng lưới đón xuân
phong,
Hoặc chỉ một mình tát biển đông,
Vỗ với một tay, xưa lại dám
Ðể tâm tư hướng đến giai nhân! |
4172. Corīnaṃ bahubuddhīnaṃ yāsu
saccaṃ sudullabhaṃ,
thīnaṃ bhāvo durājāno macchassevodake gataṃ
|
|
57. Ðối với quần thoa có trí tài,
Thật chân là của quý trên đời,
Tính tình phức tạp như tơ rối,
Như thói các đàn cá biển khơi. |
Trang 406:
|
Trang 407:
|
4173. Analā mudusambhāsā duppūrā
tā nadīsamā,
sīdanti naṃ viditvāna ārakā parivajjaye.
|
|
58. Nói năng dịu ngọt, khó vừa
lòng,
Như thể khó đầy các lạch sông,
Chúng lắng chìm dần, dần xuống mãi,
Biết hồng quần, phải chạy nhanh chân! |
4174. Āvaṭṭanī mahāmāyā
brahmacariyavikopanā,
sīdanti naṃ viditvāna ārakā parivajjaye.
|
|
59. Hồng nhan phản bội khiến
mê say,
Ðệ nhất tịnh nhân phải đọa đày;
Chúng cứ chìm dần, dần xuống mãi,
Những ai biết chúng, phải xa bay! |
4175. Yañcetā upasevanti chandasā
vā dhanena vā,
jātavedova saṇṭhānaṃ khippaṃ anudahanti nanti.
|
|
60. Bất kỳ chúng phục vụ đàn
ông
Vì bạc vàng, tham dục thỏa lòng,
Chúng đốt gã như nhiên liệu cháy
Ðược thả vào trong ngọn lửa hồng! |
Atha khalu bho kuṇālo sakuṇo
nāradassa devabrāhmaṇassa ādimajjhakathā pariyosānaṃ viditvā
tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi.
|
|
- Thật vậy, chim chúa Kunàla, sau
khi biết phần đầu, phần giữa và phần kết thúc câu chuyện Nàrada
kể, đến đây liền ngâm các vần kệ sau: |
4176. Sallape nisitakhaggapāṇinā
paṇḍito api pisācadosinā,
uggateja-uragampi āside
eko ekāya pamadāya nālape.
|
|
61. Người khôn dám nói một đôi
lời
Với quỷ cầm gươm sắc mới mài,
Ðánh đập hung xà, song chớ bạo
Chuyện trò với gái một mình thôi! |
4177. Lokacittamathanā hi nāriyo
naccagītabhaṇitamhitāvudhā,
bādhayanti anupaṭṭhitassatiṃ
dīpa rakkhasigaṇāva vāṇije.
|
|
62. Nữ sắc làm mờ trí tục nhân,
Nói, cười, ca, múa, cánh tay trần
Gây phiền lụy những tâm dao động,
Như quỷ dữ xưa giết lái buôn. |
4178. Natthi tāsaṃ vinayo na
saṃvaro
majjamaṃsaniratā asaññatā,
tā gilanti purisassa pābhataṃ
sāgareva makaraṃ timiṅgalo.
|
4178. Đối với các nàng ấy, không có kỷ cương, không có sự
gìn giữ;
các nàng ấy ưa thích rượu thịt,
không tự kiềm chế.
Các nàng ấy tóm thâu tài sản của
nam nhân,
tựa như con cá khổng lồ nuốt trọn
con cá kiếm ở biển khơi.
|
63. Ðắm say rượu thịt, cố hoài
công
Kiềm chế cơn thèm, nén dục tâm
Như quái vật xưa trong biển cả
Nuốt trôi tài sản của nam nhân. |
4179. Pañcakāmaguṇasātagocarā
uddhatā aniyatā asaññatā,
osaranti pamadā pamādinaṃ
loṇatoyavatiyaṃva āpagā.
|
|
64. Chúng chiếm riêng tham dục
ngũ phần,
Buông lung kiêu mạn cứ tuôn tràn,
Như sông tìm đại dương đi tới,
Bọn phóng dật làm mồi nữ nhân. |
4180. Yaṃ naraṃ uparamanti nāriyo
candasāva ratiyā dhanena vā,
jātavedasadisampi tādisaṃ
rāgadosavatiyo ḍahanti naṃ.
|
|
65. Trai tráng được nhi nữ thích
ham,
Ðộng tâm bởi nhục dục tham lam,
Kẻ kia nung nấu vì cuồng vọng,
Chúng đốt sạch trơn tựa lửa than! |
Trang 408:
|
Trang 409:
|
4181. Aḍḍhaṃ ñatvā purisaṃ
mahaddhanaṃ
osaranti sadhanā sahattanā,
rattacittaṃ ativeṭhayanti naṃ
sālaṃ māluvalatāva kānane.
|
|
66. Kẻ nào nếu chúng biết giàu
sang,
Nhào đến cướp đi, trọn bạc vàng,
Tay quấn chặt chàng bừng lửa dục,
Như dây leo quấn chặt cành Sàl. |
4182. Tā upenti vividhena
chandasā
citrabimbamukhiyo alaṅkatā,
ūhasanti pahasanti nāriyo,
sambarova satamāyakovidā.
|
|
67. Như trái vim-ba, miệng đỏ
tươi,
Dùng nhiều mưu kế hại con người,
Khi thì cười lớn, khi cười nụ,
Như quỷ sam-va, chúa bẫy mồi! |
4183. Jātarūpamaṇimuttabhūsitā
sakkatā patikulesu nāriyo,
rakkhitā aticaranti sāmikaṃ
dānavaṃva hadayantarassitā.
|
|
68. Nữ nhi trang điểm đủ kim hoàn
Ðược họ nhà trai đón thật sang,
Cho dẫu được canh phòng cẩn mật,
Vẫn thường phạm tội phản phu quân,
Như nàng kiều nữ ngày xưa ấy
Ðã được mang trong bụng quỷ nhân. |
4184. Tejavāpi hi naro vicakkhaṇo
sakkato bahujanassa pūjito,
nārīnaṃ vasagato na bhāsati
rāhunā upagatova candimā.
|
|
69. Người có trí và thật nổi danh
Ðược tôn sùng dưới mắt quần sinh,
Tuy nhiên sa dưới quyền nhi nữ
Sẽ không còn tươi sáng hiển vinh,
Như cả vầng trăng vừa bị nuốt
Bởi La-hầu đại lực yêu tinh. |
4185. Yaṃ kareyya kupito diso
disaṃ
duṭṭhacitto vasamāgataṃ ari,
tena bhiyyo vyasanaṃ nigacchati
nārīnaṃ vasagato apekkhavā.
|
|
70. Cừu nhân trút hận xuống cừu
nhân,
Hay bạo chúa phô nỗi hận sân,
Số phận còn đau hơn thế nữa
Che mờ tất cả, bởi nguồn căn
Dục tham, nên phải đành sa đọa
Ở dưới quyền uy của nữ nhân. |
4186. Kesalūnanakhachinnatajjitā
pādapāṇikasadaṇḍatāḷitā,
hīnameva upagatā hi nāriyo
tā ramanti kuṇapeva makkhikā.
|
|
71. Bị hăm cào cấu khắp thân
hình,
Hoặc nắm tóc lôi kéo khỏi mình,
Dọa quất bằng roi, hay gậy gộc,
Hoặc là đấm đá khắp chung quanh,
Nữ nhi vẫn chạy đi tìm kiếm
Một gã cùng đinh kết bạn tình,
Vì thấy lạc hoan trong gã ấy
Như loài ruồi kiếm xác ương sình! |
4187. Tā kulesu visikhantaresu vā
rājadhāninigamesu vā puna,
oḍḍitaṃ namucipāsavākaraṃ
cakkhumā parivajjaye sukhatthiko.
|
|
72. Tránh bọn nữ nhân ở giữa
đường,
Hoặc kinh thành hoặc ở công trường
Của vua, thị trấn, thôn làng nhỏ,
Bậc có trí hiền sẽ lạc an,
Tránh được bẫy đang giăng vậy đó
Bởi Na-mu-ci, chính Ma vương. |
Trang 410:
|
Trang 411:
|
4188. Ossajitva kusalaṃ tapoguṇaṃ
yo anariyacaritānimācari,
devatāhi nirayaṃ nimissati
chedagāmi maṇiyaṃ va vāṇijo.
|
|
73. Kẻ nào buông lỏng luật
Sa-môn,
Tập những thói đê tiện, hạ tầng,
Kẻ khốn ngu si đành đổi lấy
Ngục sâu thay thế cảnh thiên đường,
Giống như những kẻ nào đem đổi
Ngọc có tỳ thay ngọc vẹn toàn. |
4189. So idha garahito parattha
ca
dummatī upagato sakammunā,
gacchati aniyato galāgalaṃ
duṭṭhagadrabharatova uppathe.
|
4189. Kẻ ấy bị chê trách ở đời này và đời sau.
Kẻ có tâm hư hỏng, khi tiếp cận
với nghiệp của mình,
đi đến chốn đọa đày với thời gian
không xác định
tựa như cỗ xe được kéo bởi con
lừa hư hỏng đi sai đường.
|
74. Ðời này, đời kế đáng khinh
khi
Là kẻ cố tâm khổ lụy vì
Bọn ác nữ nhân, đi lảo đảo,
Ngã nhào liều lĩnh, thật ê chề
Như con lừa dữ cuồng điên chạy
Với chiếc xe lăn lóc mọi bề. |
4190. So upeti nirayaṃ patāpanaṃ
sattisimbalivanañca āyasaṃ,
āvasitvā tiracchānayoniyaṃ
petarājavisayaṃ na muñcati.
|
|
75. Hoặc vào rừng lụa lắm gươm
dao,
Hoặc ngục Pa-ta phải đọa vào,
Ðội lốt thú rùng đi lãng vãng,
Chốn ma đói chẳng thoát thân nào. |
4191. Dibba khiḍḍaratiyo ca
nandane
cakkavatticaritañca mānuse,
nāsayanti pamadā pamādinaṃ
duggatiñca paṭipādayanti naṃ.
|
|
76. Trong vườn Hỷ lạc thú vui
chơi
Của các Thiên tiên ở cõi trời,
Quyền đại đế vương trên mặt đất
Tiêu vong vì nữ giới, than ôi!
Thói phường phóng dật buông lung ấy
Ði đến sầu bi đọa xứ thôi. |
4192. Dibbakhiḍḍaratiyo na
dullabhā
cakkavatticaritañca mānuse,
soṇṇavyamhanilayā ca accharā
ye caranti pamadāhanatthikā.
|
4192. Các nam nhân nào thực hành Phạm hạnh, không có sự
tầm cầu các nữ nhân, thì các việc vui đùa cùng những sự thích
thú thuộc Thiên giới, cuộc sống Chuyển Luân Vương ở loài người,
và các tiên nữ có sự cư ngụ ở Thiên cung bằng vàng không phải là
khó đạt được. |
77. Khó đâu thành đạt thú thiên
đường,
Cũng chẳng khó quyền lực đế vương
Trải rộng khắp nơi trên cõi đất,
Các nàng Thiên nữ ở lầu vàng
Ðã thành tựu các điều như vậy,
Ðoạn diệt từ lâu ác dục tham. |
4193. Kāmadhātusamatikkamā gati
rūpadhātuyā bhavo na dullabho,
vītarāgavisayūpapattiyā
ye caranti pamadāhanatthikā.
|
4193. Các nam nhân nào thực hành Phạm hạnh, không có sự
tầm cầu các nữ nhân, thì cảnh giới tái sanh vượt qua khỏi Dục
giới, sự hiện hữu ở Sắc giới, cùng với việc tái sanh ở chốn của
những vị đã xa lìa luyến ái (Phạm Thiên giới) không phải là khó
đạt được.
|
78. Từ Dục giới này được hóa thân
Ði vào Sắc giới đủ quyền năng
Tái sinh vào cõi A-la-hán,
Những vị đã trừ diệt dục tâm. |
4194. Sabbadukkhasamatikkamaṃ
sivaṃ
accantaṃ acalitaṃ asaṅkhataṃ,
nibbutehi sucihī na dullabhaṃ
ye caranti pamadāhanatthikā ”ti.
|
|
79. Cực lạc vượt qua mọi khổ đau,
Không duyên sinh, bất động, thâm sâu,
Ðạt thành bởi những người thanh tịnh
Ðắc Niết-bàn, ly dục đã lâu. |
4195. Kuṇālohaṃ tadā āsiṃ udāyī
phussakokilo,
ānando gijjharājāsi sāriputto ca nārado,
parisā buddhaparisā evaṃ dhāretha jātakan ”ti.
|
|
80. U-dà-yi ấy chúa Sơn ca,
Linh thứu vương là À-nan-da,
Nà-ra-da là Xá-lợi-phất,
Ku-nà-la hót chính là Ta.
Các vị phải hiểu Tiền thân này như vậy.
Câu chuyện
536 |
4. Kuṇālajātakaṃ.
*** |
Bổn sanh Chim
Chúa Kuṇāla. [536]
*** |
<Trang trước> |
<Trang Kế> |
|