I.
SỰ TOÀN HẢO VỀ BỐ THÍ
1. Hạnh
của (Đức Bồ-tát) Akitti
1. Các hạnh nào được thực
hành trong khoảng thời gian này,
(tức là) bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, tất cả các
hạnh ấy là điều kiện làm cho chín muồi quả vị giác ngộ.
2. Trừ ra các hạnh đă được
thực hành trong kiếp quá khứ thuộc đời này hoặc đời khác, ta sẽ
nói đến hạnh đă được thực hiện trong kiếp này, ngươi hăy lắng
nghe.
3. Lúc bấy giờ, ta là vị đạo sĩ
khổ hạnh tên Akitti. Ta đă đi sâu vào và cư ngụ ở khu rừng rậm,
hoang vắng, là lâm viên có nhiều cây.
4. Khi ấy, Chúa của chư
thiên Sakka
bị nóng bức
bởi năng lực khổ hạnh của ta nên đă đi đến gần ta để xin vật
thực trong dáng vóc vị Bà-la-môn.
5. Nh́n thấy (vị ấy) đứng ở
cánh cửa (căn cḥi lá) của ta, ta đă bày ra chỉ có một tô lá cây
đă được gió gom lại, không có dầu và cũng không có muối.
6. Sau khi bố thí lá cây đến vị
này, ta đă lập úp cái tô lại, từ bỏ việc t́m kiếm (thức ăn) một
lần nữa, và đă đi vào căn cḥi lá.
7. Lần thứ nh́, rồi lần thứ ba,
vị ấy cũng đă đi đến gặp ta. Không dao động, không dính mắc, ta
đă bố thí như hai lần trước.
8. (Nhưng) không v́ nguyên nhân
ấy mà thân thể của ta trở nên tiều tụy; ta đă trải qua ngày hôm
ấy với niềm phỉ lạc và hứng thú.
9. Nếu như ta có được một vị xứng
đáng để cúng dường th́ ta có thể dâng cúng vật thí tối thượng
luôn cả một tháng, hai tháng, mà không dao động, không lưỡng lự.
10. Trong khi bố thí phẩm vật cho
vị ấy, ta đă không mong cầu danh và lợi. Ta đă thực hiện những
hành động ấy trong khi ước mong phẩm vị Toàn Tri.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Akitti là
phần thứ nhất.
2. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Saṅkha
11. Vào một thời điểm khác nữa,
khi ta là vị Bà-la-môn tên gọi Saṅ-kha. Có ư định băng qua đại
dương, ta đă đi đến bến tàu.
12. Tại nơi ấy, ta đă nh́n thấy ở
phía bên kia đường một vị Phật Độc Giác, là bậc không bị kẻ khác
hàng phục, đang đi ở con đường xa vắng, trên mặt đất gồ ghề,
nóng bỏng.
13. Sau khi nh́n thấy vị ấy ở
phía bên kia đường, ta đă suy xét về sự việc này: “Đây là
phước điền đă được thành tựu đến cho người mong cầu phước báu.”
14. Cũng giống như người nông phu
nh́n thấy thửa ruộng có triển vọng thu hoạch lớn, người ấy không
gieo hạt giống ở nơi ấy (nghĩa là) người ấy không có nhu cầu về
thóc lúa.
15. Tương tợ như thế, là người có
mong cầu về phước báu, sau khi nh́n thấy phước điền cao quư tối
thượng, nếu ta không thể hiện hành động ở phước điền ấy th́ ta
không phải là người mong cầu về phước báu.
16. Giống như vị quan đại thần
mong muốn có uy quyền đối với những người trong cung mà không
ban cho những người ấy tài sản và thóc gạo th́ sẽ bị suy giảm về
uy quyền.
17. Tương tợ như thế, là người có
mong cầu về phước báu sau khi nh́n thấy bậc cao thượng xứng đáng
để cúng dường, nếu ta không dâng cúng vật thí đến vị ấy th́ ta
sẽ bị suy giảm về phước báu.
18. Sau khi suy nghĩ như thế, ta
đă cởi ra đôi dép, rồi đảnh lễ ở hai bàn chân của vị ấy, và đă
cúng dường dù và dép.
19. Mặc dầu ta có cơ thể mảnh mai
và được nuôi dưỡng cẩn thận gấp trăm lần so với vị ấy, tuy nhiên
trong khi làm tṛn đủ hạnh bố thí, ta cũng đă cúng dường đến vị
ấy như thế.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Saṅkha là
phần thứ nh́.
3. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Kurudhamma
20. Vào một thời điểm khác nữa,
khi ta là vị vua tên Dhanañjaya ở tại kinh thành Indapattha, và
được thuần thục về mười thiện nghiệp.
21. Những người Bà-la-môn từ lănh
thổ vương quốc Kaliṅga đă đi đến gặp ta. Họ đă cầu xin ta con
long tượng được xem là biểu hiện của sự thịnh vượng và may mắn.
22. (Họ đă nói rằng): “Xứ sở
chúng tôi không có mưa, thức ăn hiếm hoi, đói kém trầm trọng.
Xin ngài hăy ban cho con hắc long tượng cao quư có tên là Añjana.”
23. (Ta nghĩ rằng): “Đối với
ta, khi có được người cầu xin th́ sự từ chối là điều không đúng
đắn. Sự thọ tŕ của ta chớ có bị đổ vỡ. Ta sẽ bố thí con voi vĩ
đại.”
24. Sau khi nắm lấy con voi ở
chiếc ngà và rưới nước từ chiếc b́nh làm bằng ngọc quư lên bàn
tay, ta đă cho con voi đến các vị Bà-la-môn.
25. Khi con voi ấy đă được cho
đi, các quan đại thần đă nói điều này: “Sao ngài lại cho con
voi quư báu của ngài đến những kẻ cầu xin?
26. Con voi là tối ưu trong
việc chiến thắng ở trận tiền, được thành tựu sự thịnh vượng và
may mắn. Khi con voi ấy đă được cho đi th́ cái ǵ sẽ vận hành
vương quốc của ngài?”
27. Ta có thể bố thí luôn cả toàn
bộ vương quốc của ta. Ta có thể bố thí cả thân mạng của ḿnh.
Đối với ta, quả vị Toàn Tri là yêu quư; v́ thế ta đă bố thí con
long tượng.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Kurudhamma
là phần thứ ba.
4. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Mahāsudassana
28. Khi ở thành phố Kusāvatī, ta đă là vị lănh chúa, đấng Chuyển
Luân Vương có quyền lực lớn lao tên Mahāsudassana.
29. Tại thành phố ấy, ta đă cho
thông báo ba lần trong ngày ở khắp các nơi rằng: “Ai muốn
(hoặc) mong mỏi vật ǵ? Của cải ǵ nên được ban phát? (Ban phát)
đến ai?
30. Ai đói? Ai khát? Ai (cần)
ṿng hoa? Ai (cần) dầu thoa? Có các loại vải vóc đủ màu, ai trần
truồng th́ sẽ mặc vào?
31. Ai đi đường cần đến dù? Ai
(cần đến) giày dép mềm mại, đẹp đẽ?” Ta đă cho thông báo
sáng chiều ở khắp các nơi như thế.
32. Của cải ấy đă được chuẩn bị
cho những người cầu xin không phải chỉ ở mười địa điểm, hoặc ở
một trăm địa điểm, mà ở hàng trăm địa điểm.
33. Nếu có người nghèo khổ đi đến
cho dù ban ngày hoặc ban đêm, họ đều được nhận lănh tài sản theo
như ư thích rồi ra đi với hai tay tràn đầy của cải.
34. Ta đă bố thí những phẩm vật
lớn lao có h́nh thức như thế cho đến trọn đời. Ta cho ra của cải
không phải là v́ không thích ư, cũng không phải là v́ ta không
có chỗ để cất giữ.
35. Cũng giống như người bị bệnh,
sau khi làm hài ḷng vị thầy thuốc với vàng bạc cho việc chữa
lành căn bệnh, th́ (sẽ) được hoàn toàn thoát khỏi căn bệnh.
36. Tương tợ y như thế, khi biết
được (điều ấy), để làm viên măn (pháp bố thí) không bị thiếu sót
và làm cho đầy đủ tâm ư c̣n khiếm khuyết, ta đă ban phát vật thí
cho những người cầu xin, không luyến tiếc, không mong mỏi sự đền
đáp nhằm thành tựu quả vị Toàn Giác.
Hạnh của (đức Bồ-tát)
Mahāsudassana là phần thứ tư.
5. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Mahāgovinda
37. Vào một thời điểm khác nữa,
khi là Bà-la-môn Mahāgovinda, ta đă là viên quan tế tự của bảy
vị vua và được các đấng quân vương cung phụng.
38. Khi ấy, phẩm vật ở trong bảy
vương quốc đă là của ta. Với phẩm vật ấy ta đă ban phát cuộc đại
thí, tợ như biển cả không bị xáo động
39. Không phải là của cải và lúa
gạo là không được vừa ư đối với ta và cũng không phải là ở nơi
ta không có sự tích trữ. Quả vị giác ngộ đối với ta rất là cao
quư, do đó ta bố thí tài sản quư giá.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Mahāgovinda
là phần thứ năm.
6. Hạnh của Đức Vua Nimi
40. Vào một thời điểm khác nữa,
khi ta là vị đại vương tên Nimi, là bậc trí tuệ và là người tầm
cầu thiện pháp ở tại kinh thành Mithilā.
41. Khi ấy, ta đă cho thực hiện
bốn sảnh đường (mỗi sảnh đường) có bốn cổng ra vào (ở bốn hướng
chính). Ở tại nơi ấy, ta đă cho tiến hành việc bố thí đến các
thú vật, chim chóc, loài người, v.v...
42. Ta đă thực hiện không ngừng
nghỉ (ngày đêm không gián đoạn đến lúc dứt tuổi thọ, CpA. 54) và
đă cho tiến hành cuộc đại thí (gồm có) y phục, giường ghế, cơm
ăn, nước uống, và thực phẩm (các loại),
43. Cũng giống như người đầy tớ,
v́ lư do lương bổng, tiếp cận chủ nhân và suy tầm cách làm hài
ḷng bằng thân, khẩu, ư (bằng hành động, lời nói, và tư tưởng).
44. Tương tợ y như thế, trong tất
cả mọi kiếp sống ta cũng sẽ tầm cầu việc làm sanh khởi sự giác
ngộ. Sau khi làm thỏa măn các chúng sanh với vật bố thí, ta mong
cầu quả vị giác ngộ tối thượng.
Hạnh của đức vua Nimi là phần thứ
sáu.
7. Hạnh của Hoàng Tử Canda
45. Vào một thời điểm khác nữa,
khi ta là vị hoàng tử tên Canda, con trai của Ekaràja, ở tại
thành phố Pupphavatī.
46. Khi ấy, ta đă được thoát khỏi
cuộc tế thần và đă rời khỏi khu vực cuộc lễ tế. Sau khi đă tạo
nên niềm xúc động, ta đă tiến hành cuộc đại thí.
47. (Khi) không được bố thí đến
những người xứng đáng sự bố thí, ta không uống, không ăn, cũng
không thọ dụng vật thực, thậm chí đến năm sáu đêm.
48. Cũng giống như người thương
buôn sau khi đă tích trữ hàng hóa th́ sẽ đem hàng hóa ấy đến nơi
nào có nhiều lợi nhuận.
49. Tương tợ y như thế, ngay cả
việc bố thí đến người khác vật đă được thọ dụng bởi bản thân
cũng có quả báu lớn; v́ thế nên bố thí đến tha nhân, sẽ có được
(kết quả) gấp trăm lần.
50. Biết được năng lực của chân
lư ấy, ta đă ban phát vật bố thí kiếp này đến kiếp khác. Ta
không suy giảm việc bố thí nhằm thành tựu quả vị Toàn Giác.
Hạnh của Hoàng Tử Canda là phần
thứ bảy.
8. Hạnh của Đức Vua Sivi
51. Ở tại thành phố có tên gọi là
Ariṭṭha, ta đă là vị Sát-đế-lỵ tên Sivi. Vào lúc ngồi ở ṭa lâu
đài quư báu, ta đă suy nghĩ như vầy:
52. “Không có bất cứ vật thí
nào thuộc về nhân loại mà ta chưa từng bố thí. Thậm chí người
nào yêu cầu ta về con mắt th́ ta cũng có thể bố thí, không bị
dao động.”
53. Biết được tâm tư của ta, vị
Chúa Trời Sakka ngồi ở giữa tập thể chư thiên đă nói lên lời
này:
54. “Đức vua Sivi có đại oai
lực trong khi ngồi ở ṭa lâu đài quư báu suy nghĩ về vật bố thí
đủ các loại, vị ấy không nh́n thấy vật chưa từng được bố thí.
55. Điều này là đúng hay không
đúng sự thật? Vậy hăy để ta thử thách vị ấy. Các người hăy chờ
một chốc lát đến khi ta biết được tâm ư ấy.”
56. Sau khi biến thành dáng vóc
người mù ḷa, đang run rẩy, có đầu tóc bạc phơ, cơ thể nhăn
nheo, già yếu, bệnh hoạn, (Chúa Trời Sakka) đă đi đến gặp đức
vua.
57. Khi ấy, ông ta đă giơ cánh
tay trái và cánh tay phải lên chắp lại ở đầu, rồi đă nói lời
này:
58. “Tâu đại vương, tôi cầu
xin ngài. Ôi vị làm tiến triển vương quốc về phương diện đạo
đức, danh tiếng của ngài về sự hoan hỉ trong bố thí đă vang khắp
chốn nhân thiên.
59. Cả hai con mắt dẫn đường
của tôi bị mù ḷa, hư hỏng. Hăy bố thí cho tôi một con mắt, ngài
cũng hăy c̣n sống với một con mắt vậy.”
60. Nghe được lời nói của người
ấy, ta đă mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn. Tràn ngập niềm phấn
khởi, ta đă chắp tay lại rồi đă nói lời này:
61. “Lúc này đây, sau khi suy
nghĩ trẫm đă rời ṭa lâu đài đi đến nơi đây. C̣n ngươi, sau khi
biết được tâm của trẫm đă đi đến để cầu xin con mắt.
62. Ôi, ư định của ta đă được
thành tựu, điều ước mong đă được vẹn toàn! Hôm nay, ta sẽ ban
cho người hành khất tặng vật cao quư chưa từng được bố thí trước
đây.
63.
Này Sīvaka,
hăy lại gần. Hăy mạnh dạn lên, đừng chần chờ, chớ có run rẩy.
Hăy móc ra cả hai con mắt và trao cho người cầu thỉnh.”
64. Sau đó, bị ta thúc giục vị
Sīvaka ấy là người thi hành mệnh lệnh đă lấy ra (hai con mắt)
giống như nạo cơm dừa, rồi đă trao cho cho người hành khất.
65. Trong khi chuẩn bị bố thí,
khi đang bố thí, khi tặng vật đă được ta bố thí, tâm không có
thay đổi với lư do chỉ là v́ quả vị giác ngộ.
66. Hai con mắt không có bị ta
ghét bỏ, bản thân không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn
Giác là yêu quư; v́ thế ta đă bố thí con mắt.
Hạnh của Đức Vua Sivi là phần thứ
tám.
9. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Vessantara
67. Người mẹ ruột của ta là
nữ nhân ḍng Sát-đế-lỵ tên Phusatī. Bà ấy là hoàng hậu yêu quư
của (Chúa Trời) Sakka vào những kiếp sống trước.
68. Nh́n thấy sự dứt tuổi thọ của
bà ấy, vị Chúa Trời đă nói điều này: “Này quư phi, trẫm ban cho
khanh mười điều ân huệ, hăy chọn lựa theo như ư thích.”
69. Và khi được nói như vậy, bà
hoàng hậu ấy đă đáp lại (Chúa Trời) Sakka điều này: “Thiếp có
lỗi lầm ǵ vậy? Phải chăng thiếp bị ngài ghét bỏ khiến ngài lưu
đày thiếp khỏi chốn bồng lai như là ngọn gió thổi trốc gốc cây
vậy?”
70. Và khi được nói như vậy, vị
(Chúa Trời) Sakka ấy đă đáp lại bà ta điều này: “Chẳng phải
khanh đă làm điều sai trái và cũng chẳng phải là ta không yêu
quư khanh.
71. Sở dĩ như thế ấy chính là v́
tuổi thọ của khanh, thời điểm tử vong sắp đến. Hăy tiếp nhận
mười điều ân huệ quư báu tối cao đă được trẫm ban thưởng.”
72. Với mười điều ân huệ được
(Chúa Trời) Sakka ban thưởng, bà Phusatī ấy, hớn hở, mừng rỡ,
vui sướng, đă lựa chọn mười điều ân huệ sau khi đă tính gộp luôn
cả ta (vào các điều ân huệ ấy).
73. Mệnh chung từ nơi đó, bà
Phusatī ấy đă sanh vào ḍng dơi Sát-đế-lỵ ở thành phố Jetuttara
và đă kết hôn với Sañjaya.
74. Khi ấy, ta đă hạ sanh vào
ḷng bà Phusatī, người mẹ yêu quư. Do nhờ oai lực của ta, người
mẹ của ta đă luôn luôn hứng thú trong việc bố thí.
75. Bà bố thí cho những người
không có tài sản, người không có của cải, người bệnh hoạn, người
già cả, người ăn xin, người đi đường, các vị Sa-môn, các
Bà-la-môn, và những người bị khánh tận.
76. Sau khi mang thai ta được
mười tháng, bà Phusatī trong lúc đang đi quanh thành phố đă sanh
ta ở giữa đường phố của những người thương buôn.
77. Tên của ta không liên quan
đến họ mẹ, cũng không xuất phát từ họ cha. Ta đă được sanh ra ở
đường phố của những người thương buôn, v́ thế ta đă là
Vessantara.
78. Đến khi ta đă trở thành đứa
bé trai được tám tuổi tính từ lúc sanh, khi ấy ta đă ngồi ở ṭa
lâu đài và đă suy nghĩ về việc bố thí tặng vật.
79. Ta có thể bố thí tim, mắt,
luôn cả thịt và máu của ḿnh. Ta đă thông báo là ta có thể bố
thí xác thân của ḿnh nếu có người van xin.
80. Trong khi ta đang suy xét về
bản tánh không dao động không hẹp ḥi, tại nơi ấy trái đất với
tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru đă rúng động.
81. Mỗi nửa tháng, vào ngày mười
lăm và ngày cuối tháng là ngày trai giới, ta đă cưỡi lên con voi
Paccaya và đă đi đến để bố thí tặng phẩm.
82. Những người Bà-la-môn từ lănh
thổ vương quốc Kaliṅga đă đi đến gặp ta. Họ đă cầu xin ta con
long tượng được xem là biểu hiện của sự thịnh vượng và may mắn:
83. “Xứ sở chúng tôi không có
mưa, thức ăn hiếm hoi, đói kém trầm trọng. Xin ngài hăy ban cho
con long tượng cao quư, toàn màu trắng, tối thắng của loài voi.”
84. Ta bố thí điều mà những người
Bà-la-môn yêu cầu ta; ta không rung động. Ta không thu giấu vật
đang sở hữu. Tâm ư của ta hoan hỉ trong việc bố thí.
85. (Nghĩ rằng): “Đối với ta,
khi có được người cầu xin th́ sự từ chối là điều không đúng đắn.
Sự thọ tŕ của ta chớ có bị đổ vỡ. Ta sẽ bố thí con voi vĩ đại.”
86. Sau khi nắm lấy con voi ở
chiếc ngà và rưới nước từ chiếc b́nh làm bằng ngọc quư lên bàn
tay, ta đă cho con voi đến các vị Bà-la-môn.
87. Lại một lần nữa, trong khi ta
đang bố thí con voi tối thắng toàn màu trắng, khi ấy trái đất
với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đă rúng động.
88. Do việc bố thí con voi ấy,
những người dân xứ Sivi giận dữ đă tụ họp lại và đă trục xuất
(ta) ra khỏi vương quốc của ta (nói rằng): “Hăy cho ông ta đi
đến ngọn núi Vaṅka.”
89. Trong khi bọn họ xua đuổi, ta
đă yêu cầu một ân huệ để tiến hành cuộc đại thí, không dao động,
không hẹp ḥi.
90. Khi được yêu cầu, tất cả
những người dân xứ Sivi đă ban cho ta một ân huệ. Sau khi cho vỗ
kêu hai chiếc trống lớn, ta đă trao tặng món quà vĩ đại.
91. Lúc bấy giờ, tại nơi ấy có âm
thanh ầm ĩ, ồn ào, ghê rợn vang lên. Bởi sự bố thí (này), họ đă
lôi kéo ta đi; một lần nữa ta đă trao tặng món quà vĩ đại.
92. Sau khi đă bố thí voi, ngựa,
xe cộ, tôi trai, tớ gái, trâu ḅ, của cải, và đă ban phát cuộc
đại thí, vào khi ấy ta đă rời khỏi thành phố.
93. Sau khi rời khỏi thành phố,
ta đă quay người lại quan sát, khi ấy trái đất với tràng hoa là
khu rừng ở núi Sineru cũng đă rúng động.
94. Sau khi bố thí cỗ xe bốn ngựa
kéo, ta đứng ở ngă tư đường, chỉ một ḿnh không người hầu cận,
và ta đă nói với Hoàng Hậu Maddī điều này:
95. “Này Maddī, nàng hăy ẵm
Kaṇhā(jinā), con bé nhẹ và là em gái. Ta sẽ ẵm Jāli bởi v́ nó
nặng và là anh trai.”
96. Maddī đă ôm lấy Kaṇhājinā như
thể ôm lấy đóa sen xanh hoặc đóa sen trắng. Ta đă ôm lấy vị
Sát-đế-lỵ Jāli như thể ôm lấy bầu đựng nước bằng vàng.
97. Bốn người Sát-đế-lỵ, ḍng dơi
quư tộc, có vóc dáng mảnh mai, tiến bước trên mặt đất lúc gồ ghề
lúc bằng phẳng đi về hướng ngọn núi Vaṅka.
98. Chúng tôi đă hỏi những người
đi cùng đường hoặc theo hướng ngược lại về lộ tŕnh: “Ngọn
núi Vaṅka ở nơi nào?”
99. Nh́n thấy chúng tôi ở nơi ấy,
họ đă thốt lên lời thương xót. Họ bày tỏ nỗi đau xót (nói rằng):
“Ngọn núi Vaṅka ở xa lắm.”
100. Nếu hai đứa trẻ nh́n thấy
những cây có trái ở trong khu rừng, hai đứa trẻ bật khóc v́
nguyên nhân của những trái cây ấy.
101. Trông thấy hai đứa trẻ khóc
lóc, những cội cây cao lớn xum xuê tự động khom ḿnh xuống đến
gần hai đứa trẻ.
102. Sau khi nh́n thấy điều kỳ
diệu phi thường khiến lông tóc rởn ốc này, (hoàng hậu) Maddī,
với sự rạng rỡ ở toàn thân, đă thốt lên lời tán thán (rằng):
103. “Quả thật là điều
kỳ diệu phi thường ở thế gian khiến lông tóc rởn ốc. Những cội
cây đă tự động khom ḿnh xuống bởi v́ oai lực của Vessantara.”
104. V́ ḷng thương xót hai đứa
trẻ, các hàng Dạ-xoa đă thâu ngắn đường đi; chỉ nội trong ngày
khởi hành họ đă đi đến vương quốc Ceta.
105. Lúc bấy giờ có sáu
mươi ngàn vị vua cư ngụ ở Mātulā.
Tất cả đă chắp tay lên, than khóc, và đă đi đến gần.
106. Ở tại nơi ấy, sau khi trao
đổi tṛ chuyện cùng với các vị vương tử xứ Ceta ấy, rồi từ đó
bốn người đă đi đến ngọn núi Vaṅka.
107. Chúa Trời đă triệu tập vị
Vissakamma có đại thần lực (ra lệnh rằng): “Khanh hăy khéo
biến hóa ra một khu ẩn cư được xây dựng tốt đẹp có gian nhà lá
xinh xắn.”
108. Nghe theo lời của (Chúa
Trời) Sakka, vị Vissakamma có đại thần lực đă khéo biến hóa ra
một khu ẩn cư được xây dựng tốt đẹp có gian nhà lá xinh xắn.
109. Sau khi đă đi sâu vào khu
rừng có ít tiếng động không có xáo trộn, bốn người chúng tôi đă
sống ở tại nơi ấy, phía bên trong ngọn núi.
110. Khi ấy, ta và Hoàng Hậu
Maddī cùng với hai con là Jāli và Kaṇhājinā đă sống ở khu ẩn cư
giúp nhau xóa tan nỗi niềm sầu muộn.
111. Trong khi chăm nom hai đứa
trẻ, ta không có đơn độc ở khu ẩn cư. Nàng Maddī mang về trái
cây; nàng ấy nuôi dưỡng ba người.
112. Khi ta đang sống ở trong khu
rừng, có người khách đi đường đă đến gặp ta và đă cầu xin cả hai
người con của ta là Jāli và Kaṇhājinā.
113. Khi trông thấy người cầu xin
đi đến gần, sự mừng rỡ đă sanh khởi ở ta. Khi ấy, ta đă dắt cả
hai người con và đă trao tặng cho vị Bà-la-môn.
114. Khi ta dứt bỏ hai người con
của chính bản thân cho vị Bà-la-môn Jūjaka, khi ấy trái đất với
tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đă rúng động.
115. Hơn thế nữa, (Chúa Trời)
Sakka, sau khi ngự xuống với dáng vóc vị Bà-la-môn, đă cầu xin
ta Hoàng Hậu Maddī là người vợ có giới hạnh và chung thủy.
116. Sau khi nắm lấy nàng Maddī ở
cánh tay và làm đầy hai bàn tay bụm lại với nước, ta đă ban bố
nàng Maddī cho vị ấy với tâm ư và tư duy hoan hỷ.
117. Khi nàng Maddī đang được bố
thí, chư thiên ở cơi trời đă mừng rỡ. Khi ấy, trái đất với tràng
hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đă rúng động.
118. Trong khi dứt bỏ (người con
trai) Jāli, người con gái Kaṇhājinā, và Hoàng Hậu Maddī người vợ
chung thủy, ta đă không phải nghĩ ngợi với lư do chỉ là v́ quả
vị giác ngộ.
119. Cả hai người con không có bị
ta ghét bỏ, Hoàng Hậu Maddī không có bị ta ghét bỏ, đối với ta
quả vị Toàn Giác là yêu quư; v́ thế ta đă bố thí những người
thân yêu.
120. Vào một dịp khác nữa, khi
hội ngộ cùng cha mẹ ở tại khu rừng bao la, trong khi bọn họ đang
than khóc bi thảm nói về nỗi niềm hạnh phúc và khổ đau.
121. Do sự tôn kính, ta đă đến
gặp song thân với sự hổ thẹn và ái ngại. Khi ấy trái đất với
tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đă rúng động.
122. Vào một dịp khác nữa, ta
cùng với thân quyến đă ĺa khỏi khu rừng bao la và đi vào thành
phố tráng lệ là kinh thành Jetuttara.
123. Khi ấy, bảy loại châu báu đă
đổ xuống cơn mưa, có đám mây lớn đă đổ tuôn mưa. Lúc bấy giờ,
trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đă rúng
động.
124. Ngay cả trái đất vô tư này
không nhận thức được nỗi niềm hạnh phúc và khổ đau, nó cũng đă
rung chuyển bảy lần bởi v́ năng lực bố thí của ta.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Vessantara
là phần thứ chín.
10. Hạnh của Con Thỏ Hiền Trí
125. Vào một thời điểm khác nữa,
khi ta là con thỏ lang thang ở trong rừng, có thức ăn là cỏ, lá
cây, rau cải, và quả củ. Ta lánh xa việc hăm hại các kẻ khác.
126. Lúc bấy giờ, có một con khỉ,
một con chó rừng, một con rái cá nhỏ, và ta sống trong cùng một
khu vực, gặp gỡ nhau sáng chiều.
127. Ta giảng dạy cho chúng về
các hành động lành dữ: “Các ngươi hăy xa ĺa các điều ác, các
ngươi hăy gắn bó với các việc thiện.”
128. Sau khi nh́n thấy mặt trăng
đă tṛn vào ngày trai giới, tại nơi ấy ta đă chỉ bảo chúng rằng:
“Hôm nay là ngày trai giới.
129. Các ngươi hăy chuẩn bị
những tặng phẩm để bố thí đến bậc xứng đáng được dâng cúng. Sau
khi đă bố thí tặng phẩm đến bậc xứng đáng được dâng cúng, các
ngươi hăy thực hành ngày trai giới.”
130. Chúng đă nói với ta rằng: “Sādhu,
lành thay!” Rồi tùy theo khả năng, tùy theo sức lực, sau khi
chuẩn bị các tặng phẩm chúng đă đi t́m bậc xứng đáng được dâng
cúng.
131. Ta đă ngồi xuống và suy nghĩ
về tặng phẩm thích hợp với bậc xứng đáng được dâng cúng: “Nếu
ta đạt được một bậc xứng đáng được dâng cúng th́ tặng phẩm của
ta sẽ là ǵ?
132. Ta không có mè, đậu xanh,
đậu tây, gạo, hay bơ. Ta sống bằng cỏ nhưng bố thí cỏ là không
thể được.
133. Nếu có người là bậc xứng
đáng được dâng cúng đi đến nơi ta để khất thực, ta sẽ cúng dường
bản thân của ḿnh; người ấy sẽ không (phải) ra đi mà không có
ǵ.
134. Biết được ư định của ta,
(Chúa Trời) Sakka với dáng vóc của vị Bà-la-môn đă đi đến chổ
ngụ của ta nhằm việc xác định việc bố thí của ta.
135. Khi nh́n thấy vị ấy, ta đă
hớn hở nói lên điều này: “Quả thật là tốt đẹp về việc ông đă
đi đến chỗ tôi v́ nguyên nhân thực phẩm.
136. Hôm nay, tôi sẽ biếu ông
tặng phẩm cao quí chưa từng được bố thí trước đây. Ông là con
người thành tựu giới đức nên việc hăm hại kẻ khác là không thích
hợp đối với ông.
137. Ông hăy đi đến và đốt lên
ngọn lửa. Hăy đem lại nhiều cây củi. Tôi sẽ nướng chín bản thân.
Ông sẽ thọ thực vật đă được nấu chín.”
138. Vị ấy, với tâm ư mừng rỡ,
(nói rằng): “Sādhu, lành thay!” rồi đă đem lại nhiều cây
củi đốt lên đống lửa lớn và đă tạo nên một cụm than hồng.
139. Vị ấy đă đốt lên ngọn
lửa ở tại nơi ấy và ngọn lửa ấy đă mau chóng trở nên mănh liệt
như thế. Sau khi rủ sạch các chi thể bị lấm bụi,
ta đă tiến vào một bên (đống lửa).
140. Khi đống cây củi to lớn đă
phát cháy bùng lên mạnh mẽ, ta đă nhảy lên và rơi vào ở chính
giữa ngọn lửa.
141. Giống như bất cứ ai đă
đi vào trong làn nước mát lạnh th́ được dịu đi nỗi bực bội và
cơn phiền muộn (của ḿnh) đồng thời làm sanh khởi
sự hứng thú và phỉ lạc.
142. Tương tợ y như thế, khi ta
đi vào ngọn lửa đang cháy rực, tất cả nỗi bực bội đă được dịu
đi, tợ như (đi vào) làn nước mát lạnh vậy.
143. Ta đă bố thí đến vị
Bà-la-môn hết thảy toàn bộ thân thể gồm có lớp da ngoài, da
trong, thịt, gân, xương, và cơ tim.
Hạnh của Con
Thỏ Hiền Triết là phần thứ mười.
144. Bà-la-môn Akitti, Saṅkha,
Dhañanjaya vua xứ Kuru, đức vua Mahāsudassana, Bà-la-môn
Mahāgovinda,
145. Nimi, hoàng tử Canda, Sivi,
Vessantara, và con thỏ chính là ta vào lúc bấy giờ, và là người
đă bố thí những tặng phẩm cao quư.
146. Những hạnh này là những phần
cơ bản của sự bố thí. Những hạnh này là các sự toàn hảo của sự
bố thí. Sau khi bố thí mạng sống đến người cầu xin, ta đă làm
đầy đủ sự toàn hảo (về bố thí) này.
147. Sau khi nh́n thấy người đi
đến gần để khất thực, ta đă xả bỏ bản thân ḿnh. Không có ai
bằng ta về sự bố thí; đây là sự toàn hảo về bố thí của ta.
Dứt sự toàn hảo về bố thí.
--ooOoo--
II. SỰ TOÀN HẢO VỀ GIỚI
1. Hạnh của Vị Nuôi Dưỡng Mẹ
148. Vào lúc ta là con voi nuôi
dưỡng voi mẹ ở trong rừng rậm. Lúc bấy giờ, ở trên trái đất
không có người tương đương với ta về giới đức.
149. Có người đi rừng, sau khi
nh́n thấy ta ở khu rừng rậm, đă thông báo với đức vua rằng: “Tâu
đại vương, có con voi được xứng đáng với ngài đang sống ở trong
rừng.
150. Không cần phải gây thương
tích cho nó, cũng không cần đến cọc trói và hầm hố. Khi được nắm
ở ṿi của chính nó, tự thân nó sẽ đi đến chỗ này.”
151. Nghe được lời nói ấy của ông
ta, ngay cả đức vua cũng có tâm trí hớn hở và đă phái đi người
thuần hóa voi, là bậc thầy kinh nghiệm, đă được huấn luyện rành
rẽ.
152. Sau khi đi đến, người thuần
hóa voi ấy đă nh́n thấy (ta), ở trong hồ sen, đang nhổ lên rễ và
ngó sen nhằm mục đích nuôi dưỡng mẹ.
153. Biết được giới đức của ta,
người này đă xác định các đặc điểm và đă nói rằng: “Này con
trai, hăy đi đến,” rồi đă nắm chặt cái ṿi của ta.
154. Khi ấy, sức mạnh tự nhiên
đồng hành với cơ thể của ta là tương đương với sức mạnh của một
ngàn con voi ngày hôm nay.
155. Nếu ta nổi cơn giận dữ với
những người đă đi đến để bắt ta, ta có thừa khả năng đối với bọn
họ, thậm chí luôn cả vương quốc của những người ấy nữa.
156. Hơn nữa, v́ ǵn giữ giới để
làm viên măn sự toàn hảo về giới, ta không làm thay đổi tâm ư
trong khi họ xô đẩy ta vào cây cọc trói.
157. Nếu bọn họ có làm tổn thương
ta bằng những cái ŕu và những cây thương, ta cũng chẳng nổi cơn
giận dữ đối với bọn họ v́ ta có nỗi lo sợ bị đứt giới.
Hạnh của Vị Nuôi Dưỡng Mẹ là phần
thứ nhất.
2. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Bhūridatta
158. Vào một thời điểm khác
nữa, khi ta là Bhūridatta có đại thần lực. Ta đă đi đến cơi trời
cùng với vị Đại Vương Virūpakkha.
159. Sau khi nh́n thấy chư
thiên ở tại nơi ấy được thọ hưởng an lạc trọn vẹn, ta đă thọ tŕ
giới cấm nhằm mục đích đi đến cơi trời ấy.
160. Sau khi làm phận sự
đối với cơ thể
và thọ dụng chỉ đủ để nuôi sống, ta đă quyết định về bốn chi
phần (của cơ thể)
rồi đă nằm ở trên đỉnh của g̣ mối.
161. Đối với người nào có việc
cần dùng đến da ngoài, da trong, thịt, các sợi gân, hoặc các
khúc xương (ở cơ thể ta), chính v́ là vật đă được bố thí nên hăy
để người ấy mang đi.
162. Khi ta đang nằm, kẻ vô
ơn Ālambana
đă nắm lấy ta ném vào trong giỏ rồi đă bắt ta làm tṛ vui ở nơi
này nơi khác.
163. Ngay cả trong khi ông ấy ném
(ta) vào giỏ, thậm chí trong khi ông ấy dùng bàn tay đè bẹp (ta)
xuống, ta không giận dữ đối với Ālambana v́ ta có nỗi lo sợ bị
đứt giới.
164. Sự xả bỏ sanh mạng bản thân
của ta là nhẹ hơn cọng cỏ. Sự phá giới đối với ta tương tợ như
việc đảo ngược trái đất.
165. Liên tục một trăm kiếp sống,
ta có thể xả bỏ mạng sống của ta chứ không thể nào làm đứt giới
cho dù là v́ nguyên nhân (làm vua cai trị) bốn châu lục.
166. Hơn nữa, v́ ǵn giữ giới để
làm viên măn sự toàn hảo về giới, ta không làm thay đổi tâm ư
trong khi (Ālambana) ném (ta) vào trong giỏ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Bhūridatta
là phần thứ nh́.
3. Hạnh của Con Rồng
Campeyya
167. Vào một thời điểm khác
nữa, khi ta là Campeyyaka có đại thần lực. Vào thời ấy, ta cũng
đă là người nghiêm túc, hành tŕ giới cấm.
168. Cũng vào khi ấy, trong khi
ta là người hành pháp đang thực hành ngày trai giới, một người
luyện rắn đă tóm bắt lấy ta rồi đă bắt ta làm tṛ vui ở cổng
hoàng cung.
169. Gă ấy nghĩ về màu nào, xanh,
vàng, hoặc đỏ, c̣n ta, trong khi biến đổi theo ư nghĩ của gă ấy,
trở thành (có màu sắc) giống như đă được suy nghĩ (bởi người
ấy).
170. Ta có thể biến đất
thành nước, và cũng có thể biến nước thành đất. Nếu ta nổi giận
đối với gă ấy, ta có thể biến (gă ấy) trở thành tro bụi trong
một sát-na.
171. Nếu như ta thể hiện năng lực
của tâm, ta sẽ từ bỏ giới; (và) mục đích tối thượng không được
thành tựu đến người từ bỏ giới.
172. Dầu sao đi nữa, hăy để thân
xác này bị tan vỡ, hăy để nó bị phân tán ở ngay đây; trong khi
bị tan tác giống như bụi phấn, ta cũng không thể nào làm đứt
giới.
Hạnh của Con Rồng Campeyya là
phần thứ ba.
4. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Cullabodhi
173. Vào một thời điểm khác nữa,
khi ta là Cullabodhi, là người có giới hạnh. Nh́n thấy hiện hữu
là nguy hiểm, ta đă ra đi theo hạnh xuất ly.
174. Ta có người vợ ḍng dơi
Bà-la-môn có nước da như vàng ṛng. Cô ta cũng không mong muốn
luân hồi nên đă ra đi theo hạnh xuất ly.
175. Không dính mắc, thân quyến
đă ĺa, không mong muốn về gia đ́nh, (hay) về đồ chúng, chúng
tôi du hành qua làng mạc phố chợ và đă đi đến Bārāṇasī.
176. Ở tại nơi ấy, chúng tôi đă
sống khôn khéo, không cấu kết gia đ́nh, bè đảng. Cả hai đă sống
trong khu vườn của đức vua, không bị quấy rầy, ít có tiếng động.
177. Đức vua đă đi đến ngoạn cảnh
khu vườn và đă nh́n thấy người nữ Bà-la-môn. Ngài đă đi đến gặp
ta và hỏi rằng: “Nàng ấy là vợ của khanh hay của ai?”
178. Được nói như vậy, ta đă nói
với đức vua lời này: “Nàng ấy không phải là vợ của thần, nàng
là người đồng đạo, cùng chung giáo lư.”
179. Bị ái luyến và khát khao
nàng ấy, đức vua đă ra lệnh các thuộc hạ bắt giữ rồi dùng sức
mạnh để ép buộc đưa nàng vào nội cung.
180. Nàng là người vợ của ta theo
nghi thức chạm vào bát nước, đồng thời xuất gia cùng chung giáo
lư. Trong khi nàng bị lôi kéo đưa đi, sự giận dữ đă khởi lên ở
ta.
181. Cùng lúc khi cơn giận đă
được phát khởi, ta đă nhớ lại giới cấm. Ngay tại nơi ấy, ta đă
nén lại cơn giận và đă không cho bộc phát lên.
182. Nếu như có ai dùng con dao
bén đâm chém người nữ Bà-la-môn ấy, ta cũng không thể nào làm
đứt giới với lư do chỉ là v́ quả vị giác ngộ.
183. Người nữ Bà-la-môn ấy không
có bị ta ghét bỏ, cũng không phải là sức mạnh của ta không có.
Đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quư; v́ thế ta sẽ ǵn giữ
giới hạnh.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Cullabodhi
là phần thứ tư.
5. Hạnh của Con Trâu Chúa
184. Vào một thời điểm khác nữa,
khi ta là con trâu lang thang ở trong khu rừng rậm, có thân thể
phát triển, khỏe mạnh, to lớn, trông thấy phải sợ hăi.
185. Nơi ấy, trong hang động, ở
sườn núi dốc, dưới cội cây, (gần) nơi hồ nước, có (các) khu vực
rải rác đó đây dành cho loài trâu.
186. Trong khi đi lang thang ở
khu rừng rậm, ta đă nh́n thấy một nơi thuận tiện. Ta đă đi đến
nơi ấy, đứng lại, rồi nằm xuống.
187. Rồi có con khỉ đê tiện, thô
lỗ, nhanh nhảu đă đi đến nơi ấy và tiểu tiện, đại tiện ở trên
lưng, trên trán, và lông mày của ta.
188. Một lần trong ngày, rồi lần
thứ hai, lần thứ ba, và thậm chí đến lần thứ tư, nó làm ta bị
nhơ bẩn vào mọi lúc; v́ điều ấy, ta trở nên bực bội.
189. Nh́n thấy sự bực bội của ta,
có con Dạ-xoa đă nói với ta điều này: “Ngươi hăy giết chết
cái loài tồi tệ đê tiện ấy bằng các sừng và các móng chân.”
190. Được con Dạ-xoa nói như vậy,
khi ấy ta đă nói với con Dạ-xoa ấy điều này: “Sao ngươi lại
bôi nhọ ta với cái thây ma đê tiện và thô lỗ?
191. Nếu ta nổi giận với nó,
v́ điều đó ta sẽ trở nên tồi tệ hơn, giới của ta có thể bị đứt,
và người trí có thể khiển trách ta.
192. Vả lại, sống mà hổ thẹn
th́ chết với sự trong sạch là cao quư. Cho dù nguyên nhân là
mạng sống, không thể nào ta lại gây ra sự tổn hại cho kẻ khác?
193. Trong khi suy nghĩ
về những người khác là giống như ta, con khỉ này cũng sẽ hành
động như thế. Chính họ sẽ giết chết nó tại nơi ấy, c̣n ta th́ sẽ
có được sự giải thoát này.
194. Trong khi nhẫn nhịn sự
khinh miệt ở những người kém cỏi, trung b́nh, hoặc cao quư, như
thế bậc thiện trí đạt được theo như điều đă được mong mỏi bởi
tâm ư.
Hạnh của Con Trâu Chúa là phần
thứ năm.
6. Hạnh của Con Nai Chúa
Ruru
195. Vào một thời điểm khác nữa,
khi ta là vua của loài nai, có tên là Ruru, có màu lông tợ như
vàng nung đỏ, đang chú tâm vào giới hạnh tối cao.
196. Ta đă đi đến trú ngụ
tại nơi ấy, ở một khu đất xinh xắn, đáng yêu, thanh vắng, không
có loài người, bên bờ sông Gaṅgā
thích ư.
197. Khi ấy, ở thượng nguồn sông
Gaṅgā, có người đàn ông bị bức bách bởi những chủ nợ nên đă gieo
ḿnh xuống ḍng sông Gaṅgā (nghĩ rằng): “Ta hoặc là sống hay
là chết.”
198. Trong khi bị cuốn trôi ở
gịng nước lớn và kêu la thảm thiết ngày đêm, người ấy trôi ra
giữa ḍng sông Gaṅgā.
199. Nghe được tiếng kêu la thảm
thiết của người ấy đang than khóc, ta đă đứng ở bờ sông Gaṅgā
hỏi rằng: “Ông là người nào?”
200. Và khi được ta hỏi, người ấy
đă giải thích hành động của ḿnh: “Sợ hăi những người chủ nợ,
bị hoảng hốt, tôi đă lao ḿnh xuống ḍng sông lớn.”
201. Khởi tâm thương xót người
ấy, ta đă buông bỏ mạng sống của ḿnh, lao vào (ḍng nước), và
đă vớt người ấy lên trong bóng tối của ban đêm.
202. Nhận biết được thời điểm đă
được hồi phục, ta đă nói với người ấy điều này: “Ta yêu cầu
ngươi một ân huệ là ngươi chớ có nói về ta đối với bất cứ người
nào.”
203. Sau khi đi đến thành phố,
người ấy v́ nguyên nhân của cải đă nói ra khi được hỏi, rồi đă
đưa đức vua đi đến vùng phụ cận của ta.
204. Toàn bộ sự việc đến đâu đă
được ta tường thuật cho đức vua. Nghe được lời kể lại, đức vua
đă hướng mũi tên vào người ấy (nói rằng): “Trẫm sẽ giết chết
kẻ đê tiện phản bội bạn bè ngay tại chỗ này.”
205. Trong khi bảo vệ cho người
ấy, ta đă hoán đổi (người ấy) bằng bản thân của ta (nói rằng): “Tâu
đại vương hăy để cho người ấy sống. Thần sẽ là người tạo ra lạc
thú cho ngài.”
206. Ta đă bảo vệ giới của ta. Ta
đă không bảo tồn mạng sống của ḿnh. Bởi v́, vào lúc ấy ta đă là
người có giới hạnh với lư do chỉ là v́ quả vị giác ngộ.
Hạnh của Con Nai Chúa Ruru là
phần thứ sáu.
7. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Mātaṅga
207. Vào một thời điểm khác nữa,
khi ta là đạo sĩ tóc bện nghiêm tŕ khổ hạnh, có giới đức, định
tâm bền vững, tên là Mātaṅga.
208. Ta và một vị Bà-la-môn, cả
hai sống ở bên bờ sông Gaṅgā. Ta sống ở thượng nguồn, c̣n vị
Bà-la-môn sống ở hạ nguồn.
209. Trong khi đi lang thang dọc
theo bờ sông, vị Bà-la-môn đă nh́n thấy khu ẩn cư của ta ở
thượng nguồn. Tại nơi ấy, sau khi mắng nhiếc ta, vị ấy đă nguyền
rủa về sự vỡ tan cái đầu (của ta).
210. Nếu ta nổi cơn giận dữ đối
với vị này, nếu ta không ǵn giữ giới, th́ sau khi nh́n vào vị
ấy ta có thể làm cho trở thành như là tro bụi.
211. Lúc bấy giờ, điều mà
vị ấy nguyền rủa ta trong lúc bị bực tức và có tâm ư xấu xa lại
được áp dụng ở trên cái đầu của chính vị ấy. Ta đă giúp cho vị
ấy được thoát khỏi (việc bị bể đầu thành bảy mảnh) bằng thủ
thuật.
212. Ta đă bảo vệ giới của ta. Ta
đă không bảo tồn mạng sống của ḿnh. Bởi v́, vào lúc ấy ta đă là
người có giới hạnh với lư do chỉ là v́ quả vị giác ngộ.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Mātaṅga là
phần thứ bảy.
8. Hạnh của Thiên Tử Dhamma
213. Vào một thời điểm khác nữa,
khi ta là Đại Dạ-xoa tên là Dhamma, có tùy tùng đông đảo, có đại
thần lực, có ḷng bi mẫn đối với tất cả thế gian.
214. Trong lúc khuyến khích dân
chúng hành tŕ thập thiện nghiệp đạo, ta cùng với bạn bè và
những người hầu cận đi đến các thôn làng phố chợ.
215. Có con Dạ-xoa độc ác, bỏn
xẻn, trong lúc giảng giải về thập ác, nó với bạn bè và những
người hầu cận cũng đi khắp trái đất này.
216. Là những người nói về chánh
pháp và tà pháp, cả hai chúng tôi là đối thủ. Trong khi va chạm
càng xe với càng xe ở lối đi ngược chiều, cả hai đối mặt nhau.
217. Cuộc xung đột giữa thiện và
ác đă xảy ra một cách ghê rợn, và trận chiến đấu lớn lao v́ việc
rời khỏi đường lộ là sắp sửa xảy ra.
218. Nếu như ta nổi cơn giận dữ
đối với gă ấy, nếu như ta phá vỡ đức tính khổ hạnh, ta có thể
làm cho gă ấy và đoàn tùy tùng trở thành tro bụi.
219. Tuy nhiên, nhằm mục đích ǵn
giữ giới hạnh, ta đă làm nguội lạnh tâm ư. Sau khi cùng với đám
người bước xuống, ta đă nhường đường cho kẻ ác.
220. Cùng lúc ta đang rời khỏi
đường lộ sau khi đă làm nguội lạnh tâm ư, trái đất ngay lập tức
đă tạo ra khe nứt dành cho con Dạ-xoa ác xấu.
Hạnh của thiên tử Dhamma là phần
thứ tám.
9. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Alīnasatta
221. Ở trong kinh thành Kampillā,
thành phố tráng lệ thuộc vương quốc Pancāla, có đức vua tên
Jayaddisa đă được thành tựu giới đức.
222. Là Alīnasatta, người con
trai của đức vua ấy, ta được học tập, có giới hạnh tốt, có đức
độ, luôn luôn quan tâm đến người hầu cận.
223. Cha ta đă đi săn thú rừng và
đă đến gần bên Porisāda (kẻ ăn thịt người). Gă ấy đă bắt giữ cha
ta (nói rằng): “Ngươi là thức ăn của ta, chớ có vùng vẫy.”
224. Sau khi được nghe lời nói ấy
của gă, đức vua đă trở nên hoảng hốt, run rẩy v́ sợ hăi, cứng đờ
chân cẳng khi trông thấy kẻ ăn thịt người.
225. (Đức vua đă nói rằng:) “Hăy
giữ lấy con thú rừng, rồi trả tự do cho ta,” và đă hứa hẹn
việc sẽ quay trở lại. Sau khi giao lại tài sản cho vị (quan đại
thần) Bà-la-môn, cha (ta) đă nhắn nhủ ta rằng:
226. “Này con, hăy cai quản
vương quốc. Chớ bỏ bê thành phố này. Cha đă hứa với kẻ ăn thịt
người về việc sẽ quay trở lại của cha.”
227. Sau khi cúi lạy mẹ cha và
buông bỏ bản thân, ta đă đặt cung kiếm xuống rồi đă đi đến gặp
kẻ ăn thịt người.
228. Có lẽ gă ấy sẽ sợ hăi người
đi đến có vũ khí trong tay. Khi ta đă gây nên nỗi lo sợ, v́ điều
ấy giới sẽ bị hư hỏng.
229. V́ ta có nỗi lo sợ về việc
đứt giới, ta đă không nói điều gây khó chịu đối với gă ấy. Là
người nói điều lợi ích, có tâm từ ái, ta đă nói điều này:
230. “Hăy đốt lên ngọn lửa
lớn, tôi sẽ lao từ trên cây xuống. Này ông chú, ông hăy biết lúc
đă được chín tới, rồi ông hăy thọ thực.”
231. Như thế với việc thực hành
giới là nguyên nhân, ta đă không bảo tồn mạng sống của ta. Và ta
đă khiến cho gă (ăn thịt người) ấy luôn luôn xa lánh việc giết
hại sanh mạng.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Alīnasatta
là phần thứ chín.
10. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Saṅkhapāla
232. Vào một thời điểm khác
nữa, khi ta là Saṅkhapāla, chúa tể của loài rồng, có đại thần
lực, có răng nanh
là vũ khí, có nọc độc ghê gớm, và có hai lưỡi.
233. Ở tại ngă tư của con đường
lớn có sự tụ hội của nhiều hạng người, sau khi quyết định về bốn
chi phần (của cơ thể), ta đă thiết lập chỗ cư ngụ ở tại nơi ấy.
234. Đối với người nào có việc
cần dùng đến da ngoài, da trong, thịt, các sợi gân, hoặc các
khúc xương (ở cơ thể ta), chính v́ là vật đă được bố thí nên hăy
để người ấy mang đi.
235. Có những gă vô lại thô lỗ,
hung dữ, bất nhân, đă nh́n thấy và đă tiến đến gần ta ở tại nơi
ấy, các bàn tay có nắm gậy gộc.
236. Sau khi chọc thủng ở lỗ mũi,
ở đuôi, và ở xương sống lưng, những gă vô lại đă đặt ta lên cáng
rồi lôi đi.
237. Và ở nơi ấy, với luồng gió
từ lỗ mũi ta, trong khi mong muốn ta có thể thiêu đốt trái đất
có biển bao bọc, có rừng, có núi.
238. Mặc dù đang bị đâm thọc bởi
những cọc nhọn, mặc dầu đang bị chặt chém bởi những con dao, ta
cũng không tức giận những gă vô lại; đây là sự toàn hảo về giới
của ta.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Saṅkhapāla
là phần thứ mười.
--ooOoo--
239. Con long tượng, Bhūridatta,
(con rồng) Campeyya, (Culla) bodhi, con trâu (chúa), (con nai
chúa) Ruru, (đạo sĩ tóc bện) Mātaṅga, (thiên tử) Dhamma, (đức
vua) Jayaddisa và người con trai.
240. Tất cả (chín) hạnh này đều
có năng lực của giới, là những phần thiết yếu, là những yếu tố
góp phần (vào sự toàn hảo về giới); (tuy nhiên), ta c̣n bảo tồn
mạng sống rồi mới ǵn giữ các giới.
241. (Trái lại), mạng sống của ta
khi là Saṅkhapāla luôn luôn được ban phát đến bất cứ người nào;
do đó, điều ấy là sự toàn hảo về giới.
Dứt phần giảng giải sự toàn hảo
về giới.
--ooOoo--
III. SỰ TOÀN HẢO VỀ XUẤT LY
1. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Yudhañjaya
242. Khi ta là hoàng tử
Yudhañjaya có danh tiếng vô lượng, ta đă động tâm sau khi nh́n
thấy giọt sương mai bị tiêu tan dưới ánh nắng mặt trời.
243. Sau khi trầm tư về chính
điều ấy, ta đă làm cho nỗi động tâm tăng trưởng. Ta đă cúi lạy
mẹ cha và xin phép xuất gia.
244. Họ cùng với các thị dân và
các cư dân của xứ sở, hai tay chắp lại, thỉnh cầu ta rằng: “Này
con, ngay ngày hôm nay con hăy cai quản lănh địa rộng lớn, tiến
triển, và thịnh vượng.”
245. Trong khi họ, có cả đức vua,
có cả phi tần, có thị dân, có cư dân của xứ sở, đang khóc lóc
thảm thương, bởi v́ ta đă xuất gia, không lưu luyến.
246. Trong khi từ bỏ toàn bộ trái
đất, vương quốc, quyến thuộc, người hầu, và danh vọng, ta đă
không suy nghĩ (đến điều ǵ khác) với lư do chỉ là v́ quả vị
giác ngộ.
247. Me cha không có bị ta ghét
bỏ, danh vọng lớn lao cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta
quả vị Toàn Giác là yêu quư; v́ thế ta đă từ bỏ vương quốc.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Yudhañjaya
là phần thứ nhất.
2. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Somanassa
248. Vào một thời điểm khác nữa,
khi ở tại kinh thành Indapatta, ta là người con trai được mong
mỏi, được yêu quư, được nổi tiếng (với tên) là Somanassa.
249. Ta là người có giới, được
thành tựu đức hạnh, có lối ứng xử lịch thiệp, có sự tôn kính bậc
trưởng thượng, có sự khiêm tốn, và rành rẽ về các cách tiếp độ.
250. Có gă đạo sĩ giả trá được
đức vua ấy yêu mến. Ông ta trồng trọt rau quả hoa màu rồi sinh
sống.
251. Nhận biết ông là giả trá ví
như đống trấu không có hạt gạo, ví như thân cây có lỗ bọng lớn ở
bên trong, ví như cây chuối không có lỏi cứng.
252. Không có pháp của các bậc
thiện trí ở người này. V́ lư do nuôi dưỡng mạng sống, người này
đă xa rời Sa-môn hạnh, đă từ bỏ pháp trong sạch là sự khiêm tốn.
253. Vùng biên giới đă bị khuấy
động bởi những kẻ lâm tặc thuộc các xứ lân bang. Khi ra đi để
dẹp yên việc ấy, cha (ta) đă dạy bảo ta rằng:
254. “Này con yêu dấu, con chớ
có lơ là với vị đạo sĩ tóc bện nghiêm tŕ khổ hạnh. Hăy thi hành
điều (vị ấy) ước muốn bởi v́ vị ấy là người ban bố (cho chúng
ta) mọi điều lạc thú.”
255. Ta đă đi đến phục vụ vị ấy
và đă nói lời này: “Này gia chủ, ông có được an vui không?”
hoặc “Vật ǵ cần được mang lại cho ông?”
256. V́ thế, kẻ giả trá, chất
chứa ngă mạn ấy đă giận dữ (nói rằng): “Hôm nay, ta sẽ làm
cho ngươi hoặc là bị giết chết, hoặc là bị trục xuất ra khỏi
vương quốc.”
257. Sau khi b́nh định khu vực
biên giới, đức vua đă nói với kẻ giả trá (ấy) rằng: “Thưa
ngài, ngài có được thoải mái, có được sự tôn kính không?” Gă
xấu xa đă nói với đức vua rằng: “Hoàng tử cần phải bị trừng
trị như thế.”
258. Sau khi nghe được lời nói ấy
của kẻ ấy, vị chúa tể của trái đất đă ra lệnh rằng: “Hăy chém
đầu ngay tại chỗ, rồi phân (thây) thành bốn mảnh, và cho trưng
bày ở khắp các ngă đường; đó là phần số dành cho kẻ miệt thị vị
đạo sĩ tóc bện.”
259. Tại nơi ấy,
những người hành quyết độc ác, hung dữ, bất nhân đă lôi kéo ta
đang ngồi ở ḷng mẹ rồi dẫn đi.
260. Ta đă nói với họ như vầy: “Hăy
cấp tốc đưa ta đă bị trói bằng gông xiềng chắc chắc đến tŕnh
diện đức vua, ta có các việc cần làm cho đức vua.”
261. Bọn họ đă đưa ta đến gặp vị
vua ác xấu là người thân cận với kẻ ác xấu. Sau khi tiếp kiến,
ta đă làm cho đức vua hiểu rơ và ta đă tạo được uy thế cho ta.
262. Đức vua đă yêu cầu thứ lỗi
về việc ấy và đă trao vương quốc rộng lớn lại cho ta. Ta đây,
sau khi phá tan sự mê muội, đă xuất gia theo hạnh không nhà.
263. Vương quốc rộng lớn không có
bị ta ghét bỏ, sự hưởng thụ các dục không có bị ta ghét bỏ, đối
với ta quả vị Toàn Giác là yêu quư; v́ thế ta đă từ bỏ vương
quốc.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Somanassa
là phần thứ nh́.
3. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Ayoghara
264. Vào một thời điểm khác
nữa, khi ta là người con trai của đức vua Kāsi, ta đă lớn lên
trong căn nhà bằng sắt
và đă được gọi với tên là Ayoghara.
265. (Vua cha đă phán rằng:) “Này
con, mạng sống của con được tiếp nhận một cách khó khăn, được
nuôi dưỡng ở nơi bực bội. Ngay chính ngày hôm nay, con hăy cai
quản toàn thể trái đất này
266. cùng với cư dân trong xứ
sở, luôn cả phố chợ, và loài người nữa.” Sau khi đảnh lễ vị
Sát-đế-lỵ, ta đă chắp tay lên và đă nói lời này:
267. “Bất cứ chúng sanh nào ở
trên trái đất, dầu kém cỏi, cao quư, hoặc trung b́nh, lớn lên
trong nhà của chính họ cùng với các thân quyến không cần sự bảo
vệ.”
268. (Rồi ta đă suy nghĩ rằng:) “Sự
nuôi dưỡng này của ta ở trong nơi bực bội là hy hữu ở trên thế
gian. Ta đă được lớn lên trong căn nhà bằng sắt thiếu hẳn ánh
sáng mặt trăng và mặt trời.
269. Có được tấm thân hối thối
này sau khi rời khỏi bụng mẹ, từ đó ta lại bị ném vào căn nhà
sắt khổ sở và kinh hăi hơn một lần nữa.
270. Nếu sau khi đă đạt đến
khổ đau vô cùng ghê rợn như thế ấy, nếu ta c̣n thích thú trong
vương quyền th́ ta là kẻ tồi tệ nhất trong số những kẻ ác xấu.”
271. Ta nhàm chán xác thân, ta
không mong muốn vương quyền, ta sẽ tầm cầu sự tịch diệt Niết-bàn
là nơi tử thần không thể đày đọa.”
272. Trong lúc đó đám đông đang
kêu gào, ta đă suy nghĩ như vậy và đă đi vào khu rừng rậm, giống
như con voi đă giật đứt xiềng xích.
273. Mẹ cha không có bị ta ghét
bỏ, danh vọng lớn lao cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta
quả vị Toàn Giác là yêu quư; v́ thế ta đă từ bỏ vương quốc.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Ayoghara
là phần thứ ba.
4. Hạnh của (Đức Bồ-tát)
Bhisa
274. Vào một thời điểm khác nữa,
khi ta ở tại kinh thành của xứ Kāsi, (ta có) một người em gái và
bảy người em trai được sanh ra trong gia đ́nh quư phái (ḍng
Bà-la-môn).
275. Trong số những người này, ta
đă được sanh ra trước tiên, đạt được pháp trong sạch là sự khiêm
tốn. Sau khi nhận thấy sự hiện hữu là nguy hại, ta đă thỏa thích
trong việc xuất gia.
276. Các thân hữu, được mẹ và cha
nhắn đến, đồng tâm mời mọc (ta) bằng các dục lạc: “Bạn hăy
duy tŕ ḍng dơi gia tộc.”
277. Lời nào của những người ấy
được nói ra về việc đem lại lạc thú trong cuộc sống gia đ́nh,
điều ấy đối với ta được xem tương tợ như lưỡi cày đă được nung
đỏ, thô thiển.
278. Khi ấy, họ đă hỏi ta, kẻ từ
khước (cuộc sống gia đ́nh), về nguyện vọng của ta: “Này bạn,
nếu bạn không hưởng thục các dục th́ bạn mong muốn điều ǵ?”
279. Là người mong muốn điều tốt
đẹp, ta đă nói với họ, những người đang tầm cầu lợi ích (cho ta)
rằng: “Tôi không mong muốn trạng thái người tại gia, tôi thỏa
thích trong sự xuất ly.”
280. Sau khi lắng nghe lời nói
của ta, họ đă thuật lại cho cha mẹ (ta). Mẹ cha ta đă nói như
vầy: “Này quí vị, tất cả chúng tôi cũng xuất gia.”
281. Cả hai mẹ cha của ta, người
em gái, và bảy em trai đă buông bỏ của cải vô số rồi đi vào
trong khu rừng lớn.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Bhisa là
phần thứ tư.
5. Hạnh của vị Hiền Trí Soṇa
282. Vào một thời điểm khác nữa, khi
ta sống ở thành phố Brahma-vaḍḍhana, tại nơi ấy ta đă được sinh ra
trong gia đ́nh cao quư, ưu tú, vô cùng giàu có.
283. Khi ấy, ta cũng đă nhận thấy thế
gian là bị mù quáng, bị bao phủ bởi bóng tối. Tâm (ta) chối từ sự
hiện hữu như thể bị châm chích thô bạo bởi cây gậy nhọn.
284. Sau khi nhận thấy sự xấu xa dưới
nhiều h́nh thức khác nhau, ta đă suy nghĩ như vầy: “Lúc nào ta sẽ
ĺa bỏ gia đ́nh, ta sẽ đi vào rừng?”
285. Cũng vào khi ấy, các thân quyến
đă mời mọc ta với các sự thọ hưởng về dục lạc, ta cũng đă nói cho
những người ấy về ước muốn (của ta) rằng: “Xin các vị chớ có mời
mọc ta bằng những thứ ấy.”
286. Em trai của ta tên là Nanda là
bậc trí tuệ. Vị ấy, trong khi học tập theo ta, cũng đă thích thú với
việc xuất gia.
287. Khi ấy, ta Soṇa và Nanda cùng
với cả hai cha mẹ của ta cũng đă buông bỏ của cải vô số rồi đi vào
trong khu rừng lớn.
Hạnh của vị hiền triết Soṇa là phần
thứ năm.
Dứt sự toàn hảo về xuất ly.
--ooOoo--
IV. SỰ TOÀN HẢO VỀ QUYẾT ĐỊNH
6. Hạnh của vị Hiền Trí Temiya
288. Vào một thời điểm khác
nữa, khi ta là người con trai của đức vua Kāsi có tên là Mūgapakkha,
nhưng mọi người gọi ta là Temiya.
289. Khi ấy, mười sáu ngàn phi tần
(của đức vua) không có được một người con trai (luôn cả con gái).
Sau nhiều ngày đêm, chỉ mỗi một ḿnh ta đă được sanh ra.
290. (Vua) cha đă nuôi dưỡng ta,
người con trai yêu quư, đạt được một cách khó nhọc, đă được sanh ra
vẹn toàn, có thân tâm sáng lạng, ở trên chiếc giường đă được che
chiếc lọng màu trắng.
291. Khi ấy, trong lúc đang ngủ trên
chiếc giường cao quư, ta đă thức giấc và nh́n thấy chiếc lọng nhạt
màu, nghĩa là ta sẽ bị đi địa ngục.
292. Có nỗi sợ hăi ghê gớm đă
khởi lên ở ta khi được nh́n thấy chiếc lọng. Ta đă đi đến quyết
định: “Ta sẽ được thoát khỏi điều này
bằng cách nào?”
293. Có vị tiên nữ trước đây
cùng huyết thống với ta
có ḷng mong muốn điều tốt đẹp cho ta, sau khi nh́n thấy bản thân ta
bị đau khổ, đă căn dặn về ba thái độ:
294. “Chớ ra vẻ khôn ngoan, hăy là
kẻ ngu si đối với tất cả chúng sanh, hăy làm cho mọi người khinh
khi; như thế sẽ có sự tốt đẹp cho con.”
295. Khi được nói như vậy, ta đă nói
với bà ấy lời này: “Bà tiên ơi, con sẽ thực hành theo lời mà bà
đă chỉ bảo. Mẹ ơi, mẹ đă có ḷng mong muốn điều tốt đẹp cho con. Bà
tiên ơi, bà đă có mong muốn điều lợi ích cho con.”
296. Sau khi nghe được lời nói của bà
ấy, ta đă thọ nhận như là đă đến được đất liền ở giữa biển khơi.
Mừng rỡ, với tâm ư phấn chấn, ta đă quyết định ba điều:
297. Ta đă là người câm, điếc, què
quặt, việc đi lại đă được từ bỏ. Ta đă quyết định các điều này và đă
sống mười sáu năm.
298. Do đó, họ đă xoa bóp tay chân,
lưỡi và mắt của ta. Sau khi nhận thấy không có sự khiếm khuyết ở ta,
họ đă chê bai là “Kẻ bất hạnh.”
299. Sau đó, tất cả dân chúng trong
xứ sở, các tướng lănh quân đội, các viên quan tế tự, tất cả đă nhất
trí bằng ḷng việc truất phế.
300. Sau khi nghe ư kiến của những
người ấy, ta đây đă trở nên mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn. Sự khổ
hạnh đă được thể hiện (bởi ta) v́ mục đích nào th́ mục đích ấy của
ta đă được thành công.
301. Sau khi đă tắm rửa, xức dầu, đội
lên vương miện, làm lễ rưới nước (cho ta), rồi với chiếc lọng che họ
đă tiến hành việc đi nhiễu ṿng quanh thành phố.
302. Sau khi đă duy tŕ chiếc lọng
trong bảy ngày, đến lúc vầng sáng của mặt trời hiện ra, người đánh
xe đă đưa ta ra khỏi (thành phố) bằng chiếc xe ngựa rồi đi về phía
khu rừng.
303. Sau khi dừng chiếc xe ở một
khoảng trống, người đánh xe đă buộc ngựa để được rảnh tay rồi đă đào
cái hố để chôn ta ở trong ḷng đất.
304. Trong khi nhiều nguyên nhân đủ
các loại đang đe dọa điều quyết tâm đă được khẳng định, ta đă không
làm đổ vỡ việc tuân thủ đă được quyết định với lư do chỉ là v́ quả
vị giác ngộ.
305. Mẹ cha không có bị ta ghét bỏ,
bản thân cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là
yêu quư; v́ thế ta đă quyết định việc tuân thủ.
306. Sau khi quyết định các điều này,
ta đă sống trong mười sáu năm. Không có ai bằng (ta) về sự quyết
định, điều này là sự toàn hảo về quyết định của ta.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Temiya là phần
thứ sáu.
Dứt sự toàn hảo về quyết định.
--ooOoo--
V. SỰ TOÀN HẢO VỀ CHÂN THẬT
7. Hạnh của con Khỉ Chúa
307. Vào lúc ta là con khỉ sống trong
hang ở bờ sông, ta đă bị đe dọa bởi con cá sấu nên không đạt được
việc ra đi.
308. Tại địa điểm ta thường đứng ở bờ
bên này rồi nhảy qua bờ bên kia, tại chỗ ấy có con cá sấu là kẻ thù,
là kẻ sát thủ, có dáng vóc hung tợn.
309. Con cá sấu đă thông báo với ta
rằng: “Cứ việc đi đến.” Ta đă nói với nó rằng: “Tôi đang
đi đến,” rồi đă bước lên đầu của nó và đă đứng vững bờ bên kia.
310. Điều đă được nói với con cá sấu
không phải là không đúng sự thật (v́) ta đă hành động đúng theo lời
nói. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo
về chân thật của ta.
Hạnh của con khỉ chúa là phần thứ
bảy.
8. Hạnh của Đạo Sĩ Sacca
311. Vào một thời điểm khác nữa, khi
ta là đạo sĩ khổ hạnh tên gọi Sacca. Ta đă hộ tŕ thế gian bằng sự
chân thật; ta đă làm cho mọi người hợp nhất.
Hạnh của đạo sĩ Sacca là phần thứ
tám.
9. Hạnh của Chim Cút Con
312. Vào một thời điểm khác nữa, khi
ở tại Magadha, ta là con chim cút con, cánh chưa được mọc, c̣n non
nớt, (như) là miếng thịt ở trong tổ.
313. (Chim) mẹ tha (mồi) lại ở trong
mỏ và nuôi dưỡng ta. Ta sống c̣n do sự tiếp xúc với chim mẹ; ta
không có sức mạnh ở thân.
314. Trong năm vào mùa nóng, có nạn
cháy rừng bộc phát. Ngọn lửa cuộn khói đen tiến về hướng chúng tôi.
315. Ngọn lửa lớn lao trong lúc gào
thét đă tạo ra luồng khói này cuộn khói nọ. Trong khi lần lượt làm
phát cháy, ngọn lửa đă tiến đến gần ta.
316. Lo sợ v́ sự ồ ạt của ngọn lửa,
mẹ cha của ta trở nên kinh hăi, hoảng hốt, đă bỏ rơi ta lại ở trong
tổ và đă giải thoát cho bản thân.
317. Ta đă ra sức hai chân, hai cánh;
ta không có sức mạnh ở thân. Ta đây không đi được. Khi ấy tại nơi
ấy, ta đă suy nghĩ như vầy:
318. “Bị kinh hăi, hoảng hốt, run
sợ, ta có thể chạy đến gần cha mẹ, nhưng họ đă bỏ rơi ta và tẩu
thoát. Ta nên hành động như thế nào ngày hôm nay?
319. Đức hạnh của giới, sự chân
thật, sự trong sạch, ḷng bi mẫn hiện hữu ở trên đời; với sự chân
thật ấy, ta có thể hiện hành động chân thật tối thắng.”
320. Ta đă hướng về sức mạnh
của Giáo Pháp, tưởng nhớ đến các đấng Chiến Thắng
trước đây, và nương tựa vào sức mạnh của sự chân thật, ta đă thể
hiện hành động chân thật rằng:
321. “Có cánh không thể bay, có
chân không thể đi. Mẹ cha đă ĺa khỏi, lửa ơi hăy lui đi.”
322. Với sự chân thật đă được
thực hiện bởi ta, ngọn lửa cháy rực to lớn đă lùi trở lại mười sáu
karīsa,
giống như ngọn lửa đă gặp phải nước. Không có ai bằng (ta) về sự
chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.
Hạnh của chim cút con là phần thứ
chín.
10. Hạnh của Vua Cá
323. Vào một thời điểm khác nữa, khi
ta là vua của loài cá ở trong cái hồ rộng lớn. Và nước ở trong hồ bị
khô cạn vào mùa nắng, dưới sự đốt cháy của ánh mặt trời.
324. Do đó, các con quạ, các
con diều hâu, các con c̣, các con chim ưng và chim ó đă đáp xuống,
ăn các con cá ban ngày lẫn ban đêm.
325. Tại nơi ấy, cùng với các thân
quyến ta đă bị áp bức, và ta đă suy nghĩ như vầy: “Vậy th́ bằng
cách nào để ta có thể giải thoát cho thân quyến khỏi khổ đau?”
326. Sau khi xem xét ư nghĩa của các
pháp, ta đă nhận ra sự chân thật là nơi nương tựa. Căn cứ vào sự
chân thật, ta đă cởi bỏ thảm họa bị diệt chủng ấy cho các thân
quyến.
327. Sau khi hồi tưởng về thiện pháp,
ta đă suy nghiệm về chân lư tuyệt đối. Ta đă thể hiện hành động chân
thật là pháp bền vững và thường c̣n ở thế gian rằng:
328. “Kể
từ lúc ta nhớ được về bản thân, kể từ khi ta đạt đến sự hiểu biết,
ta không biết đến việc đă cố ư hăm hại dầu chỉ một sanh mạng.
Do lời nói chân thật này, xin Thần Mây
hăy đổ mưa xuống.
329.
Hỡi Thần Mây, hăy vang lên tiếng sấm, hăy làm tiêu tan kho lương dự
trữ của loài quạ,
hăy vây hăm loài quạ bằng sự buồn rầu, hăy giải thoát loài cá khỏi
nỗi phiền muộn.”
330. Đồng lúc với sự chân thật cao
quư được thể hiện, Thần Mây đă gầm lên tiếng sấm và trong giây lát
đă đổ mưa xuống, làm tràn ngập vùng đất liền và trũng thấp.
331. Sau khi thể hiện sự tinh tấn tột
đỉnh là pháp chân thật cao quư có h́nh thức như thế, (có sự) tin cậy
vào năng lực và uy quyền của sự chân thật, ta đă làm cho đám mây lớn
đổ mưa xuống. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự
toàn hảo về chân thật của ta.
Hạnh của vua cá là phần thứ mười.
11. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Kaṇhadīpāyana
332. Vào một thời điểm khác nữa, khi
là vị ẩn sĩ Kaṇhadīpāyana, ta đă sống không được hoan hỷ hơn năm
mươi năm.
333. Không ai biết tâm ư không hoan
hỷ này của ta. Ta đă không nói ra với ai cả và sự không hoan hỷ diễn
tiến ở trong tâm ư của ta.
334. Bà-la-môn Maṇḍabya, bạn
của ta, là một vị đại ẩn sĩ đă bị thọ lănh (hành phạt) cắm cọc nhọn
do trả quả của nghiệp quá khứ.
335. Ta đă chăm sóc và đă phục hồi
sức khỏe cho vị ấy. Sau khi cáo từ, ta đă trở về lại chốn ẩn cư của
ḿnh.
336. Người bạn Bà-la-môn của ta đă
đưa vợ và đứa con trai nhỏ đến. Ba người cùng đi và đă đi đến với tư
thế của những người khách.
337. Trong lúc ta đang ngồi tại chốn
ẩn cư của ḿnh chuyện tṛ với những người ấy, đứa bé trai đă ném
trái banh và làm cho làm con rắn có nọc độc giận dữ.
338. Sau đó, trong lúc dơi theo lộ
tŕnh di chuyển của trái banh, đứa bé trai ấy đă chạm bàn tay vào
đầu của con rắn độc.
339. Do sự đụng chạm của đứa bé, con
rắn đă trở nên giận dữ. Ỷ lại vào sức mạnh của nọc độc, bị bực bội
với sự bực bội cùng tột, con rắn ngay lập tức đă cắn đứa bé.
340. Khi bị cắn bởi con rắn độc, đứa
bé đă ngă xuống ở trên nền đất. V́ điều ấy, ta đă trở nên đau buồn;
nỗi buồn đau ấy đă tác động đến ta.
341. Sau khi an ủi họ (là những
người) đang bị đau khổ, đang bị mũi tên sầu muộn, ta đă thể hiện
hành động chân thật tột đỉnh cao quư tối thượng lần đầu tiên rằng:
342. “Là người mong mỏi phước
thiện, ta đă thực hành Phạm hạnh với tâm tín thành chỉ được bảy
ngày. Từ đó về sau, Phạm hạnh của ta là năm mươi năm và thêm nữa.
343.
Ta thực hành (Phạm hạnh) không có nhiệt t́nh, chỉ qua ngày. Do lời
nói chân thật này, hăy có được sự tốt lành, chất độc hăy được tiêu
trừ, và Yaññadatta
hăy sống.”
344. Với sự chân thật của ta đă được
thể hiện, đứa bé Bà-la-môn bị run rẩy bởi sức mạnh của nọc độc đă
được tỉnh lại, đă đứng lên, không tật bệnh. Không có ai bằng (ta) về
sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Kaṇhadīpāyana
là phần thứ mười một.
12. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Sutasoma
345. Vào một thời điểm khác nữa, khi
ta là đức vua Sutasoma. Bị bắt giữ bởi Porisāda (kẻ ăn thịt người),
ta đă nhớ lại lời hứa với vị Bà-la-môn.
346. Sau khi xỏ dây ở ḷng bàn tay
của một trăm vị Sát-đế-lỵ rồi (treo lên) phơi khô họ, kẻ ấy đă đưa
ta đi nhằm mục đích tế thần.
347. Kẻ ăn thịt người đă hỏi ta rằng:
“Có phải ngài mong muốn việc cởi trói? Ta sẽ làm theo ư thích của
ngài nếu ngài c̣n quay trở lại.”
348. Vào lúc ấy, sau khi đă hứa hẹn
đối với câu hỏi của kẻ (ăn thịt người) ấy về việc trở lại của ta, ta
đă đi đến thành phố tráng lệ và đă chối từ vương quốc.
349. Sau khi tưởng nhớ đến Chánh Pháp
đă được thực hành bởi các đấng Chiến Thắng thời quá khứ, ta đă trao
lại tài sản cho vị Bà-la-môn và đă đi đến gặp kẻ ăn thịt người.
350. Trong trường hợp ấy, không có sự
phân vân ở ta về việc kẻ ấy sẽ giết hay không (giết). Trong khi bảo
vệ lời nói chân thật, ta đă đi đến để buông bỏ mạng sống. Không có
ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật
của ta.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Sutasoma là
phần thứ mười hai.
Dứt sự toàn hảo về chân thật.
--ooOoo--
VI. SỰ TOÀN HẢO VỀ TỪ ÁI
13. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Suvaṇṇasāma
351. Vào lúc ta là Sāma ở trong khu
rừng đă được (Chúa Trời) Sakka hóa hiện ra. Ở trong khu rừng lớn, ta
đă rải tâm từ ái đến các loài sư tử và cọp.
352. Ta đă sống ở trong khu rừng,
được quây quần xung quanh bởi các loài sư tử, cọp, beo, gấu, trâu
rừng, nai đốm, và heo rừng.
353. Không loài thú nào e ngại ta, ta
cũng không sợ hăi loài thú nào. Lúc bấy giờ, được duy tŕ nhờ vào
năng lực từ ái, ta hứng thú ở trong khu rừng lớn.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Suvaṇṇasāma là
phần thứ mười ba.
14. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Ekarāja
354. Vào một thời điểm khác
nữa, khi ta được nổi tiếng (với tên) là Ekarāja. Ta đă phát nguyện
về giới hạnh tối cao và đă cai quản trái đất to lớn.
355. Ta đă thực hành về thập thiện
nghiệp đạo không thiếu sót. Ta đă thâu phục đám đông dân chúng bằng
bốn phép tiếp độ.
356. Trong lúc ta đang tinh tấn
như thế v́ lợi ích ở đời này và thế giới khác, Dabbasena
đă tiến đến chiếm cứ thành phố của ta.
357. Sau khi thực hiện việc thâu tóm
tất cả gồm có nhân sự của đức vua, các thị dân, cùng với quân đội,
vá các cư dân của xứ sở, (vị ấy) đă chôn ta ở trong cái hố.
358. (Vị ấy) đă chiếm đoạt quần thần,
vương quốc thịnh vượng, và hậu cung của ta. Ta đă nh́n thấy chính
đứa con trai yêu dấu đang bị bắt đi. Không có ai bằng (ta) về từ ái,
điều này là sự toàn hảo về từ ái của ta.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Ekarāja là phần
thứ mười bốn.
--ooOoo--
VII. SỰ TOÀN HẢO VỀ HÀNH XẢ
15. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Mahālomahaṃsa
359. Ta nằm ở trong băi tha ma tựa
vào bộ xương người chết. Đám trẻ con nhà quê đă đi đến và đă phô
diễn h́nh thức (khuấy rối) không phải là ít.
360. Các đứa khác mừng rỡ, với tâm
trí phấn chấn, mang lại các quà tặng là hương thơm, ṿng hoa, và vô
số thực phẩm các loại.
361. Ta đều b́nh đẳng đối với tất cả
những ai gây ra khổ đau cho ta cũng như những ai đem lại cho ta an
lạc; thương và giận đều không được biết đến.
362. Là thăng bằng giữa an lạc và khổ
đau, giữa các danh thơm và những tiếng xấu, ta đều b́nh đẳng trong
mọi trường hợp; điều này là sự toàn hảo về hành xả của ta.
Hạnh của (đức Bồ-tát) Mahālomahaṃsa
là phần thứ mười lăm.
Dứt sự toàn hảo về hành xả.
--ooOoo--
BÀI KỆ TÓM TẮT
363. Chuyện Yudhañjaya, chuyện
Somanassa, chuyện Ayoghara (ngôi nhà sắt), và chuyện Bhisa, chuyện
Soṇa và Nanda, chuyện Mūgapakkha (Temiya), chuyện con khỉ chúa, và
chuyện vị (đạo sĩ) tên Sacca.
364. Chuyện chim cút con, và chuyện
vua cá, chuyện ẩn sĩ Kaṇhadīpāyana, lại nữa ta đă là Sutasoma, Sāma,
và Ekarājā, và đă có sự toàn hảo về hành xả; như thế đă được thuyết
giảng bởi vị Đại Ẩn Sĩ.
365. Sau khi kinh nghiệm khổ đau dưới
nhiều h́nh thức và thành công với nhiều thể loại ở lần tái sanh này
đến lần tái sanh khác như thế, ta đă đạt đến quả vị Toàn Giác tối
thượng.
366. Sau khi bố thí những ǵ cần được
bố thí, sau khi làm viên măn giới hạnh không thiếu sót, sau khi đạt
đến sự toàn hảo về xuất ly, ta đă đạt đến quả vị Toàn Giác tối
thượng.
367. Sau khi đă vấn hỏi các bậc hiền
trí, sau khi đă thể hiện sự tinh tấn tối thượng, sau khi đă đạt đến
sự toàn hảo về nhẫn nại, ta đă đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng.
368. Sau khi đă thực hành sự quyết
định vững chắc, sau khi đă hộ tŕ lời nói chân thật, sau khi đă đạt
đến sự toàn hảo về từ ái, ta đă đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng.
369. Đối với lợi lộc và không lợi
lộc, đối với danh thơm và tiếng xấu, đối với sự kính trọng và chê
bai, sau khi đă là b́nh đẳng trong mọi trường hợp, ta đă đạt đến quả
vị Toàn Giác tối thượng.
370. Sau khi thấy được sự biếng nhác
là nguy hiểm và việc khởi sự tinh tấn là an toàn, hăy nỗ lực tinh
tấn; đây là lời giáo huấn của chư Phật.
371. Sau khi thấy được sự tranh căi
là nguy hiểm và sự không tranh căi là an toàn, hăy hợp nhất, thân
thiện; đây là lời giáo huấn của chư Phật.
372. Sau khi thấy được sự dễ
duôi là nguy hiểm và sự không dễ duôi là an toàn, hăy tu tập đạo lộ
tám chi phần; đây là lời giáo huấn của chư Phật.
Phẩm Yudhañjaya là thứ ba.
--ooOoo--
Ở đây, trong khi tŕnh bày về
phẩm hạnh quá khứ của bản thân, đức Thế Tôn đă thuyết giảng về bản
thể của Giáo Pháp có tên là Buddhāpadāniyaṃ.
Hạnh Tạng được đầy
đủ.
--ooOoo--