|
TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 06
TIỂU PHẨM tập I ẤN BẢN 2013 Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda (Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader) |
|||
|
IV. CHƯƠNG DÀN XẾP
1. HÀNH XỬ LUẬT VỚI SỰ HIỆN DIỆN
Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực hiện các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, ḥa giải, án treo đối với các vị tỳ khưu không có hiện diện. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại thực hiện các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, ḥa giải, án treo cho các tỳ khưu không có hiện diện?”
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực hiện các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, ḥa giải, án treo cho các tỳ khưu không có hiện diện, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho những kẻ rồ dại ấy, thật không hợp lẽ, không thích đáng, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm. Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy lại thực hiện các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, ḥa giải, án treo cho các tỳ khưu không có hiện diện? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ―(như trên)― ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc ḥa giải, hoặc án treo cho các tỳ khưu không có hiện diện; vị nào thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa.”
CHÍN TRƯỜNG HỢP NÓI SAI PHÁP
Một người nói sai Pháp, nhiều người nói sai Pháp, hội chúng nói sai Pháp. Một người nói đúng Pháp, nhiều người nói đúng Pháp, hội chúng nói đúng Pháp.
1. Một người nói sai Pháp khiến một người nói đúng Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết sai Pháp theo h́nh thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
2. Một người nói sai Pháp khiến nhiều người nói đúng Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết sai Pháp theo h́nh thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
3. Một người nói sai Pháp khiến hội chúng nói đúng Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết sai Pháp theo h́nh thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
4. Nhiều người nói sai Pháp khiến một người nói đúng Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết sai Pháp theo h́nh thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
5. Nhiều người nói sai Pháp khiến nhiều người nói đúng Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết sai Pháp theo h́nh thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
6. Nhiều người nói sai Pháp khiến hội chúng nói đúng Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết sai Pháp theo h́nh thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
7. Hội chúng nói sai Pháp khiến một người nói đúng Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết sai Pháp theo h́nh thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
8. Hội chúng nói sai Pháp khiến nhiều người nói đúng Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết sai Pháp theo h́nh thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.
9. Hội chúng nói sai Pháp khiến hội chúng nói đúng Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết sai Pháp theo h́nh thức của cách hành xử Luật với sự hiện diện.”
Dứt chín trường hợp nói sai pháp.
*****
CHÍN TRƯỜNG HỢP NÓI ĐÚNG PHÁP
1. Một người nói đúng Pháp khiến một người nói sai Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
2. Một người nói đúng Pháp khiến nhiều người nói sai Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
3. Một người nói đúng Pháp khiến hội chúng nói sai Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
4. Nhiều người nói đúng Pháp khiến một người nói sai Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
5. Nhiều người nói đúng Pháp khiến nhiều người nói sai Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
6. Nhiều người nói đúng Pháp khiến hội chúng nói sai Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
7. Hội chúng nói đúng Pháp khiến một người nói sai Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
8. Hội chúng nói đúng Pháp khiến nhiều người nói sai Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.
9. Hội chúng nói đúng Pháp khiến hội chúng nói sai Pháp biết được, nhận thức được, thấy được, thấy rơ được, hiểu được, hiểu rơ được: ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư, hăy chọn lấy điều này, hăy ưa thích điều này.’ Nếu sự tranh tụng ấy được giải quyết như thế là được giải quyết đúng Pháp theo cách hành xử Luật với sự hiện diện.”
Dứt chín trường hợp nói đúng pháp.
--ooOoo--
2. HÀNH XỬ LUẬT BẰNG SỰ GHI NHỚ
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc.[1] Vào lúc bấy giờ, phẩm vị A-la-hán đă được đại đức Dabba Mallaputta chứng ngộ vào lúc bảy tuổi. Vị ấy đă đạt được tất cả những ǵ vị đệ tử cần phải đạt đến. Và đối với vị ấy, không có bất cứ việc ǵ cao thượng hơn cần phải làm hoặc sự tích lũy thêm đối với việc đă làm. Khi ấy, đại đức Dabba Mallaputta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ư nghĩ suy tầm như vầy đă khởi lên: “Phẩm vị A-la-hán đă được ta chứng ngộ vào lúc bảy tuổi. Ta đă đạt được tất cả những ǵ vị đệ tử cần phải đạt đến. Và đối với ta, không có bất cứ việc ǵ cao thượng hơn cần phải làm hoặc sự tích lũy thêm đối với việc đă làm. Vậy ta nên thực hiện việc phục vụ ǵ cho hội chúng?” Rồi điều này đă khởi đến cho đại đức Dabba Mallaputta: “Hay là ta nên phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng?”
2. Sau đó vào buổi tối, đại đức Dabba Mallaputta đă xuất khỏi thiền tịnh và đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đại đức Dabba Mallaputta đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, trường hợp con trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ư nghĩ suy tầm như vầy đă khởi lên: ‘Phẩm vị A-la-hán đă được ta chứng ngộ vào lúc bảy tuổi. Ta đă đạt được tất cả những ǵ vị đệ tử cần phải đạt đến. Và đối với ta, không có bất cứ việc ǵ cao thượng hơn cần phải làm hoặc sự tích lũy thêm đối với việc đă làm. Vậy ta nên thực hiện việc phục vụ ǵ cho hội chúng?’ Bạch ngài, rồi điều này đă khởi đến cho con: ‘Hay là ta nên phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng?’ Bạch ngài, con muốn phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng.” - “Này Dabba, tốt lắm, tốt lắm! Chính v́ điều ấy ngươi hăy phân bố chỗ cư ngụ và sắp xếp các bữa ăn cho hội chúng.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Đại đức Dabba Mallaputta đă đáp lại đức Thế Tôn.
3. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các vị tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, chính v́ điều ấy hội chúng hăy chỉ định Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú và là vị sắp xếp các bữa ăn. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, Dabba cần được yêu cầu. Sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú và là vị sắp xếp các bữa ăn. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú và là vị sắp xếp các bữa ăn. Đại đức nào đồng ư việc chỉ định đại đức Dabba Mallaputta là vị phân bố chỗ trú và là vị sắp xếp các bữa ăn xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Đại đức Dabba Mallaputta đă được hội chúng chỉ định là vị phân bố chỗ trú và là vị sắp xếp các bữa ăn. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
4. Và khi đă được chỉ định, đại đức Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú chung một khu vực cho các tỳ khưu có cùng sở hành. Vị ấy phân bố chỗ trú chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên về Kinh (nghĩ rằng): ‘Các vị sẽ tụng đọc Kinh với nhau.’ Vị ấy phân bố chỗ trú chung một khu vực cho các tỳ khưu rành rẽ về Luật (nghĩ rằng): ‘Các vị sẽ xác định về Luật với nhau.’ Vị ấy phân bố chỗ trú chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên giảng Pháp (nghĩ rằng): ‘Các vị sẽ thảo luận về Pháp với nhau.’ Vị ấy phân bố chỗ trú chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên về thiền (nghĩ rằng): ‘Các vị sẽ không quấy rầy lẫn nhau.’ Vị ấy phân bố chỗ trú chung một khu vực cho các tỳ khưu chuyên nói chuyện thế tục, sinh hoạt có nhiều sự năng động về thân (nghĩ rằng): ‘Các đại đức này cũng sẽ yên ổn với thú vui ấy.’ C̣n các tỳ khưu đi đến vào buổi tối, vị ấy thể nhập vào hỏa giới và phân bố chỗ trú cho các vị ấy bằng chính ánh sáng ấy.
5. Cho nên, các tỳ khưu cố ư đi đến vào buổi tối (nghĩ rằng): ‘Chúng ta sẽ chứng kiến sự kỳ diệu về thần thông của đại đức Dabba Mallaputta.’ Sau khi đi đến gặp đại đức Dabba Mallaputta, các vị ấy nói như vầy: - “Này đại đức Dabba, hăy phân bố chỗ trú cho chúng tôi.” Đại đức Dabba Mallaputta nói với các vị ấy như vầy: - “Các đại đức thích chỗ nào? Tôi sẽ phân bố chỗ nào?” Các vị ấy cố ư đề cập các chỗ xa xôi: - “Này đại đức Dabba, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ở núi Gijjhakūṭa. Này đại đức, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ở khe núi Kẻ Cướp. Này đại đức, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ở sườn núi Isigili, chỗ tảng đá Đen. Này đại đức, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ở sườn núi Vebhāra, hang Sattapaṇṇa. Này đại đức, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ở Sītavana, động Sappasoṇḍika. Này đại đức, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ở hẻm núi Gotama. Này đại đức, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ở hẻm núi Tinduka. Này đại đức, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ở hẻm núi Tapoda. Này đại đức, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ở khu vườn Tapoda. Này đại đức, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ở vườn xoài của Jīvaka. Này đại đức, hăy phân bố cho chúng tôi chỗ trú ở Maddakucchi, nơi vườn nai.”
6. Đối với các vị ấy, đại đức Dabba Mallaputta đă thể nhập vào hỏa giới và đi ở phía trước với ngón tay đang được thắp sáng. Chính nhờ ánh sáng ấy, các vị ấy đi theo sát ở phía sau đại đức Dabba Mallaputta. Đại đức Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú cho các vị ấy như vầy: - “Đây là giường, đây là ghế, đây là nệm, đây là gối, đây là chỗ tiêu, đây là chỗ tiểu, đây là nước uống, đây là nước rửa, đây là gậy chống, đây là qui định của hội chúng: ‘Giờ này có thể đi vào. Giờ này có thể đi ra.’” Sau khi đă phân bố chỗ trú cho các vị ấy, đại đức Daba Mallaputta quay trở về lại Veḷuvana.
7. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka chỉ là các vị mới tu và phước báu ít ỏi. Các vị ấy thường nhận được những chỗ trú kém thuộc về hội chúng và những bữa ăn tồi. Vào lúc bấy giờ, dân chúng ở Rājagaha mong muốn cúng dường đến các tỳ khưu trưởng lăo thức ăn được chuẩn bị hoàn hảo gồm có bơ lỏng, dầu ăn, phần ăn thượng hạng, và thường dâng đến các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka vật b́nh thường theo khả năng gồm có cơm tấm và món thứ hai là cháo chua. Các vị ấy khi đi thọ thực về sau bữa ăn thường hỏi các tỳ khưu trưởng lăo rằng: - “Này các đại đức, các vị đă có thức ǵ ở tại nhà ăn? Các vị đă có thức ǵ?” Một số trưởng lăo trả lời như vầy: - “Này các đại đức, chúng tôi có bơ lỏng, có dầu ăn, có phần ăn thượng hạng.” Các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka nói như vầy: - “Này các đại đức, chúng tôi đă không được ǵ cả, chỉ là vật b́nh thường theo khả năng gồm có cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.”
8. Vào lúc bấy giờ, có vị gia chủ là người có bữa ăn ngon thường cúng dường đến hội chúng bữa ăn gồm bốn phần là bữa ăn thường lệ. Vị ấy cùng vợ và các con thường hiện diện và phục vụ ở nhà ăn. Họ dâng các vị này cơm, dâng các vị kia canh, dâng các vị nọ dầu ăn, và dâng các vị khác phần ăn thượng hạng. Vào lúc bấy giờ, bữa ăn vào ngày hôm sau của vị gia chủ có bữa ăn ngon đă được sắp xếp cho các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka. Hôm ấy, vị gia chủ có bữa ăn ngon đă đi đến tu viện bởi công việc cần làm nào đó. Vị ấy đă đi đến đại đức Dabba Mallaputta, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Dabba Mallaputta rồi ngồi xuống một bên. Khi vị gia chủ có bữa ăn ngon đă ngồi xuống một bên, đại đức Dabba Mallaputta đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho vị gia chủ có bữa ăn ngon bằng bài Pháp thoại.
9. Sau đó, khi đă được đại đức Dabba Mallaputta chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, vị gia chủ có bữa ăn ngon đă nói với đại đức Dabba Mallaputta điều này: - “Thưa ngài, bữa ăn vào ngày mai ở nhà chúng tôi đă được sắp xếp cho vị nào?” - “Này gia chủ, bữa ăn vào ngày mai ở nhà gia chủ đă được sắp xếp cho các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka.” Khi ấy, vị gia chủ có bữa ăn ngon đă không được hài ḷng (nghĩ rằng): “Tại sao các tỳ khưu tồi lại thọ thực ở nhà của chúng ta?” rồi đă đi về nhà và dặn ḍ người tớ gái rằng: - “Này con, hăy xếp đặt chỗ ngồi cho các vị đến thọ thực vào ngày mai ở nhà kho và hăy phục vụ các vị ấy với cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.” - “Thưa ông chủ, xin vâng.” Người tớ gái ấy đă đáp lại vị gia chủ có bữa ăn ngon.”
10. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka (bàn bạc rằng): - “Này các đại đức, hôm qua bữa ăn của vị gia chủ là người có bữa ăn ngon đă được sắp xếp cho chúng ta. Vào ngày mai, vị gia chủ có bữa ăn ngon cùng vợ và các con sẽ hiện diện và phục vụ chúng ta. Họ sẽ dâng các vị này cơm, sẽ dâng các vị kia canh, sẽ dâng các vị nọ dầu ăn, và sẽ dâng các vị khác phần ăn thượng hạng.” Do chính tâm vui mừng ấy, ban đêm các vị đă không ngủ được như ư.
11. Sau đó vào buổi sáng, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă mặc y, cầm y bát, đi đến nhà của vị gia chủ có bữa ăn ngon. Cô tớ gái ấy đă nh́n thấy các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka từ đàng xa đang đi lại, sau khi nh́n thấy đă xếp đặt chỗ ngồi ở nhà kho và nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này: - “Thưa các ngài, xin hăy ngồi.” Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka khởi ư điều này: “Chắc hẳn đến giờ này bữa ăn vẫn chưa hoàn tất nên chúng ta mới được cho ngồi ở nhà kho như thế này!” Sau đó, cô tớ gái ấy đă trở lại với cơm tấm và món thứ hai là cháo chua (nói rằng): - “Thưa các ngài, xin hăy thọ thực.” - “Này chị gái, chúng tôi là các vị thọ nhận bữa ăn thường lệ.” - “Tôi biết các ngài đại đức là các vị thọ nhận bữa ăn thường lệ. Tuy nhiên, chính ngày hôm qua tôi đă được vị gia chủ dặn ḍ rằng: ‘Này con, hăy xếp đặt chỗ ngồi cho các vị đến thọ thực vào ngày mai ở nhà kho và hăy phục vụ các vị ấy với cơm tấm và món thứ hai là cháo chua.’ Thưa các ngài, xin hăy thọ thực.”
12. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka (bàn bạc rằng): - “Này các đại đức, hôm qua vị gia chủ có bữa ăn ngon đă đi đến tu viện gặp Dabba Mallaputta. Chắc chắn rằng chúng ta đă bị Dabba Mallaputta ly gián với vị gia chủ!” Chính v́ tâm bực bội ấy, các vị ấy đă không thọ thực được như ư. Sau đó, khi trở về từ chỗ thọ thực sau bữa ăn, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă đi đến tu viện, bỏ bê y bát, rồi ngồi xuống ôm đầu gối bằng y hai lớp ở phía bên ngoài cổng ra vào của tu viện, im lặng, rút vai lại, mặt cúi xuống, trầm ngâm, không nói năng.
13. Khi ấy, tỳ khưu ni Mettiyā đă đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka, sau khi đến đă nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này: - “Tôi xin chào các ngài đại đức.” Khi được nói như thế, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă không đáp lại. Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, tỳ khưu ni Mettiyā đă nói với các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka điều này: - “Tôi xin chào các ngài đại đức.” Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă không đáp lại. - “Có phải tôi làm phật ḷng các ngài đại đức? Tại sao các ngài đại đức không nói chuyện với tôi?” - “Này chị gái, bởi v́ cô vẫn dửng dưng như thế trong khi chúng tôi bị Dabba Mallaputta làm tổn hại.” - “Thưa các ngài đại đức, tôi làm được điều ǵ?” - “Này chị gái, nếu cô chịu làm th́ ngay trong ngày hôm nay đức Thế Tôn có thể trục xuất Dabba Mallaputta.” - “Thưa các ngài đại đức, tôi làm được điều ǵ? Tôi có thể làm điều ǵ?”
14. - “Này chị gái, hăy đến. Cô hăy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến hăy nói với đức Thế Tôn như vầy: ‘Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không thích đáng. Bạch ngài, chính ở quốc độ nào không có sự sợ hăi, không có tai họa, không có sầu khổ th́ chính ở quốc độ ấy có sự sợ hăi, có tai họa, và có sầu khổ. Từ nơi nào gió lặng đi th́ từ nơi ấy có băo tố. Con nghĩ rằng nước đă bùng cháy lên rồi; con đă bị ô nhục bởi ngài đại đức Dabba Mallaputta.’” - “Thưa các ngài đại đức, xin vâng.” Rồi tỳ khưu ni Mettiyā nghe theo các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng một bên. Khi đă đứng một bên, tỳ khưu ni Mettiyā đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, điều này là không đúng đắn, không thích đáng. Bạch ngài, chính ở quốc độ nào không có sự sợ hăi, không có tai họa, không có sầu khổ th́ chính ở quốc độ ấy có sự sợ hăi, có tai họa, và có sầu khổ. Từ nơi nào gió lặng đi th́ từ nơi ấy có băo tố. Con nghĩ rằng nước đă bùng cháy lên rồi; con đă bị ô nhục bởi ngài đại đức Dabba Mallaputta.”
15. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi đại đức Dabba Mallaputta rằng: - “Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đă làm việc như thế, giống như điều tỳ khưu ni này đă nói không?” - “Bạch ngài, con như thế nào th́ đức Thế Tôn biết mà.” Đến lần thứ nh́, đức Thế Tôn đă nói với đại đức Dabba Mallaputta điều này: - “Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đă làm việc như thế, giống như điều tỳ khưu ni này đă nói không?” - “Bạch ngài, con như thế nào th́ đức Thế Tôn biết mà.” ―(như trên)― Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đă nói với đại đức Dabba Mallaputta điều này: - “Này Dabba, ngươi có nhớ ngươi là kẻ đă làm việc như thế, giống như điều tỳ khưu ni này đă nói không?” - “Bạch ngài, con như thế nào th́ đức Thế Tôn biết mà.” - “Này Dabba, các vị (ḍng dơi) Dabba không phủ nhận như thế. Nếu ngươi có làm, hăy nói: ‘Có làm;’ nếu ngươi không làm, hăy nói: ‘Không làm.’” - “Bạch ngài, từ khi con được sanh ra, con không thấy ḿnh là kẻ đă thực hành việc đôi lứa ngay cả trong lúc ngủ mơ, huống ǵ là tỉnh thức.” Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, chính v́ điều ấy các ngươi hăy trục xuất tỳ khưu ni Mettiyā và hăy tra hỏi các tỳ khưu này.” Nói xong điều ấy, đức Thế Tôn đă từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trú xá.
16. Sau đó, các tỳ khưu ấy đă trục xuất tỳ khưu ni Mettiyā. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka đă nói với các tỳ khưu ấy điều này: - “Này các đại đức, chớ có trục xuất tỳ khưu ni Mettiyā, cô ta không làm sai điều ǵ. V́ chúng tôi nổi giận, không hài ḷng, có ư định loại trừ nên xúi giục cô ta thôi.” - “Này các đại đức, có phải các vị bôi nhọ đại đức Dabba Malla-putta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ?” - “Này các đại đức, đúng vậy.” Các tỳ khưu nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka lại bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ?”
17. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi bôi nhọ Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ―(như trên)― ngài đă nói Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi bảo các tỳ khưu rằng:
18. - “Này các tỳ khưu, chính v́ điều ấy hội chúng hăy ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ.[2] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, Dabba Mallaputta ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở bàn chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: ‘Bạch các ngài, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ tôi với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Bạch các ngài, là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ tôi đây thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.’ Nên thỉnh cầu đến lần thứ nh́. ―(như trên)― Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba. ‘Bạch các ngài, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ tôi với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Bạch các ngài, là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ tôi đây thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ lần thứ ba.’
19. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, đại đức Dabba Mallaputta thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, đại đức Dabba Mallaputta thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đại đức nào đồng ư việc ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́. ―(như trên)―
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka này bôi nhọ đại đức Dabba Mallaputta với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, đại đức Dabba Mallaputta thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đại đức nào đồng ư việc ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đă được hội chúng ban cho đại đức Dabba Mallaputta là vị thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’
Này các tỳ khưu, đây là năm sự ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ: Vị tỳ khưu được trong sạch không có phạm tội, các vị (khác) vu cáo vị ấy, vị ấy thỉnh cầu, hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị ấy đúng Pháp, với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, đây là năm sự ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.”
Dứt cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.
--ooOoo--
3. HÀNH XỬ LUẬT KHI KHÔNG ĐIÊN CUỒNG
1. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu Gagga bị điên và bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu khiển trách tỳ khưu Gagga với tội đă được thực hiện (bởi vị ấy) khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: - “Vị đại đức có nhớ là đă là có phạm tội như thế này không?” Vị ấy nói như vầy: - “Này các đại đức, tôi đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đă được làm bởi tôi khi bị điên cuồng.” Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: - “Vị đại đức có nhớ là đă là có phạm tội như thế này không?”
2. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu lại khiển trách tỳ khưu Gagga với tội đă được thực hiện khi vị ấy bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đă được làm bởi tôi khi bị điên cuồng.’ Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ―(như trên)― có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ―(như trên)― ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
3. - Này các tỳ khưu, chính v́ điều ấy hội chúng hăy ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỳ khưu Gagga khi không bị điên cuồng. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, tỳ khưu Gagga ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở bàn chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: - “Bạch các ngài, tôi đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu khiển trách tôi với tội đă được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Tôi nói với các vị ấy như vầy:
‘Này các đại đức, tôi đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đă được làm bởi tôi khi bị điên cuồng.’ Mặc dầu được tôi nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Bạch các ngài, giờ không điên cuồng tôi đây thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng.”
Nên thỉnh cầu đến lần thứ nh́. ―(như trên)―
Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba. “Bạch các ngài, tôi đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu khiển trách tôi với tội đă được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Tôi nói với các vị ấy như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đă được làm bởi tôi khi bị điên cuồng.’ Mặc dầu được tôi nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Bạch các ngài, giờ không bị điên cuồng tôi đây thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng lần thứ ba.”
4. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Gagga này đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu khiển trách tỳ khưu Gagga với tội đă được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đă được làm bởi tôi khi bị điên cuồng.’ Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy giờ không bị điên cuồng nên thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỳ khưu Gagga khi không bị điên cuồng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Gagga này đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu khiển trách tỳ khưu Gagga với tội đă được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy nói như vầy:
‘Này các đại đức, tôi đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đă được làm bởi tôi khi bị điên cuồng.’ Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy giờ không bị điên cuồng nên thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỳ khưu Gagga khi không bị điên cuồng. Đại đức nào đồng ư việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỳ khưu Gagga khi không bị điên cuồng xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́. ―(như trên)―
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba. ―(như trên)―
Cách hành xử Luật khi không điên cuồng đă được hội chúng ban cho tỳ khưu Gagga khi không bị điên cuồng. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
5. Này các tỳ khưu, đây là ba sự ban cho sai Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng, ba (sự ban cho) là đúng Pháp.
Thế nào là ba sự ban cho sai Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng? - Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu vi phạm tội. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy dầu có nhớ, vẫn nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi không nhớ là đă phạm tội như thế.’ Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là sai Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu vi phạm tội. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy dầu có nhớ, vẫn nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi nhớ như là từ giấc mơ vậy.’ Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là sai Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu vi phạm tội. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy, là vị không bị điên, (giả vờ) hành động trên cơ sở bị điên (nói rằng): ‘Tôi cũng làm như thế. Các vị cũng làm như thế. Điều ấy cũng được phép đối với tôi. Điều ấy cũng được phép đối với các vị.’ Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là sai Pháp. Đây là ba sự ban cho sai Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng.
6. Thế nào là ba sự ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng? - Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy thật không nhớ được nên nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi không nhớ được là đă phạm tội như thế.’ Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là đúng Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy thật không nhớ được nên nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi nhớ như là từ giấc mơ vậy.’ Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là đúng Pháp.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động được thực hiện bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy là vị bị điên, hành động trên cơ sở bị điên (nói rằng): ‘Tôi cũng làm như thế. Các vị cũng làm như thế. Điều ấy cũng được phép đối với tôi. Điều ấy cũng được phép đối với các vị.’ Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị ấy. Việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng là đúng Pháp.
Đây là ba sự ban cho đúng Pháp của cách hành xử Luật khi không điên cuồng.”
--ooOoo--
4. VIỆC PHÁN XỬ THEO TỘI ĐĂ ĐƯỢC THỪA NHẬN
7. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực hiện các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, ḥa giải, và án treo đối với các tỳ khưu không có sự thừa nhận. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại thực hiện các hành sự khiển trách, chỉ dạy, xua đuổi, ḥa giải, và án treo đối các tỳ khưu không có sự thừa nhận?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói ―(như trên)― có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, hành sự khiển trách, hoặc chỉ dạy, hoặc xua đuổi, hoặc ḥa giải, hoặc án treo không nên thực hiện đối với các tỳ khưu không có sự thừa nhận; vị nào thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa.
8. Này các tỳ khưu, việc phán xử theo tội đă được thừa nhận như vầy là sai Pháp, như vầy là đúng Pháp. Và này các tỳ khưu, thế nào là việc phán xử theo tội đă được thừa nhận là sai Pháp? - Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: ‘Có phải vị đại đức đă phạm tội pārājika?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă không phạm tội pārājika, tôi đă phạm tội saṅghādisesa.’ Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội saṅghādisesa. Việc phán xử theo tội đă được thừa nhận là sai Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: ‘Có phải vị đại đức đă phạm tội pārājika?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă không phạm tội pārājika, tôi đă phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― tội pācittiya. ―(như trên)― tội pāṭidesanīya. ―(như trên)― tội dukkaṭa. ―(như trên)― tội dubbhāsita.’ Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội dubbhāsita. Việc phán xử theo tội đă được thừa nhận là sai Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. ―(như trên)― tội thullaccaya. ―(như trên)― tội pācittiya. ―(như trên)― tội pāṭidesanīya. ―(như trên)― tội dukkaṭa. ―(như trên)― tội dubbhāsita. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: ‘Có phải vị đại đức đă phạm tội dubbhāsita?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă không phạm tội dubbhāsita, tôi đă phạm tội pārājika.’ Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội pārājika. Việc phán xử theo tội đă được thừa nhận là sai Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội dubbhāsita. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: ‘Có phải vị đại đức đă phạm tội dubbhāsita?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă không phạm tội dubbhāsita, tôi đă phạm tội saṅghādisesa.―(như trên)― tôi đă phạm tội thullaccaya. ―(như trên)― tội pācittiya. ―(như trên)― tội pāṭidesanīya. ―(như trên)― tội dukkaṭa.’ Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội dukkaṭa. Việc phán xử theo tội đă được thừa nhận là sai Pháp. Này các tỳ khưu, việc phán xử theo tội đă được thừa nhận như thế gọi là sai Pháp.
9. Này các tỳ khưu, thế nào là việc phán xử theo tội đă được thừa nhận là đúng Pháp? - Vị tỳ khưu phạm tội pārājika. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: ‘Có phải vị đại đức đă phạm tội pārājika?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă phạm tội pārājika.’ Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội pārājika. Việc phán xử theo tội đă được thừa nhận là đúng Pháp.
Vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. ―(như trên)― tội thullaccaya. ―(như trên)― tội pācittiya. ―(như trên)― tội pāṭidesanīya. ―(như trên)― tội dukkaṭa. ―(như trên)― tội dubbhāsita. Hội chúng, hoặc nhiều vị, hoặc một vị khiển trách vị ấy về điều ấy: ‘Có phải vị đại đức đă phạm tội dubbhāsita?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă phạm tội dubbhāsita.’ Hội chúng hành sự cho vị ấy với tội dubbhāsita. Việc phán xử theo tội đă được thừa nhận là đúng Pháp.
Này các tỳ khưu, việc phán xử theo tội đă được thừa nhận như thế gọi là đúng Pháp.”
--ooOoo--
5. THUẬN THEO SỐ ĐÔNG
10. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sống có nảy sinh các sự xung đột giữa hội chúng, có nảy sinh các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, và làm tổn thương lẫn nhau bằng các vũ khí của mồm miệng. Họ không thể giải quyết sự tranh tụng ấy. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng có h́nh thức như thế thuận theo số đông.
11. Vị tỳ khưu có năm yếu tố nên được chỉ định làm vị phân phát thẻ: Là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hăi, và là vị biết (thẻ) đă được nhận hay đă không được nhận. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân phát thẻ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân phát thẻ. Đại đức nào đồng ư việc chỉ định tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân phát thẻ xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Tỳ khưu tên (như vầy) đă được hội chúng chỉ định là vị phân phát thẻ. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’
12. Này các tỳ khưu, đây là mười sự phân phát thẻ sai Pháp, mười (sự phân phát thẻ) đúng Pháp.
Thế nào là mười sự phân phát thẻ sai Pháp? - Khi sự tranh tụng là việc nhỏ nhặt, chưa đến mức phải xử lư,[3] không được nhớ lại hoặc (không được) làm cho nhớ lại, (vị phân phát thẻ) biết rằng: ‘Các vị nói sai Pháp là nhiều hơn,’ (nghĩ rằng): ‘Có lẽ các vị nói sai Pháp là nhiều hơn,’ biết rằng: ‘Hội chúng sẽ bị chia rẽ,’ (nghĩ rằng): ‘Có lẽ hội chúng sẽ bị chia rẽ,’ các vị nhận lănh thẻ không được hợp lệ, các vị có sự chia phe nhóm khi nhận lănh thẻ, các vị nhận lănh không theo quan điểm (của bản thân). Đây là mười sự phân phát thẻ sai Pháp.
Thế nào là mười sự phân phát thẻ đúng Pháp? - Khi sự tranh tụng không phải là việc nhỏ nhặt, đă đến mức phải xử lư, được nhớ lại hoặc (được) làm cho nhớ lại, (vị phân phát thẻ) biết rằng: ‘Các vị nói đúngPháp là nhiều hơn,’ (nghĩ rằng): ‘Có lẽ các vị nói đúng Pháp là nhiều hơn,’ biết rằng: ‘Hội chúng sẽ không bị chia rẽ,’ (nghĩ rằng): ‘Có lẽ hội chúng sẽ không bị chia rẽ,’ các vị nhận lănh thẻ một cách hợp lệ, các vị có sự hợp nhất khi nhận lănh thẻ, các vị nhận lănh theo quan điểm (của bản thân). Đây là mười sự phân phát thẻ đúng Pháp.”
--ooOoo--
6. THEO TỘI CỦA VỊ ẤY
13. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu Uvāḷa trong khi được thẩm vấn về tội giữa hội chúng đă phủ nhận rồi lại thừa nhận, đă thừa nhận rồi lại phủ nhận, tránh né tội ấy bằng một tội khác, cố t́nh nói lời dối trá.
Các tỳ khưu nào ít ham muốn ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu Uvāḷa trong khi được thẩm vấn về tội giữa hội chúng đă phủ nhận rồi lại thừa nhận, đă thừa nhận rồi lại phủ nhận, tránh né tội ấy bằng một tội khác, cố t́nh nói lời dối trá?”
14. Sau đó, các tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói ―(như trên)― có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, chính v́ điều ấy hội chúng hăy thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu Uvāḷa. Và này các tỳ khưu, nên thực hiện như vầy: Trước hết, tỳ khưu Uvāḷa cần được quở trách; sau khi quở trách cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở rồi cần được xác định tội; sau khi được xác định tội, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Uvāḷa này trong khi được thẩm vấn về tội giữa hội chúng đă phủ nhận rồi lại thừa nhận, đă thừa nhận rồi lại phủ nhận, tránh né tội ấy bằng một tội khác, cố t́nh nói lời dối trá. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu Uvāḷa. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Uvāḷa này trong khi được thẩm vấn về tội giữa hội chúng đă phủ nhận rồi lại thừa nhận, đă thừa nhận rồi lại phủ nhận, tránh né tội ấy bằng một tội khác, cố t́nh nói lời dối trá. Hội chúng thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu Uvāḷa. Đại đức nào đồng ư việc thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu Uvāḷa xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́. ―(như trên)―
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba. ―(như trên)―
Hành sự theo tội của vị ấy đă được hội chúng thực hiện đến tỳ khưu Uvāḷa. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’
Này các tỳ khưu, đây là năm sự thực hiện đúng Pháp của hành sự theo tội của vị ấy: Là vị không trong sạch, không có hổ thẹn, có sự khiển trách, hội chúng thực hiện hành sự theo tội của vị ấy cho vị ấy đúng theo Pháp, với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, đây là năm sự thực hiện đúng Pháp của hành sự theo tội của vị ấy.
MƯỜI HAI HÀNH SỰ SAI PHÁP
15. Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật, và đă được giải quyết tồi khi có ba yếu tố: Được thực hiện thiếu sự hiện diện, được thực hiện thiếu sự tra hỏi, được thực hiện với sự không thừa nhận. ―(như trên)― Được thực hiện khi chưa xác định tội, được thực hiện không theo Pháp, được thực hiện theo phe nhóm. Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy có ba yếu tố này là hành sự sai Pháp, là hành sự sai Luật, và đă được giải quyết tồi. [Nên được giải thích chi tiết như hành sự khiển trách].
*****
MƯỜI HAI HÀNH SỰ ĐÚNG PHÁP
16. Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, và đă được giải quyết tốt đẹp khi có ba yếu tố: Được thực hiện với sự hiện diện, được thực hiện từ sự tra hỏi, được thực hiện với sự thừa nhận. ―(như trên)― Được thực hiện sau khi xác định tội, được thực hiện đúng theo Pháp, được thực hiện với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy có ba yếu tố này là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, và đă được giải quyết tốt đẹp. [Nên được giải thích chi tiết như phần sáng ở hành sự khiển trách].
*****
SÁU TRƯỜNG HỢP ‘TRONG KHI MONG MUỐN’
17. Này các tỳ khưu, hội chúng trong khi mong muốn có thể thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỳ khưu có ba yếu tố: Vị thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự căi cọ, thường gây nên sự tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; hạng ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, không có giới hạn (về tội); hạng sống thân cận với các gia chủ bằng những giao thiệp không đúng đắn với hàng tại gia.
Này các tỳ khưu, hội chúng trong khi mong muốn có thể thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỳ khưu có ba yếu tố này. (1)
Này các tỳ khưu, hội chúng trong khi mong muốn có thể thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỳ khưu có ba yếu tố khác nữa: Vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, vị bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, vị bị hư hỏng về tri kiến thuộc tà kiến cực đoan. Này các tỳ khưu, ―(như trên)― có ba đặc tính này. (2)
Này các tỳ khưu, ―(như trên)― có ba đặc tính khác nữa: Vị chê bai đức Phật, vị chê bai Giáo Pháp, vị chê bai Hội Chúng. Này các tỳ khưu, hội chúng trong khi mong muốn có thể thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đối với vị tỳ khưu có ba yếu tố này. (3)
Này các tỳ khưu, hội chúng trong khi mong muốn có thể thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỳ khưu: Hạng thường gây nên sự xung đột, ―(như trên)― thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng; hạng ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, không có giới hạn (về tội); hạng sống thân cận với các gia chủ bằng những giao thiệp không đúng đắn với hàng tại gia. Này các tỳ khưu, hội chúng trong khi mong muốn có thể thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỳ khưu này. (4)
Này các tỳ khưu, hội chúng trong khi mong muốn có thể thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, hạng bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc tăng thượng hạnh, hạng bị hư hỏng về tri kiến thuộc tà kiến cực đoan. Này các tỳ khưu, ―(như trên)― đối với ba hạng tỳ khưu này. (5)
Này các tỳ khưu, ―(như trên)― có ba hạng tỳ khưu khác nữa: hạng chê bai đức Phật, hạng chê bai Giáo Pháp, hạng chê bai Hội Chúng. Này các tỳ khưu, hội chúng trong khi mong muốn có thể thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đối với ba hạng tỳ khưu này. (6)
Dứt sáu trường hợp ‘trong khi mong muốn’.
*****
MƯỜI TÁM PHẬN SỰ
18. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu được thực hiện hành sự theo tội của vị ấy nên làm phận sự đúng đắn. Trong trường hợp này, các phận sự đúng đắn ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên ưng thuận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đă được chỉ định, ―(như trên)― (không nên) cấu kếtvới các tỳ khưu.”
Sau đó, hội chúng đă thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đối với tỳ khưu Uvāḷa.
--ooOoo--
7. CÁCH DÙNG CỎ CHE LẤP
19. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện. Khi ấy, điều này đă khởi đến các vị tỳ khưu ấy: “Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện. Nếu chúng ta xử lư lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy c̣n có thể đưa đến lủng củng, đưa đến sôi động, đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa; vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?”
20. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện. Này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy nếu các tỳ khưu (nghĩ) như vầy: ‘Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, có nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hiện. Nếu chúng ta xử lư lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy c̣n có thể đưa đến lủng củng, đưa đến sôi động, đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa?’” “Này các tỳ khưu, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng có h́nh thức như thế bằng cách dùng cỏ che lấp.
Và này các tỳ khưu, nên giải quyết như vầy: Toàn bộ tất cả nên tụ họp lại một chỗ; sau khi tụ họp lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hành. Nếu chúng ta xử lư lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy c̣n có thể đưa đến lủng củng, đưa đến sôi động, đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải quyết sự tranh tụng này bằng cách dùng cỏ che lấp, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng,[4] ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.’
21. Một vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về một phe nên thông báo đến phe của ḿnh rằng: ‘Bạch chư đại đức, xin hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hành. Nếu chúng ta xử lư lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy c̣n có thể đưa đến lủng củng, đưa đến sôi động, đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, tôi sẽ tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính chư đại đức và tội của tôi v́ sự lợi ích của chính chư đại đức và v́ sự lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.’
Rồi một vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về phe kia nên thông báo đến phe của ḿnh rằng:
‘Bạch chư đại đức, xin hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn ―(như trên)― đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, tôi sẽ tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính chư đại đức và tội của tôi v́ sự lợi ích của chính chư đại đức và v́ sự lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.’
22. Sau đó, hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về một phe rằng:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn ―(như trên)― đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi xin tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính các đại đức này và tội của tôi v́ sự lợi ích của chính các đại đức này và v́ sự lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn ―(như trên)― đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa. V́ sự lợi ích của chính các đại đức này và v́ sự lợi ích của tôi, tôi xin tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính các đại đức này và tội của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đại đức nào đồng ư việc tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng đối với các tội này của chúng tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ, xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Các tội này của chúng tôi đă được tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’
23. Rồi hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về phe kia rằng:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn ―(như trên)― đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi xin tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng ―(như trên)― ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn ―(như trên)― đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa. V́ sự lợi ích của chính các đại đức này và v́ sự lợi ích của tôi, tôi xin tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng ―(như trên)― ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đại đức nào đồng ư việc tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng đối với các tội này của chúng tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ, xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Các tội này của chúng tôi đă được tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’
Và này các tỳ khưu, như thế các tỳ khưu ấy đă được thoát khỏi các tội ấy ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ, ngoại trừ (các vị) có quan điểm khác về hành sự này, ngoại trừ các vị không hiện diện ở đó.”
--ooOoo--
8. BỐN SỰ TRANH TỤNG
24. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu tranh căi với các tỳ khưu ni, các tỳ khưu ni cũng tranh căi với các tỳ khưu. Tỳ khưu Channa sau khi theo phe các tỳ khưu ni cũng tranh căi với các tỳ khưu và được xem là thuộc phe các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu Channa sau khi theo phe các tỳ khưu ni lại tranh căi với các tỳ khưu và được xem là thuộc phe các tỳ khưu ni?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói ―(như trên)― có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” ―(như trên)―
Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
25. - “Này các tỳ khưu, đây là bốn sự tranh tụng: Sự tranh tụng liên quan đến tranh căi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, và sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
Ở đây, thế nào là sự tranh tụng liên quan đến tranh căi? - Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh căi rằng: ‘Đây là Pháp,’ hoặc ‘Đây không phải là Pháp,’ hoặc ‘Đây là Luật,’ hoặc ‘Đây không phải là Luật,’ hoặc ‘Điều ấy đă được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến,’ hoặc ‘Điều ấy đă không được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến,’ hoặc ‘Điều ấy đă được đấng Thiện Thệ thực hành,’ hoặc ‘Điều ấy đă không được đấng Thiện Thệ thực hành,’ hoặc ‘Điều ấy đă được đấng Thiện Thệ quy định,’ hoặc ‘Điều ấy đă không được đấng Thiện Thệ quy định,’ hoặc ‘Điều ấy là phạm tội,’ hoặc ‘Điều ấy là không phạm tội,’ hoặc ‘Điều ấy là tội nhẹ,’ hoặc ‘Điều ấy là tội nặng,’ hoặc ‘Tội c̣n dư sót,’ hoặc ‘Tội không c̣n dư sót,’[5] hoặc ‘Tội xấu xa,’ hoặc ‘Tội không xấu xa.’ Ở đây, việc nào là sự xung đột, sự gây gỗ, sự tranh luận, sự tranh căi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, sự nói lời thô lỗ, sự căi vă; việc ấy được gọi là sự tranh tụng liên quan đến tranh căi.
Ở đây, thế nào là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách? - Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu khiển trách vị tỳ khưu với sự hư hỏng về giới, hoặc với sự hư hỏng về hạnh kiểm, hoặc với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Trong trường hợp ấy, việc nào là sự khiển trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc, sự xúi giục, sự khích động; việc ấy được gọi là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
Ở đây, thế nào là sự tranh tụng liên quan đến tội? - Năm nhóm tội[6] là sự tranh tụng liên quan đến tội, bảy nhóm tội[7] là sự tranh tụng liên quan đến tội; việc ấy được gọi là sự tranh tụng liên quan đến tội.
Ở đây, thế nào là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ? - Việc ǵ thuộc về hội chúng cần phải hoàn thành cần phải thực hiện (tức là) hành sự với lời công bố,[8] hành sự với lời đề nghị, hành sự có lời đề nghị đến lần thứ hai, hành sự có lời đề nghị đến lần thứ tư. Việc ấy được gọi là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
26. Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh căi là ǵ? - Có sáu nguyên nhân tranh căi là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh căi. Cũng có ba nguyên nhân không tốt đẹp là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh căi và cũng có ba nguyên nhân tốt đẹp là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh căi.
Sáu nguyên nhân tranh căi nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh căi? - Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trở nên giận dữ có sự hằn học. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào trở nên giận dữ, có sự hằn học, vị ấy sống không tôn kính không phục tùng bậc Đạo Sư, sống không tôn kính không phục tùng Giáo Pháp, sống không tôn kính không phục tùng hội chúng, có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào sống không tôn kính không phục tùng bậc Đạo Sư, ―(như trên)― Giáo Pháp, ―(như trên)― Hội Chúng, ―(như trên)― có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập, vị ấy gây nên sự tranh căi trong hội chúng. Đó là sự tranh căi đem lại sự không lợi ích cho nhiều người, đem lại sự không an lạc cho nhiều người, đem lại sự không tấn hóa cho nhiều người, đem lại sự không lợi ích và khổ đau cho chư Thiên và nhân loại. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi nhận thức được nguyên nhân tranh căi có h́nh thức như thế một cách chủ quan và khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên nỗ lực cho sự chấm dứt của chính nguyên nhân tranh căi xấu xa ấy. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi không nhận thức được nguyên nhân tranh căi có h́nh thức như thế một cách chủ quan hoặc khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên thực hành để không đem lại sự hỗ trợ trong tương lai cho chính nguyên nhân tranh căi xấu xa ấy. Như thế nguyên nhân tranh căi xấu xa ấy có được sự chấm dứt. Như thế nguyên nhân tranh căi xấu xa ấy không có được sự hỗ trợ trong tương lai.
Này các tỳ khưu, c̣n có điều khác nữa: Có vị tỳ khưu trở nên đạo đức giả dối trá, ―(như trên)― trở nên đố kỵ bỏn xẻn, ―(như trên)― trở nên mưu mẹo xảo trá, ―(như trên)― trở nên ác dục tà kiến, ―(như trên)― trở nên chấp thủ một cách lộ liễu, ương ngạnh, khó sửa đổi. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào trở nên chấp thủ một cách lộ liễu, ương ngạnh, khó sửa đổi, vị ấy sống không tôn kính không phục tùng bậc Đạo Sư, sống không tôn kính không phục tùng Giáo Pháp, sống không tôn kính không phục tùng Hội Chúng, có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào sống không tôn kính không phục tùng bậc Đạo Sư, ―(như trên)― Giáo Pháp, ―(như trên)― Hội Chúng, ―(như trên)― có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập, vị ấy gây nên sự tranh căi trong hội chúng. Đó là sự tranh căi đem lại sự không lợi ích cho nhiều người, đem lại sự không an lạc cho nhiều người, đem lại sự không tấn hóa cho nhiều người, đem lại sự không lợi ích và khổ đau cho chư Thiên và nhân loại. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi nhận thức được nguyên nhân tranh căi có h́nh thức như thế một cách chủ quan và khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên nỗ lực cho sự chấm dứt của chính nguyên nhân tranh căi xấu xa ấy. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi không nhận thức được nguyên nhân tranh căi có h́nh thức như thế một cách chủ quan hoặc khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên thực hành để không đem lại sự hỗ trợ trong tương lai cho chính nguyên nhân tranh căi xấu xa ấy. Như thế nguyên nhân tranh căi xấu xa ấy có được sự chấm dứt. Như thế nguyên nhân tranh căi xấu xa ấy không có được sự hỗ trợ trong tương lai. Sáu nguyên nhân tranh căi này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh căi.
27. Ba nguyên nhân không tốt đẹp nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh căi?
- Này các tỳ khưu, trường hợp các vị tỳ khưu tranh căi do tâm tham lam, tranh căi do tâm xấu xa, tranh căi do tâm mê muội rằng: ‘Đây là Pháp,’ hoặc ‘Đây không phải là Pháp,’ hoặc ‘Đây là Luật,’ hoặc ‘Đây không phải là Luật,’ hoặc ‘Điều ấy đă được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến,’ hoặc ‘Điều ấy đă không được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến,’ hoặc ‘Điều ấy đă được đấng Thiện Thệ thực hành,’ hoặc ‘Điều ấy đă không được đấng Thiện Thệ thực hành,’ hoặc ‘Điều ấy đă được đấng Thiện Thệ quy định,’ hoặc ‘Điều ấy đă không được đấng Thiện Thệ quy định,’ hoặc ‘Điều ấy là phạm tội,’ hoặc ‘Điều ấy là không phạm tội,’ hoặc ‘Điều ấy là tội nhẹ,’ hoặc ‘Điều ấy là tội nặng,’ hoặc ‘Tội c̣n dư sót,’ hoặc ‘Tội không c̣n dư sót,’ hoặc ‘Tội xấu xa,’ hoặc ‘Tội không xấu xa.’ Ba nguyên nhân không tốt đẹp này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh căi.
Ba nguyên nhân tốt đẹp nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh căi? - Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh căi do tâm không tham lam, tranh căi do tâm không xấu xa, tranh căi do tâm không mê muội rằng: ‘Đây là Pháp,’ hoặc ‘Đây không phải là Pháp,’ ―(như trên)― hoặc ‘Tội xấu xa,’ hoặc ‘Tội không xấu xa.’ Ba nguyên nhân tốt đẹp này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tranh căi.
28. Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách là ǵ? - Có sáu nguyên nhân khiển trách là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách. Cũng có ba nguyên nhân không tốt đẹp là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, và cũng có ba nguyên nhân tốt đẹp là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách. Cơ thể (thân) cũng là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, và lời nói (khẩu) cũng là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
Sáu nguyên nhân khiển trách nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách? - Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trở nên giận dữ có sự hằn học. Vị tỳ khưu nào trở nên giận dữ, có sự hằn học, vị ấy sống không tôn kính không phục tùng bậc Đạo Sư, sống không tôn kính không phục tùng Giáo Pháp, sống không tôn kính không phục tùng Hội Chúng, có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào sống không tôn kính không phục tùng bậc Đạo Sư, ―(như trên)― Giáo Pháp, ―(như trên)― Hội Chúng, ―(như trên)― có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập, vị ấy gây nên sự khiển trách trong hội chúng là sự khiển trách đem lại sự không lợi ích cho nhiều người, đem lại sự không an lạc cho nhiều người, đem lại sự không tấn hóa cho nhiều người, đem lại sự không lợi ích và khổ đau cho chư Thiên và nhân loại. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi nhận thức được nguyên nhân khiển trách có h́nh thức như thế một cách chủ quan và khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên nỗ lực cho sự chấm dứt của chính nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi không nhận thức được nguyên nhân khiển trách có h́nh thức như thế một cách chủ quan hoặc khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên thực hành để không đem lại sự hỗ trợ trong tương lai cho chính nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy. Như thế nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy có được sự chấm dứt. Như thế nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy không có được sự hỗ trợ trong tương lai.
29. Này các tỳ khưu, c̣n có điều khác nữa: Có vị tỳ khưu trở nên đạo đức giả dối trá, ―(như trên)― trở nên đố kỵ bỏn xẻn, ―(như trên)― trở nên mưu mẹo xảo trá, ―(như trên)― trở nên ác dục tà kiến, ―(như trên)― trở nên chấp thủ một cách lộ liễu, ương ngạnh, khó sửa đổi. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào trở nên chấp thủ một cách lộ liễu, ương ngạnh, khó sửa đổi, vị ấy sống không tôn kính không phục tùng bậc Đạo Sư, sống không tôn kính không phục tùng Giáo Pháp, sống không tôn kính không phục tùng Hội Chúng, có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nào sống không tôn kính không phục tùng bậc Đạo Sư, ―(như trên)― Giáo Pháp, ―(như trên)― Hội Chúng, ―(như trên)― có sự thực hành không trọn vẹn việc học tập, vị ấy gây nên sự khiển trách trong hội chúng là sự khiển trách đem lại sự không lợi ích cho nhiều người, đem lại sự không an lạc cho nhiều người, đem lại sự không tấn hóa cho nhiều người, đem lại sự không lợi ích và khổ đau cho chư Thiên và nhân loại. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi nhận thức được nguyên nhân khiển trách có h́nh thức như thế một cách chủ quan và khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên nỗ lực cho sự chấm dứt của chính nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi không nhận thức được nguyên nhân khiển trách có h́nh thức như thế một cách chủ quan hoặc khách quan, này các tỳ khưu, trong trường hợp ấy các ngươi nên thực hành để không đem lại sự hỗ trợ trong tương lai cho chính nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy. Như thế nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy có được sự chấm dứt. Như thế nguyên nhân khiển trách xấu xa ấy không có được sự hỗ trợ trong tương lai. Sáu nguyên nhân khiển trách này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
30. Ba nguyên nhân không tốt đẹp nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách? - Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu khiển trách vị tỳ khưu do tâm tham lam, khiển trách do tâm xấu xa, khiển trách do tâm mê muội với sự hư hỏng về giới, hoặc với sự hư hỏng về hạnh kiểm, hoặc với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Ba nguyên nhân không tốt đẹp này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
Ba nguyên nhân tốt đẹp nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách? - Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu khiển trách vị tỳ khưu do tâm không tham lam, khiển trách do tâm không xấu xa, khiển trách do tâm không mê muội với sự hư hỏng về giới, với sự hư hỏng về hạnh kiểm, với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Ba nguyên nhân tốt đẹp này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
31. Cơ thể (thân) như thế nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách? - Ở đây có vị có màu da tối, có vóc dáng xấu xí, lùn tịt, nhiều bệnh: hoặc là chột mắt, hoặc là chân bị tật, hoặc bị què, hoặc bị liệt nửa thân, các vị khiển trách vị ấy về điều ấy. Cơ thể (thân) như thế ấy là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
Lời nói (khẩu) như thế nào là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách? - Ở đây có vị có giọng nói khó (nghe), có tật cà lăm, có giọng nói khàn khàn, các vị khiển trách vị ấy về điều ấy. Lời nói (khẩu) như thế ấy là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
32. Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tội là ǵ? - Sáu nguồn sanh tội là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tội. Có sự phạm tội sanh lên do thân, không do khẩu không do ư. Có sự phạm tội sanh lên do khẩu, không do thân không do ư. Có sự phạm tội sanh lên do thân và do khẩu, không do ư. Có sự phạm tội sanh lên do thân và do ư, không do khẩu. Có sự phạm tội sanh lên do khẩu và do ư, không do thân. Có sự phạm tội sanh lên do thân, do khẩu, và do ư. Sáu nguồn sanh tội này là nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến tội.
33. Nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là ǵ? - Có một nguyên nhân của sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là: Hội chúng.
34. Sự tranh tụng liên quan đến tranh căi là tốt, là xấu, (hay) là không tốt không xấu? - Sự tranh tụng liên quan đến tranh căi có thể là tốt, có thể là xấu, có thể là không tốt không xấu.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tranh căi nào là tốt? - Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh căi do tâm thiện: ‘Đây là Pháp,’ hoặc ‘Đây không phải là Pháp,’ ―(như trên)― hoặc ‘Tội xấu xa,’ hoặc ‘Tội không xấu xa.’ Trong trường hợp ấy, việc nào là sự xung đột, gây gỗ, tranh luận, tranh căi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, sự nói lời thô lỗ, sự căi vă; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến tranh căi được gọi là tốt.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tranh căi nào là xấu? - Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh căi do tâm bất thiện: ‘Đây là Pháp,’ hoặc ‘Đây không phải là Pháp,’ ―(như trên)― ‘Tội xấu xa,’ hoặc ‘Tội không xấu xa.’ Trong trường hợp ấy, việc nào là sự xung đột, gây gỗ, tranh luận, tranh căi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, sự nói lời thô lỗ, sự căi vă; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến tranh căi được gọi là xấu.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tranh căi nào là không tốt không xấu? - Này các tỳ khưu, trường hợp các vị tỳ khưu tranh căi với tâm vô kư: ‘Đây là Pháp,’ hoặc ‘Đây không phải là Pháp,’ ―(như trên)― hoặc ‘Tội xấu xa,’ hoặc ‘Tội không xấu xa.’ Trong trường hợp ấy, việc nào là sự xung đột, gây gỗ, ―(như trên)― sự nói lời thô lỗ, sự căi vă; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến tranh căi được gọi là không tốt không xấu.
Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách là tốt, là xấu, (hay) là không tốt không xấu? - Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách có thể là tốt, có thể là xấu, có thể là không tốt không xấu.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách nào là tốt? - Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu do tâm thiện khiển trách vị tỳ khưu với sự hư hỏng về giới, với sự hư hỏng về hạnh kiểm, với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Trong trường hợp ấy, việc nào là sự khiển trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc, sự xúi giục, sự khích động; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được gọi là tốt.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách nào là xấu? - Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu do tâm bất thiện khiển trách vị tỳ khưu với sự hư hỏng về giới, hoặc với sự hư hỏng về hạnh kiểm, hoặc với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Trong trường hợp ấy, việc nào là sự khiển trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc, sự xúi giục, sự khích động; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được gọi là xấu.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách nào là không tốt không xấu? - Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu do tâm vô kư khiển trách vị tỳ khưu với sự hư hỏng về giới, với sự hư hỏng về hạnh kiểm, với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Trong trường hợp ấy, việc nào là sự khiển trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc, sự xúi giục, sự khích động; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được gọi là không tốt không xấu.
36. Sự tranh tụng liên quan đến tội là xấu (hay) là không tốt không xấu? - Sự tranh tụng liên quan đến tội có thể là xấu, có thể là không tốt không xấu, không có sự tranh tụng liên quan đến tội là tốt.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tội nào là xấu? - Việc (vị tỳ khưu) có sự vi phạm trong khi nhận biết, trong khi nhận thức rơ, đă cố ư, rồi vượt qua; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến tội được gọi là xấu.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến tội nào là không tốt không xấu? - Này các tỳ khưu, việc (vị tỳ khưu) có sự vi phạm trong khi không nhận biết, trong khi không nhận thức rơ, đă không cố ư, rồi không vượt qua; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến tội được gọi là không tốt không xấu.
37. Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ là tốt, là xấu, (hay) là không tốt không xấu? - Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ có thể là tốt, có thể là xấu, có thể là không tốt không xấu.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ nào là tốt? - Việc hội chúng thực hiện hành sự với lời công bố, hành sự với lời đề nghị, hành sự có lời đề nghị đến lần thứ hai, hành sự có lời đề nghị đến lần thứ tư với tâm thiện; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được gọi là tốt.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ nào là xấu? - Việc hội chúng thực hiện hành sự với lời công bố, hành sự với lời đề nghị, hành sự có lời đề nghị đến lần thứ hai, hành sự có lời đề nghị đến lần thứ tư với tâm bất thiện; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được gọi là xấu.
Ở đây, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ nào là không tốt không xấu? - Việc hội chúng thực hiện hành sự với lời công bố, hành sự với lời đề nghị, hành sự có lời đề nghị đến lần thứ hai, hành sự có lời đề nghị đến lần thứ tư với tâm vô kư; việc ấy tức là sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được gọi là không tốt không xấu.
38. (Một việc có thể) là sự tranh căi (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tranh căi, là sự tranh căi không là sự tranh tụng, là sự tranh tụng không là sự tranh căi, vừa là sự tranh tụng vừa là sự tranh căi (hay không)? - (Một việc) có thể là sự tranh căi (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tranh căi, có thể là sự tranh căi không là sự tranh tụng, có thể là sự tranh tụng không là sự tranh căi, có thể vừa là sự tranh tụng vừa là sự tranh căi.
Ở đây, việc nào là sự tranh căi (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tranh căi? - Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu tranh căi rằng: ‘Đây là Pháp,’ hoặc ‘Đây không phải là Pháp,’ ―(như trên)― hoặc ‘Tội xấu xa,’ hoặc ‘Tội không xấu xa.’ Trong trường hợp ấy, việc nào là sự xung đột, gây gỗ, tranh luận, tranh căi, nhiều quan điểm, khác quan điểm, sự nói lời thô lỗ, sự căi vă; việc ấy là sự tranh căi (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tranh căi.
Ở đây, việc nào là sự tranh căi không là sự tranh tụng? - Mẹ tranh căi với con trai, con trai tranh căi với mẹ, cha tranh căi với con trai, con trai tranh căi với cha, anh em trai tranh căi với anh em trai, anh em trai tranh căi với chị em gái, chị em gái tranh căi với anh em trai, bạn bè tranh căi với bạn bè; việc ấy là sự tranh căi không là sự tranh tụng.
Ở đây, việc nào là sự tranh tụng không là sự tranh căi? - Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ; việc ấy là sự tranh tụng không là sự tranh căi.
Ở đây, việc nào vừa là sự tranh tụng vừa là sự tranh căi? - Sự tranh tụng liên quan đến tranh căi vừa là sự tranh tụng vừa là sự tranh căi.
39. (Một việc có thể) là sự khiển trách (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, là sự khiển trách không là sự tranh tụng, là sự tranh tụng không là sự khiển trách, vừa là sự tranh tụng vừa là sự khiển trách (hay không)? - (Một việc) có thể là sự khiển trách (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, có thể là sự khiển trách không là sự tranh tụng, có thể là sự tranh tụng không là sự khiển trách, có thể vừa là sự tranh tụng vừa là sự khiển trách.
Ở đây, việc nào là sự khiển trách (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến khiển trách? - Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu khiển trách vị tỳ khưu với sự hư hỏng về giới, hoặc với sự hư hỏng về hạnh kiểm, hoặc với sự hư hỏng về tri kiến, hoặc với sự hư hỏng về nuôi mạng. Trong trường hợp ấy, việc nào là sự khiển trách, sự xoi mói, sự buộc tội, sự chỉ trích, sự moi móc, sự xúi giục, sự khích động; việc ấy là sự khiển trách (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến khiển trách.
Ở đây, việc nào là sự khiển trách nào không là sự tranh tụng? - Mẹ khiển trách con trai, con trai khiển trách mẹ, cha khiển trách con trai, con trai khiển trách cha, anh em trai khiển trách anh em trai, anh em trai khiển trách chị em gái, chị em gái khiển trách anh em trai, bạn bè khiển trách bạn bè; việc ấy là sự khiển trách không là sự tranh tụng.
Ở đây, việc nào là sự tranh tụng không là sự khiển trách? - Sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, sự tranh tụng liên quan đến tranh căi; việc ấy là sự tranh tụng không là sự khiển trách.
Ở đây, việc nào vừa là sự tranh tụng vừa là sự khiển trách? - Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách vừa là sự tranh tụng vừa là sự khiển trách.
40. (Một việc có thể) là sự phạm tội (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tội, là sự phạm tội không là sự tranh tụng, là sự tranh tụng không là sự phạm tội, vừa là sự tranh tụng vừa là sự phạm tội (hay không)? - (Một việc) có thể là sự phạm tội (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tội, có thể là sự phạm tội không là sự tranh tụng, có thể là sự tranh tụng không là sự phạm tội, có thể vừa là sự tranh tụng vừa là sự phạm tội.
Ở đây, việc nào là sự phạm tội (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tội? - Năm nhóm tội là sự tranh tụng liên quan đến tội, và bảy nhóm tội là sự tranh tụng liên quan đến tội; việc ấy là sự phạm tội (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến tội.
Ở đây, việc nào là āpatti (sự phạm tội) không là sự tranh tụng? - Quả vị Nhập Lưu (Sotāpatti), sự thành đạt (samāpatti); việc ấy là āpatti (có tiếp vĩ ngữ āpatti) không là sự tranh tụng.[9]
Ở đây, việc nào là sự tranh tụng không là sự phạm tội? - Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, sự tranh tụng liên quan đến tranh căi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách; việc ấy là sự tranh tụng không là sự phạm tội.
Ở đây, việc nào vừa là sự tranh tụng vừa là sự phạm tội? - Sự tranh tụng liên quan đến tội vừa là sự tranh tụng vừa là sự phạm tội.
41. (Một việc có thể) là nhiệm vụ (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, là nhiệm vụ không là sự tranh tụng, là sự tranh tụng không là nhiệm vụ, vừa là sự tranh tụng vừa là nhiệm vụ (hay không)? - (Một việc) có thể là nhiệm vụ (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ, có thể là nhiệm vụ không là sự tranh tụng, có thể là sự tranh tụng không là nhiệm vụ, có thể vừa là sự tranh tụng vừa là nhiệm vụ.
Ở đây, việc nào là nhiệm vụ (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ? - Việc nào thuộc về hội chúng cần phải hoàn thành, cần phải thực hiện (tức là) hành sự với lời công bố, hành sự với lời đề nghị, hành sự có lời đề nghị đến lần thứ hai, hành sự có lời đề nghị đến lần thứ tư; việc ấy là nhiệm vụ (hoặc là) sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
Ở đây, việc nào là nhiệm vụ không là sự tranh tụng? - Nhiệm vụ của thầy giáo thọ, nhiệm vụ của thầy tế độ, nhiệm vụ của các vị chung thầy tế độ, nhiệm vụ của các vị chung thầy giáo thọ; việc ấy là nhiệm vụ không là sự tranh tụng.
Ở đây, việc nào là sự tranh tụng không là nhiệm vụ? - Sự tranh tụng liên quan đến tranh căi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội; việc ấy là sự tranh tụng không là nhiệm vụ.
Ở đây, việc nào vừa là sự tranh tụng vừa là nhiệm vụ? - Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ vừa là sự tranh tụng vừa là nhiệm vụ.
--ooOoo--
9. CÁCH GIẢI QUYẾT SỰ TRANH TỤNG
HÀNH XỬ LUẬT VỚI SỰ HIỆN DIỆN
42. Sự tranh tụng liên quan đến tranh căi được lắng dịu bởi bao nhiêu cách dàn xếp? - Sự tranh tụng liên quan đến tranh căi được lắng dịu bởi hai cách dàn xếp: bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện và bằng cách thuận theo số đông.
Nếu sự tranh tụng liên quan đến tranh căi không đi đến một cách dàn xếp là thuận theo số đông, th́ có thể được lắng dịu bằng một cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện hay không? - Nên trả lời rằng: ‘Có thể.’ Như vậy là thế nào? - Trường hợp các tỳ khưu tranh căi: ‘Đây là Pháp,’ hoặc ‘Đây không phải là Pháp,’ hoặc ‘Đây là Luật,’ hoặc ‘Đây không phải là Luật,’ hoặc ‘Điều ấy đă được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến,’ hoặc ‘Điều ấy đă không được đấng Thiện Thệ thuyết giảng và nói đến,’ hoặc ‘Điều ấy đă được đấng Thiện Thệ thực hành,’ hoặc ‘Điều ấy đă không được đấng Thiện Thệ thực hành,’ hoặc ‘Điều ấy đă được đấng Thiện Thệ quy định,’ hoặc ‘Điều ấy đă không được đấng Thiện Thệ quy định,’ hoặc ‘Điều ấy là phạm tội,’ hoặc ‘Điều ấy là không phạm tội,’ hoặc ‘Điều ấy là tội nhẹ,’ hoặc ‘Điều ấy là tội nặng,’ hoặc ‘Tội c̣n dư sót,’ hoặc ‘Tội không c̣n dư sót,’ hoặc ‘Tội xấu xa,’ hoặc ‘Tội không xấu xa.’ Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy có thể giải quyết sự tranh tụng ấy, này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện.
43. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự.
Và ở đây, sự hiện diện của hội chúng là ǵ? - Các tỳ khưu theo số lượng cần thiết cho hành sự đă đi đến, sự tùy thuận của các vị xứng đáng gởi sự tùy thuận đă được đem lại, các vị hiện diện không phản đối; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của hội chúng.
Và ở đây, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật là ǵ? - Với Pháp nào, với Luật nào, với lời giảng dạy nào của bậc Đạo Sư, sự tranh tụng ấy được giải quyết; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của Pháp, là sự hiện diện của Luật.
Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là ǵ? - Vị tranh căi, vị tranh căi với vị ấy, cả hai phe đối địch với nhau đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự.
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya; (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy không thể giải quyết sự tranh tụng ấy tại trú xứ ấy, này các tỳ khưu, các tỳ khưu ấy nên đi đến trú xứ có nhiều tỳ khưu hơn. Này các tỳ khưu, trong lúc đang đi trên đường đến trú xứ kia, nếu các tỳ khưu ấy có thể giải quyết sự tranh tụng ấy; này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự.
44. Và ở đây, sự hiện diện của hội chúng là ǵ? - Các tỳ khưu theo số lượng cần thiết cho hành sự đă đi đến, sự tùy thuận của các vị xứng đáng gởi sự tùy thuận đă được đem lại, các vị hiện diện không phản đối; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của hội chúng.
Và ở đây, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật là ǵ? - Với Pháp nào, với Luật nào, với lời giảng dạy nào của bậc Đạo Sư sự tranh tụng ấy được giải quyết; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của Pháp, là sự hiện diện của Luật.
Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là ǵ? - Vị tranh căi, vị tranh căi với vị ấy, cả hai phe đối địch với nhau đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự. Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya; (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy trong lúc đang đi trên đường đến trú xứ kia, không thể giải quyết sự tranh tụng ấy; này các tỳ khưu, sau khi đi đến trú xứ kia, các tỳ khưu ấy nên nói các tỳ khưu thường trú như vầy: ‘Này các đại đức, sự tranh tụng này đă sanh khởi như vầy, đă diễn tiến như vầy, lành thay xin các đại đức hăy giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo sư; như thế sự tranh tụng này có thể đă được giải quyết tốt đẹp.’
Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu thường trú thâm niên hơn và các tỳ khưu đi đến là kém thâm niên, này các tỳ khưu, các tỳ khưu thường trú nên nói với các tỳ khưu đi đến như vầy: ‘Này các đại đức, các vị hăy sang một bên trong chốc lát để chúng tôi c̣n hội ư.’ Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu thường trú kém thâm niên và các tỳ khưu đi đến là thâm niên hơn, này các tỳ khưu, các tỳ khưu thường trú nên nói với các tỳ khưu đi đến như vầy: ‘Này các đại đức, chính v́ điều ấy xin các vị hăy chờ tại đây trong chốc lát để chúng tôi c̣n hội ư.’
45. Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu thường trú trong lúc hội ư khởi lên như vầy: ‘Chúng ta không thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo sư được,’ các tỳ khưu thường trú không nên nhận lănh sự tranh tụng ấy.
Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu thường trú trong lúc hội ư khởi lên như vầy: ‘Chúng ta có thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo sư;’ này các tỳ khưu, các tỳ khưu thường trú ấy nên nói với các tỳ khưu đi đến như vầy: ‘Này các đại đức, nếu các vị tŕnh bày cho chúng tôi sự tranh tụng này đă sanh khởi như thế nào đă diễn tiến như thế nào, chúng tôi sẽ giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư theo cách sẽ được giải quyết tốt đẹp; như vậy chúng tôi sẽ nhận lănh sự tranh tụng này. Này các đại đức, nếu các vị không tŕnh bày cho chúng tôi sự tranh tụng này đă sanh khởi như thế nào đă diễn tiến như thế nào, chúng tôi sẽ giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư theo cách sẽ không đă được giải quyết tốt đẹp; như vậy chúng tôi sẽ không nhận lănh sự tranh tụng này.’ Này các tỳ khưu, sau khi xem xét kỹ lưỡng như vậy, các tỳ khưu thường trú nên nhận lănh sự tranh tụng ấy.
46. Này các tỳ khưu, các tỳ khưu đi đến ấy nên nói với các tỳ khưu thường trú như vầy: ‘Chúng tôi sẽ tŕnh bày cho các đại đức sự tranh tụng này đă sanh khởi như thế nào đă diễn tiến như thế nào. Nếu các đại đức có thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư trong khoảng thời gian chừng này hoặc chừng này, như thế (sự tranh tụng) sẽ được giải quyết tốt đẹp; như vậy, chúng tôi sẽ giao phó sự tranh tụng này cho các đại đức. Nếu các đại đức không thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư trong khoảng thời gian chừng này hoặc chừng này, như thế (sự tranh tụng) sẽ không đă được giải quyết tốt đẹp; như vậy, chúng tôi sẽ không giao phó sự tranh tụng này cho các đại đức, chính chúng tôi sẽ là người chủ tŕ sự tranh tụng này.’
Này các tỳ khưu, sau khi xem xét kỹ lưỡng như vậy, các tỳ khưu đi đến nên giao phó sự tranh tụng ấy cho các tỳ khưu thường trú. Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy có thể giải quyết sự tranh tụng ấy, này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết.
Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya; (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
*****
CÁCH GIẢI QUYẾT THEO LỐI ĐẠI BIỂU
47. Này các tỳ khưu, trong khi các tỳ khưu ấy phán xét sự tranh tụng ấy, nếu các lời bàn căi vô bổ được sanh khởi và không lời phát biểu nào có ư nghĩa; này các tỳ khưu, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng như thế ấy theo lối đại biểu.
Theo lối đại biểu, cần chỉ định vị tỳ khưu có được mười yếu tố: Là vị có giới hạnh, sống thu thúc theo sự thu thúc của giới bổn Pātimokkha, thành tựu về hạnh kiểm và chốn đi lại, thấy được sự nguy hiểm trong những tội lỗi nhỏ nhặt, thọ tŕ và thực hành theo các điều học; là vị nghe nhiều, nắm giữ và tích lũy các điều đă được nghe, các pháp nào là tốt đẹp phần đầu, tốt đẹp phần giữa, tốt đẹp phần cuối, thành tựu về ư nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ; các pháp có h́nh thức như thế được (vị ấy) nghe nhiều, ghi nhớ, ôn đọc ra lời, dùng trí quán sát, dùng tri kiến phân tích; cả hai bộ giới bổn Pātimokkha đă khéo được truyền thừa với chi tiết đến vị ấy, khéo được phân tích, khéo được ứng dụng, khéo được xác định theo từng điều học, theo từng từ ngữ; là vị tinh xảo về Luật không có bối rối; là vị có năng lực làm cho cả hai phe đối địch với nhau hiểu biết được, làm cho suy nghĩ lại, làm cho suy tư, làm cho thấy được, và làm cho hoan hỷ; khéo léo giải quyết sự sanh khởi của cuộc tranh tụng; vị hiểu biết sự tranh tụng; hiểu biết nguyên cớ của cuộc tranh tụng; hiểu biết sự chấm dứt của cuộc tranh tụng; hiểu biết đường lối thực hành để chấm dứt cuộc tranh tụng. Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định theo lối đại biểu vị tỳ khưu có được mười yếu tố này.
Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta phán xét sự tranh tụng này, các lời bàn căi vô bổ được sanh khởi và không lời phát biểu nào có ư nghĩa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để giải quyết sự tranh tụng này theo lối đại biểu. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta phán xét sự tranh tụng này, các lời bàn căi vô bổ được sanh khởi và không lời phát biểu nào có ư nghĩa. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để giải quyết sự tranh tụng này theo lối đại biểu. Đại đức nào đồng ư việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để giải quyết sự tranh tụng này theo lối đại biểu xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) đă được hội chúng chỉ định để giải quyết sự tranh tụng này theo lối đại biểu. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’
Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy có thể giải quyết sự tranh tụng ấy theo lối đại biểu, này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya.
Này các tỳ khưu, trong khi các tỳ khưu ấy đang phán xét sự tranh tụng ấy, nếu ở đó, có vị tỳ khưu là Pháp sư nhưng vị ấy là không được truyền thừa về Kinh điển, về sự phân tích giới bổn, vị ấy trong khi không xem xét ư nghĩa lại phủ nhận ư nghĩa ẩn sau các văn tự. Các tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch chư đại đức, xin hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) là Pháp sư nhưng vị ấy là không được truyền thừa về Kinh điển, về sự phân tích giới bổn, vị ấy trong khi không xem xét ư nghĩa lại phủ nhận ư nghĩa ẩn sau các văn tự. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, chúng ta nên loại ra vị tỳ khưu tên (như vầy) và những người c̣n lại (chúng ta) sẽ giải quyết sự tranh tụng này.’
Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy sau khi loại vị tỳ khưu ấy ra có thể giải quyết sự tranh tụng ấy; này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya.
Này các tỳ khưu, trong khi các vị tỳ khưu ấy đang phán xét sự tranh tụng ấy, nếu ở đó, có vị tỳ khưu là Pháp sư bởi v́ vị ấy là được truyền thừa về Kinh điển (nhưng) thiếu về sự phân tích giới bổn, vị ấy trong khi không xem xét ư nghĩa lại phủ nhận ư nghĩa ẩn sau các văn tự. Các tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch chư đại đức, xin hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) là Pháp sư bởi v́ vị ấy là được truyền thừa về Kinh điển (nhưng) thiếu về sự phân tích giới bổn, vị ấy trong khi không xem xét ư nghĩa lại phủ nhận ư nghĩa ẩn sau các văn tự. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, chúng ta nên loại ra vị tỳ khưu tên (như vầy) và những người c̣n lại (chúng ta) sẽ giải quyết sự tranh tụng này.’
Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy sau khi loại vị tỳ khưu ấy ra có thể giải quyết sự tranh tụng ấy; này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya.
*****
CÁCH HÀNH XỬ LUẬT THUẬN THEO SỐ ĐÔNG
48. Này các tỳ khưu, nếu các tỳ khưu ấy không thể giải quyết sự tranh tụng ấy theo lối đại biểu, này các tỳ khưu, các tỳ khưu ấy nên giao lại sự tranh tụng ấy cho hội chúng: - ‘Bạch các ngài, chúng tôi không thể giải quyết sự tranh tụng này theo lối đại biểu. Hăy để hội chúng giải quyết sự tranh tụng này.’ Này các tỳ khưu, ta cho phép giải quyết thuận theo số đông sự tranh tụng có h́nh thức như thế.
Cần chỉ định vị phân phát thẻ là vị tỳ khưu có năm yếu tố: Vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hăi, và vị biết (thẻ) đă được nhận hay chưa được nhận. ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu. Sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân phát thẻ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân phát thẻ. Đại đức nào đồng ư việc chỉ định tỳ khưu tên (như vầy) là vị phân phát thẻ xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Tỳ khưu tên (như vầy) đă được hội chúng chỉ định là vị phân phát thẻ. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’
Vị tỳ khưu phân phát thẻ ấy nên phân phát các thẻ. (Trường hợp) các tỳ khưu là các vị nói đúng Pháp có (số lượng) nhiều hơn nói (nên giải quyết) như thế nào, th́ sự tranh tụng ấy nên được giải quyết như thế ấy. Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và thuận theo số đông. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, sự hiện diện của hội chúng là ǵ? - Các tỳ khưu theo số lượng cần thiết cho hành sự đă đi đến, sự tùy thuận của các vị xứng đáng gởi sự tùy thuận đă được đem lại, các vị hiện diện không phản đối; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của hội chúng.
Và ở đây, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật là ǵ? - Với Pháp nào, với Luật nào, với lời giảng dạy nào của bậc Đạo Sư sự tranh tụng ấy được giải quyết; ở đây điều ấy là sự hiện diện của Pháp, là sự hiện diện của Luật.
Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là ǵ? - Vị tranh căi, vị tranh căi với vị ấy, cả hai phe đối địch với nhau đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự.
Và ở đây, điều ǵ là liên quan đến thuận theo số đông? - Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự thuận theo số đông; ở đây điều ấy là liên quan đến thuận theo số đông.
Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya; (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.”
*****
BA CÁCH PHÂN PHÁT THẺ
49. Vào lúc bấy giờ, ở Sāvatthi có sự tranh tụng đă xảy ra như vầy, đă sanh khởi như vầy. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy không hài ḷng với lối giải quyết tranh tụng của hội chúng ở Sāvatthi và đă nghe rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia có nhiều trưởng lăo cư ngụ là các vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là các bậc sáng trí, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Nếu các trưởng lăo ấy có thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư, như vậy sự tranh tụng này sẽ được giải quyết tốt đẹp.” Sau đó, các tỳ khưu ấy đă đi đến trú xứ ấy và đă nói với các trưởng lăo ấy điều này: - “Thưa các ngài, sự tranh tụng này đă sanh khởi như vầy, đă diễn tiến như vầy. Thưa các ngài, lành thay các trưởng lăo hăy giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư, như vậy sự tranh tụng này sẽ được giải quyết tốt đẹp.”
50. Khi ấy, các trưởng lăo ấy (nghĩ rằng): ‘Sự tranh tụng đă được hội chúng ở Sāvatthi giải quyết như thế ấy là đă được giải quyết tốt đẹp’ rồi đă giải quyết sự tranh tụng ấy như thế.
Sau đó, các tỳ khưu ấy không hài ḷng với lối giải quyết tranh tụng của hội chúng ở Sāvatthi, không hài ḷng với lối giải quyết tranh tụng của nhiều vị trưởng lăo và đă nghe rằng: “Nghe nói ở trú xứ kia có ba vị trưởng lăo cư ngụ―(như trên)―có hai vị trưởng lăo cư ngụ―(như trên)― có một vị trưởng lăo cư ngụ là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, sáng trí, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Nếu trưởng lăo ấy có thể giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư, như vậy sự tranh tụng này sẽ được giải quyết tốt đẹp.”
51. Sau đó, các tỳ khưu ấy đă đi đến trú xứ ấy và đă nói với vị trưởng lăo ấy điều này: - “Thưa ngài, sự tranh tụng này đă sanh khởi như vầy, đă diễn tiến như vầy. Thưa ngài, lành thay ngài trưởng lăo hăy giải quyết sự tranh tụng này theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo sư, như thế sự tranh tụng này sẽ được giải quyết tốt đẹp.”
Khi ấy, vị trưởng lăo ấy (nghĩ rằng): ‘Sự tranh tụng đă được hội chúng ở Sāvatthi giải quyết như thế ấy, sự tranh tụng đă được nhiều vị trưởng lăo giải quyết như thế ấy, sự tranh tụng đă được ba vị trưởng lăo giải quyết như thế ấy, sự tranh tụng đă được hai vị trưởng lăo giải quyết như thế ấy là đă được giải quyết tốt đẹp,’ rồi đă giải quyết sự tranh tụng ấy như thế.
52. Sau đó, các tỳ khưu ấy không hài ḷng với lối giải quyết tranh tụng của hội chúng ở Sāvatthi, không hài ḷng với lối giải quyết tranh tụng của nhiều vị trưởng lăo, không hài ḷng với lối giải quyết tranh tụng của ba vị trưởng lăo, không hài ḷng với lối giải quyết tranh tụng của hai vị trưởng lăo, không hài ḷng với lối giải quyết tranh tụng của một vị trưởng lăo nên đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đă nói điều này:
- “Này các tỳ khưu, sự tranh tụng này đă được dứt điểm, đă được yên lặng, và đă được giải quyết, đă được giải quyết tốt đẹp. Này các tỳ khưu, v́ sự nhận thức rơ ràng của các tỳ khưu ấy, ta cho phép ba cách phân phát thẻ: lối kín đáo, sự nói nhỏ vào tai, lối công khai.”
Và này các tỳ khưu, thế nào là cách phân phát thẻ theo lối kín đáo? - Vị tỳ khưu phân phát thẻ nên làm các thẻ khác nhau rồi đi đến gặp từng vị tỳ khưu một và nên nói như vầy: ‘Thẻ này là cho vị nói như vầy, thẻ này là cho vị nói như kia. Đại đức thích cái nào th́ nhận cái ấy.’ Khi giao nên nói rằng: ‘Và chớ cho bất cứ ai thấy.’ Nếu vị ấy biết rằng: ‘Các vị nói sai Pháp là nhiều hơn,’ nên thâu hồi lại (nói rằng): ‘(Các thẻ) bị lấy lầm lẫn.’ Nếu vị ấy biết rằng: ‘Các vị nói đúng Pháp là nhiều hơn,’ nên công bố rằng: ‘(Các thẻ) được nhận lấy tốt đẹp.’ Này các tỳ khưu, như vậy là cách phân phát thẻ theo lối kín đáo.
Và này các tỳ khưu, thế nào là cách phân phát thẻ với sự nói nhỏ vào tai? - Vị tỳ khưu phân phát thẻ nên nói vào tai của từng vị tỳ khưu một rằng: ‘Thẻ này là cho vị nói như vầy, thẻ này là cho vị nói như kia. Đại đức thích cái nào th́ nhận cái ấy.’ Khi giao nên nói rằng: ‘Và chớ nói cho bất cứ ai.’ Nếu vị ấy biết rằng: ‘Các vị nói sai Pháp là nhiều hơn,’ nên thâu hồi lại (nói rằng): ‘(Các thẻ) bị lấy lầm lẫn.’ Nếu vị ấy biết rằng: ‘Các vị nói đúng Pháp là nhiều hơn,’ nên công bố rằng: ‘(Các thẻ) được nhận lấy tốt đẹp.’ Này các tỳ khưu, như vậy là cách phân phát thẻ với sự nói nhỏ vào tai.
Và này các tỳ khưu, thế nào là cách phân phát thẻ theo lối công khai? - Nếu vị ấy biết rằng: ‘Các vị nói đúng Pháp là nhiều hơn,’ chính nhờ vào sự quả quyết nên phân phát (thẻ) bằng cách phân phát thẻ theo lối công khai. Này các tỳ khưu, như vậy là cách phân phát thẻ theo lối công khai.
Này các tỳ khưu, đây là ba cách phân phát thẻ.”
*****
HÀNH XỬ LUẬT BẰNG SỰ GHI NHỚ
53. Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được lắng dịu bởi bao nhiêu cách dàn xếp? - Sự tranh tụng liên quan đến khiển trách được lắng dịu bởi bốn cách dàn xếp: bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện, bằng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, bằng cách hành xử Luật khi không điên cuồng, và theo tội của vị ấy.
Nếu sự tranh tụng liên quan đến khiển trách không đi đến hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật khi không điên cuồng và theo tội của vị ấy th́ có thể được lắng dịu bằng hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ hay không? - Nên trả lời rằng: ‘Có thể.’
Như vậy là thế nào? - Trường hợp các tỳ khưu bôi nhọ vị tỳ khưu với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu được thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ nên được ban cho.
Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: ‘Bạch các ngài, các tỳ khưu bôi nhọ tôi với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Bạch các ngài, là người được thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, tôi đây thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ.’ Nên thỉnh cầu đến lần thứ nh́. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu bôi nhọ vị tỳ khưu tên (như vầy) với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Là người được thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, vị ấy thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị tỳ khưu tên (như vầy), là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu bôi nhọ vị tỳ khưu tên (như vầy) với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ, vị ấy thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị tỳ khưu tên (như vầy) là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Đại đức nào đồng ư việc ban cho cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đến vị tỳ khưu tên (như vầy) là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́. ―(như trên)―
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba. ―(như trên)―
Cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ đă được hội chúng ban cho vị tỳ khưu tên (như vầy) là người thành tựu đầy đủ về sự ghi nhớ. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. ―(như trên)― Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là ǵ? - Vị khiển trách và vị bị vị ấy khiển trách, cả hai phe đối địch với nhau đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ? - Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự hành xử Luật bằng sự ghi nhớ; ở đây điều ấy là ở trong cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ. Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya; (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
*****
HÀNH XỬ LUẬT KHI KHÔNG ĐIÊN CUỒNG
54. Nếu sự tranh tụng liên quan đến khiển trách không đi đến hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ và theo tội của vị ấy th́ có thể được lắng dịu bằng hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách hành xử Luật khi không điên cuồng hay không? - Nên trả lời rằng: ‘Có thể.’
Như vậy là thế nào? - Trường hợp vị tỳ khưu bị điên, bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hành bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu buộc tội vị ấy với tội đă được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hành bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đă được làm bởi tôi khi bị điên cuồng.’ Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Này các tỳ khưu, nên ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị tỳ khưu ấy khi không bị điên cuồng.
Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở bàn chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:
“Bạch các ngài, tôi đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hành bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu khiển trách tôi với tội đă được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Tôi nói với các vị ấy như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hành bởi tôi đây khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Tôi không nhớ được điều ấy. Điều ấy đă được làm bởi tôi khi bị điên cuồng.’ Mặc dầu được vị ấy nói như vậy, các vị vẫn khiển trách rằng: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Bạch các ngài, giờ không bị điên cuồng tôi đây thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng.”
Nên thỉnh cầu đến lần thứ nh́. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. Nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hành bởi vị ấy khi bị điên, bị thay đổi tâm tính. Các tỳ khưu đă khiển trách vị ấy với tội đă được thực hiện khi bị điên, bị thay đổi tâm tính: ‘Vị đại đức có nhớ là đă phạm tội như thế này không?’ Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă bị điên, ―(như trên)― Giờ không bị điên cuồng, vị ấy thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến vị tỳ khưu tên (như vầy) khi không bị điên cuồng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. ―(như trên)― Vị ấy nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đă bị điên, đă bị thay đổi tâm tính. ―(như trên)― Giờ không bị điên cuồng, vị ấy thỉnh cầu hội chúng cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Hội chúng ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỳ khưu tên (như vầy) khi không điên cuồng. Đại đức nào đồng ư việc ban cho cách hành xử Luật khi không điên cuồng đến tỳ khưu tên (như vầy) khi không bị điên cuồng xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́. ―(như trên)―
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba. ―(như trên)―
Cách hành xử Luật khi không điên cuồng đă được hội chúng ban cho tỳ khưu tên (như vầy) khi không bị điên cuồng. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật khi không điên cuồng? - Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự hành xử Luật khi không điên cuồng; ở đây điều ấy là ở trong cách hành xử Luật khi không điên cuồng. Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya; (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
*****
THEO TỘI CỦA VỊ ẤY
55. Nếu sự tranh tụng liên quan đến khiển trách không đi đến hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ và cách hành xử Luật khi không điên cuồng th́ có thể được lắng dịu bằng hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện và theo tội của vị ấy hay không? - Nên trả lời rằng: ‘Có thể.’
Như vậy là thế nào? - Trường hợp vị tỳ khưu buộc tội vị tỳ khưu (khác) giữa hội chúng với tội nặng: ‘Đại đức có nhớ là đă phạm tội nặng như thế này, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika không?’
Vị ấy nói như vầy: ‘Này đại đức, tôi không nhớ là đă phạm tội nặng như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika.’
Trong khi vị ấy chối từ, vị kia lại già lư lẽ hơn nữa: ‘Này đại đức hăy suy xét thật kỹ lưỡng xem thử có nhớ lại là đă phạm tội nặng như thế này, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika không?’
Vị ấy nói như vầy: ‘Này đại đức, tôi không nhớ là đă phạm tội như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika, tôi chỉ nhớ là đă phạm tội nhỏ nhoi như thế ấy.’
Trong khi vị ấy chối từ, vị kia lại già lư lẽ hơn nữa: ‘Này đại đức, hăy suy xét thật kỹ lưỡng xem thử có nhớ lại là đă phạm tội nặng như thế này, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika không?’
Vị ấy nói như vầy: ‘Này đại đức, bởi v́ sau khi phạm tội ấy, cho dầu là nhỏ nhoi tôi sẽ thú nhận dầu không được hỏi đến. Sau khi phạm tội nặng như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika, không lẽ tôi lại không thú nhận khi được hỏi đến hay sao?’
Vị kia nói như vầy: ‘Này đại đức, bởi v́ sau khi phạm tội ấy, mặc dù là nhỏ nhoi đại đức sẽ không thú nhận khi không được hỏi đến. Th́ sau khi phạm tội nặng như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika, không lẽ đại đức lại thú nhận khi không được hỏi đến? Này đại đức, hăy suy xét thật kỹ lưỡng xem thử có nhớ lại là đă phạm tội nặng như thế này là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika không?’
Vị ấy nói như vầy: ‘Này đại đức, tôi nhớ ra là đă phạm tội như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika. Điều nói rằng: Tôi không nhớ là đă phạm tội như thế ấy, là tội pārājika hoặc gần với tội pārājika, điều này được tôi nói vội, điều này được tôi nói theo thói quen.’
56. Này các tỳ khưu, hành sự theo tội của vị ấy nên được ban cho tỳ khưu ấy. Và này các tỳ khưu, nên thực hiện như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) trong khi được tra hỏi tội nặng giữa hội chúng đă phủ nhận rồi thừa nhận, đă thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né tội ấy bằng một tội khác, cố t́nh nói lời dối trá. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) trong khi được tra hỏi tội nặng giữa hội chúng đă phủ nhận rồi thừa nhận, đă thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né tội ấy bằng một tội khác, cố t́nh nói lời dối trá. Hội chúng thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ư việc thực hiện hành sự theo tội của vị ấy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́. ―(như trên)―
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba. ―(như trên)―
Hành sự theo tội của vị ấy đă được hội chúng thực hiện đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và theo tội của vị ấy. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. ―(như trên)― Và ở đây, điều ǵ là ở trong (cách giải quyết) theo tội của vị ấy? - Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự theo tội của vị ấy; ở đây điều ấy là ở trong (cách giải quyết) theo tội của vị ấy. Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya; (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
*****
VIỆC PHÁN XỬ THEO TỘI ĐĂ ĐƯỢC THỪA NHẬN
57. Sự tranh tụng liên quan đến tội được lắng dịu bởi bao nhiêu cách dàn xếp? - Sự tranh tụng liên quan đến tội được lắng dịu bởi ba cách dàn xếp: bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện, bằng việc phán xử theo tội đă được thừa nhận, và bằng cách dùng cỏ che lấp.
Nếu sự tranh tụng liên quan đến tội không đi đến một cách dàn xếp là cách dùng cỏ che lấp th́ có thể được lắng dịu bằng hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc phán xử theo tội đă được thừa nhận hay không? - Nên trả lời rằng: ‘Có thể.’
Như vậy là thế nào? - Trường hợp này, vị tỳ khưu là phạm tội nhẹ. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu (khác), đắp thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: - ‘Thưa đại đức, tôi đă phạm tội tên (như vầy), tôi xin tŕnh tội ấy.’ Vị kia nên nói rằng: - ‘Đại đức có nhận thấy (tội) không?’ - ‘Thưa có, tôi nhận thấy.’ - ‘Đại đức hăy thu thúc trong tương lai.’
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc phán xử theo tội đă được thừa nhận. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. ―(như trên)― Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là ǵ? - Vị khai báo (tội) và vị chứng minh vị ấy khai báo (tội), cả hai đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, điều ǵ là ở trong việc phán xử theo tội đă được thừa nhận? - Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự phán xử theo tội đă được thừa nhận; ở đây điều ấy là ở trong việc phán xử theo tội đă được thừa nhận. Này các tỳ khưu, khi đă được giải quyết như thế, nếu vị ghi nhận (tội) khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại phạm tội pācittiya.
58. Nếu vị ấy chấp nhận như thế, theo đó việc ấy là tốt đẹp. Nếu vị ấy không chấp nhận như thế, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp nhiều vị tỳ khưu, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở bàn chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: - ‘Thưa các ngài, tôi đă phạm tội tên (như vầy), tôi xin tŕnh tội ấy.’
Các vị tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực: - ‘Bạch chư đại đức, xin hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) nhớ được, bộc lộ ra, nói ra bằng lời, tŕnh ra sự phạm tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, tôi nên ghi nhận tội của vị tỳ khưu tên (như vầy).’
Vị ấy nên nói rằng: - ‘Đại đức có nhận thấy (tội) không?’ - ‘Thưa có, tôi nhận thấy.’ - ‘Đại đức hăy thu thúc trong tương lai.’
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc phán xử theo tội đă được thừa nhận. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. ―(như trên)― Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là ǵ? - Vị khai báo (tội) và vị chứng minh vị ấy khai báo (tội), cả hai đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự. Và ở đây, điều ǵ là ở trong việc phán xử theo tội đă được thừa nhận? - Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự phán xử theo tội đă được thừa nhận; ở đây điều ấy là ở trong việc phán xử theo tội đă được thừa nhận. Này các tỳ khưu, khi đă được giải quyết như thế, nếu vị ghi nhận (tội) khơi lại sự tranh tụng, vị khơi lại phạm tội pācittiya.
59. Nếu vị ấy chấp nhận như thế, theo đó việc ấy là tốt đẹp. Nếu vị ấy không chấp nhận như thế, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở bàn chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: - ‘Bạch các ngài, tôi đă phạm tội tên (như vầy), tôi xin tŕnh tội ấy.’
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) nhớ được, bộc lộ ra, nói ra bằng lời, tŕnh ra sự phạm tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi nên ghi nhận tội của vị tỳ khưu tên (như vầy).’
Vị ấy nên nói rằng: - ‘Đại đức có nhận thấy (tội) không?’ -Thưa có, tôi nhận thấy.’ - ‘Đại đức hăy thu thúc trong tương lai.’
Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và việc phán xử theo tội đă được thừa nhận. Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya; (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
*****
CÁCH DÙNG CỎ CHE LẤP
60. Nếu sự tranh tụng liên quan đến tội không đi đến một cách dàn xếp là việc phán xử theo tội đă được thừa nhận th́ có thể được lắng dịu bằng hai cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách dùng cỏ che lấp hay không? - Nên trả lời rằng: ‘Có thể.’
Như vậy là thế nào? - Trường hợp các tỳ khưu trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hành. Trong trường hợp ấy nếu các tỳ khưu (nghĩ) như vầy: ‘Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, có nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hành. Nếu chúng ta xử lư lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy c̣n có thể đưa đưa đến lủng củng, đưa đến sôi động, đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa.’ Này các tỳ khưu, ta cho phép giải quyết sự tranh tụng có h́nh thức như thế bằng cách dùng cỏ che lấp.
Và này các tỳ khưu, nên giải quyết như vậy: Tất cả nên tụ họp lại một chỗ; sau khi tụ họp lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hành. Nếu chúng ta xử lư lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy c̣n có thể đưa đến lủng củng, đưa đến sôi động, đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải quyết sự tranh tụng này bằng cách dùng cỏ che lấp, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.’
Một vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về một phe nên thông báo đến phe của ḿnh rằng: ‘Bạch chư đại đức, xin hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn bằng lời nói và hành động đă được thực hành. Nếu chúng ta xử lư lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy c̣n có thể đưa đến lủng củng, đưa đến sôi động, đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đại đức, tôi sẽ tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính chư đại đức và tội của tôi v́ sự lợi ích của chính chư đại đức và v́ sự lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.’
Rồi một vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về phe kia nên thông báo đến phe của ḿnh rằng: ‘Bạch chư đại đức, xin hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, ―(như trên)― tôi sẽ tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng ―(như trên)― ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ.’
Sau đó, hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về một phe rằng:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, nhiều việc không xứng là Sa-môn ―(như trên)― đă được thực hành. Nếu chúng ta xử lư lẫn nhau bằng các tội này, sự tranh tụng ấy c̣n có thể đưa đến lủng củng, đưa đến sôi động, đưa đến chia rẽ (hội chúng) nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi xin tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính các đại đức này và tội của tôi v́ sự lợi ích của chính các đại đức này và v́ sự lợi ích của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, ―(như trên)― tôi xin tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính các đại đức này và tội của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đại đức nào đồng ư việc tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng đối với các tội này của chúng tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ, xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Các tội này của chúng tôi đă được tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’
Rồi hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực trong số các tỳ khưu cùng thuộc về phe kia rằng:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, ―(như trên)― tôi xin tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng ―(như trên)― ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Chúng ta trong khi sống có nảy sinh các sự xung đột, các sự gây gỗ, đưa đến tranh căi, ―(như trên)― tôi xin tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng tội của chính các đại đức này và tội của tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Đại đức nào đồng ư việc tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng đối với các tội này của chúng tôi, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ, xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Các tội này của chúng tôi đă được tŕnh báo bằng cách dùng cỏ che lấp giữa hội chúng, ngoại trừ trường hợp có lỗi nghiêm trọng, ngoại trừ trường hợp có liên quan đến cư sĩ. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’
61. Này các tỳ khưu, điều ấy được gọi là sự tranh tụng đă được giải quyết. Được giải quyết nhờ vào điều ǵ? - Nhờ vào cách hành xử Luật với sự hiện diện và cách dùng cỏ che lấp.
Và ở đây, điều ǵ là ở trong cách hành xử Luật với sự hiện diện? - Sự hiện diện của hội chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của nhân sự.
Và ở đây, sự hiện diện của hội chúng là ǵ? - Các tỳ khưu theo số lượng cần thiết cho hành sự đă đi đến, sự tùy thuận của các vị xứng đáng gởi sự tùy thuận đă được đem lại, các vị hiện diện không phản đối; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của hội chúng. Và ở đây, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật là ǵ? - Với Pháp nào, với Luật nào, với lời giảng dạy nào của bậc Đạo Sư sự tranh tụng ấy được giải quyết; ở đây điều ấy là sự hiện diện của Pháp, là sự hiện diện của Luật. Và ở đây, sự hiện diện của nhân sự là ǵ? - Vị khai báo (tội) và vị chứng minh vị ấy khai báo (tội), cả hai đều hiện diện; ở đây, điều ấy là sự hiện diện của nhân sự.
Và ở đây, điều ǵ là ở trong việc dùng cỏ che lấp? - Điều nào là sự thực hiện, sự hành động, sự đạt đến, sự thỏa thuận, sự chấp nhận, sự không phản đối thuộc về hành sự dùng cỏ che lấp; ở đây điều ấy là ở trong việc dùng cỏ che lấp. Này các tỳ khưu, nếu có vị khơi lại sự tranh tụng đă được giải quyết như thế, vị khơi lại phạm tội pācittiya; (nếu) vị gởi thỏa thuận phê phán, vị phê phán phạm tội pācittiya.
Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được lắng dịu bởi bao nhiêu cách dàn xếp? - Sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ được lắng dịu bởi một cách dàn xếp: bằng cách hành xử Luật với sự hiện diện.”
Dứt Chương Dàn Xếp là thứ tư.
--ooOoo--
[1] Câu chuyện này được thấy ở điều học saṅghādisesa 8 nhưng đoạn kết khác biệt (TTPV 01, trang 416-425). [2] Ngài Buddhaghosa giải thích cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ này nên cho đến chính vị có các lậu hoặc đă được đoạn diệt, không cho đến vị khác ngay cả vị Bất Lai (Sđd. 1192). [3] na gatigataṃ hoti: Ngài Buddhaghosa giải thích rằng sự tranh tụng ấy chưa được đưa đến hai ba trú xứ, tại nơi ấy hoặc tại chính nơi kia chưa được phán xét hai ba lần (VinA. vi, 1192). [4] Lỗi nghiêm trọng là tội pārājika và tội saṅghādisesa (VinA. vi, 1194). [5] Tội không c̣n dư sót là nhóm tội pārājika. Tội c̣n dư sót là sáu nhóm tội c̣n lại (VinA. vii, 1319). [6] Năm nhóm tội là: pārājika, saṅghādisesa, nissaggiya pācittiya, pācittiya, và dukkaṭa. [7] Thêm vào thullaccaya và dubbhāsita là bảy. [8] Hành sự công bố hành xử năm trường hợp: Sự phục hồi, sự đuổi đi, hành sự cạo tóc (bhaṇḍukamma), h́nh phạt Brahma (Phạm Đàn), và hành sự có sự khác biệt về tướng trạng là thứ năm (xem Parivāra 2 - Tập Yếu 2, TTPV 09, trang 306). [9] Đây là nghệ thuật chơi chữ: Nghĩa căn bản của từ āpatti là “sự đạt đến,” nghĩa thông dụng là “sự phạm tội, hay tội vi phạm.” Trường hợp hai hợp từ là sotāpatti (sota-āpatti) và samāpatti (sam-āpatti) do được ghép với tiếp vĩ ngữ āpatti. Từ sotāpatti có ư nghĩa là sự đạt đến ḍng chảy, sự tiến vào ḍng Thánh, tức là quả vị Nhập Lưu; c̣n từ samāpatti có ư nghĩa là sự đạt đến trọn vẹn, sự tự ḿnh đạt đến, dịch là sự chứng đạt. Do không phải là sự phạm tội nên không liên quan đến sự tranh tụng. Đoạn văn này không thể diễn đạt trọn vẹn sang tiếng Việt (ND).
|
|||