Trang Chính

Trang Các Bản Dịch Mới

Font VU-Times

 

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 41

 

APADĀNAPĀḶI & THÁNH NHÂN KƯ SỰ

 Tập Ba

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

(Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

III. PHẨM KUṆḌALAKESĪ

21. Kư Sự về Kuṇḍalakesā

639. Trước đây một trăm ngàn kiếp, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhăn về tất cả các pháp, đấng Lănh Đạo đă hiện khởi.

640. Khi ấy, tôi đă được sanh ra tại Haṃsavatī, trong gia đ́nh triệu phú được rạng rỡ bởi vô số loại châu báu, được đầy đủ với những lạc thú lớn lao.

641. Tôi đă đi đến đấng Đại Hùng ấy và đă lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, có niềm tịnh tín sanh khởi, tôi đă đi đến nương tựa vào đấng Chiến Thắng.

642. Khi ấy, đấng Đại Bi tên Padumuttara đă thiết lập tỳ khưu ni Subhā vào vị thế tối thắng trong số các vị ni có thắng trí nhạy bén.

643. Sau khi nghe được điều ấy, tôi đă trở nên hoan hỷ và đă dâng cúng vật thí đến bậc Đại Ẩn Sĩ, rồi đă quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đă phát nguyện vị thế ấy.

644. Đấng Đại Hùng đă nói lời tùy hỷ rằng: “Này cô gái hiền thục, điều nào đă được nàng ước nguyện toàn bộ điều ấy sẽ được thành tựu. Hăy được an lạc, hăy được Niết Bàn.

645. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc ḍng dơi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

646. Nàng sẽ là Bhaddā Kuṇḍakesā, nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp.”

647. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

648. Từ nơi ấy chết đi, tôi đă đi đến cơi trời Dạ Ma, từ đó đă đi đến cơi trời Đẩu Suất, và từ đó đến cơi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cơi Tha Hóa Tự Tại.

649. Do mănh lực của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đă được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.

650. Từ nơi ấy chết đi, (sanh lên) ở giữa loài người tôi đă được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua có quyền lực và của các vị vua có lănh thổ.

651. Tôi đă thọ hưởng sự thành công ở giữa chư Thiên và nhân loại, tôi đă được an vui ở trong mọi nơi, tôi đă luân hồi vô số (đại) kiếp.

652. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đă hiện khởi đấng cao quư tên Kassapa, thuộc ḍng dơi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

653. Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.

654. Tôi đă là người con gái thứ tư của vị (vua) ấy được nổi danh là “Bhikkhudāsī.” Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đă xin xuất gia.

655. 656. Cha đă không cho phép chúng tôi. Khi ấy, là những người con gái của đức vua khéo được nuôi dưỡng, chúng tôi đă thực hành Phạm hạnh của người thiếu nữ ngay tại nhà trong hai chục ngàn năm, không xao lăng. Được hoan hỷ, bảy người con gái đă vui thích trong việc hộ độ đức Phật.

657. Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.

658. Khemā, Uppalavaṇṇā, Paṭācārā, thêm vào tôi, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).

659. Do các nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

660. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đă được sanh ra tại kinh thành Giribbaja, trong gia đ́nh triệu phú thịnh vượng. Rồi đến lúc tôi đă ở vào lứa tuổi thanh xuân.

661. Sau khi nh́n thấy kẻ trộm đang bị dẫn đi để xử tử, tôi đă bị luyến ái với gă. Do đó, cha của tôi đă giải cứu gă ấy khỏi cái chết bằng ngàn đồng tiền.

662. Sau khi biết được tâm ư của tôi, cha đă ban gă ấy cho tôi. Tôi đă trở nên thân thiết, vô cùng yêu thương, gắn bó đối với gă ấy.

663. V́ ḷng tham đối với các đồ trang sức của tôi, gă nghịch thù ấy có ư định gây tội đă đưa (tôi) đến ngọn núi có vực thẳm Kẻ Trộm và đă nghĩ đến việc giết chết (tôi).

664. Khi ấy, trong lúc bảo vệ mạng sống của ḿnh, tôi đă cúi lạy, nghiêm chỉnh chắp tay lại với người chồng, và đă nói lời nói này:

665. “Thưa tướng công, vàng ṿng ngọc trai ngọc bích này có nhiều, xin chàng hăy tự mang đi tất cả. Và hăy thông báo rằng thiếp là ‘Nô tỳ.’”[1]

666. “Này người đẹp, nàng phải chết. Chớ than văn nhiều quá. Và ta biết chắc rằng không giết th́ tài sản không mang đi được.”

667. “Kể từ khi thiếp ghi nhớ được bản thân, kể từ khi thiếp đạt được sự hiểu biết, và thiếp biết chắc rằng không ai khác được yêu thương hơn là chàng.

668. Xin chàng hăy đến, thiếp sẽ ôm lấy chàng và sẽ nhiễu quanh chàng. Và giờ đây không c̣n có sự gần gũi nào giữa thiếp và chàng nữa.”

669. Không hẳn trong mọi trường hợp người nam là khôn ngoan. Người nữ có sự cẩn thật nhiều bề cũng là khôn ngoan.

670. Không hẳn trong mọi trường hợp người nam là khôn ngoan. Người nữ cân nhắc điều lợi ích một cách mau chóng cũng là khôn ngoan.

671. Quả nhiên, một cách nhẹ nhàng và mau chóng tôi đă suy nghĩ mưu kế. Giống như bộ lông (giết chết) con thú, khi ấy tôi đă giết chết gă Sattuka như thế.

672. Và người nào không mau chóng nhận ra điều lợi ích đă bị vuột mất, người có trí kém cỏi ấy sẽ bị giết như là kẻ trộm ở hẻm núi.

673. Và người nào thật mau chóng nhận ra điều lợi ích đă bị vuột mất, (người ấy) thoát khỏi sự quấy rối của kẻ thù, giống như tôi và Sattuka vào lúc ấy vậy.

674. Khi ấy, tôi đă quăng gă Sattuka ấy vào hóc núi, rồi đă đi đến gặp những người (ngoại đạo) mặc vải trắng, và đă xuất gia.

675. Và khi ấy, sau khi đă nhổ lên toàn bộ những sợi tóc của tôi bằng nhíp,[2] họ đă cho tôi xuất gia và đă chỉ dạy giáo lư không có gián đoạn.

676. 677. Tôi đă học xong (giáo lư) ấy từ họ. Tôi đă ngồi xuống mỗi một ḿnh và đă suy xét về (giáo lư) ấy. Có con chó tha bàn tay người đă bị đứt ĺa và đă đánh rơi ở cạnh tôi rồi bỏ chạy. Sau khi nh́n thấy cảnh tượng (ấy), tôi đă nhặt lấy bàn tay có đầy ḍi bọ ấy.

678. Sau khi từ chỗ ấy đứng dậy, bị chấn động tôi đă hỏi những người đồng đạo. Họ đă nói rằng: “Những vị tỳ khưu ḍng Sakya biết rơ ư nghĩa ấy.”

679. (Nghĩ rằng) “Ta sẽ hỏi ư nghĩa ấy,” tôi đây đă đi đến các vị Thinh Văn của đức Phật. Sau khi đón nhận tôi, các vị ấy đă đi đến bên đức Phật Tối Thượng.

680. Và đấng Lănh Đạo ấy đă thuyết Pháp cho tôi về: “Uẩn, xứ, giới, đề mục bất mỹ, vô thường, khổ năo, vô ngă.”

681. 682. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của vị ấy, tôi đă làm cho Pháp nhăn được thanh tịnh. Sau đó, được hiểu rơ Chánh Pháp, tôi đă yêu cầu sự xuất gia và sự tu lên bậc trên. Khi ấy, đấng Lănh Đạo ấy đă nói rằng: “Này cô gái hiền thục, hăy đến.” Khi ấy, tôi đă được tu lên bậc trên. Tôi đă nh́n thấy một ít nước.

683. Với sự rửa sạch bàn chân, tôi đă biết được là có sự tiêu hoại với nước. Khi ấy, tôi đă tự suy xét rằng: “Tất cả các hành cũng là tương tợ như thế.”

684. Do đó, tâm tôi đă được giải thoát trọn vẹn không c̣n chấp thủ. Khi ấy, đấng Chiến Thắng đă tuyên bố tôi là đứng đầu trong số các vị ni có thắng trí nhạy bén.

685. Là người thực hành theo lời dạy của bậc Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.

686. Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh. Sau khi đă quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi đă được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.

687. Bậc Đạo Sư đă được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đă được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đă được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đă được xóa tan.

688. V́ mục đích nào tôi đă rời khỏi gia đ́nh xuất gia vào đời sống không gia đ́nh, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các điều trói buộc đă được tôi đạt đến.

689. Trí tuệ của tôi về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là bao la, trong sạch ở Giáo Pháp của đức Phật tối thượng.

690. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

691. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

692. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được tôi đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

 Tỳ khưu ni Bhaddā Kuṇḍalakesā đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Bhaddā Kuṇḍalakesā là phần thứ nhất.

--ooOoo--

22. Kư Sự về Kisāgotamī

693. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đă hiện khởi.

694. Khi ấy, tôi đă được sanh ra ở một gia đ́nh nọ trong (thành) Haṃsavatī. Tôi đă đi đến và đă nương nhờ vào bậc Quư Nhân ấy.

695. Và tôi đă lắng nghe Giáo Pháp ngọt ngào của vị ấy bao gồm bốn Sự Thật, có phẩm vị tối thắng, đưa đến sự an lạc và tịnh lặng của ṿng luân hồi.

696. Và khi ấy, trong khi thiết lập vị tỳ khưu ni mặc y thô vào vị thế tối thắng, đấng Anh Hùng bậc Tối Thượng Nhân đă khen ngợi.

697. Sau khi đă làm sanh lên niềm phỉ lạc không nhỏ nhoi, sau khi lắng nghe đức hạnh của vị tỳ khưu ni, tôi đă làm công việc phục vụ đến đức Phật tùy theo khả năng, tùy theo sức lực.

698. Tôi đă quỳ xuống ở bậc Hiền Trí Anh Hùng ấy và đă ước nguyện vị thế ấy. Lúc đó, bậc Toàn Giác, đấng Lănh Đạo đă nói lời tùy hỷ về sự lợi ích của vị thế (ấy) rằng:

699. “Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc ḍng dơi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

700. (Người n này) sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là Gotamī.

701. Nghe được điều ấy, tôi đă trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đă chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.

702. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

703. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đă hiện khởi đấng cao quư tên Kassapa, thuộc ḍng dơi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

704. Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.

705. Tôi đă là người con gái thứ năm của vị (vua) ấy, được nổi danh với tên là Dhammā. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đă xin xuất gia.

706. 707. Cha đă không cho phép chúng tôi. Khi ấy, là những người con gái của đức vua khéo được nuôi dưỡng, chúng tôi đă thực hành Phạm hạnh của người thiếu nữ ngay tại nhà trong hai chục ngàn năm, không xao lăng. Được hoan hỷ, bảy người con gái đă vui thích trong việc hộ độ đức Phật.

708. Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.

709. Khemā, Uppalavaṇṇā, Paṭācārā, Kuṇḍalā, tôi, luôn cả Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).

710. Do các nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

711. Và trong kiếp cuối cùng hiện nay, tôi đă được sanh ra trong gia đ́nh triệu phú bị lâm cảnh khốn cùng, không tài sản, bị khánh tận, và tôi đă được gả vào gia đ́nh có tài sản.

712. Ngoại trừ người chồng, những người c̣n lại giễu (tôi) là “Nữ nhân không tài sản.” Và đến khi tôi có con trai, khi ấy tôi đă được cảm t́nh của tất cả.

713. Vào lúc đứa bé trai hiền hậu ấy, có cơ thể mềm mại, được nuôi dưỡng trong sung sướng, được yêu quư như chính mạng sống của tôi đă đi đến cơi chết.

714. Bị dằn vặt bởi sầu muộn, có vẻ mặt thê lương, mắt đẫm lệ, miệng khóc than, tôi đă bồng ẳm thi thể đă chết. Trong lúc than văn, tôi đă đi lang thang.

715. Khi ấy, tự nhận định (sự việc) một ḿnh tôi đă đi đến vị Đệ Nhất Lương Y và đă nói rằng: “Thưa ông, xin ông hăy cho thuốc đem lại sự sống cho con tôi.”

716. Đấng Chiến Thắng, bậc rành rẽ về phương thức huấn luyện, đă nói rằng: “Những người chết không được t́m thấy ở tại ngôi nhà nào th́ nàng hăy mang lại hạt cải từ nơi (ngôi nhà) ấy.”

717. Khi ấy, tôi đă đi ở trong thành Sāvatthī, và đă không đạt được ngôi nhà như thế ấy. Do đó, tôi đă đạt được trí nhớ rằng: “Hạt cải ở đâu, từ nơi đâu?

718. Sau khi đă quăng bỏ thây chết, tôi đă đi đến đấng Lănh Đạo Thế Gian. Sau khi nh́n thấy tôi từ rất xa, vị có âm giọng ngọt ngào đă nói rằng:

719. “Và người nào đă sống trăm năm không nh́n thấy sự sanh diệt, cuộc sống một ngày là tốt hơn đối với người đang nh́n thấy sự sanh diệt.[3]

720. Không phải là quy luật thuộc về ngôi làng, không phải là quy luật thuộc về phố chợ, quy luật này cũng không phải thuộc về một gia đ́nh, mà thuộc về tất cả thế gian luôn cả chư Thiên; quy luật ấy chính là tính chất vô thường.”

721. Sau khi lắng nghe lời kệ này, tôi đây đă làm cho Pháp nhăn được thanh tịnh. Sau đó, được hiểu rơ Chánh Pháp, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

722. Trong khi đă được xuất gia như thế, trong khi gắn bó vào Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, trong thời gian không bao lâu tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

723. Là người thực hành theo lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.

724. Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh. Sau khi đă quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi đă được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.

725. Bậc Đạo Sư đă được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đă được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đă được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đă được xóa tan.

726. V́ mục đích nào tôi đă rời khỏi gia đ́nh xuất gia vào đời sống không gia đ́nh, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đă được tôi đạt đến.

727. Trí tuệ của tôi về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức Phật tối thượng.

728. Sau khi mang về từ đống rác, từ mộ địa, và thậm chí từ đường lộ, từ đó tôi đă thực hiện y hai lớp và đă mặc y thô.

729. Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo, ở giữa các chúng đă thiết lập (tôi) vào vị thế tối thắng trong việc mặc y thô.

730. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

731. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

732. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được tôi đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Kisāgotamī đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Kisāgotamī là phần thứ nh́.

--ooOoo--

23. Kư Sự về Dhammadinnā

733. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đă hiện khởi.
734. Khi ấy, tôi đă ở trong một gia đ́nh nọ tại thành Haṃsavatī. Tôi đă là người nữ làm thuê cho người khác, cẩn trọng, ǵn giữ tánh hạnh.

735. Sujāta, vị Thinh Văn hàng đầu của đức Phật Padumuttara, đă rời khỏi trú xá đi khất thực.

736. Là người nữ đội nước, khi ấy trong lúc cầm lấy bầu nước đang đi, tôi đă nh́n thấy vị ấy. Được tịnh tín, tôi đă tự tay ḿnh dâng (vị ấy) món bánh ngọt.

737. Sau khi thọ lănh, vị ấy đă ngồi xuống ngay tại nơi ấy và đă thọ dụng. Sau đó, tôi đă đưa vị ấy về nhà và đă dâng vật thực đến vị ấy.

738. Do đó, người chủ của tôi hoan hỷ đă nhận làm con dâu của ḿnh. Tôi đă cùng với người mẹ chồng đi đến và đă đảnh lễ bậc Toàn Giác.

739. Khi ấy, Ngài đă tán dương và đă thiết lập vị tỳ khưu ni là vị thuyết giảng Giáo Pháp vào vị thế tối thắng. Sau khi nghe được điều ấy, tôi đă hoan hỷ.

740. Tôi đă thỉnh mời đức Thiện Thệ đấng Lănh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng, rồi đă dâng cúng đại thí và đă ước nguyện vị thế ấy.

741. 742. Sau đó, với giọng có âm điệu đều đều vang vang, đấng Thiện Thệ đă nói với tôi rằng: “Này người thiếu nữ hiền thục là người dâng vật thực, được vui thích trong việc hộ độ Ta cùng với hội chúng, được gắn bó trong việc lắng nghe Chánh Pháp, với tâm ư được tăng trưởng về đức hạnh, nàng hăy hoan hỷ, nàng sẽ đạt được kết quả của điều nguyện ước.

743. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc ḍng dơi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

744. Nàng sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là Dhammadinnā.”

745. Nghe được điều ấy, tôi đă trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đă chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.

746. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

747. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đă hiện khởi đấng cao quư tên Kassapa, thuộc ḍng dơi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

748. Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāṇasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.

749. Tôi đă là người con gái thứ sáu của vị (vua) ấy được nổi danh là Sudhammā. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đă xin xuất gia.

Tụng phẩm thứ ba.

750. 751. Cha đă không cho phép chúng tôi. Là những người con gái của đức vua khéo được nuôi dưỡng có sự cư ngụ cùng với gia đ́nh, chúng tôi đă thực hành Phạm hạnh của người thiếu nữ trong hai chục ngàn năm, không xao lăng. Được hoan hỷ, bảy người con gái đă vui thích trong việc hộ độ đức Phật.

752. Samaṇī, Samaṇaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.

753. Khemā, Uppalavaṇṇā, Paṭācārā, Kuṇḍalā, Gotamī, tôi, và luôn cả Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).

754. Do các nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

755. Và vào kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đă được sanh ra ở kinh thành Giribbaja, trong gia đ́nh triệu phú, thịnh vượng, có sự dồi dào về tất cả các dục lạc.

756. Vào lúc đạt đến sắc đẹp và đức hạnh ở vào thời đầu của tuổi thanh xuân, khi ấy tôi đă đi đến gia tộc khác (làm vợ) và đă sống thọ hưởng lạc thú.

757. Sau khi đi đến đấng Nương Nhờ của thế gian và đă lắng nghe thuyết giảng Giáo Pháp, chồng của tôi đă đạt đến quả vị Bất Lai, có trí giác ngộ hoàn hảo.

758. Khi ấy, tôi đă thuyết phục vị ấy rồi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Trong thời gian không bao lâu, tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

759. Khi ấy, vị nam cư sĩ ấy đă đi đến tôi và đă hỏi về các tuệ thâm sâu và khôn khéo. Tôi đă giảng giải về tất cả các điều ấy.[4]

760. Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng đă thiết lập tôi vào vị thế tối thắng: “Ta không nh́n thấy vị tỳ khưu ni nào khác là vị thuyết giảng Giáo Pháp như là vị ni này.

761. Này các tỳ khưu, Dhammadinnā là vị ni sáng trí, các ngươi hăy ghi nhớ như thế.” Được đấng Lănh Đạo thương xót, tôi đă trở thành vị ni trí tuệ như thế.

762. Bậc Đạo Sư đă được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đă được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đă được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đă được xóa tan.

763. V́ mục đích nào tôi đă rời khỏi gia đ́nh xuất gia vào đời sống không gia đ́nh, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đă được tôi đạt đến.

764. Là người thực hành theo lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.

765. Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh. Sau khi đă quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.

766. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

767. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

768. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được tôi đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Dhammadinnā đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Dhammadinnā là phần thứ ba.

--ooOoo--

24. Kư Sự về Sakulā

769. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đă hiện khởi.

770. V́ sự tấn hóa, v́ sự lợi ích, v́ sự an lạc của tất cả chúng sanh, đấng Siêu Nhân, bậc cao quư trong số các vị đang thuyết giảng đă sanh ra ở thế gian gồm cả Thiên giới.

771. Đă đạt đến danh vọng cao tột, đấng Chiến Thắng có sự vinh quang, có được sự tán dương ca ngợi. Ngài được tôn vinh, được nổi danh ở tất cả các phương của toàn thể thế gian.

772. Ngài đă vượt lên trên sự hoài nghi, đă vượt qua sự lưỡng lự, đă tṛn đủ tâm tư, đă đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng.

773. Là người khai mở con đường chưa được khai mở, đấng Tối Thượng Nhân đă nói đến điều chưa được nói đến và đă nhận thức điều chưa được nhận thức.

774. Đấng Nhân Ngưu là vị biết được Đạo lộ, là vị rành mạch về Đạo lộ, là vị thuyết về Đạo lộ. Được thiện xảo về Đạo lộ, đấng Đạo Sư là cao quư tối thượng trong số các bậc Điều Ngự (người điều khiển xe).

775. Đấng Đại Bi, bậc Đạo Sư, vị Lănh Đạo đă thuyết giảng Giáo Pháp. Ngài tiếp độ những chúng sanh (đang) bị đắm ch́m trong đầm lầy ái dục.

776. Khi ấy, tôi đă được sanh ra ở tại Haṃsavatī, là niềm hoan hỷ của ḍng Sát-đế-lỵ. Và tôi đă có sắc đẹp tuyệt vời, có tài sản, được yêu quư, và có sự vẻ vang.

777. Là người con gái vô cùng xinh đẹp của vị đại vương Ānanda, và cũng là người em gái khác mẹ của vị (Phật) tên Padumuttara.

778. Được tháp tùng bởi các người con gái của đức vua, được trang điểm với tất cả các đồ trang sức, tôi đă đi đến đấng Đại Hùng và đă lắng nghe thuyết giảng Giáo Pháp.

779. Chính vào khi ấy, bậc Thầy của thế gian ấy ở giữa các chúng đă tán dương vị tỳ khưu ni có thiên nhăn và đă thiết lập vị ni ấy vào vị thế tối thắng.

780. Sau khi lắng nghe điều ấy, được mừng rỡ tôi đă dâng cúng vật thí đến bậc Đạo Sư. Và sau khi cúng dường đến bậc Toàn Giác, tôi đă ước nguyện về thiên nhăn.

781. Do đó, bậc Đạo Sư đă nói với tôi rằng: “Này người thiếu nữ vui vẻ, nàng sẽ đạt được điều đă ước nguyện. Điều đă khéo được mong muốn này là quả báu của các việc dâng cúng đèn và Giáo Pháp.

782. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc ḍng dơi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

783. Nàng sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là Sakulā.

784. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

785. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đă hiện khởi đấng cao quư tên Kassapa, thuộc ḍng dơi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

786. Khi ấy, tôi đă là nữ du sĩ ngoại đạo có hạnh độc hành. Sau khi đi lang thang để khất thực tôi đă nhận được một số lượng dầu thắp.

787. Sau khi thắp sáng ngọn đèn với số (dầu) đó, với tâm ư trong sạch tôi đă phục vụ ngôi bảo tháp của đấng Tối Thượng Nhân trọn cả đêm.

788. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

789. Do mănh lực của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra th́ có các ngọn đèn lớn chiếu sáng ở chính tại các nơi ấy khi tôi đi đến.

790. Nếu tôi muốn, tôi (có thể) nh́n thấy ngọn núi sau khi đă vượt lên xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá; điều này là quả báu của việc dâng cúng đèn.

791. Tôi có cặp mắt trong ngần, và tôi chói sáng với danh vọng, lại c̣n có đức tin và trí tuệ nữa; điều này là quả báu của việc dâng cúng đèn.

792. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đă được sanh vào gia đ́nh Bà-la-môn có nhiều tài sản và lúa gạo, được hài ḷng, được đức vua tôn trọng.

793. Được thành tựu toàn vẹn về cơ thể, được trang điểm với tất cả các đồ trang sức, đứng ở cửa sổ tôi (đă nh́n thấy) đấng Thiện Thệ ở lối đi vào thành.

794. Tôi đă nh́n thấy Ngài đang chói sáng với danh vọng, được trọng vọng bởi chư Thiên và nhân loại, được hội đủ các tướng mạo phụ, được điểm tô bằng những tướng mạo chính.

795. Với tâm phấn chấn, với ư vui mừng, tôi đă xin xuất gia. Trong thời gian không bao lâu tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

796. Là người thực hành theo lời dạy của đấng Đạo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.

797. Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh. Sau khi đă quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi đă được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.

798. Bậc Đạo Sư đă được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đă được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đă được đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đă được xóa tan.

799. V́ mục đích nào tôi đă rời khỏi gia đ́nh xuất gia vào đời sống không gia đ́nh, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đă được tôi đạt đến.

800. Do đó, đấng Đại Bi, bậc Tối Thượng Nhân đă thiết lập tôi vào vị thế tối thắng “Sakulā là vị ni đứng đầu trong các vị ni có thiên nhăn.”

801. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

802. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

803. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được tôi đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Sakulā đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Sakulā là phần thứ tư.

--ooOoo--

25. Kư Sự về Nandā - Mỹ Nhân của Xứ Sở

804. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đă hiện khởi.

805. Là vị giáo giới, vị làm cho hiểu rơ, vị hành xử đối với tất cả chúng sanh, là thiện xảo trong việc chỉ dạy, đức Phật đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

806. Là bậc Thương Tưởng, đấng Bi Mẫn, vị tầm cầu sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, Ngài đă an trú vào ngũ giới cho tất cả các ngoại đạo đă đi đến.

807. Như thế, được tô điểm với các vị A-la-hán có được năng lực như thế ấy, (thế gian) đă không bị rối loạn và không có các ngoại đạo.

808. Bậc Đại Hiền Trí ấy cao năm mươi tám ratana (14. 50 m) tợ như cây cột trụ bằng vàng, có ba mươi hai quư tướng.

809. Cho đến khi ấy, tuổi thọ được biết là một trăm ngàn năm. Trong khi tồn tại như thế, Ngài đă giúp cho nhiều người vượt qua.

810. Khi ấy, tôi đă được sanh ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đ́nh triệu phú được rạng rỡ với vô số loại châu báu, được đầy đủ với những lạc thú lớn lao.

811. Tôi đă đi đến đấng Đại Hùng ấy và đă lắng nghe thuyết giảng Giáo Pháp Bất Tử, có phẩm vị tối thắng, làm rơ về chân lư tuyệt đối.

812. Khi ấy, được tịnh tín tôi đă thỉnh mời đấng Lănh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng và đă tự tay ḿnh dâng cúng đại thí đến vị ấy.

813. Tôi đă quỳ xuống đê đầu đến bậc Anh Hùng đấng Lănh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng, tôi đă ước nguyện vị thế tối thắng trong số các tỳ khưu ni có thiền chứng.

814. Khi ấy, bậc Điều Phục những ai chưa được điều phục, đấng Nương Nhờ của ba cơi, vị Chúa Tể, bậc Nhân Báo đă chú nguyện rằng: “Nàng sẽ đạt được điều đă khéo được ước nguyện ấy.

815. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc ḍng dơi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

816. Nàng sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là Nandā.”

817. Nghe được điều ấy, tôi đă trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đă chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.

818. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

819. Mệnh chung từ nơi ấy, tôi đă đi đến cơi trời Dạ Ma, từ đó đă đi đến cơi trời Đẩu Suất, và từ đó đến cơi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cơi Tha Hóa Tự Tại.

820. Do mănh lực của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều đă được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.

821. Mệnh chung từ nơi ấy (sanh) vào thân nhân loại, tôi đă được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các đấng Chuyển Luân Vương và các vị vua cai quản các lănh thổ.

822. Tôi đă thọ hưởng sự thành đạt ở giữa chư Thiên và loài người, đă được an vui ở tất cả các nơi, và đă luân hồi qua nhiều đại kiếp.

823. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, tôi đă là người con gái hoàn hảo của đức vua Suddhodana tại thành phố tên là Kapila.

824. Nh́n thấy (tôi) có nét đẹp vô cùng rạng rỡ, gia đ́nh ấy đă trở nên vui vẻ; v́ thế tôi có tên là “Nandā” (vui vẻ). Tôi đă được công nhận là xinh đẹp.

825. Và cũng ở trong thành phố đáng yêu ấy, tôi đă được nổi danh là “Mỹ nhân” trong số tất cả các thiếu nữ ngoại trừ Yasodharā.

826. Người anh trai đầu là đấng Cao Cả của tam giới, cũng vậy người út là vị A-la-hán. Mỗi một ḿnh tôi là người tại gia, tôi đă bị mẹ quở trách rằng:

827. “Này con, được sanh trong gia tộc ḍng Sakya (Thích Ca), con là em gái của đức Phật. Con cũng không c̣n có Nanda nữa, việc ǵ con lại ở tại gia?

828. Tuổi trẻ có sự già là nơi cư ngụ, xác thân được xem là bất tịnh, sức khỏe cũng có cơn bệnh là điểm cuối cùng, mạng sống có sự chết là nơi chấm dứt.

829. Sắc thân này của con dầu là xinh đẹp, được yêu dấu như là mặt trăng, quyến rũ, có sự trang điểm của những đồ trang sức tợ như được gắn liền với sự rạng rỡ.

830. (Sắc thân này của con) được gộp chung lại thuần sự tinh túy của thế gian, là sự đem lại chất vị cho những con mắt, là sự sản xuất ra danh thơm của các điều phước thiện, là niềm vui của gia tộc Okkāka.

831. Vào thời gian chẳng bao lâu nữa, sự già sẽ ngự trị. Này cô gái trẻ, hăy từ bỏ gia đ́nh. Này cô gái hoàn hảo, hăy thực hành Giáo Pháp.”

832. Được vui thích với sắc đẹp và tuổi thanh xuân, sau khi nghe lời nói của người mẹ, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh bằng thân chứ không phải bằng tâm.

833. Và với sự cố gắng lớn lao, mẹ (tôi đă) nói để thuyết phục tôi gắn bó vào việc tham thiền, nhưng tôi đă không năng nổ về việc ấy.

834. Do đó, bậc Đại Bi, đấng Chiến Thắng, đă nh́n thấy tôi có ḷng khao khát về các dục, và đối với tôi ư nghĩa của sự nhàm chán về xác thân là qua lộ tŕnh của mắt.

835. Bằng năng lực tự thân, Ngài đă làm hiện ra người phụ nữ lộng lẫy, đáng nh́n, rất dễ thương, vô cùng xinh đẹp hơn hẳn luôn cả tôi.

836. Sau khi nh́n thấy người nữ có thân thể vô cùng kinh ngạc ấy, tôi đă sửng sốt. Và tôi đă suy nghĩ về sự lợi ích thuộc về nhân gian đối với con mắt rằng: “Có quả báu đến ta.

837. (Tôi đă nói rằng): “Này em yêu dấu, hăy đến với chị đây. Có cần ǵ em hăy nói với chị. Hăy nói với chị về gia đ́nh, tên, ḍng họ của em nếu em ưng ư.”

838. (Cô gái đáp): “Này chị yêu dấu, không phải là lúc hỏi han. Hăy cho em tựa vào ḷng. Tay chân của em như là ch́m xuống. Chị hăy ru em ngủ một chốc.

839. Sau đó, nàng có đôi mắt xinh đẹp ấy đă kê đầu vào hông của tôi rồi đă thiếp đi. Có con nhện vô cùng ghê rợn đă rơi xuống ở trán của nàng.

840. Cùng với sự rơi xuống của con nhện ấy, mụn nhọt đă nổi lên. Chúng đă ṛ rỉ, vỡ ra, và toàn thân là mủ và máu.

841. Và khuôn mặt đă bị nứt nẻ, thi thể có mùi hôi thối. Toàn thân bị trương lên, đổi sang màu tím, và thối rửa.

842. Với tất cả các chi thể bị run rẩy, chốc chốc lại bị hụt hơi, nàng ấy trong khi cảm nhận sự khổ đau của ḿnh đă than văn một cách thê lương rằng:

843. “Em bị khổ sở v́ nỗi đau đớn, và các cảm thọ được chạm đến, em bị đắm ch́m trong nỗi khổ đau lớn lao. Này cô bạn gái, chị hăy là nơi nương nhờ của em.”

844. “Vẻ đẹp ở khuôn mặt của cô đâu rồi? Lỗ mũi cao của cô đâu rồi? Làn môi màu đỏ của trái cây bimba tuyệt hảo của cô, khuôn mặt của cô đă đi đâu rồi?

845. Gương mặt tợ như mặt trăng đâu rồi? Chiếc cổ ba ngần đă đi đâu rồi? Và các lỗ tai run rẩy lung linh của cô đă đi đến t́nh trạng thay đổi rồi.

846. Bộ ngực có h́nh dáng đóa hoa sen c̣n dạng chồi tợ như bầu nước đă trở thành thi thể hôi thối, bị phân ră, có mùi khó chịu.

847. Eo thon, mông đầy đặn bị sưng lên, có sự lở lói và độc hại, trở thành nơi chứa đầy vật không trong sạch; ôi xác thân là không vĩnh viễn!

848. Toàn bộ nguồn gốc của thân thể là có mùi hôi thối, có sự hăi sợ, như là băi tha ma kinh hoàng, lại là nơi mà những kẻ ngu hứng thú!

849. Lúc bấy giờ, sau khi nh́n thấy tôi có tâm bị chấn động, đấng Đại Bi, bậc Lănh Đạo Thế Gian, người anh trai của tôi, đă nói lên những lời kệ này:

850. “Này Nandā, hăy nh́n thân thể bệnh hoạn, bất tịnh, hôi thối. Em hăy tu tập tâm về đề mục bất mỹ (tử thi) trở thành chuyên nhất, khéo được tập trung.

851. Thân này như thế nào th́ xác kia như vậy, xác kia như thế nào th́ thân này như vậy, (là vật) có mùi khó chịu hoặc hôi thối lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.

852. Trong khi xem xét xác thân này như thế đêm ngày không mệt mỏi, từ đó với niệm với tuệ sau khi đă nhàm chán th́ em sẽ nh́n thấy.”

853. Do đó, sau khi nghe được các lời kệ khéo thuyết, tôi đă bị vô cùng chấn động. Đứng tại chỗ ấy, trong lúc quán sát tôi đă đạt được phẩm vị A-la-hán.

854. Ngồi xuống ở bất cứ nơi nào, tôi luôn luôn có mục đích chính là thiền. Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng đă thiết lập tôi vào vị thế tối thắng.

855. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

856. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

857. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được tôi đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Nandā đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Nandā là phần thứ năm.

--ooOoo--

26. Kư Sự về Soṇā

858. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đă hiện khởi.

859. Khi ấy, tôi đă được sanh ra trong gia đ́nh triệu phú, được hạnh phúc, được tôn vinh, yêu quư. Tôi đă đi đến bậc Hiền Trí cao quư ấy và đă lắng nghe lời nói ngọt ngào.

860. Đấng Chiến Thắng đă tán dương vị tỳ khưu ni đứng đầu trong số các vị ni có sự ra sức tinh tấn. Sau khi nghe được điều ấy, tôi đă trở nên hoan hỷ và tôi đă thể hiện sự thành kính đến bậc Đạo Sư.

861. Khi ấy, tôi đă đảnh lễ bậc Toàn Giác và đă ước nguyện vị thế ấy. Đấng Đại Hùng đă nói lời tùy hỷ rằng: “Ước nguyện của nàng sẽ được thành tựu.

862. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc ḍng dơi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

863. Nàng sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Soṇā.

864. Nghe được điều ấy, tôi đă trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đă chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.

865. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

866. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đă được sanh vào gia đ́nh triệu phú sung túc, thịnh vượng, có tài sản lớn lao ở trong kinh thành Sāvatthī.

867. Và khi đă đạt đến tuổi thanh xuân, tôi đă đi đến nhà người chồng và đă sanh ra mười người con trai, hết thảy đều có vóc dáng hoàn hảo.
868. Và tất cả bọn chúng đều được nuôi dưỡng trong sung sướng, có sự thu hút ánh mắt của mọi người. Ngay cả đối với những kẻ nghịch thù, chúng cũng được ưa thích. Chúng được yêu mến c̣n hơn cả tôi nữa.

869. Sau đó, với sự không mong muốn của tôi, người chồng ấy của tôi được khích lệ bởi mười người con trai đă xuất gia trong Giáo Pháp của vị Trời của chư Thiên.

870. Khi ấy, c̣n mỗi một ḿnh tôi đă suy xét rằng: “Đă đủ cho cuộc sống của ta là kẻ bị chồng và những người con trai bỏ rơi, lại già cả, và thảm thương.

871. Ta cũng sẽ đi đến nơi nào mà người chồng của ta đă đạt đến.” Sau khi suy xét như thế, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

872. Và sau đó, các vị tỳ khưu ni đă để tôi ở lại tu viện của các tỳ khưu ni như thế rồi đă đi (nghe) giáo giới (bảo rằng): “Bà hăy đun nóng nước.” 

873. Khi ấy, tôi đă đem nước lại đổ vào trong nồi, sau đó đặt ở bếp lửa, rồi đă ngồi xuống. Do đó tâm đă được định tĩnh.

874. Sau khi nh́n thấy các uẩn là vô thường, là khổ năo, và là vô ngă, tôi đă cắt đứt tất cả các lậu hoặc và đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

875. Khi ấy, các vị tỳ khưu ni đă quay lại và đă hỏi về nước nóng. Sau khi chú nguyện vào bản thể của lửa, tôi đă đun nóng nước một cách mau chóng.

876. Ngạc nhiên, các vị ni ấy đă tŕnh lại sự việc này đến đấng Chiến Thắng cao quư. Sau khi nghe điều ấy, được hoan hỷ, đấng Bảo Hộ đă nói lên lời kệ này:

877. “Và người nào đă sống trăm năm, lười biếng, có sự tinh tấn thấp thỏi, cuộc sống một ngày của người đang ra sức tinh tấn một cách bền bĩ là tốt hơn.”[5]

878. Được hài ḷng với sự thực hành tốt đẹp của tôi, đấng Đại Hùng, bậc Đại Hiền Trí ấy đă nói tôi là đứng đầu trong số các vị ni có sự ra sức tinh tấn.

879. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

880. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

881. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được tôi đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Soṇā đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Soṇā là phần thứ sáu.

--ooOoo--

27. Kư Sự về Bhaddākāpilānī

882. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đă hiện khởi.

883. Khi ấy, ở tại Haṃsavatī có người triệu phú tên là Videha có rất nhiều châu báu. Tôi đă là vợ của người ấy.

884. Có lần nọ, người ấy cùng nhóm tùy tùng đă đi đến đấng Mặt Trời của nhân loại và đă lắng nghe Giáo Pháp đưa đến sự diệt tận tất cả khổ đau của đức Phật.

885. Đấng Lănh Đạo đă ngợi khen vị Thinh Văn đứng đầu trong số các vị thuyết về sự giũ bỏ (pháp đầu-đà). Sau khi lắng nghe, chồng tôi đă dâng cúng vật thí đến đức Phật như thế ấy trong bảy ngày.

886. Chồng tôi trong khi làm hội chúng vui vẻ đă quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đă ước nguyện vị thế ấy. Chính vào khi ấy, đấng Cao Quư của loài người –

887. – v́ ḷng thương tưởng đến người triệu phú, đă nói những lời kệ này: “Này con trai, ngươi sẽ đạt được vị thế đă ước nguyện rồi ngươi hăy Niết Bàn.

888. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc ḍng dơi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

889. Ngươi sẽ trở thành nam Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là Kassapa.”

890. Nghe được điều ấy, chồng tôi đă trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái chồng tôi đă chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.

891. Vị (Phật) ấy đă làm chói sáng Giáo Pháp, đă chế phục các ngoại đạo, đă hướng dẫn những ai đáng được hướng dẫn, rồi đă Niết Bàn cùng các vị Thinh Văn.

892. Khi đấng Cao Cả của thế gian ấy đă Niết Bàn, nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đạo Sư chồng tôi đă tập hợp các bạn bè quyến thuộc, rồi cùng với những người ấy đă cho xây dựng –

893. – ngôi bảo tháp làm bằng châu báu cao bảy do-tuần, chói sáng như là trăm ánh hào quang, được tỏa rộng ra như là bông hoa sālā chúa.

894. Tại nơi ấy, chồng tôi đă cho thực hiện bảy trăm ngàn chiếc đĩa nhỏ bằng chính bảy loại châu báu, chúng đang chói sáng như là ngọn lửa của cây sậy.

895. Chồng tôi đă cho đổ đầy với dầu thơm rồi đă cho thắp sáng các ngọn đèn tại nơi ấy nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ, đấng Bi Mẫn của mọi sanh linh.

896. Chồng tôi đă cho thực hiện bảy trăm ngàn chậu đầy đặn được chứa đầy với thuần các loại châu báu nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ.

897. Ở giữa của mỗi nhóm tám chậu là những vật giá trị như vàng được chất đống. Chúng sáng rực với màu sắc tợ như ánh mặt trời vào mùa thu.

898. Chiếu sáng ở bốn cửa là các ṿm cổng làm bằng châu báu. Chiếu sáng là những tấm ván xinh xắn làm bằng châu báu được dựng đứng.

899. Chói sáng là các lẳng hoa khéo tạo ra được đặt ṿng quanh. Chói sáng là các cờ xí bằng châu báu được dựng đứng.

900. Và ngôi bảo tháp làm bằng ngọc quư này khéo được tô màu, khéo được thực hiện, sáng rực với màu sắc tợ như mặt trời vào lúc hoàng hôn.

901. Ngôi bảo tháp có ba bệ thờ. Chồng tôi đă chất đầy một bệ với đá màu vàng, một bệ với đá màu đỏ, và một bệ với đá màu đen.

902. Sau khi đă cho thực hiện việc cúng dường đáng yêu như thế ấy đến bậc Thuyết Giảng cao quư, chồng tôi đă dâng cúng vật thí đến Hội Chúng tùy theo năng lực cho đến hết cuộc đời.

903. Sau khi đă cùng với người triệu phú ấy thực hiện toàn bộ những việc phước báu ấy cho đến hết cuộc đời, tôi đă đi đến nhàn cảnh cùng với chính người ấy.

904. Sau khi đă thọ hưởng sự thành công ở bản thể chư Thiên rồi nhân loại, tôi đă luân hồi cùng với chính người ấy như là h́nh bóng với xác thân vậy.

905. Trước đây chín mươi mốt kiếp, đấng Lănh Đạo Thế Gian Vipassī, vị có ánh mắt thu hút, bậc thấy rơ tất cả các pháp đă hiện khởi

906. Khi ấy ở tại Bandhumatī, người này là vị Bà-la-môn được công nhận là tốt lành, dồi dào về việc thâu đạt kiến thức, và đă bị lâm vào cảnh vô cùng khó khăn về tài sản.

907. Cũng vào khi ấy, với tâm ư tương đồng tôi đă là nữ Bà-la-môn (vợ) của người ấy. Có lần, người Bà-la-môn cao quư ấy đă đi đến bậc Đại Hiền Trí.

908. (Đức Phật) ngồi ở đám người đang thuyết giảng về vị thế Bất Tử. Sau khi nghe Pháp, được hoan hỷ người ấy đă dâng cúng một tấm vải choàng.

909. Quay về lại nhà với một mảnh vải, người ấy đă nói với tôi điều này: “Nàng hăy tùy hỷ việc phước lớn lao; tấm vải choàng đă được dâng đến đức Phật.”

910. Khi ấy, được hài ḷng xiết bao tôi đă chắp tay lên nói lời tùy hỷ rằng: “Phu quân à, tấm vải choàng là đă khéo được dâng đến đức Phật tối thượng như thế ấy.”

911. Được an vui, trở nên gắn bó, trong khi luân hồi cơi này cơi khác, người ấy đă trở thành đức vua, vị lănh chúa ở thành phố Bārāṇasī đáng yêu.

912. Khi ấy, tôi trở thành chánh hậu của người ấy, là tối cao trong đám nữ nhân. Tôi đă được cảm t́nh rất mực của người ấy do sự yêu mến trước đây của chồng.

913. Sau khi nh́n thấy tám vị Lănh Đạo Độc Giác đang đi quanh để khất thực, người ấy đă trở nên hoan hỷ và đă dâng vật thực vô cùng giá trị.

914. Sau khi thỉnh mời lần nữa, người ấy đă thực hiện mái che bằng châu báu. Lọng che bằng vàng (rộng) trăm cánh tay đă được những người thợ rèn kiến thiết.

915. Sau khi đă hướng dẫn tất cả các ngài ấy tiến vào các chỗ ngồi bằng vàng, được tịnh tín người ấy đă tự tay ḿnh dâng cúng vật thí đến các ngài ấy.

916. Khi ấy, tôi cũng đă dâng cúng vật thí ấy cùng với đức vua xứ Kāsi. Tôi đă được sanh ra ở Bārāṇasī lần nữa, tại ngôi làng nhỏ ngoại thành.

917. (Sanh ra) ở trong gia đ́nh giàu có thịnh vượng, người ấy được an lạc, có em trai. Tôi đă là người vợ vô cùng chung thủy của người anh cả.

918. Sau khi nh́n thấy vị Phật Độc Giác, người em gái của chồng tôi đă dâng phần cơm đến vị ấy, và đă thuật lại khi chồng tôi đi đến.

919. Chồng tôi không hoan hỷ với việc dâng cúng. Do đó, tôi đă lấy lại phần cơm ấy từ b́nh bát rồi đă trao cho chồng. Chồng tôi đă dâng cúng (phần cơm ấy) một lần nữa đến chính vị Phật ấy.

920. Khi ấy, tôi đă quăng bỏ đi phần cơm ấy và đă độc ác đối với đức Phật. Tôi đă dâng b́nh bát ấy chứa đầy bùn đến vị Phật như thế ấy.

921. Về vật cho cũng như việc nhận giống như là vật không trong sạch và đóa hoa sen, khi ấy tôi đă nh́n khuôn mặt có tâm b́nh thản và đă vô cùng chấn động.

922. Sau khi nhận lại b́nh bát, tôi đă làm sạch bằng chất thơm, rồi với tâm tịnh tín, tôi đă chứa đầy với bơ lỏng và đă dâng lên một cách cung kính.

923. Ở bất cứ nơi đâu tôi được sanh ra, tôi đều có sắc xinh đẹp do sự bố thí và có mùi hôi do lời nói và do thái độ không phải phép đối với đức Phật.

924. Lần khác, khi ngôi bảo tháp của đấng Chiến Thắng Kassapa đang được hoàn tất, được hoan hỷ tôi đă dâng cúng phiến ngói cao quư bằng vàng.

925. Tôi đă tẩm phiến ngói ấy bằng hương thơm sanh lên từ bốn nguồn. Tôi đă được thoát khỏi khuyết điểm về mùi hôi thối và đă được thành tựu tốt đẹp về toàn bộ các phần thân thể.

926. (Chồng tôi) đă cho thực hiện bảy ngàn cái đĩa bằng chính bảy loại châu báu, được chứa đầy bơ lỏng và hàng ngàn tim đèn.

927. Với tâm ư thanh tịnh, sau khi đă đặt (tim đèn) vào và thắp sáng, người ấy đă xếp thành bảy hàng nhằm mục đích cúng dường đến bậc Bảo Hộ Thế Gian.

928. Khi ấy, tôi cũng có phần đóng góp đặc biệt trong việc phước thiện ấy. Người ấy đă được sanh ra ở xứ Kāsi lần nữa, được nổi danh là Sumitta.

929. Tôi đă là vợ của người ấy, được an vui, được gắn bó, được yêu quư. Khi ấy, người ấy cũng đă dâng đến vị Hiền Trí Độc Giác tấm vải choàng bền chắc.

930. Tôi đă hoan hỷ về việc bố thí tối thượng và cũng đă có phần trong việc ấy. Vị ấy cũng đă sanh ra lần nữa trong quốc độ Kāsi thuộc ḍng dơi Koliya.

931. Khi ấy, cùng với năm trăm người con trai ḍng Koliya, người ấy đă hộ độ năm trăm vị Phật Độc Giác.

932. Và sau khi đă làm hài ḷng (chư Phật Độc Giác) trong ba tháng, người ấy đă dâng ba y. Khi ấy, đi theo lộ tŕnh của nghiệp phước thiện tôi đă là vợ của người ấy.

933. Từ nơi ấy chết đi, người ấy đă trở thành vị vua tên là Nanda có danh tiếng vĩ đại. Tôi cũng đă trở thành chánh hậu của người ấy, có sự thành tựu về tất cả các điều dục lạc.

934. Và khi ấy, người ấy đă trở thành vị lănh chúa Brahmadatta. Khi ấy, những người con trai của bà Padumavatī đă trở thành các bậc Hiền Trí Độc Giác.

935. Người ấy đă hộ độ năm trăm vị không thiếu vị nào cho đến hết cuộc đời. Chư Phật Độc Giác đă cư ngụ tại vườn hoa của đức vua rồi đă Niết Bàn, và người ấy đă cúng dường.

936. Và sau khi cho xây dựng các ngôi bảo tháp, cả hai chúng tôi đă xuất gia. Sau khi tu tập các vô lượng (tâm), chúng tôi đă đi đến cơi Phạm Thiên.

937. Từ nơi ấy chết đi, người ấy đă khéo được sanh ra tại Mahātittha (tên) là Pipphalāyana Mẹ là Sumanadevī, cha là người Bà-la-môn ḍng tộc Kosiya.

938. Tôi đă là người con gái của vị Bà-la-môn Kapila, mẹ là Sucīmatī, ở tại kinh thành Sāgalā trong xứ sở Madda.

939. Sau khi tạo ra tôi với h́nh tượng bằng vàng khối, người cha đă gă tôi cho bậc trí Kassapa là người đă kiêng cử các dục.

940. Lần nọ, con người có ḷng bi mẫn ấy đă đi xem xét công việc làm. Sau khi nh́n thấy các sinh vật bị những loài như là quạ, v.v... ăn thịt, người ấy đă bị động tâm.

941. Và tôi ở nhà, sau khi nh́n thấy những cây mè mọc lên trong sự thiêu đốt của ánh nắng mặt trời và loài sâu bọ bị các con quạ ăn thịt, khi ấy tôi đă có sự động tâm.

942. Lúc bấy giờ, con người trí tuệ ấy đă xuất gia. Tôi đă xuất gia theo vị ấy. Tôi đă sống theo hạnh du sĩ ngoại đạo trong năm năm.

943. Đến khi bà Gotamī người nuôi dưỡng đấng Chiến Thắng đă được xuất gia, khi ấy tôi đă đi theo bà ấy và đă được chỉ dạy bởi đức Phật.

944. Trong thời gian không bao lâu tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán. Ôi, tính chất bạn hữu tốt lành đối với vị Kassapa vinh quang!

945. Kassapa là con trai, là người thừa tự của đức Phật, khéo được định tĩnh, nh́n thấy được cơi trời và địa ngục, và là vị đă biết được đời sống trước đây.

946. Rồi (vị ấy) đă đạt đến sự diệt tận của sự sanh, là vị hiền trí được hoàn hảo về thắng trí, với ba sự hiểu biết ấy trở thành vị Bà-la-môn có tam minh.

947. Tương tợ như thế ấy, Bhaddā Kāpilānī là vị ni có tam minh, có sự dứt bỏ Tử Thần, mang thân mạng cuối cùng sau khi đă chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.

948. Sau khi nh́n thấy điều tai hại ở thế gian, cả hai chúng tôi đă xuất gia. Chúng tôi đây có các lậu hoặc đă cạn kiệt, đă được huấn luyện, đă có được trạng thái mát mẻ, đă được Niết Bàn.

949. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

950. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

951. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được tôi đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

 Tỳ khưu ni Bhaddākāpilānī đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Bhaddākāpilānī là phần thứ bảy.

--ooOoo--

28. Kư Sự về Yasodharā

952. Vào một thuở nọ, đấng Lănh Đạo nhân loại đang ngự tại một sườn núi cao quư ở thành Rājagaha đáng yêu, trù phú.[6]

953. Khi đang cư ngụ tại trú xứ đáng yêu của các tỳ khưu ni ở trong thành phố ấy, đă có suy nghĩ như vầy khởi đến vị tỳ khưu ni Yasodharā rằng:

954. “Nanda, Rāhula hiền thiện, và tương tợ y như thế (hai) vị tối thượng Thinh Văn, đại vương Suddhodana, và bà Pajāpatī Gotamī.

955. Cùng các vị đại trưởng lăo đă đạt thắng trí, và các trưởng lăo ni có đại thần lực, các vị ấy đă ngự đến nơi an tịnh không c̣n lậu hoặc, như là tim của cây đèn hết nhiên liệu.

956. Và luôn cả ta nữa cũng sẽ đi đến vị thế an toàn ngay trong khi đấng Lănh Đạo Thế Gian c̣n hiện tiền.” Trong khi xem xét tuổi thọ của ḿnh, vị ni đă suy nghĩ như thế.

957. Sau khi xem xét thọ hành sẽ đi đến sự hoại diệt trong chính ngày hôm ấy, vị ni đă cầm lấy b́nh bát và y rồi đă rời khỏi chốn tịnh cư của ḿnh.

958. Vị ni có đại thần lực có đại trí tuệ ấy đă dẫn đầu một trăm ngàn vị tỳ khưu ni đi đến bậc Toàn Giác.

959. Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác, vị ni ấy đă ngồi xuống ở một bên và đă nói lời nói này với bậc Đạo Sư là vị có dấu hiệu bánh xe:

960. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đă bảy mươi tám tuổi. Giai đoạn cuối cùng của tuổi tác đang tiến đến. Con đă đạt đến ngay ở sườn dốc, con xin thưa rơ.

961. Sự tiêu hoại của con đă chín muồi, mạng sống của con c̣n chút ít. Rời bỏ Ngài, con sẽ ra đi. Sự nương nhờ của bản thân đă được con thực hiện.

962. Chính ở thời điểm cuối cùng, sự chết chận đứng tuổi thọ. Bạch đấng Đại Hùng, hôm nay vào ban đêm con sẽ thành tựu Niết Bàn.

963. Bạch đấng Hiền Trí, (Niết Bàn) là nơi không có sự sanh, sự già, sự bệnh và sự chết. Bạch đấng Anh Hùng, nơi nào khi đă đi đến là không c̣n được nh́n thấy th́ con đi đến nơi ấy.

964. Bạch đấng Hiền Trí, cho đến nhóm người của bậc Đạo Sư ngồi chung ở nơi đây (nếu) nhận biết lỗi lầm (nào của tôi), xin quư vị hăy tha thứ ở trước mặt.

965. Và sau khi đă xoay vần trong ṿng luân hồi, nếu có điều sai trái của con đối với Ngài, bạch đấng Đại Hùng con xin thưa rơ, xin Ngài hăy tha thứ lỗi lầm cho con.”

966. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ni ấy, đấng Hiền Trí Vương đă nói điều này: “Ta sẽ nói điều ǵ hơn về nàng là người đang đi đến Niết Bàn?

967. Và nàng cũng nên thị hiện thần thông cho các vị hành theo Giáo Pháp của Ta được thấy. Và hăy chặt đứt sự nghi ngờ về Giáo Pháp cho tất cả các chúng.”

968. Sau khi lắng nghe lời nói của bậc Hiền Trí ấy, vị tỳ khưu ni Yasodharā ấy đă đảnh lễ đấng Hiền Trí Vương ấy và đă nói lời nói này:

969. “Bạch đấng Anh Hùng, con là Yasodharā, ở tại gia là người vợ của Ngài. Được sanh ra trong gia tộc Sakya, con đă duy tŕ phận sự của người nữ.

970. Bạch đấng Anh Hùng, trong số một trăm chín mươi sáu ngàn phụ nữ ở nhà của Ngài, con là người đứng đầu, là người chủ quản tất cả.

971. Là người có được sắc đẹp, tánh t́nh, và đức hạnh, ở vào tuổi thanh xuân, có lời nói đáng yêu, tất cả chư Thiên cũng như loài người đều quư trọng con.

972. Con đứng đầu một ngàn thiếu nữ ở trong cung của người con trai ḍng Sakya. Các cô ấy cùng vui buồn giống nhau tợ như chư Thiên ở (vườn hoa) Nandana.

973. Con đă vượt lên trên lănh vực dục t́nh, được khẳng định về mặt thể h́nh, không có người tương đương về sắc đẹp ngoại trừ đấng Lănh Đạo Thế Gian.”

974. Sau khi đă nói như thế, v.v... Yasodharā, với sự cho phép của đức Phật, đă bay lên không trung và đă thị hiện vô số thần thông.

975. (Yasodharā đă thị hiện) cơ thể tương đương với bầu vũ trụ, đầu là (đảo) Kuru ở về phía bắc, hai cánh là hai ḥn đảo, thân ḿnh là đảo Jambu.[7]

976. Và đuôi công là cái hồ ở phía nam nhưng các cánh chim là các cành lá khác nhau, mặt trăng và mặt trời là mắt, núi Meru là chóp đỉnh.

977. Ngọn núi của bầu vũ trụ là mỏ chim. Trong lúc phe phẩy cây Jambu cùng với cội rễ (làm cây quạt), vị ni đă đi đến và đảnh lễ đấng Lănh Đạo Thế Gian.

978. Tương tợ y như thế, vị ni đă thị hiện h́nh dáng con voi, con ngựa, ngọn núi, và biển cả, rồi mặt trăng, mặt trời, núi Meru, và vóc dáng của vị trời Sakka.

979. “Bạch đấng Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhăn, con là Yasodharā đảnh lễ ở bàn chân (Ngài). Con đă che khuất một ngàn thế giới bằng đóa sen nở rộ.”

980. Và sau khi hóa hiện ra vóc dáng của đấng Brahma, vị ni đă thuyết giảng Giáo Pháp về không tánh. “Bạch đấng Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhăn, con là Yasodharā xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).

981. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đă có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đă có năng lực về trí biết tâm của người khác.

982. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đă được cạn kiệt, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

983. Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.

984. Sự gặp gỡ đối với chư Phật là các đấng Lănh Đạo Thế Gian đă được Ngài nh́n thấy rơ. Bạch đấng Đại Hiền Trí, có nhiều hành động hướng thượng của con là nhằm mục đích về Ngài.

985. Bạch đấng Hiền Trí, xin Ngài nhớ lại thiện nghiệp trước đây của con. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đă được con tích lũy là nhằm mục đích về Ngài.

986. Bạch đấng Đại Hùng, sau khi đă tránh xa những nơi không thích hợp và đă ngăn trừ điều không giới hạnh, mạng sống đă được con hy sinh là nhằm mục đích về Ngài.

987. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài đă bố thí con nhằm mục đích làm vợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi[8] lần. Con không có bất b́nh về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.

988. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài đă bố thí con v́ sự hỗ trợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con không có bất b́nh về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.

989. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài đă bố thí con nhằm mục đích vật thực (cho kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con không có bất b́nh về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.

990. Con đă từ bỏ nhiều ngàn koṭi mạng sống. Con từ bỏ mạng sống của con (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thực hiện sự giải thoát khỏi nỗi sợ hăi.’

991. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con không cất giấu các đồ trang sức được dùng cho cơ thể, nhiều vải vóc các loại, các vật dụng của phụ nữ là nhằm mục đích về Ngài.

992. Con đă dứt bỏ tài sản, lúa gạo, các làng, và các phố chợ. Bạch đấng Đại Hiền Trí, các ruộng vườn, những người con trai, và con gái là đă được dứt bỏ.

993. Bạch đấng Đại Hùng, không thể đếm được những con voi, ngựa, trâu ḅ, luôn cả các nữ tỳ và tớ gái đă được dứt bỏ là nhằm mục đích về Ngài.

994. Về việc Ngài bảo con rằng: ‘Ta sẽ cho vật thí đến người hành khất,’ con không nh́n thấy sự bất b́nh của con trong khi Ngài bố thí vật thí tối thượng.

995. Bạch đấng Đại Hùng và con đă trải qua nhiều khổ đau khác loại không thể đếm được, ở nhiều h́nh thức trong sự luân hồi là nhằm mục đích về Ngài.

996. Bạch đấng Đại Hiền Trí, đạt được sung sướng con không vui thích và không có tâm bực bội trong những khổ đau, con được quân b́nh trong mọi trường hợp là nhằm mục đích về Ngài.

997. Theo lộ tŕnh mà bậc Toàn Giác (quá khứ) đă khẳng định về pháp (giải thoát), th́ đấng Đại Hiền Trí đă đạt đến sự Giác Ngộ sau khi trải qua an lạc và khổ đau.

998. Bạch đấng Phạm Thiên, bậc Toàn Giác, đấng Lănh Đạo Thế Gian Gotama, Ngài với con đă có nhiều lần gặp gỡ với các đấng Bảo Hộ Thế Gian khác.

999. Bạch đấng Đại Hiền Trí, nhiều hành động hướng thượng của con là nhằm mục đích về Ngài. Con là nữ tỳ của Ngài trong lúc Ngài tầm cầu Phật Pháp.

1000. Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, bậc Đại Anh Hùng, vị Lănh Đạo Thế Gian Dīpaṅkara đă hiện khởi.

1001. Sau khi đă thỉnh mời đức Như Lai, những người ở khu vực vùng biên địa làm sạch sẽ con đường đi đến của Ngài với tâm hoan hỷ.

1002. Vào thời điểm ấy, người ấy đă là vị Bà-la-môn tên Sumedha, và đă sửa soạn con đường của đấng Toàn Tri đang đi đến.

1003. Vào thời điểm ấy, con đă là người thiếu nữ xuất thân Bà-la-môn tên Sumittā. Con đă đi đến cuộc tụ hội.

1004. Con đă cầm tám nắm hoa sen nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đạo Sư. Con đă nh́n thấy vị ẩn sĩ được nổi bậc ở giữa đám người.

1005. Sau khi nh́n thấy con người đang ngồi khoác áo vỏ cây vô cùng đáng yêu quyến rũ đang ngồi, khi ấy con đă nghĩ rằng: ‘Mạng sống của ta là có kết quả.’

1006. Khi ấy, con đă nh́n thấy sự nỗ lực ấy của vị ẩn sĩ là có được kết quả. Do nghiệp quá khứ, tâm của con cũng đă tịnh tín vào đấng Toàn Giác.

1007. Con đă có tâm tịnh tín hơn nữa đối với vị ẩn sĩ có tâm ư hướng thượng. (Con đă nói rằng): ‘Này vị ẩn sĩ, tôi không nh́n thấy vật nào khác nên được dâng cúng, tôi cho ông các đóa hoa.

1008. Này vị ẩn sĩ, hăy là của ông năm nắm, hăy là của tôi ba nắm. Này vị ẩn sĩ, như thế sự thành tựu hăy là bằng nhau đối với mục đích giác ngộ của Ngài.’

  Tụng phẩm thứ tư.

1009. Sau khi cầm lấy các đóa hoa, vị ẩn sĩ ở giữa đám người đă cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ có danh tiếng vĩ đại đang đi đến nhằm mục đích giác ngộ.

1010. Bậc Đại Hiền Trí Dīpaṅkara, đấng Đại Hùng đă nh́n thấy ở giữa đám người và đă chú nguyện cho vị ẩn sĩ có tâm ư hướng thượng rằng:

1011. ‘Này vị đại ẩn sĩ, (người nữ này) sẽ có tâm tương đương, có nghiệp tương đương, có hành động tương đương, sẽ trở thành người vợ do nghiệp báu đối với mục đích của ngươi.’

1012. (Người nữ này) có dáng nh́n xinh đẹp, vô cùng đáng yêu, vui vẻ, có lời nói đáng mến, sẽ trở thành người vợ yêu quư, người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy.

1013. Cũng giống như các người chủ ǵn giữ cái rương của cải, người nữ này sẽ hộ tŕ như thế ấy đối với các thiện pháp.

1014. Trong khi thương tưởng đến ngươi đây, (người nữ này) sẽ làm tṛn đủ các pháp toàn hảo, sẽ đạt được quả vị giác ngộ tương tợ như con sư tử phá vỡ cái chuồng.’

1015. Ấy là điều đức Phật đă chú nguyện cho con trước đây vô lượng kiếp. Trong khi tùy hỷ lời nói ấy, con đă là người có hành động như vậy.

1016. Tại nơi ấy, con đă có tâm tịnh tín đối với việc làm đă được thực hiện tốt đẹp ấy. Con đă sanh vào bản thể trời và người với số lần không thể đếm được.

1017. Con đă trải qua lạc và khổ ở các cơi trời và ở loài người. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, con đă sanh ra trong gia tộc Sakya.

1018. Con có sắc đẹp, có của cải, có danh vọng và giới hạnh tương tợ như thế. Con có sự thành tựu vẹn toàn thân thể, được vô cùng kính trọng về các điều lành.

1019. Lợi lộc, danh vọng, cung kính, sự hội tụ của các pháp thế gian, và tâm bị khổ năo là không có, con sống không sợ hăi.[9]

1020. Con đă nhàm chán các sự luân hồi và đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Sau khi xuất gia cùng với một ngàn người hầu cận, con không có ǵ.

1021. Sau khi từ bỏ gia đ́nh, con đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Khi chưa đạt đến nửa tháng, con đă đạt được bốn Sự Thật.

1022. Nhiều người, không phải một, đem lại y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi tợ như các làn sóng của biển cả.

1023. Các phiền năo của con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), con sống không c̣n lậu hoặc.

1024. Quả vậy, con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1025. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được con đắc chứng; con đă thực hành lời dạy của đức Phật.

1026. Như vậy là có khổ đau đa dạng và thành công nhiều h́nh thức. Được đạt đến trạng thái thanh tịnh, con nhận lănh mọi sự thành tựu.

1027. Nàng ấy bố thí chính bản thân ḿnh v́ mục đích phước báu của vị đại ẩn sĩ. Họ có sự thành tựu về bạn hữu. Vị thế Niết Bàn là không c̣n tạo tác.

1028. “Quá khứ, hiện tại, và vị lai đă được cạn kiệt, tất cả nghiệp của con đă được cạn kiệt. Bạch đấng Hữu Nhăn, con xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”

Tỳ khưu ni Yasodharā đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Yasodharā là phần thứ tám.

--ooOoo--

29. Kư Sự về 10. 000 vị Tỳ Khưu Ni

1029. Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, đấng Chiến Thắng, vị Lănh Đạo Thế Gian tên là Dīpaṅkara đă hiện khởi.

1030. Đấng Đại Hùng, bậc Hướng Đạo Dīpaṅkara đă chú nguyện cho Sumedha và Sumittā có trạng thái hạnh phúc và khổ đau tương tợ như nhau.

1031. Trong lúc nh́n thấy (thế gian) cùng với chư Thiên và trong lúc đi đó đây ở thế gian) luôn cả cơi trời, chúng con đă đi đến nơi tụ hội vào dịp tuyên dương của hai người ấy (và đă nói rằng):

1032. “Trong lần tụ hội ở ngày vị lai, xin ngài hăy là chồng của tất cả chúng tôi. Hết thảy tất cả sẽ là những người vợ vui vẻ, có lời nói đáng yêu của ngài.”

1033. Bạch đấng Đại Hiền Trí, tất cả chúng con có bố thí với tŕ giới, và tham thiền đă khéo được tu tập. Và mọi thứ thuộc về chúng con đă được buông bỏ từ lâu.

1034. Bạch đấng Đại Hiền Trí, bất cứ điều ǵ đă được ao ước (như là) hương thơm, vật thoa, tràng hoa, đèn, vật làm bằng châu báu, tất cả đă được buông bỏ.

1035. Bạch đấng Đại Hiền Trí, và luôn cả nghiệp nào khác đă được thực hiện cũng như sự thụ hưởng thuộc về nhân loại, mọi thứ thuộc về chúng con đă được buông bỏ từ lâu rồi.

1036. Trong khi luân hồi nhiều kiếp sống, chúng con đă làm được nhiều phước báu. Chúng con đă thọ hưởng quyền thế và đă luân hồi cơi này cơi khác.

1037. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng ở trong cung của người con trai ḍng Sakya, chúng con đă được sanh ra trong nhiều gia tộc khác nhau, là những mỹ nhân có ái dục và sắc đẹp.

1038. Chúng con đă đạt đến danh vọng cùng với lợi lộc tột đỉnh, được tôn vinh, được tất cả tôn trọng, luôn luôn được cung cấp các lợi lộc về cơm ăn nước uống.

1039. Sau khi từ bỏ gia đ́nh, chúng con đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Khi chưa đạt đến nửa tháng, tất cả chúng con đă đạt được Niết Bàn.

1040. Nhiều người đem lại mọi thứ lợi lộc về cơm ăn nước uống, y phục và chỗ nằm ngồi. Chúng con luôn luôn được tôn kính cúng dường.

1041. Các phiền năo của chúng con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là những con voi cái (đă được cởi trói), chúng con sống không c̣n lậu hoặc.

1042. Quả vậy, chúng con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1043. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được chúng con đắc chứng; chúng con đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Mười ngàn vị tỳ khưu ni đứng đầu là Yasodharā trước mặt đức Thế Tôn đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về mười ngàn vị tỳ khưu ni là phần thứ chín.

--ooOoo--

30. Kư Sự về 18. 000 vị Tỳ Khưu Ni

1044. Mười tám ngàn vị tỳ khưu ni xuất thân ḍng Sakya đứng đầu là Yasodharā đă đi đến gặp đấng Toàn Giác.

1045. Tất cả mười tám ngàn vị ni đều có đại thần lực. Trong khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Hiền Trí, các vị ni tŕnh rơ đúng theo năng lực rằng:

1046. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, sự sanh, sự già, sự bệnh, và sự chết đă được cạn kiệt. Bạch đấng Lănh Đạo, chúng con đă đi đến vị thế Bất Tử, an tịnh, không c̣n lậu hoặc.

1047. Bạch đấng Đại Hiền Trí, nếu có điều sai trái ǵ trước đây của tất cả chúng con v́ không biết là lỗi lầm, bạch đấng Hướng Đạo xin Ngài hăy tha thứ cho chúng con.”

1048. “Là những người thực hành theo Giáo Pháp của Ta, các nàng cũng nên thị hiện thần thông. Và hăy chặt đứt sự nghi ngờ đă có cho tất cả các chúng.”

1049. “Bạch đấng Đại Hùng, là những vị ni danh tiếng, vui vẻ, có dáng vóc đáng yêu, bạch đấng Đại Hùng, tất cả đă là vợ của Ngài lúc c̣n tại gia.

1050. Bạch đấng Anh Hùng, trong số một trăm chín mươi sáu ngàn phụ nữ ở nhà của Ngài, chúng con là những vị đứng đầu, là những người chủ quản tất cả.

1051. Là những người có được sắc đẹp, tánh t́nh, và đức hạnh, ở vào tuổi thanh xuân, có lời nói đáng yêu, tất cả chư Thiên cũng như loài người đều quư trọng (chúng con).

1052. Khi ấy, tất cả mười tám ngàn vị ni đều xuất thân ḍng Sakya, một ngàn vị ni có danh tiếng là những vị đứng đầu, là những người chủ quản.

1053. Bạch đấng Đại Hiền Trí, (các cô ấy) đă vượt qua dục giới, đă được an trú vào sắc giới. Không có ǵ tương đương với sắc đẹp của một ngàn cô ấy.

1054. Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác, các vị ni đă phô bày thần thông đến bậc Đạo Sư. Các vị ni cũng đă thị hiện đại thần lực với nhiều h́nh thức khác loại.

1055. (Các vị ni đă thị hiện) cơ thể tương đương với bầu vũ trụ, đầu là (đảo) Kuru ở về phía bắc, hai cánh là hai ḥn đảo, thân ḿnh là đảo Jambu.

1056. Và đuôi công là cái hồ ở phía nam nhưng các lông chim là các cành lá khác nhau, mặt trăng và mặt trời là cặp mắt to, núi Meru là chóp đỉnh.

1057. Ngọn núi của bầu vũ trụ là mỏ chim. Trong lúc phe phẩy cây Jambu cùng với cội rễ (làm cây quạt), các vị ni đă đi đến và đảnh lễ đấng Lănh Đạo Thế Gian.

1058. Tương tợ y như thế, các vị ni đă thị hiện h́nh dáng con voi, con ngựa, ngọn núi, và biển cả, rồi mặt trăng, mặt trời, núi Meru, và vóc dáng của vị trời Sakka.

1059. “Bạch vị Anh Hùng, bạch đấng Hữu Nhăn, chúng con là các vị Yasodharā xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài). Bạch vị Anh Hùng, bạch đấng Lănh Đạo của nhân loại, chúng con đă được hoàn thành nhờ vào quyền uy của Ngài.

1060. Bạch đấng Đại Hiền Trí, chúng con đă có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, chúng con đă có năng lực về trí biết tâm của người khác.

1061. Chúng con biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đă được cạn kiệt, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

1062. Bạch đấng Đại Hùng, trí của chúng con về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.

1063. Bạch đấng Đại Hiền Trí, sự gặp gỡ đối với các đấng Lănh Đạo Thế Gian trước đây đă được chúng con nh́n thấy rơ. Nhiều hành động hướng thượng của chúng con là nhằm mục đích về Ngài.

1064. Bạch bậc Hiền Trí, xin Ngài nhớ lại thiện nghiệp trước đây của chúng con. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đă được tích lũy bởi chúng con là nhằm mục đích về Ngài.

1065. Bạch đấng Đại Hùng, sau khi đă tránh xa những nơi không thích hợp và đă ngăn trừ điều không giới hạnh, mạng sống đă được chúng con hy sinh là nhằm mục đích về Ngài.

1066. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài đă bố thí chúng con nhằm mục đích làm vợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Chúng con không có bất b́nh về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.

1067. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài đă bố thí chúng con v́ sự hỗ trợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Chúng con không có bất b́nh về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.

1068. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài đă bố thí chúng con nhằm mục đích vật thực (cho kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Chúng con không có bất b́nh về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài.

1069. Chúng con đă từ bỏ nhiều ngàn koṭi mạng sống. Chúng con đă từ bỏ các mạng sống (nghĩ rằng): ‘Chúng ta sẽ thực hiện sự giải thoát khỏi nỗi sợ hăi.’

1070. Bạch đấng Đại Hiền Trí, chúng con không cất giấu các đồ trang sức được dùng cho phụ nữ, cùng nhiều vải vóc các loại, và các vật dụng của phụ nữ là nhằm mục đích về Ngài.

1071. Chúng con đă dứt bỏ tài sản, lúa gạo, các ngôi làng, và các phố chợ. Bạch đấng Đại Hiền Trí, các ruộng vườn, những người con trai và những người con gái đă được dứt bỏ.

1072. Bạch đấng Đại Hùng, không thể đếm được những con voi, ngựa, trâu ḅ, luôn cả các nữ tỳ và tớ gái đă được dứt bỏ là nhằm mục đích về Ngài.

1073. Về việc Ngài bảo chúng con rằng: ‘Ta sẽ cho vật thí đến người hành khất,’ chúng con không nh́n thấy sự bất b́nh của chúng con trong khi Ngài bố thí vật thí tối thượng.

1074. Bạch đấng Đại Hùng,chúng con đă trải qua nhiều khổ đau khác loại không thể đếm được, và ở sự luân hồi với nhiều h́nh thức là nhằm mục đích về Ngài.

1075. Bạch đấng Đại Hiền Trí, đạt được sung sướng chúng con không vui thích và không có tâm bực bội trong những khổ đau, chúng con được quân b́nh trong mọi trường hợp là nhằm mục đích về Ngài.

1076. Theo lộ tŕnh mà bậc Toàn Giác (quá khứ) đă khẳng định về pháp (giải thoát), th́ đấng Đại Hiền Trí đă đạt đến sự Giác Ngộ sau khi trải qua an lạc và khổ đau.

1077. Bạch đấng Phạm Thiên, bậc Toàn Giác, đấng Lănh Đạo Thế Gian Gotama, Ngài với chúng con đă có nhiều lần gặp gỡ với các đấng Bảo Hộ Thế Gian khác.

1078. Bạch đấng Đại Hiền Trí, nhiều hành động hướng thượng của chúng con là nhằm mục đích về Ngài. Chúng con là những nữ tỳ của Ngài trong lúc Ngài tầm cầu Phật Pháp.

1079. Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, bậc Đại Anh Hùng, vị Lănh Đạo Thế Gian Dīpaṅkara đă hiện khởi.

1080. Sau khi đă thỉnh mời đức Như Lai, những người ở khu vực vùng biên địa làm sạch sẽ con đường đi đến của Ngài với tâm hoan hỷ.

1081. Vào thời điểm ấy, người ấy đă là vị Bà-la-môn tên Sumedha, và đă sửa soạn con đường của đấng Toàn Tri đang đi đến.

1082. Vào thời điểm ấy, tất cả chúng con đă có xuất thân là Bà-la-môn. Chúng con đă mang đến cuộc tụ hội những đóa hoa mọc trên đất liền và dưới nước.

1083. Vào lúc ấy, đức Phật Dīpaṅkara, bậc Đại Hùng có danh tiếng vĩ đại ấy đă chú nguyện cho vị ẩn sĩ có tâm ư hướng thượng.

1084. Trong khi tuyên dương hành động của vị ẩn sĩ có tâm ư hướng thượng ấy, quả đất (đă) lay chuyển, gào thét, rung động cùng với Thiên giới.

1085. Các tiên nữ và loài người, luôn cả chúng con cùng với chư Thiên đă dâng lên phẩm vật cúng dường khác nhau rồi đă ước nguyện.

1086. Đức Phật tên Jotidīpa (Dīpaṅkara) đă chú nguyện cho các vị ấy rằng: “Những điều đă được ước nguyện vào ngày hôm nay sẽ trở thành hiện thực.”

1087. Ấy là điều đức Phật đă chú nguyện cho chúng con trước đây vô lượng kiếp. Trong khi tùy hỷ lời nói ấy, chúng con đă là những người hành động như thế.

1088. Tại nơi ấy, chúng con đă có tâm tịnh tín đối với việc làm đă được thực hiện tốt đẹp ấy. Chúng con đă sanh vào bản thể trời và người với số lần không thể đếm được.

1089. Chúng con đă trải qua an lạc và khổ đau ở các cơi trời và loài người. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, chúng con đă sanh ra trong gia tộc Sakya.

1090. Chúng con có sắc đẹp, có của cải, do đó có danh vọng và giới hạnh. Chúng con có sự thành tựu vẹn toàn thân thể, được vô cùng kính trọng ở các gia đ́nh.

1091. Lợi lộc, danh vọng, cung kính, sự hội tụ của các pháp thế gian, và tâm bị khổ năo là không có, chúng con sống không sợ hăi.

1092. Khi ấy, điều này đă được đức Thế Tôn nói ra ở trong kinh thành của đức vua (Suddhodana). Và đấng Anh Hùng đă chỉ ra việc hỗ trợ trước đây của các vị Sát-đế-lỵ:

1093. “Người nữ nào là hữu ân, người nữ nào cùng chung vui sướng khổ đau, người nữ nào nói lời hữu ích, và người nữ nào có ḷng thương tưởng,

1094. – thời hăy thực hành pháp thiện hạnh, chớ thực hành ác hạnh ấy. Người thực hành Giáo Pháp thọ hưởng an lạc ở đời này và đời sau.”

1095. Sau khi từ bỏ gia đ́nh, chúng con đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Chưa đạt đến nửa tháng, chúng con đă chạm đến bốn Sự Thật.

1096. Nhiều người đem đến cho chúng con y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi tợ như các làn sóng của biển cả.

1097. Các phiền năo của chúng con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi tói), chúng con sống không c̣n lậu hoặc.

1098. Quả vậy, chúng con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1099. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được chúng con đắc chứng; chúng con đă thực hành lời dạy của đức Phật.

1100. Như vậy là có khổ đau đa dạng và thành công nhiều h́nh thức. Được đạt đến trạng thái thanh tịnh, chúng con nhận lănh mọi sự thành tựu.

1101. Những nàng nào bố thí chính bản thân ḿnh v́ mục đích phước báu của vị đại ẩn sĩ là có sự thành tựu về bạn hữu, c̣n vị thế Niết Bàn là không c̣n tạo tác.

1102. “Quá khứ, hiện tại, và vị lai đă được cạn kiệt, tất cả nghiệp của chúng con đă được cạn kiệt. Bạch đấng Hữu Nhăn, chúng con xin đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”

1103. “Ta sẽ nói điều ǵ hơn nữa về các nàng là những người đang tiến đến Niết Bàn? Bởi v́ các nàng đă đạt được vị thế Bất Tử, (là cảnh giới mà) sự tạo tác và điều sai trái đă được tịnh lặng.”

Mười tám ngàn vị tỳ khưu ni đứng đầu là Yasodharā trước mặt đức Thế Tôn đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về mười tám ngàn vị tỳ khưu ni có Yasodharā đứng đầu là phần thứ mười.

Phẩm Kuṇḍalakesī là phẩm thứ ba.

--ooOoo--

 

TÓM LƯỢC CỦA PHẨM NÀY

Vị ni Kuṇḍalā, vị ni Kisāgotamī, luôn cả vị ni Dhammadinnā, vị ni Sakulā, vị ni Nandā cao quư, vị ni Soṇā, vị ni Bhaddākāpilānī, vị ni Yasodharā, mười ngàn tỳ khưu ni, và mười tám ngàn vị ni, (tổng cộng) là bốn trăm bảy mươi sáu câu kệ cả thảy.

--ooOoo--

 

IV. PHẨM SÁT-ĐẾ-LỴ

31. Kư Sự về các Tỳ Khưu Ni đứng đầu là Yasavatī

1104. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, chúng con xin tŕnh rằng, tất cả các hữu của chúng con đă được cạn kiệt, mối liên hệ với sự tái sanh của chúng con đă được mở ra, và các lậu hoặc của chúng con không c̣n.

1105. Bạch đấng Đại Hiền Trí, bất cứ thiện nghiệp nào trước đây đă được ước nguyện tốt đẹp (và) vật dụng đă được bố thí là nhằm mục đích về Ngài.

1106. Bạch đấng Đại Hiền Trí, vật dụng đă được bố thí đến các vị Phật, đến các vị Phật Độc Giác, và đến các vị Phật Thinh Văn là nhằm mục đích về Ngài.

1107. Bạch đấng Đại Hiền Trí, hành động cao cả hoặc tầm thường đến các vị tỳ khưu đă được ước nguyện tốt đẹp, hành động khởi đầu này đây cho việc (sanh vào) các gia tộc thượng lưu đă được thực hiện.

1108. Sự thành tựu của nghiệp được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, trong khi vượt trội loài người chúng con đă được sanh vào gia tộc Sát-đế-lỵ.

1109. Trong sự sanh ra và trong việc làm đă được thực hiện, và luôn cả trong sự tái sanh cùng với nhau, chúng con đă được sanh ra chung với nhau trong (kiếp sống) cuối cùng, có xuất thân gia tộc Sát-đế-lỵ.

1110. Bạch đấng Đại Hùng, có sắc đẹp, có của cải, được tôn vinh bằng các lợi lộc và sự kính trọng, chúng con ở trong kinh thành như là ở (vườn hoa) Nandana của chư Thiên.

1111. Chúng con đă nhàm chán và đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Trong vài ngày, tất cả chúng con đă đạt được Niết Bàn.

1112. Nhiều người đem đến cho chúng con y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi, chúng con luôn luôn được kính trọng tôn vinh.

1113. Các phiền năo của chúng con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), chúng con sống không c̣n lậu hoặc.

1114. Quả vậy, chúng con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1115. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được chúng con đắc chứng; chúng con đă thực hành lời dạy của đức Phật.”

Mười tám ngàn vị tỳ khưu ni công nương ḍng Sát-đế-lỵ đứng đầu là Yasavatī trước mặt đức Thế Tôn đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về mười tám ngàn vị tỳ khưu ni đứng đầu là Yasavatī là phần thứ nhất.

--ooOoo--

32. Kư Sự về các vị Tỳ Khưu Ni Thiếu Nữ Bà-la-môn

1116. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, tám mươi bốn ngàn vị ni xuất thân gia tộc Bà-la-môn, có tay chân mềm mại, là thuộc về Ngài trước đây.

1117. Bạch đấng Đại Hiền Trí, nhiều thiếu nữ đă được sanh ra trong gia tộc thương buôn và nô lệ, là chư Thiên, loài rồng, và kim-sỉ-điểu, thuộc bốn châu lục, là thuộc về Ngài trước đây.

1118. Có một số đă được xuất gia, nhiều vị có sự nh́n thấy Sự Thật. C̣n chư Thiên, kim-sỉ-điểu, loài rồng sẽ được giác ngộ trong ngày vị lai.

1119. Sau khi thọ hưởng danh vọng, sau khi đạt đến thành công toàn diện, tất cả đă đạt được niềm tịnh tín ở Ngài, sẽ được giác ngộ trong ngày vị lai.

1120. Bạch đấng Đại Hùng, bạch đấng Hữu Nhăn, chúng con là những người con gái của các Bà-la-môn, xuất thân gia tộc Bà-la-môn, chúng con xin đảnh lễ ở bàn chân của Ngài là vị đang xem xét chúng con.

1121. Tất cả các hữu đă được phá hủy, ái dục cội nguồn đă được thủ tiêu, các khuynh hướng ngủ ngầm đă được chặt đứt, các sự tạo tác đem lại phước báu đă được xé tan.

1122. Chúng con có tất cả các hành xứ về định, tương tợ như thế về khả năng thể nhập. Nhờ thiền, chúng con sẽ luôn luôn sống với sự thỏa thích trong Giáo Pháp.

1123. Lối dẫn đến tái sanh, vô minh, và luôn cả các pháp c̣n tạo tác đă được quăng bỏ. Bạch đấng Lănh Đạo, xin Ngài cho phép (chúng con) đi đến vị thế khó nh́n thấy vô cùng.”

1124. “Các nàng là nguồn hỗ trợ cho Ta là người đă có sự thực hành dài lâu. Tất cả các nàng hăy cắt đứt sự hoài nghi của bốn (chúng) rồi hăy đi đến Niết Bàn.”

1125. Sau khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Hiền Trí và đă thực hiện sự biến hóa thần thông, một số vị ni thị hiện ánh sáng, c̣n một số khác thị hiện bóng tối.

1126. Các vị ni thị hiện mặt trăng, mặt trời, và biển cả có cả loài cá. Các vị thị hiện dăy núi Sineru và giống cây san hô (thuộc cơi trời).

1127. Với thần thông, các vị ni làm cho nh́n thấy cung trời Đạo Lợi, Dạ Ma, Đẩu Suất, các vị trời có uy lực lớn lao ở cơi Hóa Lạc Thiên và Tha Hóa Tự Tại.

1128. Một số vị ni làm cho nh́n thấy con đường kinh hành vô cùng giá trị của đấng Phạm Thiên. Và sau khi biến hóa thành h́nh dáng của đấng Phạm Thiên, các vị ni thuyết giảng Giáo Pháp về không tánh.

1129. Sau khi đă thực hiện sự biến hóa khác nhau và đă phô bày thần thông đến bậc Đạo Sư, tất cả đă tŕnh bày năng lực và đă đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư.

1130. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, chúng con có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, chúng con có năng lực về trí biết tâm của người khác.

1131. Chúng con biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đă được cạn kiệt, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

1132. Bạch đấng Đại Hùng, trí của chúng con về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.

1133. Bạch đấng Đại Hiền Trí, sự gặp gỡ đối với các đấng Lănh Đạo Thế Gian trước đây đă được chúng con nh́n thấy rơ. Nhiều hành động hướng thượng của chúng con là nhằm mục đích về Ngài.

1134. Bạch đấng Hiền Trí, xin Ngài nhớ lại nghiệp thiện đă được chúng con thực hiện. Bạch đấng Đại Hùng, phước báu đă được tích lũy bởi chúng con là nhằm mục đích về Ngài.”

1135. Trước đây một trăm ngàn kiếp, có bậc Đại Hiền Trí Padumuttara. Thành phố tên Haṃsavatī là chỗ cư ngụ của gia đ́nh đấng Toàn Giác.

1136. Sông Gaṅgā luôn luôn chảy qua cửa khẩu của thành Haṃsavatī. Bị khuấy rồi bởi ḍng sông, các vị tỳ khưu ấy không có được đường đi.

1137. Các vị ấy không có được đường đi đă hai ngày, ba ngày, và luôn cả bảy ngày, sau đó là một tháng, thậm chí bốn tháng đă được tṛn đủ.

1138. Khi ấy, bậc ưu tú của loài người đă là viên quan lại tên là Jaṭila. Sau khi nh́n thấy các vị tỳ khưu bị ngăn trở, người đă cho xây dựng cây cầu ở sông Gaṅgā.

1139. Khi ấy, người đă cho xây dựng cây cầu ở sông Gaṅgā với một trăm ngàn, và đă cho xây dựng ngôi trú xá của hội chúng ở bờ sông bên này.

1140. Những người đàn bà luôn cả đàn ông cùng các gia đ́nh thượng và hạ lưu, họ đă góp phần bằng nhau cho cây cầu và ngôi trú xá của vị ấy.

1141. Với tâm ư vui mừng, chúng con và những người khác ở thành phố và ở các quốc độ là những người thừa tự các việc làm của vị ấy.

1142. Những người đàn bà, đàn ông, thiếu niên, và luôn cả nhiều thiếu nữ, họ đă rải cát cho cây cầu và ngôi trú xá.

1143. Sau khi làm việc quét dọn con đường, họ đă thực hiện các lá phướn, các chum đầy (nước), các cây cờ, nhang thắp, bột phấn, tràng hoa là việc tôn kính đến bậc Đạo Sư.

1144. Sau khi cho thực hiện cây cầu và ngôi trú xá, người đă thỉnh mời đấng Hướng Đạo, rồi đă dâng cúng đại thí, và đă ước nguyện quả vị Toàn Giác.

1145. Bậc Đại Hiền Trí, đấng Đại Hùng Padumuttara, bậc giúp cho tất cả các chúng sanh vượt qua đă nói lời tùy hỷ đến vị Jaṭila rằng:

1146. “Khi một trăm ngàn kiếp đă trôi qua sẽ là kiếp Bhadda, (người này) sau khi trải qua kiếp này kiếp khác sẽ đạt đến quả vị giác ngộ.

1147. Những người đàn ông và đàn bà nào đă thực hiện công việc hỗ trợ bằng tay, trong tương lai dài lâu tất cả sẽ gặp lại nhau.”

1148. Do kết quả của nghiệp ấy và do các nguyện lực của tác ư, những người nữ tỳ ấy của Ngài đă được sanh lên cung điện của chư Thiên.

1149. Trong khi thọ hưởng sự sung sướng vô lượng thuộc về cơi trời và vô lượng thuộc về nhân loại một thời gian dài, chúng con đă luân hồi cơi này cơi khác.

1150. Trong một trăm ngàn kiếp về trước, sự thành tựu của nghiệp đă được thể hiện tốt đẹp, chúng con được trẻ đẹp ở giữa loài người rồi ở cung trời cao quư.

1151. Chúng con liên tục thọ lănh trọn vẹn sự thành tựu của nghiệp đă khéo được thể hiện về sắc đẹp, của cải, danh vọng, luôn cả tiếng tăm, và sự kính trọng.

1152. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, chúng con đă được sanh ra trong gia tộc Bà-la-môn, có tay chân mềm mại, ở trong cung của người con trai ḍng Sakya.

1153. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, thậm chí trong mọi thời điểm chúng con cũng không nh́n thấy quả đất là không được trang hoàng, chúng con không nh́n thấy đầm lầy và mặt đất là bị ô nhiễm.

1154. Trong khi sống tại gia, chúng con có được sự tôn trọng trong mọi thời điểm. Do năng lực của nghiệp trước đây, người ta luôn luôn đem lại cho chúng con mọi thứ.

1155. Sau khi từ bỏ gia đ́nh, chúng con đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Chúng con đă được thoát khỏi đạo lộ luân hồi, có tham ái đă được ĺa bỏ.

1156. Từ nơi kia từ nơi nọ, người ta luôn luôn đem lại cho chúng con hàng ngàn y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi.

1157. Các phiền năo của chúng con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), chúng con sống không c̣n lậu hoặc.

1158. Quả vậy, chúng con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1159. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được chúng con đắc chứng; chúng con đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tám mươi bốn ngàn vị tỳ khưu ni thiếu nữ Bà-la-môn trước mặt đức Thế Tôn đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về tám mươi bốn ngàn vị tỳ khưu ni là phần thứ nh́.

--ooOoo--

33. Kư Sự về Uppaladāyikā[10]

1160. Ở thành phố Aruṇavatī, có vị Sát-đế-lỵ tên là Aruṇa. Con đă là người vợ của vị vua ấy. Có một lần con đă khiến (người) đưa con đi (du ngoạn).

1161. Khi ấy, con đă đi đến nơi thanh vắng và ngồi xuống, con đă suy nghĩ như vầy: “Dầu đă đạt được vị thế xứng đáng, nhưng không điều lành nào đă được ta thực hiện!

1162. Có lẽ ta sẽ đi đến địa ngục là nơi vô cùng nóng bức, khổ sở, có dáng vẻ rùng rợn, vô cùng khiếp đảm; điều này đối với ta là không có sự hoài nghi (nữa).”

1163. Sau khi suy nghĩ như thế và sau khi đă làm cho tâm được mừng rỡ, con đă đi đến gặp đức vua và đă nói lời nói này:

1164. “Tâu bệ hạ, chúng thiếp là phụ nữ luôn luôn đi theo sau người nam. Tâu vị Sát-đế-lỵ, xin hăy ban cho thiếp một vị sa-môn. Thiếp sẽ chăm lo về vật thực.”

1165. Khi ấy, đức vua đă ban cho con (một) vị sa-môn có (các) giác quan đă được tu tập. Sau khi nhận lấy b́nh bát của vị ấy, con đă đặt đầy (b́nh bát) với vật thực thượng hạng.

1166. Sau khi đă đặt đầy (b́nh bát) với vật thực thượng hạng, con đă đậy lại bằng tấm vải lớn trị giá một ngàn và đă dâng lên với tâm ư hớn hở.

1167. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại con đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

1168. Con đă được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của một ngàn vị trời Đế Thích. Con đă được thiết lập vào ngôi hoàng hậu của một ngàn đấng Chuyển Luân Vương.

1169. Vương quyền của địa phận là bao la, vô lượng về phương diện tính đếm. Từ đó, quả báu của nghiệp ấy c̣n có nhiều h́nh thức đa dạng khác nữa.

1170. Màu da của con chính là màu của hoa sen, con là người nữ đẹp vô cùng, có dáng nh́n xinh xắn, được thành tựu toàn vẹn về cơ thể, được sanh vào nơi quyền quư, có sự lộng lẫy.

1171. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, con đă được sanh ra trong gia tộc Sakya, đứng đầu một ngàn nữ nhân của người con trai của (đức vua) Suddhodana.

1172. Nhàm chán cuộc sống tại gia, con đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Chưa đến đêm thứ bảy, con đă đạt được bốn Sự Thật.

1173. Con không thể nào ước lượng được số lượng y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi; điều này là quả báu của món vật thực.

1174. Bạch đấng Hiền Trí, xin Ngài nhớ lại việc làm tốt đẹp trước đây của con. Bạch đấng Đại Hùng, nhiều thứ đă được con buông bỏ là nhằm mục đích về Ngài.

1175. Kể từ khi con đă dâng cúng vật thí trước đây ba mươi mốt kiếp, con không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của món vật thực.

1176. Con nhận biết hai cảnh giới là bản thể chư Thiên và nhân loại, con không biết đến cảnh giới nào khác; điều này là quả báu của món vật thực.

1177. Con được sanh vào gia tộc thượng lưu, có đại sảnh đường, có tài sản lớn lao, con không biết đến gia tộc nào khác; điều này là quả báu của món vật thực.

1178. Sau khi luân hồi cơi này cơi khác, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch con không nh́n thấy điều không vừa ư; (điều này) là quả báu đă được thực hiện với tâm hoan hỷ.

1179. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đă có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đă có năng lực về trí biết tâm của người khác.

1180. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đă được cạn kiệt, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

1181. Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.

1182. Các phiền năo của con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), con sống không c̣n lậu hoặc.

1183. Quả vậy, con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1184. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được con đắc chứng; con đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Uppaladāyikā trước mặt đức Thế Tôn đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Uppaladāyikā là phần thứ ba.

--ooOoo--

34. Kư Sự về Sigālamātā[11]

1185. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đă hiện khởi.

1186. Khi ấy, con đă được sanh ra tại Haṃsavatī, trong gia đ́nh vị quan cận thần được rạng rỡ với châu báu khác loại, sung túc, thịnh vượng, có đại tài sản.

1187. Sau khi cùng với người cha dẫn đầu đám đông người đi đến và lắng nghe Giáo Pháp của đức Phật, con đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

1188. Sau khi xuất gia, con đă lánh xa nghiệp ác do thân. Sau khi từ bỏ sở hành xấu xa về lời nói, con đă thanh lọc sự nuôi mạng sống.

1189. Con được tịnh tín với đức Phật, có sự tôn sùng Giáo Pháp và Hội Chúng. Con được gắn bó với việc lắng nghe Chánh Pháp và có ḷng khao khát về việc nh́n thấy đức Phật.

1190. Khi ấy, con đă nghe về vị tỳ khưu ni đứng đầu trong số các vị ni có khuynh hướng về đức tin. Sau khi ước nguyện vị thế ấy, con đă làm tṛn đủ Tam Học. Do đó, đấng Thiện Thệ với khuynh hướng thuận theo ḷng bi mẫn đă nói với con rằng:

1191. “Đức tin của người nào đối với đức Như Lai là không bị lay chuyển, khéo được thiết lập, và giới của người nào là tốt đẹp, tương xứng với bậc Thánh, được ngợi khen.

1192. Người nào có niềm tịnh tín vào Hội Chúng, có bản thể chính trực và có sự nhận thức, người ta nói về vị ấy là ‘kẻ không nghèo,’ đời sống của vị ấy là không vô ích.

1193. V́ thế, người sáng suốt, trong khi ghi nhớ lời dạy của chư Phật, hăy gắn bó vào đức tin, vào giới, vào niềm tịnh tín, và vào việc nhận thức Giáo Pháp.”

1194. Sau khi lắng nghe điều ấy, được hoan hỷ con đă hỏi về điều phát nguyện của con. Khi ấy, đấng Hướng Đạo tối cao, vô lượng, đă chú nguyện rằng:

1195. “Này người thiện nữ, được tịnh tín vào đức Phật nàng sẽ đạt được điều đă ước nguyện ấy. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka, sẽ xuất hiện ở thế gian.

1196. Nàng sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người tha t Giáo Pháp ca v (Pht) y, là chánh thng, được to ra t Giáo Pháp, có tên là ‘Mẹ của Sigālaka.’”

1197. Nghe được điều ấy, con đă trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái con đă phụng sự đấng Chiến Thắng, bậc Lănh Đạo với các sự hành đạo cho đến hết cuộc đời.

1198. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại con đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

1199. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, con đă được sanh ra ở kinh thành Giribbaja, trong gia đ́nh triệu phú, thịnh vượng, có sự tích lũy các châu báu lớn lao.

1200. Người con trai của con tên Sigālaka là thích thú vào con đường sái quấy. Trong khi lao theo việc nắm giữ tà kiến, nó có sự nhiệt thành với việc cúng dường các phương hướng.[12]

 1201. Trong khi đi vào thành phố để khất thực, đức Phật bậc có sự giáo huấn, sau khi nh́n thấy nó đang lễ bái các phương hướng khác nhau, đấng Hướng Đạo đă thiết lập Sigālaka vào Đạo Lộ.

1202. Trong khi Ngài đang thuyết giảng Giáo Pháp, âm điệu của Ngài đáng kinh ngạc. Đă có sự lănh hội Giáo Pháp của hai koṭi người nam và người nữ.[13]

1203. Khi ấy, con đă đi đến đám đông và đă lắng nghe lời thuyết giảng của đức Thiện Thệ. Con đă đạt đến quả vị Nhập Lưu và đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

1204. Có ḷng khao khát về việc nh́n thấy đức Phật, sau khi tu tập pháp tùy niệm ấy trong thời gian không bao lâu, con đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

1205. Con luôn thường xuyên đi đến nhằm mục đích chiêm ngưỡng đức Phật. Con nh́n không biết chán diện mạo có sự hoan hỷ ở đôi mắt.

1206. Con sống, không biết chán với sắc thân cao quư, được hiện hữu với tất cả các pháp toàn hảo, được phân bố với mọi sự tốt lành, là nơi chứa đựng các điều may mắn.

1207. Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng đă thiết lập con vào vị thế tối thắng: “Mẹ của Sigālaka là vị có khuynh hướng về đức tin hạng nhất.

1208. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đă có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đă có năng lực về trí biết tâm của người khác.

1209. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đă được cạn kiệt, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

1210. Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.

1211. Các phiền năo của con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), con sống không c̣n lậu hoặc.

1212. Quả vậy, con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1213. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được con đắc chứng; con đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Sigālamātā trước mặt đức Thế Tôn đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Sigālamātā là phần thứ tư.

--ooOoo--

35. Kư Sự về Sukkā

1214. Trước đây chín mươi mốt kiếp, đă hiện khởi đấng Lănh Đạo tên Vipassī, là vị có ánh mắt thu hút, là vị thấy rơ tất cả các pháp.

1215. Khi ấy, con đă được sanh ra trong một gia đ́nh nọ tại thành Bandhumatī. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của bậc Hiền Trí, con đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

1216. Là người nghe nhiều (học rộng), thông thạo Giáo Pháp, tài biện giải cũng như thế, là vị thuyết giảng hay, và cũng là người thực hành theo lời dạy của đấng Chiến Thắng.

1217. Khi ấy, con đă thực hiện việc thuyết Pháp có nhiều lợi ích cho dân chúng. Từ nơi ấy chết đi, con đă đạt đến cơi trời Đẩu Suất, có được danh tiếng.

1218. Trước đây ba mươi mốt kiếp, trong số các vị đang thuyết giảng đă hiện khởi ở thế gian bậc Chiến Thắng Sikhī cao quư, chói sáng với danh tiếng như là ngọn lửa.

1219. Khi ấy, con cũng đă xuất gia. Là vị rành rẽ về lời dạy của đức Phật, con đă làm rạng rỡ những lời giảng của đấng Chiến Thắng, sau đó cũng đă đi đến cơi Đạo Lợi.

1220. Trước đây ba mươi mốt kiếp, đấng Lănh Đạo tên Vessabhū có đại trí tuệ đă hiện khởi. Và cũng vào lúc ấy, con đă được sanh ra tương tợ y như thế.

1221. Sau khi xuất gia, thông thạo Giáo Pháp, con đă làm rạng rỡ lời dạy của đấng Chiến Thắng. Sau khi đi đến thành phố chư Thiên xinh đẹp, con đă thọ hưởng lạc thú lớn lao.

1222. Trong kiếp Bhadda này, đấng Chiến Thắng tối thượng Kakusandha, bậc Nhân Báo đă hiện khởi. Và cũng vào lúc ấy, con đă được sanh ra tương tợ y như thế.

1223. Sau khi xuất gia, con đă làm rạng rỡ quan điểm của bậc Hiền Trí cho đến hết tuổi thọ. Từ nơi ấy chết đi, con đă đi đến cơi trời Đạo Lợi tợ như đi đến chỗ ngụ của ḿnh.

1224. Chính ở trong kiếp này, đă hiện khởi đấng Lănh Đạo Koṇāgamana, bậc Nương Nhờ của thế gian, là đấng Tối Thượng của tất cả chúng sanh.

1225. Cũng vào khi ấy, sau khi xuất gia trong Giáo Pháp của bậc như thế ấy, là người nghe nhiều (học rộng), thông thạo Giáo Pháp, con đă làm rạng rỡ lời dạy của đấng Chiến Thắng.

1226. Chính ở trong kiếp này, đă hiện khởi đấng Tối Thượng Nhân Kassapa, là con mắt của thế gian, không dục vọng, bậc đă đi đến tận cùng của sự chết.

1227. Con cũng đă xuất gia trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng của loài người ấy, có Chánh Pháp đă được học tập, là tự tin trong việc chất vấn.

1228. Có giới tốt đẹp, có sự khiêm tốn, và rành rẽ về Tam Học (Giới, Định, Tuệ). Con đă nhiều lần thực hiện việc thuyết Pháp đem lại điều lợi ích cho đến hết cuộc đời.

1229. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại con đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

1230. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, con đă được sanh ra tại kinh thành Giribbaja, trong gia đ́nh triệu phú, thịnh vượng, có sự tích lũy châu báu lớn lao.

1231. Vào lúc ấy, được tháp tùng bởi một ngàn vị tỳ khưu, đấng Lănh Đạo Thế Gian đă đi vào thành Rājagaha, và đă được ca ngợi bởi vị có ngàn mắt (trời Sakka):

1232. “Là bậc đă chế ngự cùng với các vị đă được chế ngự, là bậc đă giải thoát cùng với các vị đă được giải thoát trước đây là các đạo sĩ tóc bện, đức Thế Tôn có màu da tợ như vàng đă đi vào thành Rājagaha.”[14]

1233. Sau khi nh́n thấy oai lực ấy của đức Phật, và sau khi lắng nghe sự tích lũy về đức hạnh, con đă làm cho tâm được tịnh tín ở đức Phật và đă cúng dường Ngài tùy theo năng lực.

1234. Và vào thời điểm khác, trong sự hiện diện của vị ni Dhammadinnā, con đă rời khỏi gia đ́nh và đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

1235. Trong khi các sợi tóc đang được cạo, con đă tham thiền về các phiền năo. Sau khi xuất gia không bao lâu, con đă học xong toàn bộ Giáo Pháp.

1236. Sau đó, con đă thuyết giảng Giáo Pháp ở hội chúng đông người. Trong khi Giáo Pháp đang được thuyết giảng, đă có sự lănh hội Giáo Pháp –

1237. – của nhiều ngàn người. Sau khi biết được điều đó, có vị Dạ Xoa đă vô cùng ngạc nhiên. Vô cùng tịnh tín đối với con, vị Dạ Xoa đă đi quanh thành Giribbaja (thông báo rằng):

1238. “Những người dân này ở Rājagaha đă làm ǵ? Họ ngồi yên như là đă uống (say) mật ong mà không đi đến vị ni Sukkā đang thuyết giảng về vị thế Bất Tử?

1239. Và Giáo Pháp ấy là không thể cưỡng lại, không bị trộn lẫn, có dưỡng chất. Tôi nghĩ rằng những người có trí tuệ uống (Giáo Pháp ấy) tợ như người lữ hành uống (nước từ) đám mây mưa.”

1240. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đă có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đă có năng lực về trí biết tâm của người khác.

1241. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đă được cạn kiệt, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

1242. Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.

1243. Các phiền năo của con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), con sống không c̣n lậu hoặc.

1244. Quả vậy, con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1245. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được con đắc chứng; con đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Sukkā trước mặt đức Thế Tôn đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Sukkā là phần thứ năm.

Tụng phẩm thứ năm.

--ooOoo--

36. Kư Sự về Rūpanandā

1246. Trước đây chín mươi mốt kiếp, đă hiện khởi đấng Lănh Đạo tên Vipassī, là vị có ánh mắt thu hút, là bậc Hữu Nhăn về tất cả các pháp.

1247. Khi ấy, con đă được sanh ra ở Bandhumatī, trong gia tộc lớn, sung túc, thịnh vượng, có sắc đẹp, được yêu quư, và xứng đáng sự tôn vinh của dân chúng.

1248. Con đă đi đến đấng Đại Hùng, bậc Lănh Đạo Thế Gian Vipassī. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp, con đă đi đến nương nhờ vào bậc Lănh Đạo của nhân loại.

1249. Con đă thu thúc trong các giới. Và khi đấng Tối Thượng Nhân Niết Bàn, con đă cúng dường chiếc lọng che bằng vàng ở bên trên ngôi bảo tháp xá-lợi.

1250. Là người nữ có sự xả bỏ đă được mở ra, có giới hạnh cho đến hết cuộc đời, con đă mệnh chung từ nơi ấy. Sau khi từ bỏ thân nhân loại, con đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

1251. Khi ấy, con đă hưởng thụ mười điều thừa thải là: các sắc, các thinh, các hương, các vị, các xúc, –

1252. – cùng với tuổi thọ, sắc đẹp, sung sướng, danh vọng, và quyền uy là tương tợ y như thế. Con đă vượt trội, con đă huy hoàng.

1253. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, con đă được sanh ra ở thành Kapila, là con gái của Khemaka ḍng Sakya, được nổi danh với tên là Nandā.

1254. Sắc đẹp tuyệt trần là tên hiệu công nhận về vẻ yêu kiều của con. Khi đạt đến tuổi thanh xuân, con đă được điểm tô với sắc đẹp mặn mà.

1255. Khi ấy, sự tranh chấp giữa các vị ḍng Sakya về việc của con đă trở nên vô cùng trầm trọng. Do đó, cha đă khiến (con) xuất gia: “Chớ để ḍng Sakya bị hủy hoại.”

1256. Sau khi xuất gia, nghe rằng đức Như Lai bậc Tối Thượng Nhân là người có sự chỉ trích về sắc thân, tự hào về sắc đẹp của ḿnh con đă không đến (gặp Ngài).

1257. E ngại về việc diện kiến đức Phật, con cũng không đi về việc giáo giới. Khi ấy, bằng phương kế đấng Chiến Thắng đă đưa (con) đến gặp Ngài.

1258. Nhờ vào thần thông, bậc rành rẽ về Đạo Lộ đă thị hiện ra ba người phụ nữ có sắc đẹp tương tợ tiên nữ, c̣n trẻ tuổi, bị già, và bị chết.

1259. Sau khi nh́n thấy ba người nữ ấy, bị vô cùng chấn động, không c̣n tham ái ở xác thân, con đă ổn định, đă nhàm chán hiện hữu. Khi ấy, bậc Lănh đạo đă nói với con rằng:

1260. “Này Nandā, hăy xem xét thân thể bệnh hoạn, bất tịnh, hôi thối, đang tiết ra, đang ṛ rỉ lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.

1261. Nàng hăy tu tập tâm được chuyên nhất khéo tập trung về đề mục bất mỹ (tử thi), thân này như thế nào th́ xác kia như vậy.

1262. Trong khi quán xét xác thân này như thế, đêm ngày không mệt mỏi, sau đó với tuệ của chính ḿnh nàng hăy nhàm chán rồi an trú.”

1263. Trong khi con đây đang sống không xao lăng ở nơi đây một cách đúng đắn, thân xác này đă được nh́n thấy bên trong lẫn bên ngoài đúng theo thực thể.

1264. Khi ấy, con đă nhàm chán về thân, và con đă ly tham nội phần. Con không xao lăng, không vướng bận, an tịnh, Niết Bàn.

1265. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đă có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đă có năng lực về trí biết tâm của người khác.

1266. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đă được cạn kiệt, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

1267. Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.

1268. Các phiền năo của con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), con sống không c̣n lậu hoặc.

1269. Quả vậy, con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1270. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được con đắc chứng; con đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Rūpanandātrước mặt đức Thế Tôn đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Rūpanandā là phần thứ sáu.

--ooOoo--

37. Kư Sự về Aḍḍhakāsī

1271. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đă hiện khởi đấng cao quư tên là Kassapa, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

1272. Khi ấy, sau khi xuất gia trong Giáo Pháp của vị Phật ấy, con đă thu thúc trong giới bổn Pātimokkha và ở năm giác quan.

1273. 1274. Là người có sự tri túc trong vật thực và c̣n được gắn bó trong việc tỉnh thức nữa, trong khi sống con có thiền tập được gắn bó. Với tâm ác xấu, con đă mắng nhiếc vị tỳ khưu ni có lậu hoặc đă được xa ĺa. Và khi ấy, con đă nói rằng: “Đồ kỹ nữ.” Do ác nghiệp ấy, con đă bị nung nấu ở địa ngục.

1275. Do phần dư sót của chính nghiệp ấy, con đă bị sanh ra trong gia đ́nh kỹ nữ, đa phần bị phụ thuộc vào người khác cho đến cuộc sống cuối cùng.

1276. Do quả báu của việc thực hành Phạm hạnh, con đă được sanh ra ở xứ Kāsi trong gia đ́nh triệu phú. Con đă có sự thành tựu về sắc đẹp như là cô tiên nữ ở giữa chư Thiên.

1277. Sau khi nh́n thấy con là (xinh xắn) đáng nh́n, họ đă sắp xếp con vào thân phận gái điếm ở trong kinh thành Giribbaja, v́ quả báu về sự mắng nhiếc của con.

1278. Con đây sau khi lắng nghe lời thuyết giảng Chánh Pháp của đức Phật Tối Thượng, con đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh; con đă đạt được cuộc sống trước đây.

1279. Sau đó, trong khi đi đến gặp đấng Chiến Thắng v́ mục đích tu lên bậc trên, con đă nghe rằng các kẻ vô lại đứng chận ở trên đường, và con đă đạt được sự tu lên bậc trên bằng sứ giả.[15]

1280. Tất cả các nghiệp đă được cạn kiệt, và tương tợ như thế về phước thiện và điều ác xấu. Con đă vượt qua tất cả các sự luân hồi, và thân phận gái điếm đă được quăng bỏ.

1281. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đă có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đă có năng lực về trí biết tâm của người khác.

1282. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đă được cạn kiệt, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

1283. Bạch đấng Đại Hùng, trí của con về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ như thế về phép biện giải là được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.

1284. Các phiền năo của con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), con sống không c̣n lậu hoặc.

1285. Quả vậy, con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1286. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được con đắc chứng; con đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Aḍḍhakāsī trước mặt đức Thế Tôn đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Aḍḍhakāsī là phần thứ bảy.

--ooOoo--

38. Kư Sự về Puṇṇā

1287. (Trong Giáo Pháp) của đức Thế Tôn Vipassī, Sikhī, Vessabhū, Kakusandha, và như thế ấy (trong Giáo Pháp) của bậc Hiền Trí Koṇāgamana.

1288. Và trong Giáo Pháp của đức Phật Kassapa, sau khi xuất gia con đă là vị tỳ khưu ni thành tựu về giới, cẩn trọng, có các giác quan được thu thúc.

1289. Là người nghe nhiều (học rộng), thông thạo Giáo Pháp, là người vấn hỏi các ư nghĩa của Giáo Pháp, là người học tập và lắng nghe các Pháp, là người phục vụ (bậc Đạo Sư).

1290. Trong khi thuyết giảng ở giữa dân chúng, con đă ở trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. Với sự học rộng ấy, hạnh tốt, con đă tự cao.

1291. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, con đă được sanh ra tại kinh thành Sāvatthī trong nhà của Anāthapiṇḍika, (con) của người nữ tỳ lo việc đội nước.

1292. Đi đội nước, con đă nh́n thấy vị Bà-la-môn Sotthiya bị khổ sở v́ lạnh ở trong nước. Sau khi nh́n thấy vị ấy, con đă nói điều này:

1293. “Là người nữ đội nước, tôi ở trong sự lạnh lẽo, tôi đă thường xuyên lội xuống nước. Tôi sợ hăi v́ nỗi lo về h́nh phạt của những người chủ, bị khổ sở v́ nỗi lo về sự sai trái của lời nói.

1294. Này người Bà-la-môn, ngài sợ hăi điều ǵ khiến ngài đă thường xuyên lội xuống nước? Với các bộ phận của cơ thể đang run rẩy, ngài tự biết sự lạnh là kinh khủng.”

1295. “Này cô Puṇṇikā quư mến, quả nhiên trong khi cô biết lại c̣n chất vấn ta là người đang thực hiện việc tốt và đang cản ngăn điều ác đă làm.

1296. Này cô, người nào dầu già hoặc c̣n trẻ thực hiện nghiệp ác, nhờ vào việc tắm gội bằng nước (người ấy) được thoát khỏi nghiệp ác.”

1297. Con đă nói cho người đang lội ra (khỏi nước) về Đạo Lộ hội đủ Pháp và ư nghĩa. Và sau khi biết được điều ấy, bị chấn động, người ấy đă xuất gia và đă trở thành vị A-la-hán.

1298. Do việc con đă được sanh ra ở gia đ́nh nô bộc làm tṛn đủ một trăm (người) không thiếu hụt, v́ việc đó tên của con là Puṇṇā. Những người (chủ) ấy đă cho con trở thành người tự do.

1299. Nhờ vào điều ấy, con đă làm cho người triệu phú được hoan hỷ và con đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh Trong thời gian không bao lâu con đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

1300. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đă có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đă có năng lực về trí biết tâm của người khác.

1301. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đă được cạn kiệt, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

1302. Trí tuệ của con về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức Phật tối thượng.

1303. Do việc tu tập con trở thành vị ni có đại trí tuệ, và do việc nghe con trở thành vị ni thông thái, Việc bị sanh ra trong gia tộc hạ tiện do ngă mạn chính là v́ nghiệp không bị tiêu hoại.

1304. Các phiền năo của con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), con sống không c̣n lậu hoặc.

1305. Quả vậy, con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1306. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được con đắc chứng; con đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Puṇṇā trước mặt đức Thế Tôn đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Puṇṇā là phần thứ tám.

--ooOoo--

39. Kư Sự về Ambapālī

1307. Vị có ṿng hoa đội đầu được phát ra hào quang là bậc Đại Hiền Trí tên Phussa. Con đă là người em gái của vị ấy. Con đă được sanh ra trong gia tộc Sát-đế-lỵ.

1308. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của vị ấy, với tâm tư trong sạch con đă dâng cúng đại thí và đă ước nguyện sự thành tựu về sắc đẹp.

1309. Trước đây ba mươi mốt kiếp, đă hiện khởi bậc Quang Đăng của thế gian, đấng Chiến Thắng, vị Lănh Đạo Thế Gian Sikhī, bậc Nương Nhờ của tam giới.

1310. Khi ấy, con xuất thân gia tộc Bà-la-môn ở trong thành Aruṇa xinh đẹp. Bị sân hận, con đă cho người nguyền rủa vị tỳ khưu ni có tâm giải thoát rằng:

1311. “Cô chính là gái điếm, không có hạnh kiểm, là kẻ làm bại hoại Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng.” Con đă cho người mắng nhiếc như thế. Do hành động xấu xa ấy, –

1312. – con đă đi đến địa ngục khắc nghiệt, bị thọ lănh khổ đau cùng cực. Từ nơi ấy chết đi, con đă được sanh ra giữa loài người, là nữ đạo sĩ khổ hạnh.

1313. Con đă bị buộc làm thân phận gái điếm mười ngàn kiếp sống. Do việc ác ấy con đă không được giải thoát, như là đă thọ dụng chất độc xấu xa vậy.

1314. Con đă rèn luyện Phạm hạnh trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng Kassapa. Do kết quả của nghiệp ấy, con đă được sanh ra ở cơi trời Đạo Lợi.

1315. Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, con đă là người được hóa sanh. Con đă được sanh ra ở giữa cành cây xoài, v́ thế con là “Ambapālī.”

1316. Được tùy tùng với nhiều koṭi sanh mạng, con đă xuất gia trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. Con đă đạt đến vị thế bất động, được tồn tại, là chánh thống của đức Phật.

1317. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đă có năng lực về các loại thần thông và sự thanh tịnh về nhĩ giới, con đă có năng lực về trí biết tâm của người khác.

1318. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đă được cạn kiệt, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

1319. Trí tuệ của con về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức Phật tối thượng.

1320. Các phiền năo của con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), con sống không c̣n lậu hoặc.

1321. Quả vậy, con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1322. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được con đắc chứng; con đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Ambapālī trước mặt đức Thế Tôn đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Ambapālī là phần thứ chín.

--ooOoo--

40. Kư Sự về Pesalā

1323. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đă hiện khởi đấng cao quư tên là Kassapa, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

1324. Con đă được sanh ra trong gia đ́nh cư sĩ tại kinh thành Sāvatthī. Sau khi nh́n thấy đấng Chiến Thắng cao quư ấy con đă lắng nghe lời thuyết giảng.

1325. Sau khi đi đến nương tựa vào vị Anh Hùng ấy, con đă thọ tŕ các giới. Có lần nọ bậc Đại Hùng ấy ở tại cuộc tụ hội của đám đông dân chúng.

1326. Đấng Nhân Ngưu đă công bố quả vị Chánh Đẳng Giác của ḿnh: “Về các pháp trước đây chưa từng được nghe, về khổ, v.v...

1327. (Pháp) nhăn, trí, tuệ, minh, và ánh sáng đă có cho Ta.” Sau khi lắng nghe điều ấy, con đă học và đă vấn hỏi các vị tỳ khưu.

1328. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại con đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

1329. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, được sanh ra trong đại gia đ́nh triệu phú con đă đi đến đức Phật và đă lắng nghe Chánh Pháp bao gồm các Sự Thật.

1330. Sau khi xuất gia chẳng bao lâu, trong khi suy xét về ư nghĩa của các Sự Thật, con đă quăng bỏ tất cả các lậu hoặc và đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

1331. Bạch đấng Đại Hiền Trí, con đă có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đă có năng lực về trí biết tâm của người khác.

1332. Con biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đă được cạn kiệt, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

1333. Trí tuệ của con về ư nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương tợ y như thế về phép biện giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức Phật tối thượng.

1334. Các phiền năo của con đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đă được cởi trói), con sống không c̣n lậu hoặc.

1335. Quả vậy, con đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1336. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được con đắc chứng; con đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Pesalā đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo ni Pesalā là phần thứ mười.

Phẩm Sát-đế-lỵ là phẩm thứ tư.

--ooOoo--

 

TÓM LƯỢC CỦA PHẨM NÀY

Các vị ni ḍng Sát-đế-lỵ, luôn cả các vị ni ḍng Bà-la-môn, tương tợ như thế là vị ni Uppaladāyikā, vị ni Sigālamātā, vị ni Sukkā, vị ni vô cùng xinh đẹp (Rūpanandā), vị ni Aḍḍhakāsikā, vị ni Puṇṇā, vị ni Ambapālī, và vị ni Pesalā ấy là mười. Ở đây, có hai trăm câu kệ ngôn và thêm vào bốn mươi hai câu nữa.

--ooOoo--

 

GIỜ LÀ PHẦN TÓM LƯỢC CỦA CÁC PHẨM

(Bốn Phẩm) Sumedhā, Ekūposathā, Kuṇḍalakesī, Khattiyā được gộp chung lại có một ngàn ba trăm bốn mươi bảy kệ ngôn. Cùng với các câu kệ của phần tóm lược đă được tính đếm bởi các bậc trí là một ngàn ba trăm năm mươi bảy câu kệ cả thảy.

Kư Sự về Trưởng Lăo Ni được đầy đủ.

Bộ Kinh Apadāna được đầy đủ.

--ooOoo--


 

[1] Xem Bổn Sanh Sulasā, tích chuyện 419.

[2] Sau khi đă được nhổ sạch, những sợi tóc mọc lại đă bị xoắn nên có biệt hiệu là Kuṇḍalakesā (tóc xoắn).

[3] Kinh Pháp Cú, câu 113.

[4] Xem thêm Kinh Cūlavedallasuttaṃ - Tiểu Kinh Phương Quảng, Trung Bộ I.

[5] Kinh Pháp Cú, câu 112.

[6] Các câu kệ từ 952 - 957 không thấy ở Tạng Thái và Tạng Anh.

[7] Jambudīpa: bán đảo Ấn Độ.

[8] Một koṭi là mười triệu.

[9] Kế tiếp có hai mươi câu kệ được thấy ở Tạng Thái, Miến, Anh, nhưng không thấy ở Tạng Sri Lanka. V́ nội dung không có ǵ đặc sắc nên không thêm vào.

[10] Uppaladāyikā có ư nghĩa là “người nữ dâng cúng hoa sen xanh.”

[11] Sigālamātā nghĩa là “mẹ của Sigāla.”

[12] Xem Sigālasuttaṃ, Kinh Trường Bộ III.

[13] Hai koṭi là hai mươi triệu.

[14] Việc này được đề cập ở Luật Đại Phẩm, Chương 1.

[15] Việc này được đề cập ở Luật Tiểu Phẩm, Chương 10.

 

 

   
 

| 00 | 01 | 02 |

 
 

<Mục Lục><Đầu Trang>