XXII.
MAHĀNIPĀTO - NHÓM LỚN
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 428: |
Trang 429:
|
▪ 10.
MAHĀVESSANTARAJĀTAKAṂ
|
▪ 10. BỔN SANH
VESSANTARA VĨ ĐẠI
(tiếp theo) |
547. CHUYỆN ÐẠI VƯƠNG
VESSANTARA
(Tiền thân Vessantara)
(tiếp theo) |
6551. Uṭṭhehi jāli patitiṭṭha porāṇaṃ viya
dissati,
brāhmaṇaṃ viya passāmi nandiyo mābhikīrare.
|
(Lời vị Vessantara)
6551. “Này Jāli, con hãy đứng
lên và hãy đứng ngay ngắn. Được nhìn thấy như là trước đây, như
khi cha nhìn thấy vị Bà-la-môn, các niềm vui lan tỏa ở nơi cha.” |
445. Jà-li, hãy đứng lên con,
Ngắm xem kìa lão La-môn đến rồi,
Chính thời xưa đã tái hồi,
Làm ta tràn ngập niềm vui chan hòa. |
6552. Ahaṃpi tāta passāmi yo so brahmāva
dissati,
atthiko viya āyāti atithī no bhavissati.
|
6552. “Thưa cha, con cũng nhìn thấy; vị ấy có vẻ như là vị
Bà-la-môn, dường như vị ấy đi đến có mục đích. Chúng ta sẽ có
khách.” |
446. Vâng vâng, phải đấy thưa cha,
Con đang nhìn thấy lão Bà-la-môn,
Hình như lão đến cầu ân,
Hẳn là vị khách đang cần nhà ta. |
6553. Kaccinnu bhoto kusalaṃ kacci bhoto
anāmayaṃ,
kacci uñchena yāpetha kacci mūlaphalā bahū.
|
(Lời trao đổi giữa Bà-la-môn
Jūjaka và vị Vessantara)
6553. “Thưa ngài, phải chăng
ngài được an khang? Thưa ngài, phải chăng ngài được vô sự? Phải
chăng ngài nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ
củ và trái cây? |
447. Ta tin rằng, hỡi Thánh nhân,
Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề,
Với bao thóc lúa thu về
Và bao củ quả tràn trề ẩn am. |
6554. Kacci ḍaṃsā ca makasā ca appameva
siriṃsapā,
vane vāḷamigākiṇṇe kacci hiṃsā na vijjati.
|
6554. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò sát? Phải
chăng không có sự hãm hại ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ?” |
448. Ngài nay có bị phiền lòng
Vì loài rắn rít bọ ong quấy hoài?
Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
Chẳng hay ngài tránh mọi loài được chăng? |
6555. Kusalañceva no brahme atho brahme
anāmayaṃ,
atho uñchena yāpema atho mūlaphalā bahū.
|
6555. “Này vị
Bà-la-môn, chúng tôi được an khang. Và Này vị Bà-la-môn, chúng
tôi được vô sự. Chúng tôi nuôi sống bằng việc thu nhặt. Rễ củ và
trái cây có nhiều. |
449. Cám ơn ông, hỡi đạo nhân,
Ta nay thịnh vượng, an khương mọi bề,
Với bao thóc lúa thu về
Và bao củ, quả tràn trề ẩn am. |
6556. Atho ḍaṃsā ca makasā ca appameva
siriṃsapā,
vane vāḷamigākiṇṇe hiṃsā amhaṃ na vijjati.
|
6556. Có rất ít ruồi,
muỗi, và các loài bò sát. Không có sự hãm hại đến với chúng tôi
ở khu rừng đông đúc các loài thú dữ. |
450. Ta không phải chịu phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hoặc bầy dã thú tìm mồi
Ta đây tránh được mọi loài bình an. |
6557. Satta no māse vasataṃ araññe
jīvasokinaṃ,
idampi paṭhamaṃ passāma brāhmaṇaṃ devavaṇṇinaṃ,
ādāya beḷuvaṃ daṇḍaṃ aggihuttaṃ kamaṇḍaluṃ.
|
6557. Suốt bảy tháng chúng tôi
sống cuộc sống sầu muộn ở trong rừng, chúng tôi nhìn thấy người
này đầu tiên, là vị Bà-la-môn với dáng vóc thiên thần, mang theo
cây gậy bằng gỗ beḷuva, cái
bật lửa, và bình nước uống. |
451. Sống đây đã bảy tháng trường,
Chúng ta hạnh phúc trong rừng hoang sơ,
Chẳng hề từ trước đến giờ
Ðược trông thấy một vị Bà-la-môn.
452. Như nay nhìn thấy tôn ông
Khác nào thấy được thần nhân thế này:
Vil-va làm gậy cầm tay,
Hộp bùi nhùi với bình đầy nước trong. |
6558. Svāgataṃ te mahābrahme atho te
adurāgataṃ,
anto pavisa bhaddante pāde pakkhālayassu te.
|
6558. Này vị
Bà-la-môn vĩ đại, chào mừng ông đã đến và việc đi đến tốt lành
của ông. Xin ông hãy đi vào bên trong. Mong rằng điều tốt lành
hãy có cho ông. Xin ông hãy rửa sạch hai bàn chân của ông. |
453. Kính chào ông, hỡi đạo nhân,
Mừng duyên hạnh ngộ đưa đường đến đây.
Hãy vào chúc phúc cầu may,
Bước vào và rửa chân tay, ta mời. |
6550. Tindukāni piyālāni madhuke
kāsumāriyo,
phalāni khuddakappāni bhuñja brahme varaṃ varaṃ.
|
6559. Này vị
Bà-la-môn, có các loại trái cây
tinduka, piyāla,
madhuka,
kāsumārī ngọt như mật ong, xin
ông hãy thưởng lãm các trái ngon nhất. |
454. Pi-yal, tin-dook lá tươi,
Kà-su-ma quả ngọt bùi thơm ngon,
Trái cây như thể mật ong,
Chọn ngay hạng nhất, La-môn, ăn nào. |
6560. Idampi pānīyaṃ sītaṃ ābhataṃ
girigabbharā,
tato piva mahābrahme sace tvaṃ abhikaṅkhasi.
|
6560. Cũng có nước uống mát lạnh này được mang lại từ hang núi,
Này vị Bà-la-môn vĩ đại, xin ông hãy uống nước từ nơi ấy nếu ông
muốn. |
455. Nước này lấy tự hang sâu
Ẩn mình dưới ngọn đồi cao trong rừng,
Xin mời, hỡi bậc Thánh nhân,
Uống vào cho thỏa tấm lòng ước mong. |
6561. Atha tvaṃ kena vaṇṇena kena vā pana
hetunā,
anuppatto brahāraññaṃ taṃ me akkhāhi pucchito.
|
6561. Vậy thì vì lý do gì, hay là vì nguyên nhân gì, mà ông đã
đi đến khu rừng rộng lớn? Được hỏi, xin ông hãy giải thích điều
ấy cho tôi.” |
456. Nói cho ta biết nguyên nhân,
Lý do nào khiến tôn ông lên đường,
Ðẩy đưa ông tận rừng hoang,
Xin ông hãy nói rõ ràng ta hay. |
6562. Yathā vārivaho pūro sabbakāle na
khīyati,
evaṃ taṃ yācitāgañchiṃ putte me dehi yācito.
|
6562. “Giống như dòng nước chảy
luôn luôn được tràn đầy, không bị cạn kiệt, tương tự như vậy, ta
đã đi đến để cầu xin ngài. Được yêu cầu, xin ngài hãy ban cho ta
hai người con.” |
457. Giống như hồng thủy ngập đầy
Và không hề có một ngày nào vơi,
Thần nay muốn đến xin ngài
Ban cho thần được cả hai con nhà. |
Trang 430: |
Trang 431:
|
6563. Dadāmi na vikampāmi issaro naya
brāhmaṇa,
pāto gatā rājaputtī sāyaṃ uñchāto ehīti.
|
6563. “Tôi sẽ ban cho, tôi không do dự. Này vị Bà-la-môn, ông là
chủ nhân, ông hãy dẫn chúng đi. Vào buổi sáng, nàng công chúa đã
ra đi, chiều tối, nàng sẽ trở về sau việc thu nhặt củ quả. |
458. Ban ân, ta chẳng chần chừ,
Ông là chủ chúng từ giờ trở đi.
Sáng nay đi vắng vương phi,
Ðể tìm thực phẩm, chiều về đến đây. |
6564. Ekarattiṃ vasitvāna pāto gacchasi
brāhmaṇa,
tassā nahāte upaghāte atha ne māladhārine.
|
6564. Này vị Bà-la-môn, ông hãy ở qua một đêm, đến sáng hãy ra
đi, để nàng ấy tắm rửa, xức dầu thơm, rồi đeo tràng hoa cho
chúng. |
459. Xin ông ở lại đêm nay,
Sáng mai, ông sẽ đi ngay lên đường.
Tắm con, bà xức dầu thơm,
Và quàng cho chúng những tràng hoa tươi. |
6565. Ekarattiṃ vasitvāna pāto gacchasi
brāhmaṇa,
nānāpupphehi sañchanne nānāgandhavibhūsite,
nānāmūlaphalākiṇṇe gacchissādāya brāhmaṇa.
|
6565. Này vị Bà-la-môn, ông hãy ở qua một đêm, đến sáng hãy ra
đi. Này vị Bà-la-môn, ông sẽ ra đi mang theo hai đứa trẻ đã được
che phủ với các bông hoa khác nhau, đã được tô điểm với nhiều
hương thơm khác nhau, đã được chất đầy với các loại củ quả khác
nhau.” |
460-461. Ðêm nay ở lại, xin ông,
Sáng mai vừa hé vầng đông lên đường,
Hai con sẽ được điểm trang
Với nhiều hoa đẹp mùi hương ngạt ngào,
Rồi ông đem chúng đi mau
Cùng nhiều củ quả dồi dào thức ăn. |
6566. Na vāsamabhirocāmi gamanaṃ mayha
ruccati,
antarāyopi me assa gacchaññeva rathesabha.
|
6566. “Ta không thích thú việc ở lại, việc ra đi được ta vui
thích. Có thể có sự nguy hiểm cho ta, thưa đấng thủ lãnh xa
binh, ta cần phải ra đi. |
462. Thưa không, trình tấu Ðại vương,
Thần đi, chẳng dám vấn vương nơi này,
E rằng trở ngại gì đây
Sẽ ngăn cản bước chân ngay trên đường. |
6567. Na hetā yācayogī naṃ antarāyassa
kāriyā,
itthiyo mantaṃ jānanti sabbaṃ gaṇhanti vāmato.
|
6567. Bởi vì nàng ấy
không sẵn sàng đáp ứng lời cầu xin, có thể gây trở ngại. Các nữ
nhân biết được quỷ kế. Họ nắm giữ mọi thứ theo sự sai trái.
|
463. Nữ nhân chẳng phải rộng lòng
Phát ban thường vẫn cản ngăn cố tình,
Biết nhiều mưu kế thông minh,
Thường hay lạc lối, ác hành tạo nên. |
6568. Saddhāya dānaṃ dadato māsaṃ addakkhi
mātaraṃ,
antarāyampi sā kayirā gacchaññeva rathesabha.
|
6568. Đối với người
đang bố thí vật thí vì niềm tin (vào nghiệp và quả), chớ nhìn
người mẹ của những đứa trẻ ấy. Nàng ấy thậm chí có thể gây trở
ngại, thưa đấng thủ lãnh xa binh, ta cần phải ra đi. |
464. Người ban bố với niềm tin
Đừng nên thấy mặt mẹ mình thiết thân,
Nếu không, bà sẽ cản ngăn,
Tâu Quân vương, tiểu thần mong lên đường. |
6569. Āmantayassu te putte mā te
mātaramaddasuṃ,
saddhāya dānaṃ dadato evaṃ puññaṃ pavaḍḍhati.
|
6569. Xin ngài hãy thông báo
cho hai đứa trẻ ấy. Chớ để hai đứa trẻ nhìn thấy mẹ của chúng.
Đối với người đang bố thí vật thí vì niềm tin (vào nghiệp và
quả), như vậy phước báu được tăng trưởng. |
465. Xin ban vương tử, công nương,
Đừng cho trẻ thấy mặt vương phi này.
Người ban bố, tín tâm đầy,
Thì công đức ấy càng ngày càng tăng. |
6570. Āmantayassu te putte mā te
mātaramaddasuṃ,
mādisassa dhanaṃ datvā rāja saggaṃ gamissasi.
|
6570. Xin ngài hãy
thông báo cho hai đứa trẻ ấy. Chớ để hai đứa trẻ nhìn thấy mẹ
của chúng. Tâu bệ hạ, sau khi bố thí tài sản đến người như ta
đây, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.” |
466. Xin ban vương tử, công nương,
Ðừng cho trẻ thấy mặt vương phi này
Người cho kẻ giống thần đây,
Ði lên thiên giới thẳng ngay tức thì! |
6571. Sace tvaṃ nicchase daṭṭhuṃ mama
bhariyaṃ patibbataṃ,
ayyakassapi dassehi jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6571. “Nếu ông không
muốn gặp người vợ chung thủy của tôi, ông hãy cho cả hai Jāli và
Kaṇhājinā gặp mặt ông nội.
|
467. Nếu không muốn thấy vương phi,
Trung thành tận tụy hiền thê quả là,
Hãy đưa Jà-lí, Kan-hà,
Ði thăm tổ phụ vương gia trên đường. |
6572. Ime kumāre disvāna mañjuke
piyabhāṇine,
patīto sumano vitto bahuṃ dassati te dhanaṃ.
|
6572. Sau khi nhìn
thấy hai đứa trẻ có giọng nói du dương, có lời nói đáng yêu này,
ông nội sẽ sung sướng, có thiện ý, hân hoan, rồi sẽ ban cho ông
nhiều tài sản.” |
468. Khi nhìn đôi trẻ dễ thương,
Nói năng dịu ngọt đến gần vương gia,
Ngài ban nhiều của lắm quà,
Tràn đầy hỷ lạc, chan hòa hân hoan. |
6573. Acchedanassa bhāyāmi rājaputta
suṇohi me,
rājā daṇḍāya maṃ dajjā vikkiṇeyya haneyya vā,
jino dhanañca dāse ca gārayhassa brahmabandhuyā.
|
6573. “Ta sợ hãi về
tội bắt cóc. Thưa thái tử, xin ngài hãy lắng nghe tôi. Đức vua
có thể ban cho ta hình phạt, có thể bán ta đi, hoặc giết chết
ta. Bị thất bại về tài sản và những kẻ nô tỳ, ta sẽ bị chê trách
bởi vị nữ Bà-la-môn (người vợ).” |
469-470. Thần e làm hỏng hành trang,
Thần xin ngài, hỡi ông hoàng, nghe đây:
Phụ vương trừng trị thần ngay,
Hoặc sai giết, bản thân này còn chi,
Không tiền của, chẳng nô tỳ,
Thì bà nội tướng cười chê trăm đường. |
6574. Ime kumāre disvāna mañjuke
piyabhāṇine,
dhamme ṭhito mahārājā sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano,
laddhā pītisomanassaṃ bahuṃ dassati te dhanaṃ.
|
6574. “Sau khi nhìn thấy hai
đứa trẻ có giọng nói du dương, có lời nói đáng yêu này, vị đại
vương, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đứng vững ở công lý,
sau khi đạt được tâm phỉ lạc, sẽ ban cho ông nhiều tài sản.” |
471-472. Khi nhìn đôi trẻ dễ thương,
Nói năng dịu ngọt, đến gần vương quân,
Vị vua cấp dưỡng toàn dân
Si-vi quốc vốn công bằng chánh chân,
Sẽ ban ông lắm bạc vàng,
Hân hoan thích thú ngập tràn niềm vui. |
Trang 432:
|
Trang 433:
|
6575. Nāhaṃ tampi karissāmi yaṃ maṃ tvaṃ
anusāsasi,
dārake ca ahaṃ nessaṃ brāhmaṇiyā paricārake.
|
6575. “Ta sẽ không làm theo điều mà ngài chỉ bảo cho ta. Và ta
sẽ dẫn hai đứa trẻ về làm người hầu hạ cho vị nữ Bà-la-môn.”
|
473. Không, thần không thể nghe lời
Làm điều này nọ mà ngài đưa ra.
Thần mong đem bọn trẻ thơ
Ðể về hầu hạ vợ nhà đó thôi! |
6576. Tato kumārā byathitā sutvā luddassa
bhāsitaṃ,
tena tena padhāviṃsu jālikaṇhājinā cubho.
|
6576. Vì thế, sau khi nghe được lời nói của kẻ hung ác, cả hai
đứa trẻ Jāli và Kaṇhājinā, bị bức hiếp, đã bỏ chạy đến nơi này
nơi khác. |
474. Jà-li chạy tới chạy lui
Cùng Kan-hà, chúng đứng ngồi không an
Trong niềm đau khổ muôn vàn,
Khi nghe giọng nói người săn theo mình. |
6577. Ehi tāta piyaputta pūretha mama
pāramiṃ,
hadayaṃ mebhisiñcetha karotha vacanaṃ mama.
|
(Lời vị Vessantara nói với con
trai Jāli)
6577. “Này con thương, con hãy
đến. Này con trai yêu quý, con hãy làm cho pháp toàn hảo của cha
được hoàn tất. Con hãy tưới mát trái tim của cha, hãy làm theo
lời nói của cha. |
475. Con yêu dấu, tới đây nhanh,
Hãy làm đạo hạnh hoàn thành cho cha.
Ðến đây thánh hóa tim ta,
Hãy theo ý nguyện cha đến cùng. |
6578. Yānanāvā ca me hotha acalā
bhavasāgare,
jātipāraṃ tarissāmi santāressaṃ sadevake.
|
6578. Và con hãy là
phương tiện di chuyển, là chiếc thuyền không bị chao đảo của cha
ở biển cả của hiện hữu. Cha sẽ vượt qua bờ kia của sự sanh, cha
sẽ giúp cho cả thế gian luôn cả chư Thiên vượt qua.” |
476. Con làm thuyền chở băng dòng
Cho cha vượt biển sinh tồn bình yên,
Vượt lên thế giới Nhân Thiên,
Cha nguyền qua đến bến miền tự do. |
6579. Ehi amma piyadhīti pūretha mama
pāramiṃ,
hadayaṃ mebhisiñcetha karotha vacanaṃ mama.
|
(Lời vị Vessantara nói với con
gái Kaṇhājinā)
6579. “Này con thương, con hãy
đến. Này con gái yêu quý, con hãy làm cho pháp toàn hảo của cha
được hoàn tất. Con hãy tưới mát trái tim của cha, hãy làm theo
lời nói của cha. |
477. Con yêu dấu, tới đây nhanh,
Hãy làm đạo hạnh hoàn thành cho cha.
Ðến đây thánh hóa tim ta,
Hãy theo ý nguyện cha đến cùng. |
6580. Yānanāvā ca me hotha acalā
bhaasāgare,
jātipāraṃ tarissāmi uddharissaṃ sadevake.
|
6580. Và con hãy là
phương tiện di chuyển, là chiếc thuyền không bị chao đảo của cha
ở biển cả của hiện hữu. Cha sẽ vượt qua bờ kia của sự sanh, cha
sẽ nâng đỡ thế gian luôn cả chư Thiên.” |
478. Con làm thuyền chở băng dòng
Cho cha vượt biển sinh tồn bình yên,
Vượt lên thế giới Nhân Thiên,
Cha nguyền qua đến bến miền tự do. |
6581. Tato kumāre ādāya jāliṃ
kaṇhājinañcubho,
brāhmaṇassa adā dānaṃ sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano.
|
6581. Sau đó, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi đã dắt hai đứa
trẻ Jāli và Kaṇhājinā lại, rồi đã bố thí vật thí đến lão
Bà-la-môn. |
479. Người bảo dưỡng dân, vị Ðại vương
Si-vi quốc độ dẫn hai con
Và đem tặng vật cao sang nhất
Cho đạo sĩ kia, thật sẵn lòng. |
6582. Tato kumāre ādāya jāliṃ
kaṇhājinañcubho,
brāhmaṇassa adā vitto puttake dānamuttamaṃ.
|
6582. Sau đó, vị Vessantara đã
dắt hai đứa trẻ Jāli và Kaṇhājinā lại, rồi đã hân hoan bố thí
vật thí tối thượng – là hai đứa con nhỏ – đến lão Bà-la-môn. |
|
6583. Tadāsi yaṃ bhiṃsanakaṃ tadāsi
lomahaṃsanaṃ,
yaṃ kumāre padinnamhi medinī samakampatha.
|
6583. Lúc bấy giờ, việc ấy đã là sự kinh hoàng. Lúc bấy giờ, đã
có sự dựng đứng lông. Vào lúc hai đứa con nhỏ được ban ra, trái
đất đã rúng động. |
480. Thế rồi, đầy sợ hãi, kinh hoàng,
Cõi đất lớn này đã chuyển rung
Giờ phút này vua tay chắp lại
Và ban tặng vật: cả hai con. |
6584. Tadāsi yaṃ bhiṃsanakaṃ tadāsi
lomahaṃsanaṃ,
yaṃ pañjalikato rājā kumāre sukhavacchite,
brāhmaṇassa adā dānaṃ sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano.
|
6584. Lúc bấy giờ, việc ấy đã là sự kinh hoàng. Lúc bấy giờ, đã
có sự dựng đứng lông. Vào lúc đức vua, bậc làm hưng thịnh đất
nước Sivi, đã chắp tay lại, và đã bố thí vật thí – là hai đứa
trẻ đã được sống sung sướng – đến lão Bà-la-môn. |
481. Thế rồi đầy sợ hãi, kinh hoàng,
Cõi đất lớn này đã chuyển rung
Khi chúa Si-vi đem quý tử
Sẵn lòng cho lão Bà-la-môn. |
6585. Tato so brāhmaṇo luddo lataṃ dantehi
chindiya,
latāya hatthe bandhitvā latāya anumajjatha.
|
6585. Sau đó, lão Bà-la-môn hung ác ấy đã dùng những chiếc răng
cắn đứt sợi dây rừng, và đã trói hai cánh tay của hai đứa trẻ
lại bằng sợi dây rừng, rồi đã dùng sợi dây rừng quất vào chúng.
|
482. Lão đạo sĩ kia độc ác thay
Cắt ngay một nhánh dây leo dài,
Buộc dây vào cánh tay đôi trẻ
Và kéo chúng đi cách thế này. |
6586. Tato so rajjumādāya daṇḍañcādāya
brāhmaṇo,
ākoṭayanto te neti sivirājassa pekkhato.
|
6586. Kế đến, lão Bà-la-môn ấy đã cầm lấy sợi dây thừng và đã
cầm lấy cây gậy, rồi vừa đánh đập vừa dẫn chúng đi, trong khi
đức vua xứ Sivi đang dõi mắt nhìn theo.
|
483. Rồi đạo sĩ kia, gậy dưới tay,
Cầm dây leo ấy chặt trong tay,
Ðánh bầy con trẻ và xua chúng
Trước mắt nhìn theo của chính ngài. |
6587. Tato kumārā pakkāmuṃ brāhmaṇassa
pamuñciya,
assupuṇṇehi nettehi pitaraṃ so udikkhati.
|
6587. Tiếp đó, hai đứa trẻ, sau
khi được thoát khỏi lão Bà-la-môn, đã bỏ đi. Đứa bé trai ấy đã
ngước nhìn cha với cặp mắt tràn đầy nước mắt. |
484. Ðôi trẻ như vầy được thoát thân
Chạy bay khỏi lão Bà-la-môn,
Bé trai nhìn mặt cha khi ấy
Dòng lệ tuôn ra cặp mắt tràn. |
Trang 434:
|
Trang 435:
|
6588. Vedhaṃ assatthapattaṃva pitu pādāni
vandati,
pitu pādāni vanditvā idaṃ vacanamabravi.
|
6588. Đứa bé trai đảnh lễ hai bàn chân của người cha, trong khi
đang run rẩy tựa như chiếc lá sung. Sau khi đảnh lễ hai bàn chân
của người cha, nó đã nói lời nói này: |
485. Như gặp gió lay, ngọn lá sung,
Thân bé trai kia cứ chuyển rung,
Tay cậu ôm chân cha thật chặt,
Nói lời cùng với vị cha thân: |
6589. Ammā ca tāta nikkhantā tvaṃ ca no
tāta dassasi,
yāva ammampi passemu atha no tāta dassasi.
|
6589. “Thưa cha, trong lúc mẹ đi vắng, và thưa cha, cha sẽ bố
thí chúng con. Thưa cha, hãy chờ đến khi chúng ta gặp lại mẹ rồi
cha sẽ bố thí chúng con. |
486. - Sao cha muốn bỏ lũ con thơ
Trong lúc mẹ đang phải vắng nhà?
Ðừng bỏ, đợi khi bà trở lại,
Khi bà trở lại, hãy chần chờ. |
6590. Ammā ca tāta nikkhantā tvaṃ ca no
tāta dassasi,
mā no tvaṃ tāta adadā yāva ammāpi eti no,
tadāyaṃ brāhmaṇo kāmaṃ vikkiṇātu hanātu vā.
|
6590. Thưa cha, trong lúc mẹ đi vắng, và thưa cha, cha sẽ bố thí
chúng con. Thưa cha, cha chớ bố thí chúng con cho đến khi mẹ về
lại với chúng con. Khi ấy, hãy để cho lão Bà-la-môn này bán
chúng con hoặc giết chết tùy ý. |
487-488. Sao cha muốn bỏ lũ con thơ
Trong lúc mẹ đang phải vắng nhà?
Hãy đợi đến khi bà trở lại,
Rồi cho con trẻ hợp lòng cha!
Rồi cho đạo sĩ đem đi bán
Hoặc để lão già giết trẻ thơ! |
6591. Balaṅkapādo addhanakho atho
ovaddhapiṇḍiko,
dīghuttaroṭṭho capalo kaḷāro bhagganāsako.
|
6591. Bàn chân (của
lão) to rộng, móng dơ dáy, mông xệ xuống, môi trên trề ra, nhểu
nước miếng, nhe răng nanh, mũi bị gãy.
|
489. Chân lão to phù, móng xác xơ,
Thịt u xệ xuống tựa bao da,
Môi dài phía dưới luôn run rẩy,
Mũi gãy, đen sì thật khó ưa! |
6592. Kumbhodaro bhaggapiṭṭhi atho
visamacakkhulo,
lohamassu haritakeso valīnaṃ tilakāhato.
|
6592. Bụng (của lão)
như cái lu, lưng còng, rồi hai mắt không đều, râu màu hung đỏ,
tóc màu vàng, da nhăn nheo, lấm tấm các chấm tàn nhang.
|
490. Bụng như cái trống, chiếc lưng còng,
Ðôi mắt nhìn sao lé đứng tròng,
Ðầy vết nhăn nheo và lốm đốm,
Râu màu máu đỏ, tóc vàng hung. |
6593. Piṅgalo ca vinato ca vikaṭo ca brahā
kharo,
ajināni ca sannaddho amanusso bhayānako.
|
6593. Hai mắt như mắt
mèo, hông, lưng, và thân cong quẹo, bàn chân bị biến dạng, mặc y
phục da dê đồ sộ và thô kệch, không giống con người, là kẻ gây
nên nỗi sợ hãi. |
491. Võ vàng, rệu rã, khoác da nai,
Thô lỗ, bạo tàn, chẳng giống ai,
Nửa ngợm nửa người, co quắp lại,
Thật là khủng khiếp cái hình hài! |
6594. Manusso udāhu yakkho
maṃsalohitabhojano,
gāmā araññaṃ āgamma dhanaṃ taṃ tāta yācati,
nīyamāne pisācena kinnu tāta udikkhasi.
|
6594. Thưa cha, lão là người
hay là Dạ-xoa có thức ăn là thịt và máu, mà lão đã từ làng đi
vào rừng cầu xin cha tài sản? Trong khi chúng con bị quỷ sứ dẫn
đi, tại sao cha lại dửng dưng? |
492. Quỷ ăn thịt sống hoặc người trần?
Cha cứ nhìn xem thật tĩnh tâm:
Con quỷ này vào rừng vắng vẻ
Ðể xin cha bố thí ban ân? |
6595. Asmā nūna te hadayaṃ āyasaṃ
daḷhabandhanaṃ,
yo no baddhe na jānāsi brāhmaṇeṇa dhanesinā,
accāyikena luddena yo no gāvova sumbhati.
|
6595. Phải chăng trái
tim của cha là tảng đá, là cục sắt có sự trói buộc chặt chẽ, khi
cha không biết đến chúng con bị lão Bà-la-môn tầm cầu tài sản,
vô cùng hung ác, trói lại và đánh đập chúng con như là đánh đập
trâu bò? |
493-494. Có phải tim cha hóa đá chăng
Buộc thêm sợi thép chặt quanh vòng,
Không quan tâm lão già tham dục
Chẳng chút nào thương xót chạnh lòng
Trói chúng con và xua đuổi mãi
Như trâu bò phải chạy lông rông? |
6596. Idheva acchataṃ kaṇhā na sā jānāsi
kismici,
migīva khīrasammattā yūthā hīnā pakandati.
|
6596. Hãy để Kaṇhā ở
lại ngay tại nơi này. Nó không hiểu biết bất cứ việc gì. Nó tựa
như con nai cái nhỏ bị lạc khỏi bầy, thèm khát sữa mẹ, kêu khóc. |
495. Ít nhất, con mong cầu khẩn cha
Cho em ở lại, bé Kan-hà
Giống như nai nhỏ đang còn bú
Kêu khóc vì đi lạc cả nhà. |
6597. Na me idaṃ tathā dukkhaṃ labbhā hi
pumunā idaṃ,
yañca ammaṃ na passāmi taṃ me dukkhataraṃ ito.
|
6597. Việc (bị đánh
đập) như thế này không là điều khổ sở đối với con, bởi vì việc
này loài người có thể nhận lãnh. Và việc con không còn nhìn thấy
mẹ, việc ấy đối với con là khổ sở hơn việc (bị đánh đập) này. |
496. Con chẳng lo gì chết khổ thân,
Ðó là số phận mọi thường nhân,
Nhưng không thấy bóng hình từ mẫu
Quả thật điều trên đáng khổ buồn! |
6598. Na me idaṃ tathā dukkhaṃ labbhā hi
pumunā idaṃ,
yañca tātaṃ na passāmi taṃ me dukkhataraṃ ito.
|
6598. Việc (bị đánh đập) như
thế này không là điều khổ đau đối với con, bởi vì việc này loài
người có thể nhận lãnh. Và việc con không còn nhìn thấy cha,
việc ấy đối với con là khổ sở hơn việc (bị đánh đập) này. |
497. Con chẳng lo gì chết khổ thân,
Ðó là số phận mọi thường nhân,
Nhưng không nhìn thấy hình thân phụ,
Quả thật điều trên đáng khổ buồn. |
Trang 436:
|
Trang 437:
|
6599. Sā nūna kapaṇā ammā cirarattāya
rucchati,
kaṇhājinaṃ apassantī kumāriṃ cārudassaniṃ.
|
6599. Người mẹ khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc trong đêm dài,
khi không nhìn thấy Kaṇhājinā, cô bé gái có dáng vẻ dễ mến. |
|
6600. So nūna kapaṇo tāto cirarattāya
rucchati,
kaṇhājinaṃ apassanto kumāriṃ cārudassaniṃ.
|
6600. Người cha khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc trong đêm dài,
khi không nhìn thấy Kaṇhājinā, cô bé gái có dáng vẻ dễ mến. |
|
6601. Sā nūna kapaṇā ammā ciraṃ rucchati
assame,
kaṇhājinaṃ apassantī kumāriṃ cārudassaniṃ.
|
6601. Người mẹ khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc dài lâu ở khu ẩn
cư, khi không nhìn thấy Kaṇhājinā, cô bé gái có dáng vẻ dễ mến. |
|
6602. So nūna kapaṇo tato ciraṃ rucchati
assame,
kaṇhājinaṃ apassanto kumāriṃ cārudassaniṃ.
|
6602. Người cha khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc dài lâu ở khu
ẩn cư, khi không nhìn thấy Kaṇhājinā, cô bé gái có dáng vẻ dễ
mến. |
|
6603. Sā nūna kapaṇā ammā cirarattāya
rucchati,
aḍḍharatte va ratte vā nadīva avasucchati.
|
6603. Người mẹ khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc trong đêm dài,
vào lúc nửa đêm hoặc lúc cuối đêm, tựa như dòng sông sẽ trở nên
khô cạn. |
498-499. Mẹ cha than khóc sẽ dài lâu,
Chẳng biết bao giờ hết khổ đau,
Vào lúc nửa đêm, trời tảng sáng,
Như nguồn suối chảy, các dòng châu
Vì không thấy mặt Kan-hà nữa,
Con gái được yêu quý biết bao! |
6604. So nūna kapaṇo tāto cirarattāya
rucchati,
aḍḍharatte va ratte vā nadīva avasucchati.
|
6604. Người cha khốn khổ ấy quả thật sẽ khóc lóc trong đêm dài,
vào lúc nửa đêm hoặc lúc cuối đêm, tựa như dòng sông sẽ trở nên
khô cạn. |
6605. Ime te jambukā rukkhā vedisā
sindhuvārikā,
vividhāni rukkhajātāni tāni ajja jahāmase.
|
6605. Những cây táo hồng, những cây
vedisa, những cây sindhuvārika
này thuộc về cha, hôm nay, chúng con từ giã những giống cây đa
dạng ấy. |
500. Khóm hồng đào vẫn mọc la đà
Lủng lẳng chung quanh mặt nước hồ,
Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín,
Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ! |
6606. Assatthā panasā ceme nigrodhā ca
kapitthanā,
vividhāni phalajātāni tāni ajja jahāmase.
|
6606. Những cây sung, những cây
mít, những cây đa, những cây táo rừng này, hôm nay, chúng con từ
giã những loại trái cây đa dạng ấy. |
501. Cây sung, cây mít với cây đa
Tỏa rộng, mọi cây cối mọc ra,
Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín
Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ! |
6607. Ime tiṭṭhanti ārāmā ayaṃ sītodikā
nadī,
yatthassu pubbe kīḷāma tāni ajja jahāmase.
|
6607. Những khu vườn
này tồn tại, dòng sông có nước mát này, là những nơi chúng con
đùa giỡn trước đây, hôm nay, chúng con từ giã chúng. |
502. Ðứng kia như cả một vườn hoa,
Dòng suối kìa trôi thật lặng lờ,
Nơi chốn ngày xưa đùa giỡn ấy,
Ngày nay ta ngoảnh mặt làm ngơ! |
6608. Vividhāni pupphajātāni asmiṃ upari
pabbate,
yānassu pubbe dhārema tāni ajja jahāmase.
|
6608. Những thứ trái
cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây chúng con
mang đi trước đây, hôm nay, chúng con từ giã chúng. |
503. Trái núi ngày xưa ta vẫn ăn
Hoa rừng thuở trước vẫn thường mang,
Mọc trên đồi nọ đằng xa ấy,
Giờ phút này ta phải bỏ ngang! |
6609. Vividhāni phalajātāni asmiṃ upari
pabbate,
yānassu pubbe bhuñjāma tāni ajja jahāmase.
|
6609. Những thứ trái
cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây chúng con
ăn trước đây, hôm nay, chúng con từ giã chúng. |
|
6610. Ime no hatthikā assā balivaddā ca no
ime,
yehissu pubbe kīḷāma tāni ajja jahāmase.
|
6610. Những con voi,
những con ngựa (đồ chơi) này của chúng con, và những con trâu
(đồ chơi) này của chúng con, chúng con đùa giỡn với chúng trước
đây, hôm nay, chúng con từ giã chúng.” |
504. Xinh xinh, nhỏ nhắn các đồ chơi,
Ngày trước ta đùa giỡn chúng hoài,
Bầy ngựa, trâu bò, voi đủ thứ,
Ngày nay ta cũng phải xa rời ! |
6611. Nīyamānā kumārā te pitaraṃ
etadabravuṃ,
ammaṃ ārogyaṃ vajjāsi tvaṃ ca tāta sukhī bhava.
|
6611. Hai đứa trẻ ấy, trong khi
bị lôi đi, đã nói với người cha điều này: “Cha ơi, cầu mong mẹ
sẽ sống mạnh khỏe, và cầu mong cha được an lạc. |
505. Hai con trẻ nói
với người cha
Trong lúc bị đưa đẩy thật xa:
- Cha hỡi! Mẹ hiền mong mạnh khỏe,
Và mong hạnh phúc tháng ngày qua! |
Trang 438:
|
Trang 439:
|
6612. Ime no hatthikā assā balivaddā ca no
ime,
tāni ammāya dajjāsi sokaṃ tehi vinessati.
|
6612. Những con voi, những con ngựa (đồ chơi) này của chúng con,
và những con trâu (đồ chơi) này của chúng con, cha có thể trao
chúng cho mẹ; với chúng mẹ sẽ vơi đi nỗi sầu muộn. |
506. Trâu bò, bầy ngựa, cả bầy voi
Ngày trước chúng con vẫn lấy chơi,
Trao chúng dùm cho hiền mẫu nhé,
Sẽ làm sầu khổ mẹ dần nguôi. |
6613. Ime no hatthikā assā balivaddā ca no
ime,
tāni ammā udikkhantī sokaṃ paṭivinessati.
|
6613. Những con voi, những con ngựa (đồ chơi) này của chúng con,
và những con trâu (đồ chơi) này của chúng con, trong khi ngắm
nhìn chúng, mẹ sẽ dẹp đi nỗi sầu muộn.”
|
507. Trâu bò, bầy ngựa, cả bầy voi
Ngày trước chúng con vẫn lấy chơi,
Lúc mẹ ngắm nhìn vào bọn chúng
Sẽ làm sầu khổ mẹ dần nguôi. |
6614. Tato vessantaro rājā dānaṃ datvāna
khattiyo,
paṇṇasālaṃ pavisitvā karuṇaṃ paridevayi.
|
6614. Sau đó, khi đã bố thí xong vật thí (hai con), đức vua
Vessantara, vị Sát-đế-lỵ, đã đi vào gian nhà lá và đã than khóc
một cách bi thương rằng: |
508. Ông hoàng Sát-lỵ Ves-san-ta
Bố thí như vầy lũ trẻ thơ,
Vội bước đi vào lều cỏ lá,
Ngồi kia than khóc lẫn buồn lo. |
6615. Kaṃ nvajja chātā tasitā uparucchanti
dārakā,
sāyaṃ saṃvesanākāle ko ne dassati bhojanaṃ.
|
6615. “Vậy thì hôm nay, hai đứa trẻ sẽ khóc lóc với ai khi bị
đói, bị khát? Ai sẽ cho chúng thức ăn lúc chiều tối vào thời
điểm đi ngủ? |
509. Vào lúc sáng mai hoặc xế chiều,
Ðói ăn, lũ trẻ phải kêu rêu,
Bị cơn đói khát luôn hành hạ,
Ai sẽ cho con trẻ ít nhiều? |
6616. Kaṃ nvajja chātā tasitā uparucchanti
dārakā,
sāyaṃ saṃvesanākāle amma chātamha detha no.
|
6616. Vậy thì hôm
nay, hai đứa trẻ sẽ khóc lóc với ai khi bị đói, bị khát lúc
chiều tối vào thời điểm đi ngủ rằng: ‘Mẹ ơi, chúng con đói. Hãy
cho chúng con ăn’? |
|
6617. Kathannu pathaṃ gacchanti pattikā
anupāhanā,
santā sūṇehi pādehi ko ne hatthe gahessati.
|
6617. Làm thế nào
chúng có thể đi bộ đường xa, không giày dép, bị mệt nhọc với hai
bàn chân bị sưng vù? Ai sẽ nắm lấy bàn tay chúng (dẫn đi)? |
510. Làm sao chân bé bỏng run run
Cất bước đi theo mọi lối mòn
Không có hài? Ai dắt díu chúng,
Ai đưa lối chúng nhẹ nhàng chăng? |
6618. Kathannu so na lajjeyya sammukhā
paharaṃ mama,
adūsakānaṃ puttānaṃ alajjī vata brāhmaṇo.
|
6618. Tại sao lão ấy không có
xấu hổ trong khi đánh đập chúng ngay trước mặt ta, trong khi hai
đứa con của ta không phải là những đứa trẻ tồi bại? Lão
Bà-la-môn quả thật vô liêm sỉ! |
511. Làm sao có thể lão La-môn
Vô sỉ, lúc ta đứng ngóng trông,
Lại đánh con ta nào có tội,
Lão vô liêm sỉ thế là cùng! |
6619. Yo hi me dāsi dāsassa añño vā pana
pessiyo,
tassāpi suvihīnassa ko lajjī paharissati.
|
6619. Người có sự
liêm sỉ thì ai sẽ đánh đập kẻ vô cùng hư hỏng, khi chính kẻ ấy
có thể là tôi trai, tớ gái, hay là kẻ hầu hạ nào khác của ta? |
512. Không ai biết sỉ nhục như vầy
Lại đối xử người khác thế này,
Dẫu đó là con nô lệ nữa
Mà ta xem thật thấp hèn thay. |
6620. Vārijasseva me sato baddhassa
kumināmukhe,
akkosati paharati piye putte apassato.
|
6620. Lão sỉ vả và
đánh đập hai đứa con yêu quý của ta, trong khi ta tựa như con cá
đã bị giam hãm ở miệng của chiếc lưới đánh cá. |
513. Ta không thể thấy lão đằng xa
Nhưng lão đánh đau lũ trẻ nhà
Như thể cá nằm trong chiếc bẫy,
Ta đây bất lực đứng trơ ra! |
6621. Āduṃ cāpaṃ gahetvāna khaggaṃ
bandhitvā vāmato,
ānayāmi sake putte puttānaṃ hi vadho dukho.
|
6621. Ta sẽ cầm lấy
cây cung và buộc thanh gươm ở phía trái, rồi sẽ dẫn đi hai đứa
con của mình, bởi vì sự đọa đày của hai đứa con là nỗi khổ đau.
|
514. Bên trái buộc thanh kiếm cạnh sườn,
Ngài nai nịt đủ với cây cung:
"Ta đem con trẻ về nhà lại,
Ðánh mất con thơ thật khổ buồn. |
6622. Aṭṭhānametaṃ dukkharūpaṃ yaṃ kumārā
vihaññare,
satañca dhammamaññāya ko datvā atha tappati.
|
6622. Điều này là
không có cơ sở, là trạng thái khổ đau về việc hai đứa trẻ có thể
bị giết chết. Người nào đã hiểu rõ truyền thống của các bậc
thiện nhân mà còn bị tiếc nuối sau khi đã bố thí?” |
515. Nhưng nếu con ta phải mạng vong
Thật tàn nhẫn quá, nỗi đau lòng:
Nào ai biết thói lề người thiện
Và đến cầu xin nữa phải không?" |
6623. Saccaṃ kirevamāhaṃsu narā ekacciyā
idha,
yassa natthi sakā mātā yathā natthi tatheva so.
|
(Lời Lời than van của bé trai
Jāli)
6623. “Nghe rằng sự thật là như
vầy, một số người ở thế gian này đã nói rằng: ‘Người nào (có
cha) mà không có mẹ của mình thì giống như là không có; ta đây
là như thế ấy. |
516. Tục ngữ hình như thật đúng thay
Người đời thường vẫn nói như vầy:
Ai không có mẹ mình bên cạnh
Cũng giống không cha ruột thế này. |
Trang 440:
|
Trang 441:
|
6624. Ehi kaṇhe marissāma natthattho
jīvitena no,
dinnamhāpi janindena brāhmaṇassa dhanesino,
accāyikassa luddassa yo no gāvova sumbhati.
|
6624. Này Kaṇhā, hãy đến. Chúng ta sẽ chết. Mạng sống của chúng
ta không có ý nghĩa gì. Chúng ta đã được cha bố thí cho lão
Bà-la-môn tầm cầu tài sản, vô cùng hung ác, là kẻ đánh đập chúng
ta như là đánh đập trâu bò. |
517. Ðời chẳng còn gì với chúng ta,
Thà ta chết: chỉ phận gia nô,
Con người tàn bạo đầy tham ác
Xua đuổi chúng ta tựa lũ bò. |
6625. Ime te jambukā rukkhā vedisā
sindhuvārikā,
vividhāni rukkhajātāni tāni kaṇhe jahāmase.
|
6625. Những cây táo hồng, những cây
vedisa, những cây sindhuvārika
này thuộc về cha, này Kaṇhā, chúng ta từ giã những giống cây đa
dạng ấy. |
518. Khóm hồng đào vẫn mọc la đà
Lủng lẳng chung quanh mặt nước hồ,
Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín
Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ! |
6626. Assatthā panasā ceme nigrodhā ca
kapitthanā,
vivadhāni phalajātāni tāni kaṇhe jahāmase.
|
6626. Những cây sung, những cây mít, những cây đa, những cây táo
rừng này, này Kaṇhā, chúng ta từ giã những loại trái cây đa dạng
ấy. |
519. Cây sung, cây mít với cây đa
Tỏa rộng, mọi cây cối mọc ra,
Ôi! Cả rừng cây đầy quả chín
Từ nay ta ngoảnh mặt làm ngơ! |
6627. Ime tiṭṭhanti ārāmā ayaṃ sītodikā
nadī,
yatthassu pubbe kīḷāma tāni kaṇhe jahāmase.
|
6627. Những khu vườn này tồn tại, dòng sông có nước mát này, là
những nơi chúng con đùa giỡn trước đây, hôm nay, chúng ta từ giã
chúng. |
520. Ðứng kia như cả một vườn hoa,
Dòng suối kìa trôi thật lặng lờ,
Nơi chốn ngày xưa đùa giỡn ấy,
Ngày nay ta ngoảnh mặt làm ngơ! |
6628. Vividhāni pupphajātāni asmiṃ upari
pabbate,
yānassu pubbe dhārema tāni kaṇhe jahāmase.
|
6628. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này,
những trái cây chúng ta mang đi trước đây, này Kaṇhā, chúng ta
từ giã chúng. |
521. Trái núi ngày xưa ta vẫn ăn,
Hoa rừng thuở trước vẫn thường mang,
Mọc trên đồi nọ đằng xa ấy,
Giờ phút này ta phải bỏ ngang! |
6629. Vividhāni phalajātāni asmiṃ upari
pabbate,
yānassu pubbe bhuñjāma tāni kaṇhe jahāmase.
|
6629. Những thứ trái
cây nhiều loại ở bên trên ngọn núi này, những trái cây chúng ta
ăn trước đây, này Kaṇhā, chúng ta từ giã chúng. |
|
6630. Ime no hatthikā assā balivaddā ca no
ime,
yehissu pubbe kīḷāma tāni kaṇhe jahāmesa.
|
6630. Những con voi, những con
ngựa (đồ chơi) này của chúng ta, và những con trâu (đồ chơi) này
của chúng ta, chúng ta đùa giỡn với chúng trước đây, này Kaṇhā,
chúng ta từ giã chúng.” |
522. Xinh xinh, nhỏ nhắn các đồ chơi,
Ngày trước ta đùa giỡn chúng hoài,
Bầy ngựa, trâu bò, voi đủ thứ,
Ngày nay ta cũng phải xa rời! |
6631. Nīyamānā kumārā te brāhmaṇassa
pamuñciya,
tena tena padhāviṃsu jālī kaṇhājinā cubho.
|
6631. Hai đứa trẻ ấy,
trong khi bị lôi đi, sau khi được thoát khỏi lão Bà-la-môn, cả
hai đứa trẻ Jāli và Kaṇhājinā đã bỏ chạy đến nơi này nơi khác. |
523. Lúc ấy Kan-hà với Jà-li
Ðược La-môn nọ dẫn đường đi,
Thoát thân, chúng vội vùng lên chạy
Mải miết chúng bay biến tức thì. |
6632. Tato so rajjumādāya daṇḍañcādāya
brāhmaṇo,
ākoṭayanto te neti sivirājassa pekkhato.
|
6632. Sau đó, lão
Bà-la-môn ấy đã cầm lấy sợi dây thừng và đã cầm lấy cây gậy, rồi
vừa đánh đập vừa dẫn chúng đi, trong khi đức vua xứ Sivi đang
dõi mắt nhìn theo. |
524. Rồi lão đạo nhân nắm sợi dây,
Và cầm cây gậy ở trong tay
Vừa đem chúng trở về, vừa đánh,
Trong lúc vua đành phải ngó ngây! |
6633. Taṃ taṃ kaṇhājināvoca ayaṃ maṃ tāta
brāhmaṇo,
laṭṭhiyā patikoṭeti ghare jātaṃva dāsiyaṃ.
|
6633. Kaṇhājinā đã
nói điều ấy với cha rằng: “Cha ơi, lão Bà-la-môn này đánh con
bằng cây gậy như là đánh đứa tớ gái đã được sanh ra ở trong nhà. |
525. Cô bé Kan-hà nói thế này:
- Cha ơi, xin hãy ngắm nhìn đây:
Con như nô lệ xuất thân ấy
Ðạo sĩ đánh con thật mạnh tay! |
6634. Na cāyaṃ brāhmaṇo tāta dhammikā
honti brāhmaṇā,
yakkho brāhmaṇavaṇṇena khādituṃ tāta neti no,
nīyamāne pisācena kinnu tāta udikkhasi.
|
6634. Và cha ơi, lão
này không phải là Bà-la-môn; các vị Bà-la-môn là có đạo lý. Cha
ơi, gã Dạ-xoa với vóc dáng Bà-la-môn dẫn chúng con đi để ăn
thịt. Trong khi chúng con bị quỷ sứ dẫn đi, tại sao cha lại dửng
dưng?” |
526-527. Ðạo sĩ là người sống chánh chân,
Lão này không phải Bà-la-môn,
Quỷ ma đội lốt La-môn ấy
Lão dẫn đi ăn thịt chúng con,
Cha có thể ngồi yên ngắm nghía
Trẻ con bị bắt để ma ăn? |
6635. Ime no pādukā dukkhā dīgho caddhā
suduggamo,
nīce volambate suriyo brāhmaṇo ca tareti no.
|
(Lời than van của bé gái
Kaṇhājinā)
6635. “Các bàn chân nhỏ của
chúng con đau nhức, và cuộc hành trình dài là vô cùng khó đi.
Mặt trời treo lơ lửng ở dưới thấp, và lão Bà-la-môn thúc giục
chúng con bước đi. |
528. Ðau nhức đôi chân của trẻ thơ,
Con đường thật khó bước đi qua,
Ðạo nhân xua đuổi bầy con trẻ,
Vầng nhật lăn dần ở phía xa. |
6636. Okandāmasi bhūtāni pabbatāni vanāni
ca,
sarassa sirasā vandāma supatitthe ca āpake.
|
6636. Chúng con cầu khấn các
thần linh, các ngọn núi và các khu rừng. Chúng con xin cúi đầu
đảnh lễ (các gia tộc loài rồng cai quản) hồ nước và (đang cư
ngụ) ở dòng sông có những bến tắm xinh đẹp. |
529. Qua các núi đồi, rừng thẳm xanh,
Những nơi cư ngụ các thần linh,
Chúng con trân trọng chào chư vị,
Tất cả, chúng con thảy cúi mình. |
Trang 442:
|
Trang 443:
|
6637. Tiṇalatā ca osaddhyo pabbatāni
vanāni ca,
ammaṃ ārogyaṃ vajjātha ayaṃ no neti brāhmaṇo.
|
6637. Thưa các loài cỏ, các giống dây leo, các thảo dược, các
ngọn núi và các khu rừng, xin các ngài hãy chúc sức khỏe cho mẹ.
Lão Bà-la-môn này dẫn chúng con đi. |
530-531. Chào chư thần trú ngụ hồ này,
Cùng cỏ dây leo, rễ mọc dày,
Mong ước mẹ hiền con mạnh khỏe,
Nhưng La-môn nọ đuổi con ngay,
Nếu bà muốn chạy theo con trẻ.
Xin chớ chần chờ, phải chạy bay. |
6638. Vajjantu bhonto ammañca maddiṃ
amhākamātaraṃ,
sace anupatitukāmāsi khippaṃ anupatiyāsi no.
|
6638. Xin các ngài hãy nói với mẹ Maddī, là mẹ của chúng con,
rằng: ‘Nếu mẹ muốn đuổi theo, mẹ nên mau chóng đuổi theo chúng
con. |
6639. Ayaṃ ekapadī eti ujuṃ gacchati
assamaṃ,
tamevanupateyyāsi api passesi no lahuṃ.
|
6639. Lối đi bộ này đi đến, đi thẳng đến khu ẩn cư. Mẹ nên đi
theo chính lối đi ấy, mẹ có thể mau chóng nhìn thấy chúng con. |
532. Con đường dẫn đến chiếc am tranh,
Con trẻ thường theo bước lộ trình,
Nếu mẹ muốn theo đường lối ấy,
Mẹ tìm con trẻ thật là nhanh. |
6640. Aho vata re jaṭini
vanamūlaphalahārike,
suññaṃ disvāna assamaṃ taṃ te dukkhaṃ bhavissati.
|
6640. Ôi, hỡi người mẹ có tóc bện, hỡi người mẹ mang lại rễ và
trái cây rừng, sau khi nhìn thấy khu ẩn cư trống không, điều ấy
sẽ là nỗi đau khổ cho mẹ. |
533. Mẹ hái trái cây, các củ rừng,
Tóc thường được kết lại từng chùm,
Khi nhìn thấy chiếc am tranh vắng
Sẽ khiến mẹ đau đớn tột cùng. |
6641. Ativelaṃ nūna ammāya uñchāladdho
anappako,
yā no baddhe na jānāti brāhmaṇena dhanesinā,
accāyikena luddena yo no gāvova sumbhati.
|
6641. Phải chăng quá tốn thời gian cho mẹ trong việc đạt được
không ít củ quả thu nhặt? Và mẹ không biết chúng con bị lão
Bà-la-môn tầm cầu tài sản, vô cùng hung ác, trói lại và đánh đập
chúng con như là đánh đập trâu bò? |
534-535. Mẹ ta đi kiếm quả từ lâu,
Chắc mẹ đã chất đống thật cao,
Mẹ chẳng biết con người độc ác
Tham lam buộc chặt trẻ ra sao.
Vô cùng độc ác là người đó
Xua đuổi chúng ta tựa lũ trâu. |
6642. Ahajja ammaṃ passemu sāyaṃ uñchāto
āgataṃ,
dajjā ammā brāhmaṇassa phalaṃ khuddena missitaṃ.
|
6642. Ôi, ước gì hôm nay chúng con cũng còn nhìn thấy mẹ trở về
vào lúc chiều tối sau việc thu nhặt củ quả. Mẹ sẽ mời lão
Bà-la-môn món trái cây trộn với mật ong. |
536. Ôi, nếu mẹ ta đến xế tà,
Nếu hai bên gặp gỡ tình cờ,
Mẹ cho lão ấy ăn nhiều quả
Trộn với mật ong thật đủ no, |
6643. Tadāyaṃ asito dhāto na bāḷhaṃ
tarayeyya no,
sūṇā ca vata no pādā bāḷhaṃ tāreti brāhmaṇo,
iti tattha vilapiṃsu kumārā mātugiddhino.
|
6643. Một khi đã được ăn no, đã
được thỏa mãn, lão này có thể không thúc giục chúng con một cách
tàn nhẫn. Lão Bà-la-môn quả thật đã thúc giục một cách tàn nhẫn
khiến các bàn chân của chúng con bị sưng vù.’” Với sự mong ngóng
mẹ, hai đứa trẻ đã than van tại nơi ấy như thế.
|
537-538. Lão sẽ không xua đuổi bạo tàn,
Sau khi được một bữa ăn ngon,
Lão già xua trẻ thơ tàn nhẫn,
Chân của trẻ thơ bước vọng vang,
Vì ngóng mẹ hiền lâu quá đỗi,
Các con đã thảm thiết kêu than. |
Kumārapabbaṃ.
|
Đoạn Về Hai Đứa Trẻ. |
Chuyện Trẻ thơ. |
6644. Tesaṃ lālappitaṃ sutvā tayo vālā
vane migā,
sīho vyaggho ca dīpī ca idaṃ vacanamabravuṃ.
|
6644. Sau khi nghe lời than vãn của hai
đứa trẻ, các Thiên nhân đã nói với ba vị Thiên tử lời nói này:
“Ba ngài hãy biến thành ba loài thú dữ trong khu rừng là: sư tử,
cọp, và beo. |
539. Sư tử, Hổ, Beo, ba vị thần
Giả làm sinh vật của rừng hoang,
Vừa nghe lời trẻ thơ than khóc,
Các vị liền cất tiếng nói năng: |
6645. Mā heva no rājaputtī sāyaṃ uñchāto
āgamā,
mā hevamhākaṃ nibbhoge heṭhayittha vane migā.
|
6645. Chớ bao giờ để nàng công chúa của
chúng ta trở về vào lúc chiều tối sau việc thu nhặt củ quả. Chớ
bao giờ để các loài thú ở trong khu rừng vắng vẻ của chúng ta
giết hại nàng ấy. |
540. - Đừng cho trở lại vị công nương
Chiều tối sau khi kiếm thức ăn,
Sợ lũ thú hoang kia sát hại
Ở trong lãnh địa của rừng hoang. |
6646. Sīho cenaṃ viheṭheyya vyaggho dīpi
ca lakkhaṇaṃ,
neva jālikumārassa kuto kaṇhājinā siyā,
ubhayeneva jīyetha patiṃ putte ca lakkhaṇā.
|
6646. Nếu loài sư tử, cọp, và beo giết hại
người mẹ gương mẫu ấy, làm sao bé trai Jāli và bé gái Kaṇhājinā
có thể sống còn? Với cả hai điều ấy, hãy để con người gương mẫu
được sống đến già với chồng và hai người con.” |
541-542. Ví thử loài beo, hoặc hổ, sư
Sát tàn bà mẹ thật hiền từ,
Thì đâu vương tử Jà-li ấy
Cùng với Kan-hà sẽ ở nhờ?
Vậy mẹ và hai con trẻ nọ
Các ngài phải bảo vệ từ giờ. |
Trang 444:
|
Trang 445:
|
6647. Khaṇittikaṃ me patati dakkhiṇakkhi
ca phandati,
aphalā phalino rukkhā sabbā muyhanti me disā.
|
(Lời công chúa Maddī)
6647. “Cây xẻng nhỏ của ta rơi xuống, và
con mắt phải co giật, các cây có trái trở nên không còn trái,
tất cả phương hướng đối với ta trở nên mờ mịt. |
543. Cuốc ta rơi xuống đất rồi,
Ta nghe mắt phải giật hoài giờ đây,
Trái cây dường chẳng có này,
Chung quanh vạn vật như quay như cuồng. |
6648. Tassā sāyanhakālamhi assamāgamanaṃ
pati,
atthaṅgatamhi suriyamhi vālā panthe upaṭṭhahuṃ.
|
6648. Đối với ta đây, vào thời điểm chiều
tối là việc trở về lại khu ẩn cư. Khi mặt trời đã lặn xuống, các
thú dữ đã rình rập ở con đường. |
544. Khi nàng trở lại chiều hôm
Sau ngày làm việc vẹn tròn xong xuôi,
Thú hoang vẫn cứ rình hoài
Ðường về nhà lúc mặt trời lặn mau. |
6649. Nīce volambate suriyo dūre ca vata
assamo,
yañca nesaṃ ito hassaṃ taṃ te bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ.
|
6649. Mặt trời treo lơ lửng ở dưới thấp,
và khu ẩn cư thật sự là còn xa. Và vật mà ta sẽ mang về từ nơi
này là thức ăn mà họ có thể thọ dụng. |
545. Thảo am xa tận nơi đâu
Mặt trời khuất bóng chìm sâu xuống dần,
Và đây tất cả thức ăn
Cả nhà phải đợi ta mang tới rồi. |
6650. So nūna khattiyo eko paṇṇasālāya
acchati,
tosento dārake chāte mamaṃ disvā anāyatiṃ.
|
6650. Có lẽ vị Sát-đế-lỵ ấy một mình ngồi
yên ở gian nhà lá, đang dỗ dành hai đứa trẻ bị đói bụng sau khi
nhìn thấy ta còn chưa về. |
546. Nơi kia vương tử thường ngồi
Một mình một bóng trong chòi lá tranh,
Con thơ chàng phải dỗ dành,
Ta chưa trở lại, con đành đói meo. |
6651. Te nūna puttakā mayhaṃ kapaṇāya
varākiyā,
sāyaṃ saṃvesanākāle khīrapītāva acchare.
|
6651. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta –
của người mẹ khốn khổ và thảm thương – lúc chiều tối vào thời
điểm đi ngủ, vẫn ngồi yên, như là đã được uống sữa. |
547. Giờ đây là buổi ăn chiều,
Ôi! Ta phải khổ bao nhiêu muộn rồi!
Khát khao sữa, nước, con đòi,
Các con ta phải đợi hoài mẫu thân. |
6652. Te nūna puttakā mayhaṃ kapaṇāya
varākiyā,
sāyaṃ saṃvesanākāle vāripītāva acchare.
|
6652. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta –
của người mẹ khốn khổ và thảm thương – lúc chiều tối vào thời
điểm đi ngủ, vẫn ngồi yên, như là đã được uống nước. |
6653. Te nūna puttakā mayhaṃ kapaṇāya
varākiyā,
paccuggatā maṃ tiṭṭhanti vacchā bālāva mātaraṃ.
|
6653. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta –
của người mẹ khốn khổ và thảm thương – đã đi ra đón và đứng chờ
ta, tựa như hai con bê thơ dại trông chờ bò mẹ. |
548. Trẻ thơ thường đến đón mừng,
Ðứng như bê con ngóng trông mẹ bò,
Như thiên nga đậu bên hồ,
Ôi sao phải khổ thân ta thế này! |
6654. Te nūna puttakā mayhaṃ kapaṇāya
varākiyā,
paccuggatā maṃ tiṭṭhanti haṃsāva upari pallale.
|
6654. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta –
của người mẹ khốn khổ và thảm thương – đã đi ra đón và đứng chờ
ta, tựa như hai con chim thiên nga đứng ở phía trên hồ nước cỏn
con. |
6655. Te nūna puttakā mayhaṃ kapaṇāya
varākiyā,
paccuggatā maṃ tiṭṭhanti assamassāvidūrato.
|
6655. Có lẽ hai đứa con nhỏ ấy của ta –
của người mẹ khốn khổ và thảm thương – đã đi ra đón và đứng chờ
ta ở chỗ không xa khu ẩn cư. |
|
6656. Ekāyano ekapatho sarā sobbhā ca
passato,
aññaṃ maggaṃ na passāmi yena gaccheyya assamaṃ.
|
6656. Có con đường chỉ vừa đủ cho một
người đi bộ, là con đường độc đạo, bên hông là hồ nước và đầm
lầy. Ta không nhìn thấy con đường nào khác theo đó có thể đi về
khu ẩn cư. |
549. Con đường độc nhất là đây,
Chung quanh hang hố rẫy đầy hồ ao,
Ta không tìm thấy đường nào,
Bây giờ ta phải làm sao về nhà? |
6657. Migā namatthu rājāno kānanasmiṃ
mahabbalā,
dhammena bhātaro hotha maggaṃ me detha yācitā.
|
6657. Xin kính lễ các loài thú là các vị
vua có sức mạnh vĩ đại ở chốn rừng thẳm. Theo nguyên tắc, các
ngài là anh em với ta.
Được yêu cầu, xin các ngài hãy nhường đường cho ta.
|
550. Các ngài chúa tể rừng già,
Ta xin các vị là vua thú rừng,
Hãy làm huynh đệ chánh chân
Ðể cho ta được an thân về nhà. |
6658. Avaruddhassahaṃ bhariyā rājaputtassa
sirīmato,
tañcāhaṃ nātimaññāmi rāmaṃ sītāvanubbatā.
|
6658. Ta là vợ của vị thái tử có sự vinh
quang và đã bị đày đọa. Nhưng ta không khinh thường chồng, tựa
như nàng Sīta chung thủy không khi dễ Rāma chồng nàng. |
551. Ta là chánh hậu vương gia,
Vinh quang thái tử bị đưa đi đày,
Ta thờ chồng của ta nay
Như Si-tà trước thờ ngài Rà-ma. |
6659. Tumhe ca putte passetha sāyaṃ
saṃvesanaṃ pati,
ahañca putte passeyyaṃ jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6659. Các ngài có thể nhìn thấy các con
lúc chiều tối, khi đến giờ đi ngủ. Và ta có thể gặp lại các con,
cả hai Jāli và Kaṇhājinā. |
552. Buổi chiều khi trở về nhà,
Các ngài lại thấy con ra đón chờ,
Như Jà-li với Kan-hà,
Xin lần nữa hãy cho ta, thưa ngài! |
Trang 446:
|
Trang 447:
|
6660. Bahuṃ cidaṃ mūlaphalaṃ bhakkho cāyaṃ
anappako,
tato upaḍḍhaṃ dassāmi maggaṃ me detha yācitā.
|
6660. Rễ củ và trái cây này là có nhiều,
và thức ăn này không phải là ít. Ta sẽ để lại một nửa trong số
này. Được yêu cầu, xin các ngài hãy nhường đường cho ta. |
553. Ðây dồi dào củ quả tươi,
Có nhiều thực phẩm ta mời ngài ăn,
Ta đem một nửa xin dâng,
Ðể cho ta được an thân về nhà. |
6661. Rājaputtī ca no mātā rājaputto ca no
pitā,
dhammena bhātaro hotha maggaṃ me detha yācitā.
|
6661. Mẹ của chúng ta là con gái của vua,
và cha của chúng ta là con trai của vua. Theo nguyên tắc, các
ngài là anh em với ta. Được yêu cầu, xin các ngài hãy nhường
đường cho ta.” |
554. Vua rừng này chính là cha,
Vương phi là mẹ, nghe ta than cùng:
Hãy làm huynh đệ chánh chân,
Ðể cho ta được an thân đi về. |
6662. Tassā lālappamānāya bahuṃ kāruññasaṃhitaṃ,
sutvā nelapatiṃ vācaṃ vālā panthā apakkamuṃ.
|
6662. Sau khi lắng nghe lời nói êm ái chứa
đựng nhiều bi thương của nàng lúc nàng ấy đang than vãn, các con
thú dữ đã rời khỏi con đường bỏ đi. |
555. Thú rừng kia đã lắng nghe
Lời nàng than khóc não nề thảm thương,
Âm thanh êm ái dịu dàng,
Chúng liền chạy mất để nàng đi ngay. |
6663. Imamhi naṃ padesamhi puttakā paṃsukuṇṭhitā,
paccuggatā maṃ tiṭṭhanti vacchā bālāva mātaraṃ.
|
(Lời công chúa Maddī)
6663. “Ở khu vực này, hai đứa con nhỏ, bị
lem luốc bụi bặm, đã đi ra đón và đứng chờ ta, tựa như hai con
bê thơ dại trông chờ bò mẹ. |
556. Trẻ thơ lấm bụi thường ngày
Vẫn ra đứng đón ta đây gần nhà
Như bê con đợi mẹ bò,
Như chim non ở trên hồ thiên nga. |
6664. Imamhi naṃ padesamhi puttakā paṃsukuṇṭhitā,
paccuggatā maṃ tiṭṭhanti haṃsāva upari pallale.
|
6664. Ở khu vực này, hai đứa con nhỏ, bị
lem luốc bụi bặm, đã đi ra đón và đứng chờ ta, tựa như hai con
chim thiên nga đứng ở phía trên hồ nước cỏn con. |
6665. Imamhi naṃ padesamhi puttakā paṃsukuṇṭhitā,
paccuggatā maṃ tiṭṭhanti assamassāvidūrato.
|
6665. Ở khu vực này, hai đứa con nhỏ, bị
lem luốc bụi bặm, đã đi ra đón và đứng chờ ta ở chỗ không xa khu
ẩn cư. |
|
6666. Te migā viya ukkaṇṇā samantāmabhidhāvino,
ānanditā pamuditā vaggamānāva kampare,
tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6666. Chúng tựa như những con thú con,
vểnh tai lên, hối hả chạy đến gần bên, vui vẻ, mừng rỡ, nhảy
nhót, làm rung động trái tim người mẹ. Hôm nay, ta không nhìn
thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā. |
557- 558. Như nai bé vểnh tai ra,
Chúng thường đi đến đón ta trên đường,
Tràn đầy hạnh phúc vui mừng
Ðùa chơi chạy nhảy tưng bừng quanh ta.
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón đường. |
6667. Chakalīva migī chāpaṃ pakkhī muttāva pañjarā,
ohāya putte nikkhamiṃ sīhīvāmisagiddhinī,
tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6667. Tựa như con dê cái, con nai cái rời
bầy thú con, tựa như con chim được tự do khỏi chiếc lồng, tựa
như con sư tử cái thèm muốn thức ăn, ta đã rời khỏi hai con và
đã đi ra ngoài. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy,
Jāli và Kaṇhājinā. |
559-560. Như sư tử cái, sơn dương,
Rời bầy con nhỏ, chim muông rời lồng,
Ðể mà đi kiếm thức ăn,
Ta làm cho đỡ đói lòng con ta,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón đường. |
6668. Idaṃ tesaṃ parakkantaṃ nāgānamiva pabbate,
citakā parikiṇṇāyo assamassāvidūrato,
tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6668. Dấu chân này của chúng tựa như dấu
chân như của các con voi ở ngọn núi. Có những đống cát rải rác ở
chỗ không xa khu ẩn cư. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa
con ấy, Jāli và Kaṇhājinā. |
561-562. Gần nhà đây những dấu chân
Giống như loài rắn ẩn thân trên đồi,
Chúng làm những đống đất bồi
Vẫn còn nằm đó rã rời quanh ta,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón mừng. |
6669. Vālukāyapi okiṇṇā puttakā paṃsukuṇṭhitā,
samantāmabhidhāvanti te na passāmi dārake.
|
6669. Hai đứa con nhỏ, bị phủ đầy đất cát,
bị lem luốc bụi bặm, hối hả chạy đến gần bên. Ta không nhìn thấy
hai đứa trẻ ấy. |
563. Các con thường chạy tung tăng
Phủ đầy bụi bặm đến gần mẹ đây,
Lấm lem mặt mũi bùn lầy,
Nhưng ta chẳng thấy giờ đây đứa nào. |
6670. Ye maṃ pure paccudenti araññā dūramāyatiṃ,
tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6670. Trước đây, chúng thường đi ra đón ta
đang trở về ở đằng xa, từ phía khu rừng. Hôm nay, ta không nhìn
thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā. |
564. Trẻ thơ thường vẫn đón chào
Mẹ mình, chúng chạy lao xao từ nhà,
Khi ta về tự rừng già,
Ta không thấy chúng đón ta giờ này. |
6671. Chakaliṃva migiṃ chāpā paccuggantvāna assamaṃ,
dūre maṃ paṭivilokenti te na passāmi dārake.
|
6671. Tựa như bầy thú con đi ra đón dê mẹ,
nai mẹ, hai đứa trẻ từ khu ẩn cư đi ra đón ta, trông ngóng ta ở
đằng xa, Ta không nhìn thấy hai đứa trẻ ấy. |
|
Trang 448:
|
Trang 449:
|
6672. Idaṃ ca tesaṃ kīḷantaṃ patitaṃ
paṇḍubeluvaṃ,
tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6672. Đồ chơi này của chúng, trái
beluva màu vàng nhạt, đã bị
rơi lăn lóc. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli
và Kaṇhājinā. |
565. Chúng thường đùa giỡn nơi đây,
Vil-va vàng vẫn rụng đầy quanh ta,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Ta không thấy chúng đón ta giờ này. |
6673. Thanā ca mayhime pūrā uro ca
sampadālati,
tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6673. Hai bầu vú này của ta căng đầy sữa,
và lồng ngực của ta tan nát. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai
đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā. |
566. Vú ta căng sữa đã đầy,
Tim ta như muốn vỡ ngay bây giờ,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay không thấy đón ta ở nhà. |
6674. Ucchaṅge me vicinanti thanā
ekāvalambati,
tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6674. Chúng bám lấy hông của ta, một đứa
đeo một bầu vú. Hôm nay, ta không nhìn thấy cả hai đứa con ấy,
Jāli và Kaṇhājinā. |
567-568. Chúng thường bám chặt hông ta,
Mỗi con đeo một vú da tươi cười,
Chúng thường đi đón ta hoài,
Bụi dơ vào lúc nghỉ ngơi chiều tà,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Hôm nay ta chẳng thấy ra đón đường. |
6675. Yassu sāyanhasamayaṃ puttakā
paṃsukuṇṭhitā,
ucchaṅge me vivattanti te na passāmi dārake.
|
6675. Vào lúc chiều tối của ta đây, hai
đứa con nhỏ, bị lem luốc bụi bặm, quây quần ở bên hông của ta.
Ta không nhìn thấy hai đứa trẻ ấy. |
6676. Ayaṃ so assamo pubbe samajjo
paṭibhāti maṃ,
tyajja putte apassantyā bhamate viya assamo.
|
6676. Khu ẩn cư này đây, lúc trước, đối
với ta có vẻ như là hội chợ. Hôm nay, trong khi ta không nhìn
thấy hai đứa trẻ ấy, khu ẩn cư tựa như quay tròn. |
569. Trước đây là chốn thảo am
Là nơi gặp gỡ mẹ con sum vầy,
Nhưng giờ chẳng thấy con đây,
Chốn này như thể cứ xoay vòng tròn. |
6677. Kimidaṃ appasaddova assamo paṭibhāti
maṃ,
kākolāpi na vassanti matā me nūna dārakā.
|
6677. Có phải khu ẩn cư này đối với ta có
vẻ như là có quá ít tiếng động? Ngay cả các con quạ cũng không
kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết! |
570. Các con chắc đã mạng vong,
Chốn này sao quá lặng câm như vầy?
Quạ kia cũng chẳng kêu bầy
Chim kia im tiếng trên cây cả rồi! |
6678. Kimidaṃ appasaddova assamo paṭibhāti
maṃ,
sakuṇāpi na vassanti matā me nūna dārakā.
|
6678. Có phải khu ẩn cư này đối với ta có
vẻ như là có quá ít tiếng động? Ngay cả các con chim cũng không
kêu réo. Chắc chắn các đứa trẻ của ta đã chết! |
|
6679. Kimidaṃ tuṇhībhūtosi api ratteva me
mano,
kākolāpi na vassanti matā me nūna dārakā.
|
6679. Việc gì đây mà chàng im lặng? Thậm
chí giống như tâm thức của thiếp đã nhìn thấy trong giắc mơ tối
qua. Ngay cả các con quạ cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa
trẻ của ta đã chết! |
571. Sao chàng cứ lặng yên ngồi
Thế mà ác mộng tái hồi trong tâm:
Quạ, chim đều bặt thanh âm,
Các con chắc đã vong thân mất rồi! |
6680. Kimidaṃ tuṇhībhūtosi api ratteva me
mano,
sakuṇāpi na vassanti matā me nūna dārakā.
|
6680. Việc gì đây mà chàng im lặng? Thậm
chí giống như tâm thức của thiếp đã nhìn thấy trong giắc mơ tối
qua. Ngay cả các con chim cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa
trẻ của ta đã chết! |
|
6681. Kacci nu me ayyaputta migā khādiṃsu
dārake,
araññe irine vivane kena nītā me dārakā.
|
6681. Ôi tướng công của thiếp, phải chăng
các con thú đã ăn thịt hai đứa trẻ? Ai đó trong khu rừng cằn
cỗi, hoang vu đã dẫn đi hai đứa trẻ của thiếp? |
572. Con đều bị bắt, chàng ôi,
Bởi loài dã thú săn mồi nào chăng?
Hay vào sâu chốn rừng hoang,
Các con đã bị lạc đường nào hay? |
6682. Ādu te pahitā dūtā ādu suttā
piyaṃvadā,
ādu bahi no nikkhantā khiḍḍāsu pasutā nu te.
|
6682. Hay chúng đã được phái đi làm sứ
giả? Hay hai đứa trẻ ăn nói dễ thương đã ngủ? Hay chúng mải mê ở
các trò chơi rồi chạy ra bên ngoài? |
573. Trẻ bi bô vẫn ngủ say,
Hay là chạy việc đâu đây trên đường?
Hay là quanh quẩn lang thang
Chơi đùa thỏa thích không màng gần xa? |
6683. Nevāsaṃ kesā dissanti hatthapādā na
jālino,
sakuṇānaṃ va opāto kena nītā me dārakā.
|
6683. Mái tóc của chúng vẫn không nhìn
thấy, tay chân của Jāli cũng không. Có phải các con chim đã bắt
đi? Ai đó đã dẫn đi hai đứa trẻ của thiếp? |
574. Thiếp không thấy bóng trẻ nhà,
Tay chân mặt mũi cùng là tóc tai,
Hay là chim chụp mất người?
Kẻ nào mang chúng đi rồi phải chăng? |
6684. Idaṃ tato dukkhataraṃ sallaviddho
yathā vaṇe,
tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6684. Giống như vết thương bị đâm thủng
bởi mũi tên, việc này còn khổ đau hơn thế. Hôm nay, thiếp không
nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā. |
575. Giống như tên bắn bị thương,
Và còn đau xót muôn vàn hơn xa,
Nhưng Jà-li với Kan-hà,
Thiếp không thấy chúng ở nhà hôm nay. |
Trang 450:
|
Trang 451:
|
6685. Idampi dutiyaṃ sallaṃ kampeti hadayaṃ mama,
yañca putte na passāmi tvañca maṃ nābhibhāsasi.
|
6685. Việc này cũng là mũi tên thứ hai làm
rung động trái tim của thiếp. Việc thiếp không nhìn thấy hai con
và việc chàng không nói chuyện với thiếp. |
576. Ðây là thương tích thứ hai
Mà chàng đâm thiếp xuyên ngay vào lòng:
Thiếp không nhìn thấy các con
Nhưng chàng lại chẳng nói năng một lời. |
6686. Ajjeva me imaṃ rattiṃ rājaputta na saṃsasi,
maññe ukkantasattaṃ maṃ pāto dakkhasi no mataṃ.
|
6686. Thưa hoàng tử, nội ngày nay, trong
đêm này, nếu chàng không thông báo cho thiếp, thiếp nghĩ rằng
thiếp có mạng sống đã chấm dứt. Sáng sớm mai, chàng sẽ thấy
thiếp đã chết.” |
577. Vậy thì vương tử, chàng ôi!
Ðêm nay chàng chẳng đáp lời thiếp chăng?
Thiếp xem đời thiếp đã xong,
Rồi chàng sẽ thấy thiếp vong thân mà. |
6687. Nanu maddī varārohā rājaputtī yasassinī,
pāto gatāsi uñchāya kimidaṃ sāyamāgatā.
|
(Lời đức Bồ-tát Vessantara)
6687. “Này công chúa Maddī cao sang, có
danh vọng, phải chăng nàng đã ra đi lúc sáng sớm cho việc thu
nhặt củ quả, tại sao nàng lại trở về vào lúc chiều tối thế này?” |
578. Mad-dì, công chúa vương gia,
Vinh danh nàng quả thật là lớn thay,
Ði tìm thực phẩm sáng nay,
Cớ sao trở lại giờ đây muộn màng? |
6688. Nanu tvaṃ saddamassosi ye saraṃ pātumāgatā,
sīhassa vinadantassa byagghassa ca nikujjitaṃ.
|
(Lời công chúa Maddī)
6688. “Phải chăng chàng đã nghe âm thanh
của loài sư tử và cọp gầm rống khi chúng đi đến hồ nước để uống
nước và tiếng hót (của bầy chim)? |
579. Nghe chăng sư, hổ, hỡi chàng,
Chúng vừa gầm thét vọng vang nãy giờ,
Trong khi giải khát bên hồ,
Chúng vừa đứng đó trên bờ, biết chăng? |
6689. Ahu pubbanimittaṃ me vicarantyā brahāvane,
khaṇitto me hatthā patito uggīvañcāpi aṃsato.
|
6689. Đã có dấu hiệu báo trước cho thiếp
trong khi thiếp đang đi lang thang ở khu rừng rộng lớn: Cây xẻng
nhỏ của thiếp đã rời khỏi bàn tay rơi xuống, và thậm chí cái
quai giỏ bị trượt khỏi bờ vai. |
580. Thiếp đang rảo bước rừng hoang,
Bỗng nhiên dấu hiệu rõ ràng hiện ra:
Cuốc từ tay thiếp rơi xa,
Thúng kia từ cánh tay đà rớt luôn. |
6690. Tadāhaṃ byathitā bhītā puthuṃ katvāna añjaliṃ,
sabbā disā namassissaṃ api sotthi ito siyā.
|
6690. Khi ấy, thiếp đã bị ức chế, bị khiếp
sợ, thiếp đã lần lượt chắp tay lại lễ bái tất cả các phương,
mong sao có được sự bình yên từ việc này. |
581. Trong lòng hoảng sợ, đau thương,
Thiếp liền quỳ lạy tứ phương lần lần:
Mong sao mọi sự bình an,
Ðôi tay của thiếp thẳng dang nguyện cầu: |
6691. Mā heva no rājaputto hato sīhena dīpinā,
dārakā vā parāmaṭṭhā acchakokataracchihi.
|
6691. Vị thái tử của chúng tôi chớ bị giết
chết bởi loài sư tử hay loài báo. Hoặc hai đứa trẻ chớ bị tấn
công bởi các con gấu, chó sói, và chó rừng. |
582. Không loài sư tử, beo nào,
Sói lang, linh cẩu, gấu đâu tìm mồi
Cướp đi, xé xác con trai,
Hay là con gái của tôi, bây giờ. |
6692. Sīho vyaggho ca dīpi ca tayo vālā vane migā,
te maṃ pariyāvaruṃ maggaṃ tena sāyamhi āgatā.
|
6692. Sư tử, cọp, và beo là ba loài thú dữ
ở khu rừng. Chúng đã bao vây thiếp ở con đường; vì thế, thiếp đã
trở về vào lúc chiều tối. |
583. Con beo và cả hổ, sư,
Cả ba dã thú nằm chờ đằng xa,
Cản đường của thiếp về nhà,
Cho nên thiếp phải dần dà tới khuya. |
6693. Ahaṃ patiñca putte ca āceramiva māṇavo,
anuṭṭhitā divārattiṃ jaṭinī brahmacārinī.
|
6693. Thiếp là người nữ có tóc bện, có
thực hành Phạm hạnh, đã chăm sóc chồng và hai con ngày đêm, tựa
như chàng trai trẻ chăm sóc vị thầy dạy học. |
584. Phu quân và các con thơ,
Thiếp thường tận tụy chăm lo đêm ngày
Như trò săn sóc ông thầy,
Khi trò cố gắng không sai đạo trời. |
6694. Ajināni paridahitvā vanamūlaphalahāriyā,
vicarāmi divārattiṃ tumhaṃ kāmā hi puttakā.
|
6694. Sau khi khoác lên các tấm da dê, mẹ
đi lang thang ngày đêm, mang về rễ và trái cây rừng bởi vì lòng
thương mến các con, hỡi hai đứa con nhỏ. |
585. Tấm thân thiếp khoác da nai,
Quả rừng đem lại từ đồi núi xanh,
Suốt ngày dài với đêm thanh
Chỉ mong chàng được lợi hành tiện nghi. |
6695. Imaṃ suvaṇṇahāliddiṃ ābhataṃ paṇḍubeḷuvaṃ,
rukkhapakkāni cāhāsiṃ ime te puttā kīḷanā.
|
6695. Củ nghệ màu vàng này và trái
beḷuva màu vàng nhạt đã được
mang lại, và mẹ đã mang về các trái cây chín; này hai con nhỏ,
các thứ này là đồ chơi dành cho các con. |
586. Cho chàng và các ấu nhi
Vil-va vàng, quả đúng thì ngọt ngon,
Và nhiều trái chín rừng hoang
Ðể chơi cùng với các con vui nhà. |
6696. Imaṃ mūḷālavaṭakaṃ sālukaṃ piñjarodakaṃ,
bhuñja khuddehi saṃyuttaṃ saha puttehi khattiya.
|
6696. Thưa vị Sát- đế- lỵ, chàng hãy ăn củ
sen, ngó sen, ngó súng, và hạt dẻ nước này được trộn với các
loại mật ong cùng các con. |
587. Củ sen và đám ngó tơ
Có màu óng ánh vàng mơ nhẹ nhàng,
Hãy chơi cùng các con chàng
Và này vương tử, ăn phần chàng đi. |
6697. Padumaṃ jālino dehi kumudaṃ pana kumāriyā,
māline passa naccante sivi puttāni avhaya.
|
6697. Chàng hãy cho Jāli đóa sen hồng, rồi
cho con gái bông súng trắng. Chàng hãy nhìn các con có đeo tràng
hoa đang nhảy múa. Thưa ngài Sivi, xin chàng hãy gọi các con.
|
588. Cho con gái súng trắng kia,
Sen xanh để tặng Jà-li của chàng,
Rồi xem chúng múa ca vang,
Vòng hoa tô điểm, xin chàng gọi ngay! |
6698. Tato kaṇhājināyāpi nisāmehi rathesabha,
mañjussarāya vagguyā assamaṃ upayantiyā.
|
6698. Sau đó, thưa đấng thủ lãnh xa binh,
xin chàng hãy lắng nghe giọng nói du dương, dễ thương của
Kaṇhājinā khi con đang đi đến gần nơi ẩn cư. |
589. Ðại vương ơi, hỡi lắng tai,
Âm thanh thích thú tuyệt vời biết bao,
Kan-hà hát thật ngọt ngào,
Và con đang bước chân vào lều ta. |
Trang 452:
|
Trang 453:
|
6699. Samānasukhadukkhamhā raṭṭhā
pabbajitā ubho,
api siviputte passesi jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6699. Đã bị trục xuất khỏi đất nước, cả
hai chúng ta sướng khổ cùng nhau. Chàng cũng hãy cho thiếp nhìn
thấy những người con của Sivi, cả hai Jāli và Kaṇhājinā. |
590. Từ khi bị đuổi đày xa,
Buồn vui chàng thiếp chung hòa với nhau.
Ôi, chàng hãy trả lời mau,
Kan-hà, Jà-li, thấy đâu hỡi chàng? |
6700. Samaṇe brāhmaṇe nūna
brahmacariyaparāyane,
ahaṃ loke abhisapiṃ sīlavante bahussute,
tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6700. Phải chăng thiếp đã nguyền rủa các
vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn chuyên chú hành Phạm hạnh, có giới
hạnh, có kiến thức rộng ở thế gian, nên hôm nay, thiếp không
nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā? |
591-592. Hẳn bao nhiêu vị đạo nhân
Thiếp đà xúc phạm lỗi lầm nặng sao,
Các ngài đức hạnh thanh cao
Trí đầy kiến thức nhiệm mầu sâu xa,
Nên Jà-li với Kan-hà
Thiếp không còn thấy ở nhà hôm nay! |
6701. Ime te jambukā rukkhā vedisā
sindhuvārikā,
vividhāni rukkhajātāni te kumārā na dissare.
|
6701. Những cây táo hồng, những cây
vedisa, những cây
sindhuvārika này thuộc về
chàng, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy những giống cây đa
dạng ấy. |
593. Khóm cây đào đỏ thắm này
La đà vẫn mọc bủa vây quanh hồ,
Muôn loài cây quả rừng già,
Nhưng không còn thấy con ta bây giờ. |
6702. Assatthā panasā ceme nigrodhā ca
kapitthanā,
vividhāni phalajātāni te kumārā na dissare.
|
6702. Những cây sung, những cây mít, những
cây đa, những cây táo rừng này, giờ hai đứa trẻ không được nhìn
thấy những loại trái cây đa dạng ấy. |
594. Cây sung, cây mít, đa to,
Mọi loài cây khác chen đua mọc dần,
Ồ, bao cây quả trong rừng,
Nhưng bầy con trẻ lại không thấy giờ. |
6703. Ime tiṭṭhanti ārāmā ayaṃ sītodikā
nadī,
yatthassu pubbe kīḷiṃsu te kumārā na dissare.
|
6703. Những khu vườn này tồn tại, dòng
sông có nước mát này, là những nơi hai con đã đùa giỡn trước
đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng. |
595. Ðứng kia như một vườn hoa,
Và kìa suối mát trôi qua lặng lờ,
Nơi xưa chúng vẫn chơi đùa,
Nhưng nay không có trẻ thơ nữa rồi. |
6704. Vividhāni pupphajātāni asmiṃ
uparipabbate,
yānassu pubbe dhāriṃsu te kumārā na dissare.
|
6704. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên
trên ngọn núi này, những trái cây hai con đã mang đi trước đây,
giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng. |
|
6705. Vividhāni phalajātāni asmiṃ
uparipabbate,
yānassu pubbe bhuñjiṃsu te kumārā na dissare.
|
6705. Những thứ trái cây nhiều loại ở bên
trên ngọn núi này, những trái cây hai con đã ăn trước đây, giờ
hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng. |
596. Trái cây xưa chúng ăn hoài,
Bông hoa chúng vẫn thường cài tóc tai,
Mọc đằng xa ở trên đồi,
Con thơ vắng bóng ở nơi đó kìa. |
6706. Ime te hatthikā assā balivaddā ca te
ime,
yehissu pubbe kīḷiṃsu te kumārā na dissare.
|
6706. Những con voi, những con ngựa (đồ
chơi) này của các con, và những con trâu (đồ chơi) này của hai
con, hai con đã đùa giỡn với chúng trước đây, giờ hai đứa trẻ
không được nhìn thấy chúng. |
597. Các đồ chơi bé tí ti,
Chúng thường đùa giỡn là kia cả rồi:
Bầy bò, bầy ngựa, bầy voi,
Con thơ không thấy ở nơi chốn nào. |
6707. Ime sāmā sasolūkā bahukā kadalimigā,
yehissu pubbe kīḷiṃsu te kumārā na dissare.
|
6707. Những con nai vàng, thỏ, cú mèo này,
và nhiều con nai kadali, hai
con đã đùa giỡn với chúng trước đây, giờ hai đứa trẻ không được
nhìn thấy chúng. |
598. Ðây nhiều thỏ đế, cú mèo,
Nai đen cùng với hươu sao cả bầy,
Các con đùa giỡn thường ngày,
Nhưng không còn thấy chúng đây nữa rồi. |
6708. Ime haṃsā ca koñcā ca mayūrā
citrapekhunā,
yehissu pubbe kīḷiṃsu te kumārā na dissare.
|
6708. Các con chim thiên nga, các con cò
này, và các con công có chùm lông đuôi nhiều màu sắc, hai con đã
đùa giỡn với chúng trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn
thấy chúng. |
599. Bầy công xòe cánh đẹp tươi,
Kìa bầy cò diệc, ngỗng trời thiên nga,
Các con thường vẫn chơi đùa,
Nhưng không thấy bóng trẻ thơ đây mà! |
6709. Imā tā vanagumbāyo pupphitā
sabbakālikā,
yatthassu pubbe kīḷiṃsu te kumārā na dissare.
|
6709. Những khóm cây rừng này đây được trổ
hoa vào mọi thời điểm, là những nơi hai con đã đùa giỡn trước
đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng. |
600. Này đây các khóm rừng già
Với muôn hoa lá nở ra theo mùa,
Nơi con thơ vẫn chơi đùa,
Nhưng không còn chúng bây giờ ở đây. |
6710. Imā tā pokkharaṇiyo rammā
cakkavākūpakūjitā,
maddālakehi sañchannā padumuppalakehi ca,
yatthassu pubbe kīḷiṃsu te kumārā na dissare.
|
6710. Những hồ nước này đây đáng yêu, với
những con hồng hạc kêu ríu rít, được che phủ bởi những loài thủy
thảo và những hoa sen hồng sen xanh, là những nơi hai con đã đùa
giỡn trước đây, giờ hai đứa trẻ không được nhìn thấy chúng. |
601-602. Các hồ khả ái lắng tai
Khi đàn ngỗng đỏ gọi dài âm thanh.
Biết bao sen trắng sen xanh,
Và nhiều cây mọc như cành san hô,
Nơi con thơ vẫn chơi đùa,
Nhưng không còn chúng bây giờ ở đây. |
6711. Na te kaṭṭhāni bhinnāni na te
udakamābhataṃ,
aggipi te na hāpito kinnu mandova jhāyasī.
|
6711. Các thanh củi không được chàng chẻ
nhỏ, nước không được chàng mang lại, thậm chí ngọn lửa cũng
không được chàng chăm sóc, chàng trầm tư điều gì tựa như kẻ ngu
khờ? |
603. Củi chàng không bổ ban ngày,
Lửa chàng không đốt tối nay trong nhà,
Nước không xách đến như xưa,
Sao chàng ngồi đó thẫn thờ thong dong? |
Trang 454:
|
Trang 455:
|
6712. Piyo piyena saṅgamma samo me
vyapahaññati,
tyajja putte na passāmi jāliṃ kaṇhājinañcubho.
|
6712. Người thương sau khi gặp gỡ với
người thương, sự mệt nhọc của thiếp được tan biến. Hôm nay,
thiếp không nhìn thấy cả hai đứa con ấy, Jāli và Kaṇhājinā. |
604. Khi công việc mới vừa xong,
Thiếp liền vội vã ước mong về nhà,
Nhưng Jà-li với Kan-hà
Thiếp không thấy chúng nô đùa hôm nay. |
6713. Na kho no deva passāmi yena te
nihatā matā,
kākolāpi na vassanti hatā me nūna dārakā.
|
6713. Ôi bệ hạ, thiếp quả thật không nhìn
thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết
rồi. Ngay cả các con quạ cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa
trẻ của thiếp đã bị hãm hại! |
605. Hỡi phu quân, thiếp chẳng hay
Vì ai tạo cái chết này cho con,
Chính bầy quạ chẳng kêu vang,
Chính bầy chim cũng lặng câm bây giờ. |
6714. Na kho no deva passāmi yena te
nihatā matā,
sakuṇāpi na vassanti matā me nūna dārakā.
|
6714. Ôi bệ hạ, thiếp quả thật không nhìn
thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết
rồi. Ngay cả các con chim cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa
trẻ của ta đã chết!” |
|
6715. Sā tattha paridevitvā pabbatāni
vanāni ca,
punadevassamaṃ gantvā sāmikassanti rodati.
|
6715. Sau khi than khóc tại chỗ đó, nàng
ấy đã đi đến các ngọn núi và các khu rừng, rồi khu ẩn cư thêm
một lần nữa và khóc lóc bên cạnh chồng rằng: |
606. Khi nàng vội vã băng qua
Ði tìm khắp chốn rừng già, núi non,
Trở về bên cạnh phu quân,
Nàng liền đứng lại khóc than từng hồi: |
6716. Na kho no deva passāmi yena te
nihatā matā,
kākolāpi na vassanti hatā me nūna dārakā.
|
6716. “Ôi bệ hạ, thiếp quả thật không nhìn
thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết
rồi. Ngay cả các con quạ cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa
trẻ của thiếp đã bị hãm hại! |
|
6717. Na kho no deva passāmi yena te
nihatā matā,
sakuṇāpi na vassanti matā me nūna dārakā.
|
6717. Ôi bệ hạ, thiếp quả thật không nhìn
thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm hại, đã chết
rồi. Ngay cả các con chim cũng không kêu réo. Chắc chắn các đứa
trẻ của ta đã chết! |
607. - Hang sâu, rừng thẳm, lưng đồi,
Thiếp không thể thấy bóng người giết con,
Chính bầy quạ chẳng kêu vang,
Chính bầy chim cũng lặng câm cả rồi. |
6718. Na kho no deva passāmi yena te
nihatā matā,
vicarantī rukkhamūlesu pabbatesu guhāsu ca.
|
6718. Ôi bệ hạ, trong khi đi lang thang ở
các gốc cây, ở các ngọn núi, và ở các hang động, thiếp quả thật
không nhìn thấy các con của chúng ta, bởi vì chúng đã bị hãm
hại, đã chết rồi.” |
|
6719. Iti maddī varārohā rājaputtī
yassasinī,
bāhā paggayha kanditvā tattheva patitā chamā.
|
6719. Nàng công chúa Maddī cao sang, có
danh vọng, đã đưa hai cánh tay lên kêu khóc như thế, rồi đã ngã
xuống ở trên mặt đất, ngay tại chỗ ấy. |
608. Mad-dì, vương hậu cao ngôi,
Công nương quý tộc buông lời khóc than,
Với đôi tay ấy vừa dang,
Nàng liền ngã xuống đất bằng mê man. |
6720. Tamajjhapattaṃ rājaputtiṃ udakena
abhisiñcatha,
assatthaṃ taṃ viditvāna atha naṃ etadabravi.
|
6720. Khi nàng công chúa bị ngã xuống, vị
Vessantara đã rảy nước cho nàng ấy. Sau khi biết được nàng ấy đã
được tỉnh táo, vị Vessantara đã nói với nàng ấy điều này: |
609. Ngài liền rảy nước cho nàng
Trong khi nàng ngã mê man lịm dần;
Vừa khi nàng mới tỉnh hồn,
Ngài liền cất tiếng khuyên lơn vỗ về. |
6721. Ādiyeneva te maddi dukkhaṃ na
kātumicchisaṃ,
daḷiddo yācako vuddho brāhmaṇo gharamāgato,
tassa dinnā mayā puttā maddi mā bhāyi assasa.
|
6721. “Này Maddī, ngay từ ban đầu, ta đã
không muốn tạo ra sự khổ đau cho nàng. Có lão hành khất
Bà-la-môn nghèo khó, già cả, đã đi đến nhà. Hai con đã được ta
ban cho lão ấy. Này Maddī, nàng chớ lo sợ. Hãy bình tĩnh. |
610-611. Ta không thể nói tức thì
Vì ta không muốn hiền phi đau buồn.
Một người già yếu, đạo nhân,
Ðến đây xin được cầu ân đó mà,
Ta đem bố thí con thơ,
Mad-dì đừng sợ, thở vô ra liền! |
6722. Maṃ passa maddi mā putte bāḷhaṃ
paridevasi,
lacchāma putte jīvantā arogā ca bhavāmase.
|
6722. Này Maddī, nàng hãy nhìn ta. Nàng
chớ than khóc cho các con quá nhiều. Chúng ta sẽ nhận lại các
con. Chúng ta sẽ sống và khỏe mạnh. |
612. Xin nàng đừng quá ưu phiền,
Xin nàng ngước mắt nhìn lên ta này.
Ta đem con trẻ về ngay,
Rồi ta hạnh phúc sum vầy biết bao. |
6723. Putte pasuñca dhaññañca yañca aññaṃ
ghare dhanaṃ,
dajjā sappuriso dānaṃ disvā yācakamāgate,
anumodāhi me maddi puttake dānamuttamaṃ.
|
6723. Sau khi nhìn thấy người hành khất đi
đến, bậc thiện nhân có thế bố thí vật thí là các đứa con, gia
súc, thóc lúa, và tài sản khác ở trong nhà. Này Maddī, nàng hãy
tùy hỷ với ta về vật bố thí tối thượng là hai đứa con nhỏ.”
|
613. Thiện nhân được hỏi liền giao
Các con, thóc lúa, bò trâu, bạc vàng;
Mad-dì, xin hãy hân hoan
Không gì hơn lễ cúng dường các con. |
Trang 456:
|
Trang 457:
|
6724. Anumodāmi te deva puttake
dānamuttamaṃ,
datvā cittaṃ pasādehi bhīyo dānadado bhava.
|
6724. “Thưa bệ hạ, thiếp tùy hỷ với chàng
về vật bố thí tối thượng là hai đứa con nhỏ. Sau khi bố thí,
chàng hãy khiến cho tâm được tịnh tín và hãy là người ban bố vật
thí nhiều hơn nữa. |
614. Thiếp nay quả thật hân hoan
Không gì hơn lễ cúng dường các con,
Nhờ đây tâm trí bình an,
Xin chàng cứ mãi phát ban cúng dường. |
6725. Yo tvaṃ maccherabhūtesu manussesu
janādhipa,
brāhmaṇassa adā dānaṃ sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano.
|
6725. Thưa quân vương, giữa những người có
trạng thái bỏn xẻn, chàng đây đã ban vật thí đến vị Bà-la-môn,
chàng là bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi. |
615. Vì chàng là vị Ðại vương
Của Si-vi, cả giang sơn oai hùng,
Giữa đời ích kỷ nhân quần,
Riêng chàng bố thí phát phân rộng lòng. |
6726. Ninnāditā te paṭhavī saddo te
tidivaṃ gato,
samantā vijjutā āguṃ girīnaṃva paṭissutā.
|
6726. Vì chàng trái đất đã gầm rú, vì
chàng tiếng động đã đi đến Thiên cung, các tia chớp đã phát ra ở
khắp nơi, tựa như các ngọn núi đã có sự đồng ý. |
616. Ðất bằng đã phải chuyển rung
Âm thanh tràn ngập mọi tầng trời cao.
Chớp loè sáng chói biết bao,
Sấm rền vang vọng đồi cao bấy giờ. |
6727. Tassa te anumodanti ubho
nāradapabbatā
indo ca brahmā ca pajāpatī ca
somo yamo vessavaṇo ca rājā
sabbe devā anumodanti tāvatiṃsā saindakā.
|
6727. Hai hội chúng chư Thiên Nārada và
Pabbata tùy hỷ đối với chàng đây. Thiên Chủ Inda và đấng Brahmā,
vị chúa của loài người, các vị Thiên Vương Soma, Yama, và
Vessavaṇa, tất cả chư Thiên ở cõi Trời Đạo Lợi với Thiên Chủ
Inda đều tùy hỷ.” |
617. Nà-ra-da với Pab-ba,
Cả hai hiền sĩ cùng hòa niềm vui,
Mọi Thiên thần cõi Ba mươi,
Ind-ra Thiên chủ cùng ngài Phạm thiên,
618. Vua So-ma ở cõi tiên
Cùng ngài Diêm chúa ở miền Dạ-ma,
Thiên vương Ves-sa-va-na
Khi nghe tiếng vọng, đồng hòa niềm vui. |
6728. Iti maddī varārohā rājaputtī
yassasinī,
vessantarassa anumodi puttake dānamuttamaṃ.
|
6728. Nàng công chúa Maddī cao sang, có
danh vọng đã tùy hỷ vật bố thí tối thượng là hai đứa con nhỏ của
vị Vessantara như thế. |
619. Mad-dì, công chúa cao ngôi
Vương phi quí tộc dần vơi nỗi buồn,
Cùng ngài tràn ngập hân hoan:
Không gì hơn lễ cúng dường các con.
Câu chuyện
547 |
Maddipabbaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Đoạn Về Nàng Maddī
được hoàn tất. |
Đến đây chấm dứt Chuyện Maddì |
<Trang trước> |
<Trang Kế> |