|
TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 38
PAṬISAMBHIDĀMAGGO & PHÂN TÍCH ĐẠO Tập Hai Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda (Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader) |
|||
|
TẠNG KINH - TIỂU BỘPHÂN TÍCH ĐẠOTập Hai
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!
B. PHẨM KẾT HỢP CHUNG
I. GIẢNG VỀ SỰ KẾT HỢP CHUNGTôi đă được nghe như vầy: Một thời, đại đức Ānanda ngụ tại Kosambī, tu viện Ghosita. Chính ở tại nơi ấy, đại đức Ānanda đă bảo các vị tỳ khưu rằng: “Này các đại đức tỳ khưu.” “Thưa đại đức.” Các vị tỳ khưu ấy đă đáp lại đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda đă nói điều này: - Này các đại đức, bất cứ vị tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni nào tuyên bố về phẩm vị A-la-hán ở sự hiện diện của tôi, tất cả đều do bốn đạo lộ hoặc do một đạo lộ nào đó của bốn đạo lộ này. Do bốn (đạo lộ) ǵ? Này các đại đức, ở đây vị tỳ khưu tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước. Trong khi vị ấy tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước, đạo lộ được h́nh thành (cho vị ấy). Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung măn đạo lộ ấy. Trong khi vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung măn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy). Này các đại đức, c̣n có điều khác nữa là vị tỳ khưu tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước. Trong khi vị ấy tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước, đạo lộ được h́nh thành (cho vị ấy). Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung măn đạo lộ ấy. Trong khi vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung măn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy). Này các đại đức, c̣n có điều khác nữa là vị tỳ khưu tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung. Trong khi vị ấy tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung, đạo lộ được h́nh thành (cho vị ấy). Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung măn đạo lộ ấy. Trong khi vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung măn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy). Này các đại đức, c̣n có điều khác nữa là (trường hợp) tâm của vị tỳ khưu bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp. Này các đại đức, lúc tâm ấy trụ lại, tập trung lại, được chuyên nhất, được định ở chính nội phần, lúc ấy là thời điểm; đạo lộ được h́nh thành cho vị ấy. Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung măn đạo lộ ấy. Trong khi vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung măn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy). Này các đại đức, bất cứ vị tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni nào tuyên bố về phẩm vị A-la-hán ở sự hiện diện của tôi, tất cả đều do bốn đạo lộ này hoặc do một đạo lộ nào đó của bốn đạo lộ này. Tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước là (có ư nghĩa) thế nào? Do tác động của sự thoát ly, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định. Về các pháp đă được sanh lên trong trường hợp ấy, theo ư nghĩa của sự quán xét là vô thường là minh sát, theo ư nghĩa của sự quán xét là khổ năo là minh sát, theo ư nghĩa của sự quán xét là vô ngă là minh sát. Như thế là chỉ tịnh trước, minh sát sau. V́ thế được nói rằng: “Tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước.” Tu tập: Có bốn sự tu tập: là sự tu tập theo ư nghĩa không vượt trội đối với các pháp đă được sanh lên trong trường hợp ấy, là sự tu tập theo ư nghĩa nhất vị đối với các quyền, là sự tu tập theo ư nghĩa khởi động tinh tấn (thích hợp) nhằm đạt đến giải thoát Niết Bàn, là sự tu tập theo ư nghĩa rèn luyện. Đạo lộ được h́nh thành: Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) thế nào? Chánh kiến theo ư nghĩa nhận thức là đạo lộ được h́nh thành, chánh tư duy theo ư nghĩa gắn chặt (tâm vào cảnh) là đạo lộ được h́nh thành, chánh ngữ theo ư nghĩa ǵn giữ là đạo lộ được h́nh thành, chánh nghiệp theo ư nghĩa nguồn sanh khởi là đạo lộ được h́nh thành, chánh mạng theo ư nghĩa trong sạch là đạo lộ được h́nh thành, chánh tinh tấn theo ư nghĩa ra sức là đạo lộ được h́nh thành, chánh niệm theo ư nghĩa thiết lập là đạo lộ được h́nh thành, chánh định theo ư nghĩa không tản mạn là đạo lộ được h́nh thành. Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) như thế. ‘Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung măn đạo lộ ấy.’ Rèn luyện: Rèn luyện là (có ư nghĩa) thế nào? Trong khi hướng tâm vị ấy rèn luyện, trong khi nhận biết vị ấy rèn luyện, trong khi nhận thấy vị ấy rèn luyện, trong khi quán xét lại vị ấy rèn luyện, trong khi khẳng định tâm vị ấy rèn luyện, trong khi hướng đến đức tin vị ấy rèn luyện, trong khi ra sức tinh tấn vị ấy rèn luyện, trong khi thiết lập niệm vị ấy rèn luyện, trong khi tập trung tâm vị ấy rèn luyện, trong khi nhận biết bởi tuệ vị ấy rèn luyện, trong khi biết rơ điều cần được biết rơ vị ấy rèn luyện, trong khi biết toàn diện điều cần được biết toàn diện vị ấy rèn luyện, trong khi dứt bỏ điều cần được dứt bỏ vị ấy rèn luyện, trong khi tác chứng điều cần được tác chứng vị ấy rèn luyện. Rèn luyện là (có ư nghĩa) như thế. Tu tập: Tu tập là (có ư nghĩa) thế nào? Trong khi hướng tâm vị ấy tu tập, trong khi nhận biết vị ấy tu tập, trong khi nhận thấy vị ấy tu tập, trong khi quán xét lại vị ấy tu tập, trong khi khẳng định tâm vị ấy tu tập, trong khi hướng đến đức tin vị ấy tu tập, trong khi ra sức tinh tấn vị ấy tu tập, trong khi thiết lập niệm vị ấy tu tập, trong khi tập trung tâm vị ấy tu tập, trong khi nhận biết bởi tuệ vị ấy tu tập, trong khi biết rơ điều cần được biết rơ vị ấy tu tập, trong khi biết toàn diện điều cần được biết toàn diện vị ấy tu tập, trong khi dứt bỏ điều cần được dứt bỏ vị ấy tu tập, trong khi tu tập điều cần được tu tập vị ấy tu tập, trong khi tác chứng điều cần được tác chứng vị ấy tu tập. Tu tập là (có ư nghĩa) như thế. Làm cho sung măn: Làm cho sung măn là (có ư nghĩa) thế nào? Trong khi hướng tâm vị ấy làm cho sung măn, trong khi nhận biết vị ấy làm cho sung măn, trong khi nhận thấy vị ấy làm cho sung măn, trong khi quán xét lại vị ấy làm cho sung măn, trong khi khẳng định tâm vị ấy làm cho sung măn, trong khi hướng đến đức tin vị ấy làm cho sung măn, trong khi ra sức tinh tấn vị ấy làm cho sung măn, trong khi thiết lập niệm vị ấy làm cho sung măn, trong khi tập trung tâm vị ấy làm cho sung măn, trong khi nhận biết bởi tuệ vị ấy làm cho sung măn, trong khi biết rơ điều cần được biết rơ vị ấy làm cho sung măn, trong khi biết toàn diện điều cần được biết toàn diện vị ấy làm cho sung măn, trong khi dứt bỏ điều cần được dứt bỏ vị ấy làm cho sung măn, trong khi tu tập điều cần được tu tập vị ấy làm cho sung măn, trong khi tác chứng điều cần được tác chứng vị ấy làm cho sung măn. Làm cho sung măn là (có ư nghĩa) như thế. Trong khi vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung măn đạo lộ ấy, các ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy). Các ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) thế nào? Do Đạo Nhập Lưu, ba sự ràng buộc này được dứt bỏ là thân kiến, hoài nghi, sự cố chấp vào giới và nghi thức, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là kiến ngủ ngầm, hoài nghi ngủ ngầm. Do Đạo Nhất Lai, hai sự ràng buộc này được dứt bỏ là ràng buộc của ái dục và ràng buộc của bất b́nh có tính chất thô thiển, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là ái dục ngủ ngầm và bất b́nh ngủ ngầm có tính chất thô thiển. Do Đạo Bất Lai, hai sự ràng buộc này được dứt bỏ là ràng buộc của ái dục và ràng buộc của bất b́nh có tính chất vi tế, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là ái dục ngủ ngầm và bất b́nh ngủ ngầm có tính chất vi tế. Do Đạo A-la-hán, năm sự ràng buộc này được dứt bỏ là ái sắc, ái vô sắc, ngă mạn, phóng dật, vô minh, ba ngủ ngầm này được chấm dứt là ngă mạn ngủ ngầm, ái hữu ngủ ngầm, vô minh ngủ ngầm. Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) như thế. Do tác động của sự không sân độc, trạng thái chuyên nhất không tản mạn của tâm là định ...(như trên)... Do tác động của sự nghĩ tưởng về ánh sáng, trạng thái chuyên nhất không tản mạn của tâm là định ...(như trên)... Có sự quán xét về từ bỏ do tác động của hơi thở vào, có sự quán xét về từ bỏ do tác động của hơi thở ra, trạng thái chuyên nhất không tản mạn của tâm là định. Về các pháp đă được sanh lên trong trường hợp ấy, theo ư nghĩa của sự quán xét là vô thường là minh sát, theo ư nghĩa của sự quán xét là khổ năo là minh sát, theo ư nghĩa của sự quán xét là vô ngă là minh sát. Như thế là chỉ tịnh trước, minh sát sau. V́ thế được nói rằng: “Tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước.” Tu tập: Có bốn sự tu tập: là sự tu tập theo ư nghĩa không vượt trội đối với các pháp đă được sanh lên trong trường hợp ấy, là sự tu tập theo ư nghĩa nhất vị đối với các quyền, là sự tu tập theo ư nghĩa khởi động tinh tấn (thích hợp) nhằm đạt đến giải thoát Niết Bàn, là sự tu tập theo ư nghĩa rèn luyện. Đạo lộ được h́nh thành: Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) thế nào? Chánh kiến theo ư nghĩa nhận thức là đạo lộ được h́nh thành, chánh tư duy theo ư nghĩa gắn chặt (tâm vào cảnh) là đạo lộ được h́nh thành, ...(như trên)... chánh định theo ư nghĩa không tản mạn là đạo lộ được h́nh thành. Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) như thế. ‘Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung măn đạo lộ ấy.’ Rèn luyện: Rèn luyện là (có ư nghĩa) thế nào? Trong khi hướng tâm vị ấy rèn luyện, trong khi nhận biết ...(nt)... trong khi tác chứng điều cần được tác chứng vị ấy rèn luyện. Rèn luyện là (có ư nghĩa) như thế. Tu tập: Tu tập là (có ư nghĩa) thế nào? Trong khi hướng tâm vị ấy tu tập, trong khi nhận biết vị ấy tu tập ...(như trên)... trong khi tác chứng điều cần được tác chứng vị ấy tu tập. Tu tập là (có ư nghĩa) như thế. Làm cho sung măn: Làm cho sung măn là (có ư nghĩa) thế nào? Trong khi hướng tâm vị ấy làm cho sung măn, trong khi nhận biết ...(như trên)... trong khi tác chứng điều cần được tác chứng vị ấy làm cho sung măn. Làm cho sung măn là (có ư nghĩa) như thế. Trong khi vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung măn đạo lộ ấy, các ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy): Các ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) thế nào? Do Đạo Nhập Lưu, ba sự ràng buộc này được dứt bỏ là thân kiến, hoài nghi, sự cố chấp vào giới và nghi thức, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là kiến ngủ ngầm, hoài nghi ngủ ngầm. Do Đạo Nhất Lai, hai sự ràng buộc này được dứt bỏ là ràng buộc của ái dục và ràng buộc của bất b́nh có tính chất thô thiển, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là ái dục ngủ ngầm và bất b́nh ngủ ngầm có tính chất thô thiển. Do Đạo Bất Lai, hai sự ràng buộc này được dứt bỏ là ràng buộc của ái dục và ràng buộc của bất b́nh có tính chất vi tế, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là ái dục ngủ ngầm và bất b́nh ngủ ngầm có tính chất vi tế. Do Đạo A-la-hán, năm sự ràng buộc này được dứt bỏ là ái sắc, ái vô sắc, ngă mạn, phóng dật, vô minh, ba ngủ ngầm này được chấm dứt là ngă mạn ngủ ngầm, ái hữu ngủ ngầm, vô minh ngủ ngầm. Các ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) như thế. Tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước là (có ư nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước là (có ư nghĩa) thế nào? Với ư nghĩa của sự quán xét là vô thường là minh sát, với ư nghĩa của sự quán xét là khổ năo là minh sát, với ư nghĩa của sự quán xét là vô ngă là minh sát. Do xả ly là đối tượng của các pháp đă được sanh lên trong trường hợp ấy, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định. Như thế là minh sát trước, chỉ tịnh sau. V́ thế được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước.” Tu tập: Có bốn sự tu tập: ...(như trên)... là sự tu tập theo ư nghĩa rèn luyện. Đạo lộ được h́nh thành: Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) như thế. ...(như trên)... Các ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) như thế. Với ư nghĩa của sự quán xét sắc là vô thường là minh sát, với ư nghĩa của sự quán xét sắc là khổ năo là minh sát, với ư nghĩa của sự quán xét sắc là vô ngă là minh sát. Do xả ly là đối tượng của các pháp đă được sanh lên trong trường hợp ấy, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định. Như thế là minh sát trước, chỉ tịnh sau. V́ thế được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước.” Tu tập: Có bốn sự tu tập: ...(như trên)... là sự tu tập theo ư nghĩa rèn luyện. Đạo lộ được h́nh thành: Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) như thế. ...(như trên)... Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) như thế. Với ư nghĩa của sự quán xét thọ ... tưởng ... các hành ... thức ... mắt ... lăo tử là vô thường là minh sát ...(nt)... lăo tử là khổ năo ...(nt)... lăo tử là vô ngă là minh sát. Do xả ly là đối tượng của các pháp đă được sanh lên trong trường hợp ấy, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định. Như thế là minh sát trước, chỉ tịnh sau. V́ thế được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước.” Tu tập: Có bốn sự tu tập: ...(như trên)... là sự tu tập theo ư nghĩa rèn luyện. Đạo lộ được h́nh thành: Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) như thế. ...(như trên)... Các ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước là (có ư nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung là (có ư nghĩa) thế nào? Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo 16 biểu hiện: theo ư nghĩa đối tượng, theo ư nghĩa hành xứ, theo ư nghĩa dứt bỏ, theo ư nghĩa buông bỏ, theo ư nghĩa thoát ra, theo ư nghĩa ly khai, theo ư nghĩa an tịnh, theo ư nghĩa cao quư, theo ư nghĩa được giải thoát, theo ư nghĩa vô lậu, theo ư nghĩa vượt qua, theo ư nghĩa vô tướng, theo ư nghĩa vô nguyện, theo ư nghĩa không tánh, theo ư nghĩa nhất vị, theo ư nghĩa không vượt trội, theo ư nghĩa kết hợp chung. Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa đối tượng là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là đối tượng. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ư nghĩa quán xét có sự diệt tận là đối tượng. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa đối tượng là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa của cảnh (đối tượng).” Tu tập: Có bốn sự tu tập: ...(như trên)... là sự tu tập theo ư nghĩa rèn luyện. Đạo lộ được h́nh thành: Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) như thế. ...(như trên)... Các ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa của cảnh (đối tượng) là (có ư nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa hành xứ là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ư nghĩa quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa hành xứ là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa hành xứ.” Tu tập: ...(như trên)... Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa dứt bỏ là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang dứt bỏ các phiền năo đi cùng với phóng dật và (đang dứt bỏ) các uẩn, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ các phiền năo đi cùng với vô minh và (đang dứt bỏ) các uẩn, minh sát theo ư nghĩa quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa dứt bỏ là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa dứt bỏ.” ...(như trên)... Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa buông bỏ là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang buông bỏ các phiền năo đi cùng với phóng dật và (buông bỏ) các uẩn, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang buông bỏ các phiền năo đi cùng với vô minh và (buông bỏ) các uẩn, minh sát theo ư nghĩa quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa buông bỏ là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa buông bỏ.” ...(như trên)... Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa thoát ra là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang thoát ra khỏi các phiền năo đi cùng với phóng dật và (thoát ra khỏi) các uẩn, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang thoát ra khỏi các phiền năo đi cùng với vô minh và (thoát ra khỏi) các uẩn, minh sát theo ư nghĩa quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa thoát ra là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa thoát ra.” ...(như trên)... Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa ly khai là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang ly khai các phiền năo đi cùng với phóng dật và (ly khai) các uẩn, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang ly khai các phiền năo đi cùng với vô minh và (ly khai) các uẩn, minh sát theo ư nghĩa quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa ly khai là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa ly khai.” ...(như trên)... Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa an tịnh là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, là an tịnh, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ư nghĩa quán xét là an tịnh có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa an tịnh là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa an tịnh.” ...(như trên)... Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa cao quư là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, là cao quư, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ư nghĩa quán xét là cao quư có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa cao quư là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa cao quư.” ...(như trên)... Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa được giải thoát là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, là được giải thoát khỏi dục lậu, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ư nghĩa quán xét là được giải thoát khỏi các vô minh lậu, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, sự ly tham ái khỏi các tham ái là sự giải thoát của tâm, sự ly tham ái khỏi vô minh là sự giải thoát của tuệ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa được giải thoát là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa được giải thoát.” ...(như trên)... Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa vô lậu là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, là vô lậu đối với dục lậu, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ư nghĩa quán xét là vô lậu đối với vô minh lậu, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa vô lậu là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa vô lậu.” ...(như trên)... Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa vượt qua là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang vượt qua các phiền năo đi cùng với phóng dật và (vượt qua) các uẩn, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang vượt qua các phiền năo đi cùng với vô minh và (vượt qua) các uẩn, minh sát theo ư nghĩa quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa vượt qua là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa vượt qua.” ...(như trên)... Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa vô tướng là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, là vô tướng đối với tất cả các hiện tướng, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ư nghĩa quán xét là vô tướng đối với tất cả các hiện tướng, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa vô tướng là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa vô tướng.” ...(như trên)... Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa vô nguyện là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, là vô nguyện đối với tất cả các nguyện ước, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ư nghĩa quán xét là vô nguyện đối với tất cả các nguyện ước, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa vô nguyện là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa vô nguyện.” ...(như trên)... Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa không tánh là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, là không đối với tất cả các cố chấp, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ư nghĩa quán xét là không đối với tất cả các cố chấp, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa không tánh là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. V́ thế, được nói rằng: “Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa không tánh.” ...(như trên)... Tu tập: Có bốn sự tu tập: là sự tu tập theo ư nghĩa không vượt trội đối với các pháp đă được sanh lên trong trường hợp ấy, là sự tu tập theo ư nghĩa nhất vị đối với các quyền, là sự tu tập theo ư nghĩa khởi động tinh tấn (thích hợp) nhằm đạt đến giải thoát Niết Bàn, là sự tu tập theo ư nghĩa rèn luyện. Đạo lộ được h́nh thành: Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) như thế. ...(như trên)... Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ư nghĩa không tánh là (có ư nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo 16 biểu hiện là (có ư nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung là (có ư nghĩa) như thế. Tâm của vị tỳ khưu bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp là (có ư nghĩa) thế nào? Đối với vị đang tác ư vô thường, có ánh sáng sanh lên. (Hành giả) hướng tâm đến ánh sáng rằng: ‘Ánh sáng là pháp;’ sự tản mạn do việc ấy là phóng dật. Do sự phóng dật ấy, (hành giả), có tâm bị khuấy động, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là vô thường, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là khổ năo, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là vô ngă. V́ thế, được nói rằng: “Tâm bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp. Lúc ấy là thời điểm là lúc tâm ấy trụ lại, tập trung lại, được chuyên nhất, được định ngay ở nội phần.” Đạo lộ được h́nh thành cho vị ấy: Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) như thế. ...(như trên)... Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) như thế. Đối với vị đang tác ư vô thường, có trí sanh lên ... có hỷ sanh lên ... có tịnh sanh lên ... có lạc sanh lên ... có sự cương quyết sanh lên ... có sự ra sức sanh lên ... có sự thiết lập sanh lên ... có xả sanh lên ... có ao ước sanh lên. (Hành giả) hướng tâm đến sự ao ước rằng: ‘Ao ước là pháp;’ sự tản mạn do việc ấy là phóng dật. Do sự phóng dật ấy, (hành giả), có tâm bị khuấy động, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là vô thường, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là khổ năo, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là vô ngă. V́ thế, được nói rằng: “Tâm bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp. Lúc tâm ấy trụ lại, tập trung lại, được chuyên nhất, được định ở chính nội phần, lúc ấy là thời điểm.” Đạo lộ được h́nh thành cho vị ấy: Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) như thế. ...(như trên)... Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) như thế. Đối với vị đang tác ư khổ năo ...(như trên)... Đối với vị đang tác ư vô ngă, có ánh sáng sanh lên ... có trí sanh lên ... có hỷ sanh lên ... có tịnh sanh lên ... có lạc sanh lên ... có sự cương quyết sanh lên ... có sự ra sức sanh lên ... có sự thiết lập sanh lên ... có xả sanh lên ... có ao ước sanh lên. (Hành giả) hướng tâm đến sự ao ước rằng: ‘Ao ước là pháp;’ sự tản mạn do việc ấy là phóng dật. Do sự phóng dật ấy, (hành giả), có tâm bị khuấy động, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là vô ngă, về sự thiết lập là vô thường, về sự thiết lập là khổ năo. V́ thế, được nói rằng: “Tâm bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp ...(như trên)... Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) như thế. Đối với vị đang tác ư sắc là vô thường ...(nt)... Đối với vị đang tác ư sắc là khổ năo ...(nt)... Đối với vị đang tác ư sắc là vô ngă ...(nt)... Đối với vị đang tác ư thọ ... tưởng ... các hành ... thức ... mắt ... lăo tử là vô thường ...(nt)... Đối với vị đang tác ư lăo tử là khổ năo ...(nt)... Đối với vị đang tác ư lăo tử là vô ngă, có ánh sáng sanh lên ... có trí sanh lên ... có hỷ sanh lên ... có tịnh sanh lên ... có lạc sanh lên ... có sự cương quyết sanh lên ... có sự ra sức sanh lên ... có sự thiết lập sanh lên ... có xả sanh lên ... có ao ước sanh lên. (Hành giả) hướng tâm đến sự ao ước rằng: ‘Ao ước là pháp;’ sự tản mạn do việc ấy là phóng dật. Do sự phóng dật ấy, (hành giả), có tâm bị khuấy động, không nhận biết đúng theo thực thể về lăo tử có sự thiết lập là vô ngă, không nhận biết đúng theo thực thể về lăo tử có sự thiết lập là vô thường, không nhận biết đúng theo thực thể về lăo tử có sự thiết lập là khổ năo. V́ thế, được nói rằng: “Tâm bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp. Lúc ấy là thời điểm là lúc tâm ấy trụ lại, tập trung lại, được chuyên nhất, được định ngay ở nội phần.” Đạo lộ được h́nh thành cho vị ấy: Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được h́nh thành là (có ư nghĩa) như thế. ...(như trên)... Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ư nghĩa) như thế. Tâm bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp là (có ư nghĩa) như thế. (1) Rung động về ánh sáng, về tuệ, và về hỷ, về tịnh, và về lạc, bởi chúng tâm xao động,
(2) Rung động về cương quyết, ra sức, và thiết lập, do hướng tâm đến xả, và ao ước về xả.
(3) Vị nào huân tập tuệ về mười trường hợp này biết phóng dật do pháp không sa vào lầm lẫn.
(4) Bị tản mạn, ô nhiễm, tu tập tâm đ́nh chỉ; tản mạn, không ô nhiễm, tu tập bị thối thất.
(5) Tản mạn, không ô nhiễm, tu tập không thối thất, không tản, tâm vô nhiễm tu tâm không đ́nh chỉ.
(6) Với bốn trường hợp này, hiểu rơ mười trường hợp thâu hẹp và khuấy động v́ tản mạn của tâm.
Phần Giảng về sự Kết Hợp Chung được đầy đủ. --ooOoo--
II. GIẢNG VỀ CHÂN LƯĐầy đủ phần duyên khởi: Này các tỳ khưu, đây là bốn thực thể, là không ngoài thực thể, không phải là dị thể. Bốn ǵ? Này các tỳ khưu, ‘Đây là Khổ,’ điều này là thực thể, điều này là không ngoài thực thể, điều này không phải là dị thể; ‘Đây là nhân sanh Khổ,’ điều này là thực thể, điều này là không ngoài thực thể, điều này không phải là dị thể; ‘Đây là sự diệt tận Khổ,’ điều này là thực thể, điều này là không ngoài thực thể, điều này không phải là dị thể; ‘Đây là sự thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ,’ điều này là thực thể, điều này là không ngoài thực thể, điều này không phải là dị thể. Này các tỳ khưu, đây là bốn thực thể, là không ngoài thực thể, không phải là dị thể. Khổ là chân lư theo ư nghĩa của thực thể là (có ư nghĩa) thế nào? Bốn ư nghĩa về khổ của Khổ là thực thể, là không ngoài thực thể, không phải là dị thể: Ư nghĩa áp bức, ư nghĩa tạo tác, ư nghĩa nóng nảy, ư nghĩa chuyển biến của Khổ; bốn ư nghĩa này về khổ của Khổ là thực thể, là không ngoài thực thể, không phải là dị thể. Khổ là chân lư theo ư nghĩa của thực thể là (có ư nghĩa) như thế. Nhân sanh (Khổ) là chân lư theo ư nghĩa của thực thể là (có ư nghĩa) thế nào? Bốn ư nghĩa về nhân sanh của nhân sanh (Khổ) là thực thể, là không ngoài thực thể, không phải là dị thể: Ư nghĩa tích lũy (nghiệp), ư nghĩa căn nguyên, ư nghĩa ràng buộc, ư nghĩa vướng bận của nhân sanh (Khổ); bốn ư nghĩa này về nhân sanh của nhân sanh (Khổ) là thực thể, là không ngoài thực thể, không phải là dị thể. Nhân sanh (Khổ) là chân lư theo ư nghĩa của thực thể là (có ư nghĩa) như thế. Sự diệt tận (Khổ) là chân lư theo ư nghĩa của thực thể là (có ư nghĩa) thế nào? Bốn ư nghĩa về diệt tận của sự diệt tận (Khổ) là thực thể, là không ngoài thực thể, không phải là dị thể: Ư nghĩa xuất ly, ư nghĩa viễn ly, ư nghĩa không tạo tác, ư nghĩa bất tử của sự diệt tận (Khổ); bốn ư nghĩa này về diệt tận của sự diệt tận (Khổ) là thực thể, là không ngoài thực thể, không phải là dị thể. Sự diệt tận (Khổ) là chân lư theo ư nghĩa của thực thể là (có ư nghĩa) như thế. Đạo là chân lư theo ư nghĩa của thực thể là (có ư nghĩa) thế nào? Bốn ư nghĩa về đạo của Đạo là thực thể, là không ngoài thực thể, không phải là dị thể: Ư nghĩa dẫn xuất, ư nghĩa nguyên nhân, ư nghĩa nhận thức, ư nghĩa pháp chủ đạo của Đạo; bốn ư nghĩa này về đạo của Đạo là thực thể, là không ngoài thực thể, không phải là dị thể. Đạo là chân lư theo ư nghĩa của thực thể là (có ư nghĩa) như thế. Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt là với bao nhiêu biểu hiện? Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt là với bốn biểu hiện: theo ư nghĩa thực thể, theo ư nghĩa vô ngă, theo ư nghĩa chân lư, theo ư nghĩa thấu triệt; bốn chân lư được tổng hợp chung lại là với bốn biểu hiện này. Điều nào được tổng hợp chung lại, điều ấy là nhất thể. Nhất thể được thấu triệt bởi một trí, như thế bốn chân lư là có chung một sự thấu triệt. Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa thực thể là (có ư nghĩa) thế nào? Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa thực thể là với bốn biểu hiện: Ư nghĩa về khổ của Khổ là ư nghĩa về thực thể, ư nghĩa về nhân sanh của nhân sanh (Khổ) là ư nghĩa về thực thể, ư nghĩa về diệt tận của sự diệt tận (Khổ) là ư nghĩa về thực thể, ư nghĩa về đạo của Đạo là ư nghĩa về thực thể; bốn chân lư được tổng hợp chung lại theo ư nghĩa thực thể là với bốn biểu hiện này. Điều nào được tổng hợp chung lại, điều ấy là nhất thể. Nhất thể được thấu triệt bởi một trí, như thế bốn chân lư là có chung một sự thấu triệt. Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa vô ngă là (có ư nghĩa) thế nào? Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa vô ngă là với bốn biểu hiện: Ư nghĩa về khổ của Khổ là ư nghĩa về vô ngă, ư nghĩa về nhân sanh của nhân sanh (Khổ) là ư nghĩa về vô ngă, ư nghĩa về diệt tận của sự diệt tận (Khổ) là ư nghĩa về vô ngă, ư nghĩa về đạo của Đạo là ư nghĩa về vô ngă; bốn chân lư được tổng hợp chung lại theo ư nghĩa vô ngă là với bốn biểu hiện này. Điều nào được tổng hợp chung lại, điều ấy là nhất thể. Nhất thể được thấu triệt bởi một trí, như thế bốn chân lư là có chung một sự thấu triệt. Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa chân lư là (có ư nghĩa) thế nào? Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa chân lư là với bốn biểu hiện: Ư nghĩa về khổ của Khổ là ư nghĩa về chân lư, ư nghĩa về nhân sanh của nhân sanh (Khổ) là ư nghĩa về chân lư, ư nghĩa diệt tận của sự diệt tận (Khổ) là ư nghĩa về chân lư, ư nghĩa về đạo của Đạo là ư nghĩa về chân lư; bốn chân lư được tổng hợp chung lại theo ư nghĩa chân lư là với bốn biểu hiện này. Điều nào được tổng hợp chung lại, điều ấy là nhất thể. Nhất thể được thấu triệt bởi một trí, như thế bốn chân lư là có chung một sự thấu triệt. Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) thế nào? Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa thấu triệt là với bốn biểu hiện: Ư nghĩa về khổ của Khổ là ư nghĩa về thấu triệt, ư nghĩa về nhân sanh của nhân sanh (Khổ) là ư nghĩa về thấu triệt, ư nghĩa diệt tận của sự diệt tận (Khổ) là ư nghĩa về thấu triệt, ư nghĩa về đạo của Đạo là ư nghĩa về thấu triệt; bốn chân lư được tổng hợp chung lại theo ư nghĩa thấu triệt là với bốn biểu hiện này. Điều nào được tổng hợp chung lại, điều ấy là nhất thể. Nhất thể được thấu triệt bởi một trí, như thế bốn chân lư là có chung một sự thấu triệt. Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt là (có ư nghĩa) thế nào? Điều ǵ là vô thường, điều ấy là khổ năo; điều ǵ là khổ năo, điều ấy là vô thường. Điều ǵ là vô thường và khổ năo, điều ấy là vô ngă. Điều ǵ là vô thường, khổ năo, và vô ngă, điều ấy là thực thể. Điều ǵ là vô thường, khổ năo, vô ngă, và thực thể, điều ấy là chân lư. Điều ǵ là vô thường, khổ năo, vô ngă, thực thể, và chân lư, điều ấy là được tổng hợp chung lại. Điều ǵ được tổng hợp chung lại, điều ấy là nhất thể. Nhất thể được thấu triệt bởi một trí, như thế bốn chân lư là có chung một sự thấu triệt. Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt là với bao nhiêu biểu hiện? Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt là với chín biểu hiện: theo ư nghĩa thực thể, theo ư nghĩa vô ngă, theo ư nghĩa chân lư, theo ư nghĩa thấu triệt, theo ư nghĩa biết rơ, theo ư nghĩa biết toàn diện, theo ư nghĩa từ bỏ, theo ư nghĩa tu tập, theo ư nghĩa tác chứng; bốn chân lư có chung một sự thấu triệt là với chín biểu hiện này. Điều ǵ được tổng hợp chung lại, điều ấy là nhất thể. Nhất thể được thấu triệt bởi một trí, như thế bốn chân lư là có chung một sự thấu triệt. Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa thực thể là (có ư nghĩa) thế nào? Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa thực thể là với chín biểu hiện: Ư nghĩa về khổ của Khổ là ư nghĩa về thực thể, ư nghĩa về nhân sanh của nhân sanh (Khổ) là ư nghĩa về thực thể, ư nghĩa về diệt tận của sự diệt tận (Khổ) là ư nghĩa về thực thể, ư nghĩa về đạo của Đạo là ư nghĩa về thực thể, ư nghĩa về biết rơ của thắng trí là ư nghĩa về thực thể, ư nghĩa về biết toàn diện của toàn trí là ư nghĩa về thực thể, ư nghĩa về từ bỏ của sự từ bỏ là ư nghĩa về thực thể, ư nghĩa về tu tập của sự tu tập là ư nghĩa về thực thể, ư nghĩa về tác chứng của sự tác chứng là ư nghĩa về thực thể; bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa thực thể là với chín biểu hiện này. Điều ǵ được tổng hợp chung lại, điều ấy là nhất thể. Nhất thể được thấu triệt bởi một trí, như thế bốn chân lư là có chung một sự thấu triệt. Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa vô ngă ... theo ư nghĩa chân lư ... theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) thế nào? Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa thấu triệt là với chín biểu hiện: Ư nghĩa về khổ của Khổ là ư nghĩa về thấu triệt, ư nghĩa về nhân sanh của nhân sanh (Khổ) là ư nghĩa về thấu triệt, ư nghĩa về diệt tận của sự diệt tận (Khổ) là ư nghĩa về thấu triệt, ư nghĩa về đạo của Đạo là ư nghĩa về thấu triệt, ư nghĩa về biết rơ của thắng trí là ư nghĩa về thấu triệt, ư nghĩa về biết toàn diện của toàn trí là ư nghĩa về thấu triệt, ư nghĩa về từ bỏ của sự từ bỏ là ư nghĩa về thấu triệt, ư nghĩa về tu tập của sự tu tập là ư nghĩa về thấu triệt, ư nghĩa về tác chứng của sự tác chứng là ư nghĩa về thấu triệt; bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa thấu triệt là với chín biểu hiện này. Điều ǵ được tổng hợp chung lại, điều ấy là nhất thể. Nhất thể được thấu triệt bởi một trí, như thế bốn chân lư là có chung một sự thấu triệt. Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt là với bao nhiêu biểu hiện? Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt là với mười hai biểu hiện: theo ư nghĩa thực thể, theo ư nghĩa vô ngă, theo ư nghĩa chân lư, theo ư nghĩa thấu triệt, theo ư nghĩa biết rơ, theo ư nghĩa biết toàn diện, theo ư nghĩa hiện tượng, theo ư nghĩa sự kiện, theo ư nghĩa điều đă được biết, theo ư nghĩa tác chứng, theo ư nghĩa chạm đến, theo ư nghĩa lănh hội; bốn chân lư có chung một sự thấu triệt là với mười hai biểu hiện này. Điều ǵ được tổng hợp chung lại, điều ấy là nhất thể. Nhất thể được thấu triệt bởi một trí, như thế bốn chân lư là có chung một sự thấu triệt. Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa thực thể là (có ư nghĩa) thế nào? Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa thực thể là với mười sáu biểu hiện: Ư nghĩa áp bức, ư nghĩa tạo tác, ư nghĩa nóng nảy, ư nghĩa chuyển biến của Khổ là ư nghĩa về thực thể; Ư nghĩa tích lũy (nghiệp), ư nghĩa căn nguyên, ư nghĩa ràng buộc, ư nghĩa vướng bận của nhân sanh (Khổ) là ư nghĩa về thực thể; Ư nghĩa xuất ly, ư nghĩa viễn ly, ư nghĩa không tạo tác, ư nghĩa bất tử của sự diệt tận (Khổ) là ư nghĩa về thực thể; Ư nghĩa dẫn xuất, ư nghĩa nguyên nhân, ư nghĩa nhận thức, ư nghĩa pháp chủ đạo của Đạo là ư nghĩa về thực thể; bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa thực thể là với mười sáu biểu hiện này. Điều ǵ được tổng hợp chung lại, điều ấy là nhất thể. Nhất thể được thấu triệt bởi một trí, như thế bốn chân lư là có chung một sự thấu triệt. Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa vô ngă ... theo ư nghĩa chân lư ... theo ư nghĩa thấu triệt ... theo ư nghĩa biết rơ ... theo ư nghĩa biết toàn diện ... theo ư nghĩa hiện tượng ... theo ư nghĩa sự kiện ... theo ư nghĩa điều đă được biết ... theo ư nghĩa tác chứng ... theo ư nghĩa chạm đến ... theo ư nghĩa lănh hội là (có ư nghĩa) thế nào? Bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa lănh hội là với 16 biểu hiện: Ư nghĩa áp bức, ư nghĩa tạo tác, ư nghĩa nóng nảy, ư nghĩa chuyển biến của Khổ là ư nghĩa về lănh hội; Ư nghĩa tích lũy (nghiệp), ư nghĩa căn nguyên, ư nghĩa ràng buộc, ư nghĩa vướng bận của nhân sanh (Khổ) là ư nghĩa về lănh hội; Ư nghĩa xuất ly, ư nghĩa viễn ly, ư nghĩa không tạo tác, ư nghĩa bất tử của sự diệt tận (Khổ) là ư nghĩa về lănh hội; Ư nghĩa dẫn xuất, ư nghĩa nguyên nhân, ư nghĩa nhận thức, ư nghĩa pháp chủ đạo của Đạo là ư nghĩa về lănh hội; bốn chân lư có chung một sự thấu triệt theo ư nghĩa lănh hội là với 16 biểu hiện này. Điều ǵ được tổng hợp chung lại, điều ấy là nhất thể. Nhất thể được thấu triệt bởi một trí, như thế bốn chân lư là có chung một sự thấu triệt. Có bao nhiêu tướng trạng của chân lư? Có hai tướng trạng của chân lư: tướng trạng hữu vi và tướng trạng vô vi; đây là hai tướng trạng của chân lư. Có bao nhiêu tướng trạng của chân lư? Có sáu tướng trạng của chân lư: Đối với các chân lư hữu vi, sự sanh khởi được nhận biết, sự hoại diệt được nhận biết, khi chúng tồn tại trạng thái biến đổi được nhận biết; đối với chân lư vô vi, sự sanh khởi không được nhận biết, sự hoại diệt không được nhận biết, khi tồn tại trạng thái biến đổi không được nhận biết; đây là sáu tướng trạng của chân lư. Có bao nhiêu tướng trạng của chân lư? Có mười hai tướng trạng của chân lư: Đối với chân lư về Khổ, sự sanh khởi được nhận biết, sự hoại diệt được nhận biết, khi tồn tại trạng thái biến đổi được nhận biết; đối với chân lư về nhân sanh (Khổ), sự sanh khởi được nhận biết, sự hoại diệt được nhận biết, khi tồn tại trạng thái biến đổi được nhận biết; đối với chân lư về Đạo, sự sanh khởi được nhận biết, sự hoại diệt được nhận biết, khi tồn tại trạng thái biến đổi được nhận biết; đối với chân lư về sự diệt tận (Khổ), không sự sanh khởi được nhận biết, không sự hoại diệt được nhận biết, khi tồn tại không trạng thái biến đổi được nhận biết; đây là mười hai tướng trạng của chân lư. Thuộc về bốn chân lư, có bao nhiêu là thiện, có bao nhiêu là bất thiện, có bao nhiêu là vô kư? Chân lư về nhân sanh (Khổ) là bất thiện, chân lư về Đạo là thiện, chân lư về sự diệt tận là vô kư, chân lư về Khổ có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô kư. Có thể ba chân lư được tổng hợp với một chân lư, một chân lư được tổng hợp với ba chân lư về phương diện nền tảng theo thứ lớp? Có thể: Có thể là (có ư nghĩa) thế nào? (Nếu) chân lư về Khổ là bất thiện và chân lư về nhân sanh (Khổ) là bất thiện; như vậy theo ư nghĩa của bất thiện, hai chân lư được tổng hợp với một chân lư, một chân lư được tổng hợp với hai chân lư. (Nếu) chân lư về Khổ là thiện và chân lư về Đạo là thiện; như vậy theo ư nghĩa của thiện, hai chân lư được tổng hợp với một chân lư, một chân lư được tổng hợp với hai chân lư. (Nếu) chân lư về Khổ là vô kư và chân lư về sự diệt tận (Khổ) là vô kư; như vậy theo ư nghĩa của vô kư, hai chân lư được tổng hợp với một chân lư, một chân lư được tổng hợp với hai chân lư. Như vậy, có thể ba chân lư được tổng hợp với một chân lư, một chân lư được tổng hợp với ba chân lư về phương diện nền tảng theo thứ lớp.
[Duyên khởi ở Sāvatthī] Này các tỳ khưu, trước lúc Toàn Giác, khi hăy c̣n là Bồ Tát chưa thành Chánh Đẳng Giác, điều này đă khởi đến ta: Đối với sắc, điều ǵ là khoái lạc, điều ǵ là tai hại, điều ǵ là xuất ly? Đối với thọ, điều ǵ là khoái lạc, điều ǵ là tai hại, điều ǵ là xuất ly? Đối với tưởng, điều ǵ là khoái lạc, điều ǵ là tai hại, điều ǵ là xuất ly? Đối với các hành, điều ǵ là khoái lạc, điều ǵ là tai hại, điều ǵ là xuất ly? Đối với thức, điều ǵ là khoái lạc, điều ǵ là tai hại, điều ǵ là xuất ly? Này các tỳ khưu, điều này đă khởi đến ta đây: Tùy thuận vào sắc, lạc và hỷ tâm sanh lên; điều này là khoái lạc của sắc. Sắc là vô thường, là khổ năo, có hiện tượng chuyển biến; điều này là tai hại của sắc. Sự loại bỏ ước muốn và tham ái ở sắc, sự từ bỏ ước muốn và tham ái ở sắc; điều này là xuất ly khỏi sắc. Tùy thuận vào thọ ... Tùy thuận vào tưởng ... Tùy thuận vào các hành ... Tùy thuận vào thức, lạc và hỷ tâm sanh lên; điều này là khoái lạc của thức. Thức là vô thường, là khổ năo, có hiện tượng chuyển biến; điều này là tai hại của thức. Sự loại bỏ ước muốn và tham ái ở thức, sự từ bỏ ước muốn và tham ái ở thức; điều này là xuất ly khỏi thức. Này các tỳ khưu, cho đến khi nào ta chưa biết rơ đúng theo thực thể khoái lạc là khoái lạc, tai hại là tai hại, xuất ly là xuất ly đối với năm thủ uẩn này là như vầy, này các tỳ khưu, cho đến khi ấy ta chưa công bố là ‘Đă hoàn toàn giác ngộ quả vô thượng Chánh Đẳng Giác’ ở thế gian tính luôn cơi chư thiên, cơi Ma Vương, cơi Phạm thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người. Này các tỳ khưu, và đến khi ta đă biết rơ đúng theo thực thể khoái lạc là khoái lạc, tai hại là tai hại, xuất ly là xuất ly đối với năm thủ uẩn này là như vầy, này các tỳ khưu, khi ấy ta đă công bố là ‘Đă hoàn toàn giác ngộ quả vô thượng Chánh Đẳng Giác’ ở thế gian tính luôn cơi chư thiên, cơi Ma Vương, cơi Phạm thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người. Hơn nữa, sự biết và thấy đă sanh khởi đến ta rằng: ‘Sự giải thoát của ta là không thể thay đổi. Đây là lần sanh cuối cùng, giờ không c̣n tái sanh nữa.’ ‘Tùy thuận vào sắc, lạc và tâm sanh lên; điều này là sự khoái lạc của sắc,’ như thế sự thấu triệt do dứt bỏ là chân lư về nhân sanh (Khổ). ‘Sắc là vô thường, là khổ năo, có hiện tượng chuyển biến; điều này là tai hại của sắc,’ như thế sự thấu triệt do biết toàn diện là chân lư về Khổ. ‘Sự loại bỏ ước muốn và tham ái, sự từ bỏ ước muốn và tham ái ở sắc; điều này là xuất ly khỏi sắc,’ như thế sự thấu triệt do tác chứng là chân lư về sự diệt tận (Khổ). ‘Liên quan ba sự kiện này, có sự nhận thức, suy nghĩ, lời nói, hành động, sự nuôi mạng, sự tinh tấn, niệm, định ,’[1] như thế sự thấu triệt do tu tập là chân lư về Đạo. ‘Tùy thuận vào thọ, ...(như trên)... Tùy thuộc vào tưởng, ...(như trên)... Tùy thuộc vào các hành, ...(như trên)... Tùy thuộc vào thức, lạc và hỷ tâm sanh lên; điều này là sự khoái lạc của thức,’ như thế sự thấu triệt do dứt bỏ là chân lư về nhân sanh (Khổ). ‘Thức là vô thường, là khổ năo, có hiện tượng chuyển biến; điều này là tai hại của thức,’ như thế sự thấu triệt do biết toàn diện là chân lư về Khổ. ‘Sự loại bỏ ước muốn và tham ái ở thức, sự từ bỏ ước muốn và tham ái ở thức; điều này là xuất ly khỏi thức,’ như thế sự thấu triệt do tác chứng là chân lư về sự diệt tận (Khổ). ‘Liên quan ba sự kiện này, có sự nhận thức, suy nghĩ, lời nói, hành động, sự nuôi mạng, sự tinh tấn, niệm, định,’ như thế sự thấu triệt do tu tập là chân lư về Đạo. Chân lư: Chân lư là theo bao nhiêu biểu hiện? Là theo ư nghĩa tầm cầu, theo ư nghĩa nắm giữ, theo ư nghĩa thấu triệt. Chân lư theo ư nghĩa tầm cầu là (có ư nghĩa) thế nào? Lăo tử có điều ǵ là căn nguyên, có điều ǵ là nhân sanh, có điều ǵ là sanh chủng, có điều ǵ là nguồn phát khởi? Chân lư theo ư nghĩa tầm cầu là (có ư nghĩa) như thế. Lăo tử có sanh là căn nguyên, có sanh là nhân sanh, có sanh là sanh chủng, có sanh là nguồn phát khởi; chân lư theo ư nghĩa nắm giữ là (có ư nghĩa) như thế. Nhận biết lăo tử, nhận biết nhân sanh của lăo tử, nhận biết sự diệt tận của lăo tử, nhận biết sự thực hành đưa đến sự diệt tận của lăo tử; chân lư theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) như thế. Sanh có điều ǵ là căn nguyên, có điều ǵ là nhân sanh, có điều ǵ là sanh chủng, có điều ǵ là nguồn phát khởi? Chân lư theo ư nghĩa tầm cầu là (có ư nghĩa) như thế. Sanh có hữu là căn nguyên, có hữu là nhân sanh, có hữu là sanh chủng, có hữu là nguồn phát khởi; chân lư theo ư nghĩa nắm giữ là (có ư nghĩa) như thế. Nhận biết sanh, nhận biết nhân sanh của sanh, nhận biết sự diệt tận của sanh, nhận biết sự thực hành đưa đến sự diệt tận của sanh; chân lư theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) như thế. Hữu có điều ǵ là căn nguyên, có điều ǵ là nhân sanh, có điều ǵ là sanh chủng, có điều ǵ là nguồn phát khởi? Chân lư theo ư nghĩa tầm cầu là (có ư nghĩa) như thế. Hữu có thủ là căn nguyên, có thủ là nhân sanh, có thủ là sanh chủng, có thủ là nguồn phát khởi; chân lư theo ư nghĩa nắm giữ là (có ư nghĩa) như thế. Nhận biết hữu, nhận biết nhân sanh của hữu, nhận biết sự diệt tận của hữu, nhận biết sự thực hành đưa đến sự diệt tận của hữu; chân lư theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) như thế. Thủ có điều ǵ là căn nguyên, có điều ǵ là nhân sanh, có điều ǵ là sanh chủng, có điều ǵ là nguồn phát khởi? Chân lư theo ư nghĩa tầm cầu là (có ư nghĩa) như thế. Thủ có ái là căn nguyên, có ái là nhân sanh, có ái là sanh chủng, có ái là nguồn phát khởi; chân lư theo ư nghĩa nắm giữ là (có ư nghĩa) như thế. Nhận biết thủ, nhận biết nhân sanh của thủ, nhận biết sự diệt tận của thủ, nhận biết sự thực hành đưa đến sự diệt tận của thủ; chân lư theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) như thế. Ái có điều ǵ là căn nguyên, có điều ǵ là nhân sanh, có điều ǵ là sanh chủng, có điều ǵ là nguồn phát khởi? Chân lư theo ư nghĩa tầm cầu là (có ư nghĩa) như thế. Ái có thọ là căn nguyên, có thọ là nhân sanh, có thọ là sanh chủng, có thọ là nguồn phát khởi; chân lư theo ư nghĩa nắm giữ là (có ư nghĩa) như thế. Nhận biết ái, nhận biết nhân sanh của ái, nhận biết sự diệt tận của ái, nhận biết sự thực hành đưa đến sự diệt tận của ái; chân lư theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) như thế. Thọ có điều ǵ là căn nguyên, có điều ǵ là nhân sanh, có điều ǵ là sanh chủng, có điều ǵ là nguồn phát khởi? Chân lư theo ư nghĩa tầm cầu là (có ư nghĩa) như thế. Thọ có xúc là căn nguyên, có xúc là nhân sanh, có xúc là sanh chủng, có xúc là nguồn phát khởi; chân lư theo ư nghĩa nắm giữ là (có ư nghĩa) như thế. Nhận biết thọ, nhận biết nhân sanh của thọ, nhận biết sự diệt tận của thọ, nhận biết sự thực hành đưa đến sự diệt tận của thọ; chân lư theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) như thế. Xúc có điều ǵ là căn nguyên, có điều ǵ là nhân sanh, có điều ǵ là sanh chủng, có điều ǵ là nguồn phát khởi? Chân lư theo ư nghĩa tầm cầu là (có ư nghĩa) như thế. Xúc có sáu xứ là căn nguyên, có sáu xứ là nhân sanh, có sáu xứ là sanh chủng, có sáu xứ là nguồn phát khởi; chân lư theo ư nghĩa nắm giữ là (có ư nghĩa) như thế. Nhận biết xúc, nhận biết nhân sanh của xúc, nhận biết sự diệt tận của xúc, nhận biết sự thực hành đưa đến sự diệt tận của xúc; chân lư theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) như thế. Sáu xứ có điều ǵ là căn nguyên, có điều ǵ là nhân sanh, có điều ǵ là sanh chủng, có điều ǵ là nguồn phát khởi? Chân lư theo ư nghĩa tầm cầu là (có ư nghĩa) như thế. Sáu xứ có danh sắc là căn nguyên, có danh sắc là nhân sanh, có danh sắc là sanh chủng, có danh sắc là nguồn phát khởi; chân lư theo ư nghĩa nắm giữ là (có ư nghĩa) như thế. Nhận biết sáu xứ, nhận biết nhân sanh của sáu xứ, nhận biết sự diệt tận của sáu xứ, nhận biết sự thực hành đưa đến sự diệt tận của sáu xứ; chân lư theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) như thế. Danh sắc có điều ǵ là căn nguyên, có điều ǵ là nhân sanh, có điều ǵ là sanh chủng, có điều ǵ là nguồn phát khởi? Chân lư theo ư nghĩa tầm cầu là (có ư nghĩa) như thế. Danh sắc có thức là căn nguyên, có thức là nhân sanh, có thức là sanh chủng, có thức là nguồn phát khởi; chân lư theo ư nghĩa nắm giữ là (có ư nghĩa) như thế. Nhận biết danh sắc, nhận biết nhân sanh của danh sắc, nhận biết sự diệt tận của danh sắc, nhận biết sự thực hành đưa đến sự diệt tận của danh sắc; chân lư theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) như thế. Thức có điều ǵ là căn nguyên, có điều ǵ là nhân sanh, có điều ǵ là sanh chủng, có điều ǵ là nguồn phát khởi? Chân lư theo ư nghĩa tầm cầu là (có ư nghĩa) như thế. Thức có các hành là căn nguyên, có các hành là nhân sanh, có các hành là sanh chủng, có các hành là nguồn phát khởi; chân lư theo ư nghĩa nắm giữ là (có ư nghĩa) như thế. Nhận biết thức, nhận biết nhân sanh của thức, nhận biết sự diệt tận của thức, nhận biết sự thực hành đưa đến sự diệt tận của thức; chân lư theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) như thế. Các hành có điều ǵ là căn nguyên, có điều ǵ là nhân sanh, có điều ǵ là sanh chủng, có điều ǵ là nguồn phát khởi? Chân lư theo ư nghĩa tầm cầu là (có ư nghĩa) như thế. Các hành có vô minh là căn nguyên, có vô minh là nhân sanh, có vô minh là sanh chủng, có vô minh là nguồn phát khởi; chân lư theo ư nghĩa nắm giữ là (có ư nghĩa) như thế. Nhận biết các hành, nhận biết nhân sanh của các hành, nhận biết sự diệt tận của các hành, nhận biết sự thực hành đưa đến sự diệt tận của các hành; chân lư theo ư nghĩa thấu triệt là (có ư nghĩa) như thế. Lăo tử là chân lư về Khổ, sanh là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Sanh là chân lư về Khổ, hữu là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Hữu là chân lư về Khổ, thủ là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Thủ là chân lư về Khổ, ái là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Ái là chân lư về Khổ, thọ là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Thọ là chân lư về Khổ, xúc là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Xúc là chân lư về Khổ, sáu xứ là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Sáu xứ là chân lư về Khổ, danh sắc là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Danh sắc là chân lư về Khổ, thức là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Thức là chân lư về Khổ, các hành là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Các hành là chân lư về Khổ, vô minh là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Lăo tử là chân lư về Khổ, sanh có thể là chân lư về Khổ, có thể là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Sanh là chân lư về Khổ, hữu có thể là chân lư về Khổ, có thể là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo ...(như trên)... Các hành là chân lư về Khổ, vô minh có thể là chân lư về Khổ, có thể là chân lư về nhân sanh, sự xuất ly cả hai là chân lư về sự diệt tận, nhận biết về sự diệt tận là chân lư của Đạo. Phần Giảng về Chân Lư được đầy đủ. Tụng Phẩm. --ooOoo--
III. GIẢNG VỀ GIÁC CHI[Duyên khởi ở Sāvatthī] Này các tỳ khưu, có bảy giác chi. Bảy là ǵ? Niệm giác chi, trạch pháp giác chi, cần giác chi, hỷ giác chi, tịnh giác chi, định giác chi, xả giác chi. Này các tỳ khưu, đây là bảy giác chi. Các giác chi: Các giác chi là với ư nghĩa ǵ? ‘Đưa đến giác ngộ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ (Sơ Đạo)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ (Nhị Đạo)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ (Tam Đạo)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ (Tứ Đạo)’ là các giác chi.[2] Với ư nghĩa được giác ngộ (Sơ Đạo) là các giác chi. Với ư nghĩa được giác ngộ (Nhị Đạo) là các giác chi. Với ư nghĩa được giác ngộ (Tam Đạo) là các giác chi. Với ư nghĩa được giác ngộ (Tứ Đạo) là các giác chi. ‘Làm cho giác ngộ (Sơ Đạo)’ là các giác chi. ‘Làm cho giác ngộ (Nhị Đạo)’ là các giác chi. ‘Làm cho giác ngộ (Tam Đạo)’ là các giác chi. ‘Làm cho giác ngộ (Tứ Đạo)’ là các giác chi. Với ư nghĩa làm cho giác ngộ (Sơ Đạo) là các giác chi. Với ư nghĩa làm cho giác ngộ (Nhị Đạo) là các giác chi. Với ư nghĩa làm cho giác ngộ (Tam Đạo) là các giác chi. Với ư nghĩa làm cho giác ngộ (Tứ Đạo) là các giác chi. Với ư nghĩa góp phần vào việc làm cho giác ngộ (Sơ Đạo) là các giác chi. Với ư nghĩa góp phần vào việc làm cho giác ngộ (Nhị Đạo) là các giác chi. Với ư nghĩa góp phần vào việc làm cho giác ngộ (Tam Đạo) là các giác chi. Với ư nghĩa góp phần vào việc làm cho giác ngộ (Tứ Đạo) là các giác chi. Với ư nghĩa nhận lănh tánh giác là các giác chi. Với ư nghĩa tiếp nhận tánh giác là các giác chi. Với ư nghĩa tạo lập tánh giác là các giác chi. Với ư nghĩa thành lập tánh giác là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn thành tánh giác là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn thiện tánh giác là các giác chi. Với ư nghĩa của nguồn gốc là các giác chi. Với ư nghĩa hành vi của nguồn gốc là các giác chi. Với ư nghĩa nắm giữ về nguồn gốc là các giác chi. Với ư nghĩa phụ trợ của nguồn gốc là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn bị của nguồn gốc là các giác chi. Với ư nghĩa chín muồi của nguồn gốc là các giác chi. Với ư nghĩa phân tích về nguồn gốc là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn thành việc phân tích về nguồn gốc là các giác chi. Với ư nghĩa bản chất quyền lực ở việc phân tích về nguồn gốc là các giác chi. Với ư nghĩa đạt đến bản chất quyền lực ở việc phân tích về nguồn gốc là các giác chi. Với ư nghĩa chủng tử là các giác chi. Với ư nghĩa hành vi của chủng tử là các giác chi. Với ư nghĩa nắm giữ về chủng tử là các giác chi. Với ư nghĩa phụ trợ của chủng tử là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn bị của chủng tử là các giác chi. Với ư nghĩa chín muồi của chủng tử là các giác chi. Với ư nghĩa phân tích về chủng tử là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn thành việc phân tích về chủng tử là các giác chi. Với ư nghĩa bản chất quyền lực ở việc phân tích về chủng tử là các giác chi. Với ư nghĩa đạt đến bản chất quyền lực ở việc phân tích về chủng tử là các giác chi. Với ư nghĩa của duyên là các giác chi. Với ư nghĩa hành vi của duyên là các giác chi. Với ư nghĩa nắm giữ về duyên là các giác chi. Với ư nghĩa phụ trợ của duyên là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn bị của duyên là các giác chi. Với ư nghĩa chín muồi của duyên là các giác chi. Với ư nghĩa phân tích về duyên là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn thành việc phân tích về duyên là các giác chi. Với ư nghĩa bản chất quyền lực ở việc phân tích về duyên là các giác chi. Với ư nghĩa đạt đến bản chất quyền lực ở việc phân tích về duyên là các giác chi. Với ư nghĩa của sự thanh tịnh là các giác chi. Với ư nghĩa hành vi của sự thanh tịnh là các giác chi. Với ư nghĩa nắm giữ về sự thanh tịnh là các giác chi. Với ư nghĩa phụ trợ của sự thanh tịnh là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn bị của sự thanh tịnh là các giác chi. Với ư nghĩa chín muồi của sự thanh tịnh là các giác chi. Với ư nghĩa phân tích về sự thanh tịnh là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn thành việc phân tích về sự thanh tịnh là các giác chi. Với ư nghĩa bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự thanh tịnh là các giác chi. Với ư nghĩa đạt đến bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự thanh tịnh là các giác chi. Với ư nghĩa của sự không sai trái là các giác chi. Với ư nghĩa hành vi của sự không sai trái là các giác chi. Với ư nghĩa nắm giữ về sự không sai trái là các giác chi. Với ư nghĩa phụ trợ của sự không sai trái là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn bị của sự không sai trái là các giác chi. Với ư nghĩa chín muồi của sự không sai trái là các giác chi. Với ư nghĩa phân tích về sự không sai trái là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn thành việc phân tích về sự không sai trái là các giác chi. Với ư nghĩa bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự không sai trái là các giác chi. Với ư nghĩa đạt đến bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự không sai trái là các giác chi. Với ư nghĩa của sự thoát ly là các giác chi. Với ư nghĩa hành vi của sự thoát ly là các giác chi. Với ư nghĩa nắm giữ về sự thoát ly là các giác chi. Với ư nghĩa phụ trợ của sự thoát ly là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn bị của sự thoát ly là các giác chi. Với ư nghĩa chín muồi của sự thoát ly là các giác chi. Với ư nghĩa phân tích về sự thoát ly là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn thành việc phân tích về sự thoát ly là các giác chi. Với ư nghĩa bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự thoát ly là các giác chi. Với ư nghĩa đạt đến bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự thoát ly là các giác chi. Với ư nghĩa của sự giải thoát là các giác chi. Với ư nghĩa hành vi của sự giải thoát là các giác chi. Với ư nghĩa nắm giữ về sự giải thoát là các giác chi. Với ư nghĩa phụ trợ của sự giải thoát là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn bị của sự giải thoát là các giác chi. Với ư nghĩa chín muồi của sự giải thoát là các giác chi. Với ư nghĩa phân tích về sự giải thoát là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn thành việc phân tích về sự giải thoát là các giác chi. Với ư nghĩa bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự giải thoát là các giác chi. Với ư nghĩa đạt đến bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự giải thoát là các giác chi. Với ư nghĩa vô lậu là các giác chi. Với ư nghĩa hành vi của vô lậu là các giác chi. Với ư nghĩa nắm giữ về vô lậu là các giác chi. Với ư nghĩa phụ trợ của vô lậu là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn bị của vô lậu là các giác chi. Với ư nghĩa chín muồi của vô lậu là các giác chi. Với ư nghĩa phân tích về vô lậu là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn thành việc phân tích về vô lậu là các giác chi. Với ư nghĩa bản chất quyền lực ở việc phân tích về vô lậu là các giác chi. Với ư nghĩa đạt đến bản chất quyền lực ở việc phân tích về vô lậu là các giác chi. Với ư nghĩa của sự viễn ly là các giác chi. Với ư nghĩa hành vi của sự viễn ly là các giác chi. Với ư nghĩa nắm giữ về sự viễn ly là các giác chi. Với ư nghĩa phụ trợ của sự viễn ly là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn bị của sự viễn ly là các giác chi. Với ư nghĩa chín muồi của sự viễn ly là các giác chi. Với ư nghĩa phân tích về sự viễn ly là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn thành việc phân tích về sự viễn ly là các giác chi. Với ư nghĩa bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự viễn ly là các giác chi. Với ư nghĩa đạt đến bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự viễn ly là các giác chi. Với ư nghĩa của sự xả ly là các giác chi. Với ư nghĩa hành vi của sự xả ly là các giác chi. Với ư nghĩa nắm giữ về sự xả ly là các giác chi. Với ư nghĩa phụ trợ của sự xả ly là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn bị của sự xả ly là các giác chi. Với ư nghĩa chín muồi của sự xả ly là các giác chi. Với ư nghĩa phân tích về sự xả ly là các giác chi. Với ư nghĩa hoàn thành việc phân tích về sự xả ly là các giác chi. Với ư nghĩa bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự xả ly là các giác chi. Với ư nghĩa đạt đến bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự xả ly là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của nguồn gốc’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của chủng tử’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của duyên’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự thanh tịnh’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự không sai trái’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự thoát ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự giải thoát’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của vô lậu’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự viễn ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự xả ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hành vi của nguồn gốc’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hành vi của chủng tử’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hành vi của duyên’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hành vi của sự thanh tịnh’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hành vi của sự không sai trái’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hành vi của sự thoát ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hành vi của sự giải thoát’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hành vi của vô lậu’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hành vi của sự viễn ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hành vi của sự xả ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa nắm giữ về nguồn gốc’ là các giác chi. ...(nt)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa nắm giữ về sự xả ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa phụ trợ của nguồn gốc’ là các giác chi. ...(nt)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa phụ trợ của sự xả ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hoàn bị của nguồn gốc’ là các giác chi. ...(nt)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa hoàn bị của sự xả ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa chín muồi của nguồn gốc’ là các giác chi. ...(nt)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa chín muồi của sự xả ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa phân tích về nguồn gốc’ là các giác chi. ...(nt)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa phân tích về sự xả ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hoàn thành việc phân tích về nguồn gốc’ là các giác chi. ...(nt)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa hoàn thành việc phân tích về sự xả ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa bản chất quyền lực ở việc phân tích về nguồn gốc’ là các giác chi. ...(nt)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa bản chất quyền lực ở việc phân tích về sự xả ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự nắm giữ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự phụ trợ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự hoàn bị’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự chuyên nhất’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự không tản mạn’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự ra sức’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự không tán loạn’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự không xao động’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự không loạn động’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự trụ tâm do thiết lập tính nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của đối tượng (cảnh)’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của hành xứ’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự dứt bỏ’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự buông bỏ’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự thoát ra’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự ly khai’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của tịnh’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự cao quư’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của giải thoát’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của vô lậu’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự vượt qua’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của vô tướng’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của vô nguyện’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của không tánh’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của nhất vị’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự không vượt quá’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự kết hợp chung’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự dẫn xuất’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của chủng tử’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự nhận thức’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của pháp chủ đạo’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa không tản mạn của chỉ tịnh’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa quán xét của minh sát’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa nhất vị của chỉ tịnh và minh sát’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa không vượt quá của sự kết hợp chung’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa thọ tŕ của việc học tập’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hành xứ của đối tượng’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa ra sức đối với tâm bị tŕ trệ’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa kiềm chế đối với tâm bị phóng dật’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa dửng dưng (có trạng thái xả) đối với hai trạng thái (tŕ trệ và phóng dật) đă được trong sạch’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự đắc chứng thù thắng’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự thấu triệt bậc trên’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự lănh hội chân lư’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự an lập Niết Bàn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa cương quyết của tín quyền’ là các giác chi. ...(như trên)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa nhận thức của tuệ quyền’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của tính chất không dao động ở sự không có đức tin của tín lực’ là các giác chi. ...(như trên)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của tính chất không dao động ở vô minh của tuệ lực’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa thiết lập của niệm giác chi’ là các giác chi. ...(như trên)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa phân biệt rơ của xả giác chi’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa nhận thức của chánh kiến’ là các giác chi. ...(như trên)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa không tản mạn của chánh định’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa chủ đạo của các quyền’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa không thể bị lay chuyển của các lực’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa dẫn xuất (ra khỏi luân hồi)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa chủng tử của Đạo’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa thiết lập của sự thiết lập niệm’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa nỗ lực của các chánh cần’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa thành tựu của các nền tảng của thần thông’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa thực thể của các chân lư’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa tịnh lặng của các việc thực hành (Thánh Đạo)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa tác chứng của các Quả’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa đưa tâm (đến đối tượng) của tầm’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa khắn khít (vào đối tượng) của tứ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa lan tỏa của hỷ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa tràn ngập của lạc’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa chuyên nhất của tâm (định)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự hướng tâm’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự nhận biết (của thức)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự nhận biết (của tuệ)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự nhận biết (của tưởng)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự độc nhất’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa đă được biết của sự biết rơ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa quyết đoán của sự biết toàn diện’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa buông bỏ của sự dứt bỏ’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa nhất vị của sự tu tập’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa chạm đến của sự tác chứng’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa tập hợp của các uẩn’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa bản thể của các giới’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa vị thế của các xứ’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa tạo tác của các pháp hữu vi’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa không tạo tác của Niết Bàn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của tâm’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa liên tục của tâm’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa thoát ra của tâm’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa ly khai của tâm’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về chủng tử của tâm’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về duyên của tâm’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về vật nương của tâm’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về lănh vực của tâm’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về cảnh (đối tượng) của tâm’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về hành xứ của tâm’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về hành vi của tâm’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về cảnh (đă đạt đến) của tâm’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự quyết định của tâm’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự dẫn xuất (ra khỏi cảnh) của tâm’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự xuất ly của tâm’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự hướng tâm ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự nhận biết (của thức) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự nhận biết (của tuệ) ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự nhận biết (của tưởng) ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa độc nhất ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự bám vào nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự tiến vào nhất thể (đối với sơ thiền)’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự hoan hỷ ở nhất thể (đối với nhị thiền)’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự an trụ ở nhất thể (đối với tam thiền)’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự giải thoát ở nhất thể (đối với tứ thiền)’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự nhận thức ‘Đây là tịnh’ ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về việc đă được tạo thành phương tiện ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về việc đă được tạo thành nền tảng ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về việc đă được thiết lập ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về việc đă được tích lũy ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về việc đă được khởi đầu tốt đẹp và tĩnh lặng ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự nắm giữ ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự phụ trợ ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự hoàn bị ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự liên kết ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự khẳng định ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự rèn luyện ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự tu tập ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa về sự làm cho sung măn ở nhất thể’ ... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự khéo được hiện khởi ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự khéo được giải thoát ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự được giác ngộ (Sơ Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự được giác ngộ (Nhị Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự được giác ngộ (Tam Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự được giác ngộ (Tứ Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự làm cho giác ngộ (Sơ Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự làm cho giác ngộ (Nhị Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự làm cho giác ngộ (Tam Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự làm cho giác ngộ (Tứ Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự dự phần làm cho giác ngộ (Sơ Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự dự phần làm cho giác ngộ (Nhị Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự dự phần làm cho giác ngộ (Tam Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự dự phần làm cho giác ngộ (Tứ Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự phát quang (Sơ Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự phát quang (Nhị Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự phát quang (Tam Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự phát quang (Tứ Đạo) ở nhất thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự làm sáng tỏ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự chói sáng’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa thiêu đốt các phiền năo’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa không nhơ bẩn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa tách rời nhơ bẩn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa hết nhơ bẩn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của tĩnh lặng’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của thời điểm’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của tách ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của hạnh tách ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của ly dục’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của hạnh ly dục’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của diệt tận’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của hạnh diệt tận’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của xả ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của hạnh xả ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của giải thoát’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của hạnh giải thoát’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của ước muốn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa nguồn gốc của ước muốn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa cơ sở của ước muốn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa nỗ lực của ước muốn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa thành tựu của ước muốn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa cương quyết của ước muốn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa ra sức của ước muốn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa thiết lập của ước muốn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa không tản mạn của ước muốn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa nhận thức của ước muốn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của tinh tấn’ là các giác chi. ...(như trên)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của tâm’ là các giác chi. ...(như trên)... ‘Được giác ngộ ư nghĩa của thẩm xét’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa nguồn cội của thẩm xét’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa cơ sở của thẩm xét’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa nỗ lực của thẩm xét’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa thành tựu của thẩm xét’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa cương quyết của thẩm xét’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa ra sức của thẩm xét’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa thiết lập của thẩm xét’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa không tản mạn của thẩm xét’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa nhận thức của thẩm xét’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa áp bức của Khổ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa tạo tác của Khổ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa nóng nảy của Khổ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa chuyển biến của Khổ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của nhân sanh (Khổ)’ ...(nt)... ư nghĩa tích lũy (nghiệp) ...(nt)... ư nghĩa căn nguyên ...(nt)... ư nghĩa ràng buộc ...(nt)... ư nghĩa vướng bận của nhân sanh (Khổ)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của sự diệt tận (Khổ)’ ...(nt)... ư nghĩa xuất ly ...(nt)... ư nghĩa viễn ly ...(nt)... ư nghĩa không tạo tác ...(nt)... ư nghĩa bất tử của sự diệt tận (Khổ)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của Đạo’ ...(nt)... ư nghĩa dẫn xuất ...(nt)... ư nghĩa chủng tử ...(nt)... ư nghĩa nhận thức ...(nt)... ư nghĩa pháp chủ đạo của Đạo’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của thực thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của vô ngă’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của chân lư’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của thấu triệt’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của biết rơ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của biết toàn diện’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của hiện tượng’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của bản thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của điều đă được biết’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của tác chứng’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của chạm đến’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa của lănh hội’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về sự thoát ly’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về sự không sân độc’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về sự nghĩ tưởng đến ánh sáng’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về sự không tản mạn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về sự xác định pháp’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về trí (đối kháng vô minh)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về sự hân hoan’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về sơ thiền’ là các giác chi. ...(như trên)... ‘Được giác ngộ sự chứng đạt về phi tưởng phi phi tưởng xứ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ sự quán xét về vô thường’ là các giác chi ...(như trên)... ‘Được giác ngộ Đạo Nhập Lưu’ là các giác chi ...(như trên)... ‘Được giác ngộ Đạo A-la-hán’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ sự chứng đạt Quả A-la-hán’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ tín quyền theo ư nghĩa cương quyết’ là các giác chi. ...(như trên)... ‘Được giác ngộ tuệ quyền theo ư nghĩa nhận thức’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ tín lực theo ư nghĩa không dao động ở sự không có đức tin’ là các giác chi. ...(như trên)... ‘Được giác ngộ tuệ lực theo ư nghĩa không dao động ở vô minh’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ niệm giác chi theo ư nghĩa thiết lập’ là các giác chi. ...(như trên)... ‘Được giác ngộ xả giác chi theo ư nghĩa phân biệt rơ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ chánh kiến theo ư nghĩa nhận thức’ là các giác chi. ...(như trên)... ‘Được giác ngộ chánh định theo ư nghĩa không tản mạn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ các quyền theo pháp chủ đạo’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ các lực theo ư nghĩa không thể bị lay chuyển’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ các giác chi theo ư nghĩa dẫn xuất (ra khỏi luân hồi)’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ Đạo theo ư nghĩa chủng tử’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ các sự thiết lập niệm theo ư nghĩa thiết lập’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ ư nghĩa các chánh cần theo ư nghĩa nỗ lực’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ các nền tảng của thần thông theo ư nghĩa thành tựu’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ chân lư theo ư nghĩa thực thể’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ chỉ tịnh theo ư nghĩa không tản mạn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ minh sát theo ư nghĩa quán xét’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ chỉ tịnh và minh sát theo ư nghĩa nhất vị’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ sự kết hợp chung theo ư nghĩa không vượt quá’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ giới thanh tịnh theo ư nghĩa thu thúc’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ tâm thanh tịnh theo ư nghĩa không tản mạn’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ kiến thanh tịnh theo ư nghĩa nhận thức’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ sự giải thoát theo ư nghĩa thoát khỏi’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về minh theo ư nghĩa thấu triệt’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ sự giải thoát theo ư nghĩa buông bỏ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ trí về sự đoạn tận theo ư nghĩa đoạn trừ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ trí về sự vô sanh theo ư nghĩa tĩnh lặng’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về sự ước muốn theo ư nghĩa nguồn cội’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về sự tác ư theo ư nghĩa nguồn sanh khởi’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về xúc theo ư nghĩa liên kết’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về thọ theo ư nghĩa hội tụ’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về định theo ư nghĩa dẫn đầu’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về niệm theo ư nghĩa pháp chủ đạo’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về tuệ theo ư nghĩa của sự cao thượng trong các pháp thiện’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về giải thoát theo ư nghĩa cốt lỏi’ là các giác chi. ‘Được giác ngộ về Niết Bàn liên quan đến bất tử theo ư nghĩa kết thúc’ là các giác chi.
[Duyên khởi ở Sāvatthī] Tại nơi ấy, đại đức Sārīputta đă bảo các vị tỳ khưu rằng: “Này các đại đức tỳ khưu.” “Thưa đại đức.” Các vị tỳ khưu ấy đă trả lời đại đức Sārīputta. Đại đức Sārīputta đă nói điều này: - Này các đại đức, đây là bảy giác chi. Bảy là ǵ? Niệm giác chi, trạch pháp giác chi ...(như trên)... xả giác chi. Này các đại đức, đây là bảy giác chi. Này các đại đức, trong số bảy giác chi này, (nếu) tôi đây mong muốn an trú vào buổi sáng với bất cứ giác chi nào th́ tôi an trú vào buổi sáng với chính giác chi ấy. (Nếu) tôi đây mong muốn an trú vào giữa trưa ...(như trên)... vào buổi chiều với bất cứ giác chi nào th́ tôi an trú vào buổi chiều với chính giác chi ấy. Này các đại đức, nếu (điều gọi là) ‘niệm giác chi’ hiện hữu ở tôi, là ‘vô lượng’ ở tôi, là ‘khởi đầu thật tĩnh lặng’ ở tôi, và tôi nhận biết về điều ấy đang tồn tại là ‘Nó tồn tại.’ Nếu điều ấy biến mất ở tôi, tôi nhận biết rằng: ‘Nó biến mất ở tôi do duyên ấy.’ Nếu (điều gọi là) ‘trạch pháp giác chi’ ...(như trên)... ‘xả giác chi’ hiện hữu ở tôi, là ‘vô lượng’ ở tôi, là ‘khởi đầu thật tĩnh lặng’ ở tôi, và tôi nhận biết về điều ấy đang tồn tại là ‘Nó tồn tại.’ Nếu điều ấy biến mất ở tôi, tôi nhận biết rằng: ‘Nó biến mất ở tôi do duyên ấy.’ Này các đại đức, cũng giống như trường hợp đức vua hoặc vị quan đại thần của đức vua có chiếc rương đầy các loại vải nhiều màu sắc khác nhau. Nếu vị ấy mong muốn choàng lên vào buổi sáng một cặp vải nào đó th́ có thể choàng lên vào buổi sáng chính cặp vải ấy. Nếu vị ấy mong muốn choàng lên vào giữa trưa ...(như trên)... vào buổi chiều một cặp vải nào đó th́ có thể choàng lên vào buổi sáng chính cặp vải ấy. Này các đại đức, tương tợ y như thế trong số bảy giác chi này, (nếu) tôi mong muốn an trú vào buổi sáng với bất cứ giác chi nào th́ tôi an trú vào buổi sáng với chính giác chi ấy. (Nếu) tôi mong muốn an trú vào giữa trưa ...(như trên)... vào buổi chiều với bất cứ giác chi nào th́ tôi an trú vào buổi chiều với chính giác chi ấy. Này các đại đức, nếu (điều gọi là) ‘niệm giác chi’ hiện hữu ở tôi, là ‘vô lượng’ ở tôi, là ‘khởi đầu thật tĩnh lặng’ ở tôi, và tôi nhận biết về điều ấy đang tồn tại là ‘Nó tồn tại.’ Nếu điều ấy biến mất ở tôi, tôi nhận biết rằng: ‘Nó biến mất ở tôi do duyên ấy.’ Nếu (điều gọi là) ‘trạch pháp giác chi’ ...(như trên)... ‘xả giác chi’ hiện hữu ở tôi, là ‘vô lượng’ ở tôi, là ‘khởi đầu thật tĩnh lặng’ ở tôi, và tôi nhận biết về điều ấy đang tồn tại là ‘Nó tồn tại.’ Nếu điều ấy biến mất ở tôi, tôi nhận biết rằng:: ‘Nó biến mất ở tôi do duyên ấy.’ Có giác chi như vầy: “Nếu (điều gọi là) ‘niệm giác chi’ hiện hữu” là (có ư nghĩa) thế nào? Cho đến khi nào sự diệt tận c̣n được thiết lập th́ cho đến khi ấy c̣n có giác chi như vầy: “Nếu (điều gọi là) ‘niệm giác chi’ hiện hữu.” Cũng giống như đối với cây đèn dầu đang được đốt cháy, cho đến khi nào c̣n có ngọn lửa th́ cho đến khi ấy c̣n có ánh sáng, cho đến khi nào c̣n có ánh sáng th́ cho đến khi ấy c̣n có ngọn lửa. Tương tợ y như thế, cho đến khi nào sự diệt tận c̣n được thiết lập th́ cho đến khi ấy c̣n có giác chi như vầy: “Nếu (điều gọi là) ‘niệm giác chi’ hiện hữu.” Có giác chi như vầy: “Nếu (niệm giác chi) là ‘vô lượng’” là (có ư nghĩa) thế nào? Các phiền năo, toàn bộ các pháp đă xâm nhập, và các hành đưa đến tái sanh là có tính chất hạn lượng; sự diệt tận theo ư nghĩa không thể bị lay chuyển, theo ư nghĩa không tạo tác là vô hạn lượng. Cho đến khi nào sự diệt tận c̣n được thiết lập th́ cho đến khi ấy c̣n có giác chi như vầy: “Nếu (niệm giác chi) là ‘vô lượng’.” Có giác chi như vầy: “Nếu (niệm giác chi) là ‘khởi đầu tốt đẹp và tĩnh lặng’” là (có ư nghĩa) thế nào? Các phiền năo, toàn bộ các pháp đă xâm nhập, và các hành đưa đến tái sanh là không tĩnh lặng; sự diệt tận theo ư nghĩa thanh tịnh, theo ư nghĩa cao quư là pháp tĩnh lặng. Cho đến khi nào sự diệt tận c̣n được thiết lập th́ cho đến khi ấy c̣n có giác chi như vầy: “Nếu (niệm giác chi) là ‘khởi đầu tốt đẹp và tĩnh lặng’.” “Và tôi nhận biết về điều ấy đang tồn tại là ‘Nó tồn tại.’ Nếu điều ấy biến mất, tôi nhận biết rằng ‘Nó biến mất ở tôi do duyên ấy’” là (có ư nghĩa) thế nào? Niệm giác chi tồn tại với bao nhiêu biểu hiện? Niệm giác chi biến mất với bao nhiêu biểu hiện? Niệm giác chi tồn tại với tám biểu hiện. Niệm giác chi biến mất với tám biểu hiện. Niệm giác chi tồn tại với tám biểu hiện ǵ? Do hướng tâm đến sự không sanh khởi, niệm giác chi tồn tại; do không hướng tâm đến sự sanh khởi, niệm giác chi tồn tại; do hướng tâm đến sự không vận hành, niệm giác chi tồn tại; do không hướng tâm đến sự vận hành, niệm giác chi tồn tại; do hướng tâm đến vô tướng, niệm giác chi tồn tại; do không hướng tâm đến hiện tướng, niệm giác chi tồn tại; do hướng tâm đến sự diệt tận, niệm giác chi tồn tại; do không hướng tâm đến các hành, niệm giác chi tồn tại; niệm giác chi tồn tại với tám biểu hiện này. Niệm giác chi biến mất với tám biểu hiện ǵ? Do hướng tâm đến sự sanh khởi, niệm giác chi biến mất; do không hướng tâm đến sự không sanh khởi, niệm giác chi biến mất; do hướng tâm đến sự vận hành, niệm giác chi biến mất; do không hướng tâm đến sự không vận hành, niệm giác chi biến mất; do hướng tâm đến hiện tướng, niệm giác chi biến mất; do không hướng tâm đến vô tướng, niệm giác chi biến mất; do hướng tâm đến các hành, niệm giác chi biến mất; do không hướng tâm đến sự diệt tận, niệm giác chi biến mất; niệm giác chi biến mất với tám biểu hiện này. “Và tôi nhận biết về điều ấy đang tồn tại là ‘Nó tồn tại.’ Nếu điều ấy biến mất, tôi nhận biết rằng ‘Nó biến mất ở tôi do duyên ấy’” là (có ư nghĩa) như thế. Có giác chi như vầy: “Nếu (điều gọi là) ‘trạch pháp giác chi’ hiện hữu” là (có ư nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Có giác chi như vầy: “Nếu (điều gọi là) ‘xả giác chi’ hiện hữu” là (có ư nghĩa) thế nào? Cho đến khi nào sự diệt tận c̣n được thiết lập th́ cho đến khi ấy c̣n hiện hữu giác chi như vầy: “Nếu (điều gọi là) ‘xả giác chi’ hiện hữu.” Cũng giống như đối với cây đèn dầu đang được đốt cháy, cho đến khi nào c̣n có ngọn lửa th́ cho đến khi ấy c̣n có ánh sáng, cho đến khi nào c̣n có ánh sáng th́ cho đến khi ấy c̣n có ngọn lửa. Tương tợ y như thế, cho đến khi nào sự diệt tận c̣n được thiết lập th́ cho đến khi ấy c̣n có giác chi như vầy: “Nếu (điều gọi là) ‘xả giác chi’ hiện hữu.” Có giác chi như vầy: “Nếu (xả giác chi) là ‘vô lượng’” là (có ư nghĩa) thế nào? Các phiền năo, toàn bộ các pháp đă xâm nhập, và các hành đưa đến tái sanh là có tính chất hạn lượng; sự diệt tận theo ư nghĩa không thể bị lay chuyển, theo ư nghĩa không tạo tác là vô hạn lượng. Cho đến khi nào sự diệt tận c̣n được thiết lập th́ cho đến khi ấy c̣n có giác chi như vầy: “Nếu (xả giác chi) là ‘vô lượng’.” Có giác chi như vầy: “Nếu (xả giác chi) là ‘khởi đầu tốt đẹp và tĩnh lặng’” là (có ư nghĩa) thế nào? Các phiền năo, toàn bộ các pháp đă xâm nhập, và các hành đưa đến tái sanh là không tĩnh lặng; sự diệt tận theo ư nghĩa thanh tịnh, theo ư nghĩa cao quư là pháp tĩnh lặng. Cho đến khi nào sự diệt tận c̣n được thiết lập th́ cho đến khi ấy c̣n có giác chi như vầy: “Nếu (xả giác chi) là ‘khởi đầu tốt đẹp và tĩnh lặng’.” “Và tôi nhận biết về điều ấy đang tồn tại là ‘Nó tồn tại.’ Nếu điều ấy biến mất, tôi nhận biết rằng: ‘Nó biến mất ở tôi do duyên ấy’” là (có ư nghĩa) thế nào? Xả giác chi tồn tại với bao nhiêu biểu hiện? Xả giác chi biến mất với bao nhiêu biểu hiện? Xả giác chi tồn tại với tám biểu hiện. Xả giác chi biến mất với tám biểu hiện. Xả giác chi tồn tại với tám biểu hiện ǵ? Do hướng tâm đến sự không sanh khởi, xả giác chi tồn tại; do không hướng tâm đến sự sanh khởi, xả giác chi tồn tại; do hướng tâm đến sự không vận hành, xả giác chi tồn tại; do không hướng tâm đến sự vận hành, xả giác chi tồn tại; do hướng tâm đến vô tướng, xả giác chi tồn tại; do không hướng tâm đến hiện tướng, xả giác chi tồn tại; do hướng tâm đến sự diệt tận, xả giác chi tồn tại; do không hướng tâm đến các hành, xả giác chi tồn tại. Xả giác chi tồn tại với tám biểu hiện này. Xả giác chi biến mất với tám biểu hiện ǵ? Do hướng tâm đến sự sanh khởi, xả giác chi biến mất; do không hướng tâm đến sự không sanh khởi, xả giác chi biến mất; do hướng tâm đến sự vận hành, xả giác chi biến mất; do không hướng tâm đến sự không vận hành, xả giác chi biến mất; do hướng tâm đến hiện tướng, xả giác chi biến mất; do không hướng tâm đến vô tướng, xả giác chi biến mất; do hướng tâm đến các hành, xả giác chi biến mất; do không hướng tâm đến sự diệt tận, xả giác chi biến mất. Xả giác chi biến mất với tám biểu hiện này. “Và tôi nhận biết về điều ấy đang tồn tại là ‘Nó tồn tại.’ Nếu điều ấy biến mất, tôi nhận biết rằng: ‘Nó biến mất ở tôi do duyên ấy’” là (có ư nghĩa) như thế. Phần Giảng về Giác Chi được đầy đủ. --ooOoo-- [1] ‘Liên quan ba trường hợp này, có sự nhận thức, suy nghĩ, lời nói, hành động, sự nuôi mạng, sự tinh tấn, niệm, định’ là nói về việc vận hành do tác động của sự thấu triệt về nhân sanh (Khổ), về Khổ, và về sự diệt tận (Khổ) (PṭsA. 3, 598). [2] Bujjhati: được giác ngộ (Sơ Đạo, Đạo Nhập Lưu), anubujjhati: được giác ngộ (Nhị Đạo, Đạo Nhất Lai), paṭibujjhati: được giác ngộ (Tam Đạo, Đạo Bất Lai), sambujjhati: được giác ngộ (Tứ Đạo, Đạo A-la-hán). Bốn từ giác ngộ theo thứ bậc này đều có chung từ gốc √budh + ya + ti có nghĩa thụ động là ‘được giác ngộ’ áp dụng cho trường hợp chứng ngộ Đạo đầu tiên. Ba trường hợp sau có thêm các tiếp đầu ngữ anu (theo sau, kế tiếp), paṭi (hướng về, hướng đến), saṃ (hoàn toàn). Do không chọn được từ dịch thích hợp nên ghi đầy đủ nghĩa như vậy.
|
|||