IV.
CATUKKANIPĀTO - NHÓM BỐN KỆ NGÔN
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 162: |
Trang 163:
|
▪ 1. VIVARAVAGGO
|
▪ 1. PHẨM HĂY MỞ
RA |
CHƯƠNG BỐN
(Bốn bài kệ)
(Gs. Trần Phương Lan) |
508. Vivaratha imāsaṃ dvāraṃ
nagaraṃ pavisituṃ mayā,
aruṇarājassa sīhena susiṭṭhena surakkhitaṃ nandisenena.
|
508. “Các ngươi hăy mở cổng thành
cho các nàng này đi vào thành phố đă khéo được bảo vệ bởi ta,
Nandisena, sư tử nhân đă khéo được huấn luyện của đức vua Aruṇa.
|
Hăy mở cổng cho các nàng thiếu
nữ,
Chúng ta đây đă giữ chắc được thành,
Nan-di-se-na sức lực vững vàng
Sư tử của vua A-ru-na đó. |
509. Jayo kaliṅgānaṃ
asayhasāhinaṃ
parājayo anayo assakānaṃ,
icceva te bhāsitaṃ brahmacārī
na ujjubhūtā vitathaṃ bhaṇanti.
|
509. “‘Chiến thắng là thuộc về
quân của vua Kaliṅga có sức chịu đựng điều không thể chịu đựng;
và sự chiến bại, sự thiệt tḥi, là thuộc về quân của vua
Assaka,’ y như lời đă nói của ngài. Các bậc hành Phạm hạnh là
những người ngay thẳng, không nói sái quấy.” |
Quân Kà-lin-ga kiên cường
thắng lợi
Quân As-sa-ka thất bại ê chề?
Ẩn giả ơi ngài đă nói tôi nghe.
Người chân thật chớ bao giờ nói dối. |
510. Devā musāvādamupātivattā
saccaṃ dhanaṃ paramaṃ tesu sakka,
taṃ te musābhāsitaṃ devarāja
kiṃ vā paṭicca maghavā mahinda.
|
510. “Chư Thiên đă đạt đến và
vượt qua việc nói lời dối trá.
Thưa Sakka, chân thật là tài sản tối thượng của các vị ấy.
Thưa vị Chúa của chư Thiên, điều ấy của ngài đă được nói dối trá
là bởi v́ lư do ǵ, thưa vị Đại Thiên Chủ Maghavā?” |
Quí nhất của thần linh là chân
thật
Các vị thần chẳng chịu nói sai ngoa,
Thế mà nay, ngài nói dối, Sak-ka,
Xin ngài nói lư do cho tôi biết. |
511. Nanu te sutaṃ brāhmaṇa
bhaññamāne
devā na issanti purisaparakkamassa,
damo samādhi manaso adejjho
avyaggatā nikkhamanañca kāle,
daḷhañca viriyaṃ purisaparakkamo ca
teneva āsi vijayo assakānan ”ti.
1. Cullakāliṅgajātakaṃ.
|
511. “Này Bà-la-môn, chẳng phải
ông đă nghe điều được nói rằng:
‘Chư Thiên không ganh tỵ đối với sự gắng sức của con người’?
Sự tinh luyện, sự tập trung, tâm ư không bị phân tán,
trạng thái không nao núng và sự xuất quân đúng thời điểm,
sự vững chăi, sự tinh tấn, và sự gắng sức của con người,
chính v́ thế, sự thắng trận đă có cho quân của vua Assaka.”
1. Bổn sanh Vua Cullakāliṅga.
|
Bà-la-môn, há chẳng nghe:
Thần linh nào chẳng yêu v́ hùng anh?
Những người dũng cảm, to gan
Ở nơi chiến trận chiếm phần thắng ngay.
Kiên cường mạo hiểm dạn dày,
As-sa-ka thắng trận này đúng thôi.
Câu chuyện
301 |
512. Adeyyesu dadaṃ dānaṃ deyyesu
nappavecchati,
āpāsu vyasanaṃ patto sahāyaṃ nādhigacchati.
|
512. “Trong khi cho vật thí ở
những người không đáng cho, và không cho ở những người đáng cho,
trong những lúc rủi ro, bị lâm vào cảnh bất hạnh, sẽ không đạt
được người giúp đỡ. |
Giúp cho kẻ dại người ngoa
Đến khi khẩn cấp, ai mà cứu cho? |
513. Nādeyyesu dadaṃ dānaṃ
deyyesu yo pavecchati,
āpāsu vyasanaṃ patto sahāyamadhigacchati.
|
513. Trong khi không cho vật thí
ở những người không đáng cho, và người nào cho ở những người
đáng cho, trong những lúc rủi ro, bị lâm vào cảnh bất hạnh, sẽ
đạt được người giúp đỡ.
|
Thi ân cho kẻ hiền ḥa,
Đến khi khẩn cấp, người đà giúp ngay. |
Trang 164: |
Trang 165:
|
514.
Saññogasambhogavisesadassanaṃ.
anariyadhammesu saṭhesu nassati,
katañca ariyesu ca añjasesu ca
mahapphalaṃ hoti aṇumpi tādisu.
|
514. Sự gắn bó, sự thọ hưởng
chung, sự đánh giá cao ở những kẻ không có tính chất thánh
thiện, ở những kẻ xảo trá sẽ bị tiêu hoại. Và việc đă được làm ở
những người thánh thiện, ở những người chính trực, ở những người
như thế ấy, dầu nhỏ bé cũng có quả báu lớn lao. |
Bao nhiêu công của dù dày,
Giúp cho kẻ xấu, cũng tày như không.
Những ai là kẻ có ḷng
Ta tuy giúp ít mà công được bền. |
515. Yo pubbe katakalyāṇo akā
loke sudukkaraṃ,
pacchā kayirā na vā kayirā accantaṃ pūjanāraho ”ti.
2. Mahā-assārohajātakaṃ.
|
515. Người đă tạo việc thiện
trước đây là người đă làm công việc vô cùng khó làm ở thế gian,
về sau, dầu có làm hay không làm, người ấy vẫn xứng đáng sự cúng
dường tuyệt đối.”
2. Bổn sanh Vị Đại Kỵ Sĩ.
|
Một lần việc nghĩa gây nên,
Ngai vàng xứng giá đáp đền cung nghênh.
Như từ mầm nhỏ, tái sinh trái;
Từ hành vi tốt, hiển vinh đời đời.
Câu chuyện
302 |
516. Anuttare kāmaguṇe samiddhe
bhutvāna pubbe vasi ekarājā,
sodāni dugge narakamhi khitto
nappajahe vaṇṇabalaṃ purāṇaṃ.
|
516. “Này Ekarāja, trước đây ngài
đă sống và đă thọ hưởng các loại dục vô thượng đă được thành tựu
cho bản thân. Bây giờ, ngài đây đă bị ném vào cảnh giam cầm khó
di chuyển, ngài vẫn không đánh mất vẻ đẹp và sức mạnh trước
kia.” |
Xưa Đại vương sống trong vương
quốc
Hưởng bao nhiêu hạnh phúc, ai bằng!
Mặt ngài sao quá khinh an
Giữa cơn địa ngục nhọc nhằn đớn đau? |
517. Pubbeva khantī ca tapo ca
mayhaṃ
sampatthitā dabbasenā ahosi,
taṃdāni laddhāna kathannu rāja
jahe ahaṃ vaṇṇabalaṃ purāṇaṃ.
|
517. “Ngay trước đây, sự nhẫn nại
và khổ hạnh đă được ta mong ước, này Dabbasena. Bây giờ, sau khi
đă đạt được điều ấy, này đức vua, làm thế nào ta lại có thể đánh
mất vẻ đẹp và sức mạnh trước kia? |
Xưa ta đă nguyện cùng trời đất
Nhập vào hàng ẩn dật, chẳng dừng.
Ta nay vinh hiển sáng lừng,
Mặt ta há lại ra tuồng héo hon? |
518. Sabbaṃ kireva pariniṭṭhitāni
yasassinaṃ paññavantaṃ visayha,
yaso ca laddhā purimaṃ uḷāraṃ
nappajahe vaṇṇabalaṃ purāṇaṃ.
|
518. Quả thật thế, tất cả đều
được hoàn thành sau khi đă chứng tỏ là người có danh vọng, có
trí tuệ. Và sau khi đă đạt được danh vọng cao cả chưa đạt được
trước đây, ta không thể nào đánh mất vẻ đẹp và sức mạnh trước
kia. |
Đạt cứu cánh, ta tṛn bổn phận,
Vua thù ta c̣n hận ta đâu?
Vinh danh, ta đạt mong cầu,
Mặt ta há lại đổi màu xấu xa? |
519. Panujja dukkhena sukhaṃ
janinda
sukhena vā dukkhamasayhasāhi,
ubhayattha santo abhinibbutattā
sukhe ca dukkhe ca bhavanti tulyā ”ti.
3. Ekarājajātakaṃ.
|
519. Này quân vương, sau khi đổi
thay hạnh phúc bằng khổ đau,
hoặc khổ đau bằng hạnh phúc, hăy chịu đựng điều không thể chịu
đựng.
Ở cả hai trường hợp, những người an tịnh, có bản thân tịch tịnh,
đều thản nhiên ở hạnh phúc và ở khổ đau.”
3. Bổn sanh Vua Ekarāja.
|
Khi vui sướng chuyển ra khổ cực,
Kẻ bền ḷng lọc được an khang.
Khổ, vui, nào phải hai đàng,
Khi người đời đạt Niết-bàn tịch không.
Câu chuyện
303 |
520. Imāni maṃ daddara tāpayanti
vācāduruttāni manussaloke,
maṇḍūkabhakkhā udakantasevī
āsīvisaṃ maṃ avisā sapanti.
|
“Này anh
Daddara, những lời nói lăng mạ này ở thế giới loài người làm em
bực bội: ‘Những kẻ có thức ăn là ếch, những kẻ lai văng ở mép
nước.’ Những kẻ không có nọc độc chưởi rủa em, là rắn có nọc
độc.” |
Dad-da-ra, ai mà chịu nỗi
Chúng nhiếc ta: " Ăn nhái, ở bùn"
Bọn kia khờ dại đáng thương,
Trước nanh rắn độc, dám nhờn mặt sao? |
Trang 166: |
Trang 167:
|
521. Sakā raṭṭhā pabbājito aññaṃ
janapadaṃ gato,
mahantaṃ koṭṭhaṃ kayirātha duruttānaṃ nidhetave.
|
521. “Người bị trục xuất khỏi đất
nước của ḿnh và đi đến một xứ sở khác, nên tạo ra một kho chứa
lớn để chứa đựng những lời nói lăng mạ. |
Kẻ lưu đầy bị vào chốn lạ
Phải chịu bao nhục mạ tân toan
|
522. Yattha posaṃ na jānanti
jātiyā vinayena vā,
na tattha mānaṃ kayirātha vasamaññātake jane.
|
522. Ở nơi nào người ta không
biết về ḍng dơi hoặc về tư cách của ḿnh, ở nơi ấy, không nên
tỏ ra ngă mạn trong khi sống với người không biết về ḿnh.
|
Bậc hàng giai cấp ta mang,
Hạnh hiền đức độ há từng ai hay?Kẻ ngu muốn tỏ bày ra dáng
Rằng ta đây là hạng cao vời. |
523. Videsavāsaṃ vasato
jātavedasamenapi,
khamitabbaṃ sapaññena api dāsassa tajjitan ”ti.
4. Daddarajātakaṃ.
|
523. Người đang sống lưu trú ở
nước ngoài, dầu là (chói sáng) như là ngọn lửa, với trí tuệ của
ḿnh cũng nên nhẫn nhịn sự công kích của kẻ hạ cấp.”
4. Bổn sanh Con Rắn Daddara.
|
Trong nhà dù sáng như trời,
Ra ngoài phải chịu đựng người hạ lưu.
Câu chuyện
304 |
524. Natthi loke raho nāma
pāpakammaṃ pakubbato,
passanti vanabhūtāni taṃ bālo maññatī raho.
|
524. “Không có việc gọi là kín
đáo ở thế gian đối với kẻ đang làm việc ác. Các sinh linh ở
trong rừng nh́n thấy việc mà kẻ ngu nghĩ là kín đáo. |
Thật ra chẳng việc nào tội lỗi
Lại kín bưng đối với đời này.
Kẻ ngu tưởng kín đáo thay,
Thần linh cũng đă thấy ngay hết rồi. |
525. Ahaṃ raho na passāmi suññaṃ
vāpi na vijjati,
yattha aññaṃ na passāmi asuññaṃ hoti taṃ mayā.
|
525. Con không nh́n thấy nơi nào
kín đáo, hoặc nơi trống vắng cũng không t́m thấy. Nơi nào con
không nh́n thấy người nào khác, nơi ấy là không trống vắng bởi
v́ con (có mặt ở đó).” |
Điều bí mật chẳng nơi giấu
được,
Với tôi đây không nốt cái không.
Ở nơi chẳng có ai cùng
Nhưng tôi có đó, hết luôn không rồi! |
526. Dujjacco ca sujacco ca nando
ca sukhavacchako,
vejjo addhuvasīlo ca te dhammaṃ jahumatthikā.
|
526. “Dujjacca, Sujacca, Nanda,
Sukhavacchaka, Vejja, và Addhuvasīla, tất cả bọn chúng, với mục
đích (đạt được vợ), đă từ bỏ nguyên tắc đạo đức. |
Cậu Hoang, cậu Khánh, cậu Vui
Lại thêm cậu Dễ, cậu Tồi, cậu Vinh
Thảy mong được vợ cho ḿnh
Lầm đường lạc nẻo mà thành lông bông. |
527. Brāhmaṇe ca kathaṃ jahe
sabbadhammānapāragū,
yo dhammamanupāleti dhitimā saccanikkamo ”ti.
5. Sīlavīmaṃsajātakaṃ.
|
527. Và làm thế nào vị Bà-la-môn
có thể từ bỏ (mục đích đạt được vợ)? Vị đă đi đến bờ kia đối với
tất cả các pháp là người ǵn giữ nguyên tắc đạo đức, có nghị
lực, có sự nỗ lực v́ chân lư.”
5. Bổn sanh Suy Xét Về Giới.
|
Thấy rơ Pháp từ trong tuổi
trẻ,
Luôn chấp tŕ Chân đế mà thôi.
Do ḷng can đảm cao vời,
Bà-la-môn lấy được người vợ kia.
Câu chuyện
305 |
528. Kiṃ aṇḍakā ime deva
nikkhittā kaṃsamallake,
upalohitakā vaggu taṃ me akkhāhi pucchito.
|
528. “Tâu bệ hạ, những trái này,
như những quả trứng, có tên là ǵ? Chúng được đặt ở mâm đồng, có
màu đỏ tựa máu, xinh tươi. Được thiếp hỏi, xin bệ hạ hăy nói về
nó.” |
Dáng như cái trứng, cái ǵ đây
Trong đĩa vàng kia đặt trước ngài,
Sắc đỏ xinh thay - Tâu thánh thượng,
Trái cây này mọc ở đâu vầy? |
529. Yāni pure tvaṃ devi bhaṇḍu
nantakavāsinī,
ucchaṅgahatthā pacināsi tassā te koliyaṃ phalaṃ.
|
529. “Này hoàng hậu, nàng trước
kia, đầu cạo, mặc y phục tàn tạ, dùng cánh tay thu gom chúng vào
ḷng, là trái táo của nàng đấy. |
Áo quần mộc mạc, đầu không
măo,
Ngày ấy nào cô hổ thẹn đâu?
Vạt áo đựng đầy bao trái táo,
Bây giờ lại hỏi trái cây nào! |
530. Uḍḍayhate na ramati bhogā
vippajahanti taṃ,
tatthevimaṃ paṭinetha yattha kolaṃ pacissati.
|
530. ‘Nàng này kiêu ngạo nên
không vui thích, các của cải rời bỏ nàng ấy.’ Các ngươi hăy đưa
nàng này về lại đúng nơi mà nàng sẽ thu gom trái táo.”
|
Cô quá tự cao, hư hỏng ra,
Đời cô chẳng thấy thú đâu mà!
Đi đi, táo ấy, lui về lượm,
Cô chẳng c̣n là vợ của ta. |
Trang 168:
|
Trang 169:
|
531. Honti hete mahārāja
iddhippattāya nāriyā,
khama deva sujātāya māssā kujjhi rathesabhā ”ti.
6. Sujātājātakaṃ.
|
531. “Tâu đại vương, những người
phụ nữ này quả là do đă đạt được uy quyền. Tâu bệ hạ, xin hăy
tha thứ cho nàng Sujātā. Tâu đấng thủ lănh xa binh, xin ngài chớ
nổi giận đối với nàng ấy.”
6. Bổn sanh Nàng Sujātā.
|
Đây là tội của người phụ nữ
Tăng trưởng theo ngôi thứ mà ra.
Xin ngài thôi giận, thứ tha,
V́ ngài đă tặng cho bà ngôi cao.
Câu chuyện
306 |
532. Acetanaṃ brāhmaṇa assuṇantaṃ
jāno ajānantamimaṃ palāsaṃ,
āraddhaviriyo dhuvaṃ appamatto
sukhaseyyaṃ pucchasi kissa hetu.
|
532. “Này Bà-la-môn,
trong khi biết rằng cây palāsa
này là không có tâm tư, không nghe được, không nhận biết, có sự
ngủ nghê thoải mái, ngươi vẫn nỗ lực ra sức, thường xuyên, không
xao lăng hỏi han nó, vậy điều ǵ là nguyên nhân?”
|
Bà-la-môn, sao người có trí
Lại hỏi han cây chỉ vô tri?
Lời cầu, lời chúc ra chi!
Cây trong thảm ấy đáp ǵ người đâu! |
533. Dūre suto ceva brahā ca
rukkho
dese ṭhito bhūtanivāsarūpo,
tasmā namassāmi imaṃ palāsaṃ
ye cettha bhūtā te ca dhanassa hetu.
|
533. “Được nghe tiếng
là ở nơi xa xôi và to lớn, cây này đứng thẳng ở khu đất bằng, có
vẻ là nơi trú ngụ của chư Thiên. V́ thế, tôi kính lễ cây
palāsa này, và tài sản của chư
Thiên ngụ ở nơi này là nguyên nhân.” |
Cây nổi tiếng từ lâu vẫn đứng
Chỗ an cư của những vị thần.
Thần kia tôi kính muôn vàn,
Chắc rằng thần giữ kho tàng nơi đây. |
534. So te karissāmi
yathānubhāvaṃ.
kataññutaṃ brāhmaṇa pekkhamāno,
kathaṃ hi āgamma sataṃ sakāse
moghāni te assu pariphanditāni.
|
534. “Này Bà-la-môn,
trong khi xem xét trạng thái biết ơn, ta đây sẽ làm cho ngươi
tùy theo năng lực. Bởi v́ làm thế nào để ngươi sau khi đi đến
gần bên những người tốt, những việc làm thành tín của ngươi
chẳng phải rỗng không? |
Bà-la-môn tâm đầy từ ái
Chính ta đây ghi lấy việc người
Hành vi sùng đạo trên đời,
Bao giờ kết quả cũng thời xứng cân. |
535. Yo tindurukkhassa paro
pilakkhū
parivārito pubbayañño uḷāro,
tasseva mūlasmiṃ nidhī nikhāto
ādāyādo gaccha taṃ uddharāhī ”ti.
7. Palāsajātakaṃ.
|
535. Ở phía trước của cây
tindu, có cây sung nào to lớn,
đă được rào quanh, trước đây có cuộc tế lễ, ở ngay gốc cây ấy có
của cải cất giữ đă được chôn giấu, không có người thừa tự, ngươi
hăy đi đến và lấy của cải ấy lên.”
7. Bổn sanh Cây
Palāsa.
|
Cây sung kia đổ tràn bóng mát
Xứng cùng bao tặng vật, cúng dường.
Dưới cây chôn một kho tàng
Phần người được thưởng, đào vàng mà xin.
Câu chuyện
307 |
536. Akaramhasa te kiccaṃ yaṃ
balaṃ ahuvamhase,
migarāja namo tyatthu api kiñci labhāmase.
|
536. “Chúng tôi đă làm phận sự
đối với ngài, việc ấy là khả năng của chúng tôi. Thưa chúa tể
của loài thú, xin kính lễ đến ngài. Mong rằng chúng tôi cũng
nhận được vật ǵ đó.” |
Bao nhiêu ḷng tốt trong tôi,
Tôi đây đă tỏ cho ngài lần kia.
Phần ngài chẳng nguyện cao xa,
Cho tôi đôi chút gọi là hảo tâm. |
537. Mama lohitabhakkhassa niccaṃ
ḷuddāni kubbato,
dantantaragato santo taṃ bahuṃ yampi jīvasi.
|
537. “Trong khi đi vào bên trong
hàm răng của ta,–kẻ có thức ăn vấy máu, thường xuyên gây nên các
việc tàn bạo,–việc bạn vẫn sống c̣n là (đă nhận được) nhiều rồi
đấy.” |
Ngươi gởi đầu vào hàm Sư tử
Loài vuốt nanh rực thứ máu hồng
Nhưng ngươi vẫn sống như thường:
Hảo tâm ta đă tỏ tường cho ngươi. |
538. Akataññumakattāraṃ katassa
appatikārakaṃ,
yasmiṃ kataññutā natthi niratthā tassa sevanā.
|
538. “Không có sự đền đáp đến
người đă làm cho kẻ không biết ơn, cho kẻ không làm . Ở kẻ nào
không có sự biết ơn, phục vụ kẻ ấy là không có lợi ích. |
Bao việc tốt trên đời
Thi hành để giúp ngươi.
Giúp loài vô ơn nghĩa
Mong chi được đền bồi? |
539. Yassa sammukhaciṇṇena
mittadhammo na labbhati,
anusuyyam anakkosaṃ saṇikaṃ tamhā apakkame ”ti.
8. Javasakuṇajātakaṃ.
|
539. Với công đức đă làm trực
tiếp đến kẻ nào, mà pháp thân hữu không đạt được, th́ nên mau
chóng rời xa kẻ ấy, không phật ḷng, không sỉ vả.”
8. Bổn sanh Chim Gơ Kiến.
|
Đừng khởi ư chua cay
Đừng buông lời gắt gay.
Phường xấu xa như thế,
Ta cần lánh xa ngay!
Câu chuyện
308 |
Trang 170: |
Trang 171: |
540. Sabbamidaṃ carimavataṃ ubho
dhammaṃ na passare,
ubho pakatiyā cutā yo cāyaṃ sajjhāpayati,
yo ca dhammaṃ adhīyati.
|
540. “Toàn bộ việc này là sự thọ
tŕ thời cận đại, cá hai không nh́n thấy pháp, cả hai đă bị lệch
ra khỏi lề thói, người này dạy (ngồi chỗ thấp), và người học
pháp (ngồi chỗ cao).” |
Thưa Đạo sư, thưa Vương đệ tử,
Tôi thấy kia mọi sự lỗi lầm,
Hai ngài đọa khỏi thiên ân,
Hai ngài giới luật đều làm sai hư. |
541. Sālīna bhojanaṃ bhuñje suciṃ
maṃsūpasevanaṃ,
tasmā etaṃ na sevāmi dhammaṃ isīhi sevitaṃ.
|
541. “Ta thọ thực bữa ăn với gạo
sālī, có trộn lẫn thịt tinh khiết. V́ thế, ta không thực hành
việc ấy, là pháp mà các vị ẩn sĩ phụng sự.” |
Gạo ta ăn lấy từ đồi nọ
Mùi thơm ngon như có thịt vào.
Kẻ kia tội lỗi, tại sao
Thánh đang dùng bữa, lại rao giới điều? |
542. Paribbaja mahā loko
pacantaññepi pāṇino,
mā taṃ adhammo ācarito asmā kumbhamivābhidā.
|
542. “Ngài hăy ra đi, thế gian là
to lớn, dầu cho các sinh mạng khác bị đọa đày. Ngài chớ thực
hành việc phi pháp, tựa như ḥn đá làm vỡ cái chum. |
Hăy dọc ngang mọi chiều mặt
đất,
Bà-la-môn, người sẽ thấy ra
Xem kia, đau khổ ấy là
Số phần chung của người ta trên đời. |
543. Dhiratthu taṃ yasalābhaṃ
dhanalābhañca brāhmaṇa,
yā vutti vinipātena adhammacaraṇena vā ”ti.
9. Chavakajātakaṃ.
|
543. Này Bà-la-môn, thật xấu hổ
thay sự đạt được danh vọng và sự đạt được tài sản ấy, đó là hành
vi với sự bị rơi vào đọa xứ (trong tương lai) hoặc với sự thực
hành sai trái (trong hiện tại).”
9. Bổn sanh Kẻ Cùng Đinh.
|
Do tội lỗi, đời người tàn ố
Giá c̣n thua mảnh vỡ chiếc b́nh
Coi chừng tham ư, dục t́nh,
Chúng đưa tới cơi khổ h́nh đau thương.
Câu chuyện
309 |
544. Sasamuddapariyāyaṃ mahiṃ
sāgarakuṇḍalaṃ,
na icche sahanindāya evaṃ sayha vijānahi.
|
544. “Ta không mong muốn vùng đất
có sự bao quanh của biển cả, có biển là ṿng đai, cùng với lời
chê bai. Này Sayha, ông hăy nhận biết như vậy. |
Trên đời chẳng ngai vàng,
vương quốc
Chiếm ḷng ta, gây nhục ta nào! |
545. Dhiratthu taṃ yasalābhaṃ
dhanalābhañca brāhmaṇa,
yā vutti vinipātena adhammacaraṇena vā.
|
545. Này Bà-la-môn, thật xấu hổ
thay sự đạt được danh vọng và sự đạt được tài sản ấy, đó là hành
vi với sự bị rơi vào đọa xứ (trong tương lai) hoặc với sự thực
hành sai trái (trong hiện tại). |
Xấu thay, danh lợi mong cầu
Đưa người vào cảnh khổ đau ngập tràn.
|
546. Api ce pattamādāya anāgāro
paribbaje,
sāyeva jīvikā seyyo yā cādhammena esanā.
|
546. Hơn nữa, nếu cầm lấy b́nh
bát, ra đi, sống không nhà, chính sự nuôi mạng ấy là tốt hơn
việc tầm cầu không đúng pháp. |
Kiếp không nhà lang thang đây
đó,
Cầm bát xin nhà nọ nhà kia, |
547. Api ce pattamādāya anāgāro
paribbaje,
aññaṃ ahiṃsayaṃ loke api rajjena taṃ varan ”ti.
10. Sayhajātakaṃ.
|
547. Hơn nữa, nếu cầm lấy b́nh
bát, ra đi, sống không nhà, trong khi không hăm hại người khác ở
thế gian, thậm chí điều ấy c̣n cao quư hơn cả vương quốc.”
10. Bổn sanh Quan Đại Thần Sayha.
|
Hơn làm vua, tạo phiền hà,
Trị v́ độc đoán theo đà ác tham.
Câu chuyện
310
|
Vivaravaggo paṭhamo.
*****
|
Phẩm Hăy
Mở Ra là thứ nhất.
*****
|
TASSUDDĀNAṂ
Vivarañca adeyyasamiddhavaraṃ
atha daddarapāpamahātiraho,
atha kolipalāsavarañca kara
carimaṃ sasamuddavarena dasa.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Việc mở ra, người không đáng cho, và chuyện đă được thành tựu,
rồi con rắn Daddara, nơi vô cùng kín đáo cho việc làm ác,
rồi trái táo, và chuyện cây palāsa, chúng tôi đă làm,
thời cận đại, với chuyện có biển cả bao quanh, là mười.
--ooOoo--
|
Trang 172: |
Trang 173: |
▪ 2.
PUCIMANDAVAGGO |
▪ 2. PHẨM CÂY
PUCIMANDA
|
CHƯƠNG BỐN
(Bốn bài kệ)
(Gs. Trần Phương Lan) |
548. Uṭṭhehi cora kiṃ sesi ko
attho supinena te,
mā taṃ gahesuṃ rājāno gāme kibbisakārakaṃ.
|
548. “Này kẻ trộm, hăy đứng lên.
Sao ngươi lại nằm? Lợi ích ǵ cho ngươi với việc ngủ mơ? Chớ để
những người của vua bắt được ngươi, kẻ gây ra tội lỗi ở trong
làng?” |
Anh trộm, dậy đi thôi,
Ngủ chi, gấp lắm rồi,
Người của vua sắp đến,
Tội anh họ quyết đ̣i. |
549. Yannu coraṃ gahessanti gāme
kibbisakārakaṃ,
kiṃ tattha pucimandassa vane jātassa tiṭṭhato.
|
549. “Phải chăng họ sẽ bắt được
kẻ trộm, kẻ gây ra tội lỗi ở trong làng? Trong trường hợp ấy,
việc ǵ đến cây Pucimanda đă được sanh ra và tồn tại ở trong
rừng?” |
Tên trộm táo gan ấy
Bị bắt hay thoát đi,
Thần cây Nimbo xin hỏi:
Với ngài, đâu khác chi? |
550. Na tvaṃ assattha jānāsi mama
corassa c’ antaraṃ,
coraṃ gahetvā rājāno gāme kibbisakārakaṃ,
appenti nimbasūlasmiṃ tasmiṃ me saṅkate mano.
|
550. “Này Thần cây Assattha, ngài
không biết về kết cuộc của tôi và của kẻ trộm: Sau khi bắt được
kẻ trộm, kẻ gây ra tội lỗi ở trong làng, những người của vua đem
treo gă ở cọc cây nimba vót nhọn; ư của tôi lo ngại về điều ấy.
|
Ngài đâu biết ta lo thầm kín:
Quân nhà vua sẽ đến nơi đây,
Bắt tên trộm, chặt cành cây
Phạt xiên tội phạm cây này c̣n chi! |
551. Saṅkeyya saṅkitabbāni
rakkheyyānāgataṃ bhayaṃ,
anāgatabhayā dhīro ubho loke avekkhatī ”ti.
1. Pucimandajātakaṃ.
|
551. Nên lo ngại về những điều
đáng lo ngại. Nên pḥng ngừa nỗi nguy hiểm ở tương lai. V́ sự
nguy hiểm trong tương lai, người sáng trí xem xét cả hai đời
(đời này và đời sau).”
1. Bổn sanh Cây Pucimanda.
|
Mối nguy chưa thấy, vẫn lo
ngay,
Cân nhắc so đo kẻo muộn thay.
Kẻ trí bao giờ trong hiện tại
Cũng nh́n t́nh trạng của tương lai.
Câu chuyện
311 |
552. Api kassapa mandiyā yuvā
sapati hanti vā,
sabbantaṃ khamate dhīro paṇḍito taṃ titikkhati.
|
552. “Này Kassapa, cũng v́ khờ
dại mà người trẻ tuổi chưởi rủa hoặc đánh đập. Bậc sáng trí tha
thứ mọi điều ấy, bậc sáng suốt nhẫn nhịn điều ấy. |
Nếu trẻ dại nói làm sai trái,
Phần người khôn nhẫn nại bền ḷng |
553. Sacepi santo vivadanti
khippaṃ sandhīyare puna,
bālā pattāva bhijjanti na te samathamajjhagū.
|
553. Thêm nữa, nếu những người
tốt tranh căi, họ cũng mau chóng hàn gắn lại. C̣n những kẻ ngu
bị tan ră, tựa như các b́nh bát đất; chúng không đạt đến sự ḥa
giải. |
Người hiền tranh căi chóng xong,
Kẻ rồ tan vỡ như ḥn đất khô.
|
554. Ete bhūyyo samāyanti sandhi
tesaṃ na jīrati,
yo cādhipannaṃ jānāti yo ca jānāti desanaṃ.
|
554. Người biết lỗi đă vi phạm và
người biết sự sám hối tội, những người này gặp gỡ nhau nhiều hơn
th́ sự liên kết giữa bọn họ không bị hư hoại. |
Kẻ cầu học biết cho ḿnh lỗi,
Chẳng hề phai, tỏ mối thân t́nh, |
555. Eso hi uttaritaro bhāravāho
dhurandharo,
yo paresādhipannānaṃ sayaṃ sandhātumarahatī ”ti.
2. Kassapamandiyajātakaṃ.
|
555. Người có khả năng tự ḿnh
ḥa giải các sự va chạm của những người khác, chính người ấy là
tốt hơn, với sự mang đi gánh nặng và sự nhận lănh trách nhiệm.”
2. Bổn sanh Kassapa và Kẻ Khờ Dại.
|
Như mang gánh của em anh,
Và làm nhẹ bớt xung quanh láng giềng.
Câu chuyện
312 |
556. Yo te hatthe ca pāde ca
kaṇṇanāsañca chedayi,
tassa kujjha mahāvīra mā raṭṭhaṃ vinassā idaṃ.
|
556. “Thưa đại dũng sĩ, người nào
đă ra lệnh chặt đứt hai tay, hai chân, tai và mũi của ngài, th́
ngài hăy nổi giận với người ấy, xin ngài chớ hủy diệt xứ sở
này.” |
Kẻ nào xéo mũi, cắt tai,
Cùng là chặt đứt của ngài tay chân.
Xin hờn kẻ ấy riêng phần,
Tâm hồn oanh liệt, xin đừng hờn chung! |
557. Yo me hatthe ca pāde ca
kaṇṇanāsañca chedayi,
ciraṃ jīvatu so rājā na hi kujjhanti mādisā.
|
557. “Người nào đă ra lệnh chặt
đứt hai tay, hai chân, tai và mũi của ta, mong rằng vị vua ấy
sống lâu, bởi v́ những người như ta không nổi giận.” |
Mong vua vẫn được mạng trường,
Tay hung hủy hoại chẳng thương thân này,
Nhưng ḷng thanh tịnh, ta đây,
Chẳng hề căm giận kẻ gây ác nào! |
558. Ahū atītamaddhānaṃ samaṇo
khantidīpano,
taṃ khantiyāyeva ṭhitaṃ kāsirājā achedayi.
|
558. “Vào thời quá khứ, đă có vị
Sa-môn với lời khen về kham nhẫn. Vua xứ Kāsi đă ra lệnh chém vị
đă trú vững ở chính sự kham nhẫn ấy.
|
Cổ thánh nhân - người đời
truyền tụng -
Vẫn tỏ ra đại dũng đại uy.
Thánh kia kham nhẫn kiên tŕ,
Bị vua của xứ Kà-si giết rồi. |
Trang 174: |
Trang 175:
|
559. Tassa kammassa pharusassa
vipāko kaṭuko ahu,
yaṃ kāsirājā vedesi nirayamhi samappito ”ti.
3. Khantivādijātakaṃ.
|
559. Quả thành tựu của hành động
thô bạo ấy đă là cay đắng, vua xứ Kāsi đă cảm thọ điều ấy khi bị
đọa vào địa ngục.”
3. Bổn sanh Vị Thuyết Về Nhẫn Nại.
|
Ôi món nợ chẳng hồi tiếc nuối,
Vua kia đành trả lại liền sau.
Tháng ngày ân hận dài lâu,
Một khi trú địa ngục sâu tận cùng.
Câu chuyện
313 |
560. Dujjīvitaṃ ajīvimha ye sante
na dadamhase,
vijjamānesu bhogesu dīpaṃ nākamha attano.
|
560. “Chúng tôi đă sống cuộc sống
xấu xa; trong khi hiện hữu, chúng tôi đă không bố thí. Trong khi
có các của cải, chúng tôi đă không xây dựng ḥn đảo cho bản
thân.” |
Đúng phần của, ta nào ban bố,
Lại sống đời nhiễm ố, tà gian,
Không t́m cứu rỗi vững vàng,
Giờ đây phước lạc một đường bay xa. |
561. Saṭṭhi vassasahassāni
paripuṇṇāni sabbaso,
niraye paccamānānaṃ kadā anto bhavissati.
|
561. “Trong khi bị nung nấu ở địa
ngục với mọi h́nh thức, tṛn đủ sáu chục ngàn năm, khi nào sẽ là
sự chấm dứt (cho chúng tôi)?” |
Sầu thảm thay, số này chịu cả
Đến khi nào buông thả ra cho?
Qua vô số kiếp khôn ḍ
Cực h́nh địa ngục bao giờ ngưng đâu! |
562. Natthi anto kuto anto na
anto patidissati,
tadā hi pakataṃ pāpaṃ mamaṃ tuyhañca mārisā.
|
562. “Không có sự chấm dứt. Do
đâu có sự chấm dứt? Sự chấm dứt không được nh́n thấy. Này các
ông, bởi v́ khi ấy, tội ác của tôi và của ông đă được làm ra.” |
Nào dứt được khổ sầu đau đớn,
Số phận kia đă gán cho ta,
Ở trần gian tạo ác ra,
Chính phần ta phải nhận mà đền đây. |
563. Sohaṃ nūna ito gantvā yoniṃ
laddhāna mānusiṃ,
vadaññū sīlasampanno kāhāmi kusalaṃ bahun ”ti.
4. Lohakumbhijātakaṃ.
|
563. “Chắc chắn rằng tôi đây, sau
khi từ nơi này ra đi nhập vào tử cung của người nữ, tôi sẽ là
người hào phóng, có đầy đủ giới hạnh, và sẽ làm nhiều việc
thiện.”
4. Bổn sanh Địa Ngục Chậu Đồng.
|
Số phận này một mai thoát nhẹ,
Mang kiếp người, ta sẽ vươn lên,
Quyết làm nhiều việc thiện hiền,
Bằng công đức tự trang nghiêm lấy ḿnh.
Câu chuyện
314 |
564. Pharusā vata te vācā maṃsaṃ
yācanako asi,
kilomasadisī vācā kilomaṃ samma dadāmi te.
|
564. “Lời nói của bạn quả thật là
thô lỗ, và bạn là người xin thịt. Lời nói có sự tương đương với
miếng bạc nhạc, này bạn, ta cho bạn miếng bạc nhạc.” |
Đối với kẻ cầu xin ân huệ,
Lời sao thô lỗ thế bạn ơi?
Món thô xứng đáng cùng lời,
Chỉ xương da đấy, thứ tôi treo này. |
565. Aṅgametaṃ manussānaṃ bhātā
loke pavuccati,
aṅgassa sadisī vācā aṅgaṃ samma dadāmi te.
|
565. “Tay chân này là thuộc về
con người, ở thế gian gọi là anh em. Lời nói có sự tương đương
với tay chân, này bạn, ta cho bạn phần thịt đùi.” |
Tên người anh, mối dây mạnh mẽ
Nối t́nh thân những kẻ với nhau...
Lời hay của bạn vừa trao
Khiến tôi tặng chỗ nối vào hai xương. |
566. Tātāti putto vadamāno
kampeti hadayaṃ pitu,
hadayassa sadisī vācā hadayaṃ samma dadāmi te.
|
566. “Người con trai trong khi
nói ‘cha ơi’ làm rung động trái tim người cha. Lời nói có sự
tương đương với trái tim, này bạn, ta cho bạn trái tim.” |
Tim người cha xót thương động
chuyển
Khi nghe kêu lên tiếng "cha thân"!
Đáp lời bạn khẩn cầu ân,
Trái tim nai đấy tôi mang tặng liền. |
567. Yassa gāme sakhā natthi
yathāraññaṃ tatheva taṃ,
sabbassa sadidī vācā sabbaṃ samma dadāmi te ”ti.
5. Maṃsajātakaṃ.
|
567. “Đối với người nào không có
bạn bè ở trong làng, nơi ấy giống y như khu rừng. Lời nói có sự
tương đương với tất cả, này bạn, ta cho bạn tất cả.”
5. Bổn sanh Miếng Thịt. |
Tôi dám nghĩ: cuộc đời không
bạn
Chắc phải là hoang vắng đ́u hiu!
Gồm trong tiếng "bạn" niềm yêu,
Nên tôi tặng hết bao nhiêu thịt này.
Câu chuyện
315 |
568. Satta me rohitā macchā udakā
thalamubbhatā,
idaṃ brāhmaṇa me atthi etaṃ bhutvā vane vasa.
|
568. “Bảy con cá hồng của tôi đă
được vớt từ dưới nước lên đất liền. Này Bà-la-môn, cái này là
phần tôi có. Ngài hăy ăn cái ấy rồi sống ở trong rừng.” |
Bảy cá hồng tôi đă gọn mang
Từ ḍng nước cả của sông Hằng,
Bà-la-môn hỡi, ăn cho thỏa,
Và ở lại đây chốn núi ngàn. |
569. Dussa me khettapālassa
rattibhattaṃ apābhataṃ,
maṃsasūlā ca dve godhā ekañca dadhivārakaṃ,
idaṃ brāhmaṇa me atthi etaṃ bhutvā vane vasa.
|
569. “Tôi đă lấy đi bữa ăn tối
của người giữ ruộng ấy gồm có hai xiên thịt nướng, một con kỳ
đà, và một b́nh sữa. Này Bà-la-môn, cái này là phần tôi có. Ngài
hăy ăn cái ấy rồi sống ở trong rừng.”
|
Người coi đồng dành thức ăn tối
B́nh sữa kia; rắn mối nữa đây.
Hai xiên để nướng thịt này
Tôi đây trót dại lấy ngay ấy mà.
Có bao nhiêu tôi đà tặng đấy,
Bà-la-môn xin hăy ăn thôi!
Nếu ngài hạ cố đến nơi
Rừng này ở lại cùng tôi một hồi. |
Trang 176:
|
Trang 177:
|
570. Ambapakkodakaṃ sītaṃ
sītacchāyaṃ manoramaṃ,
idaṃ brahmaṇa me atthi etaṃ bhutvā vane vasa.
|
570. “Xoài chín, nước lạnh, bóng
cây dâm mát làm thích ư. Này Bà-la-môn, cái này là phần tôi có.
Ngài hăy ăn cái ấy rồi sống ở trong rừng.” |
Ḍng nước lạnh với cành xoài
mọng,
Chốn rừng xanh rợp bóng yên lành,
Để ngài vui hưởng, sẵn dành,
Nếu ngài thỏa ư, rừng xanh nương ḿnh. |
571. Na sasassa tilā atthi na
muggā na pi taṇḍulā,
iminā agginā pakkaṃ mamaṃ bhutvā vane vasā ”ti.
6. Sasajātakaṃ.
|
571. “Thỏ tôi không có mè, không
có đậu, cững không có gạo. Ngài hăy ăn thịt tôi đă được nướng
chín bằng ngọn lửa này, rồi sống ở trong rừng.”
6. Bổn sanh Con Thỏ.
|
Tôi chẳng có thức ăn mè, đậu,
Cùng gạo cơm để hậu đăi ngài.
Thịt tôi hăy nướng lửa thôi,
Nếu ngài sống với chúng tôi chốn này.
Câu chuyện
316 |
572. Matamatameva rodatha
na hi taṃ rodatha yo marissati,
sabbeva sarīradhārino
anupubbena jahanti jīvitaṃ.
|
572. “Quư vị khóc người đă chết
và chỉ mỗi người đă chết,
bởi v́ quư vị không khóc cho người chưa chết.
Toàn bộ tất cả những loài có thân xác
đều từ bỏ mạng sống theo tuần tự. |
Khóc người sống hết khóc kẻ
chết,
Mọi sinh linh đều kết một thân, |
573. Devamanussā catuppadā
pakkhigaṇā uragā ca bhogino,
samhi sarīre anissarā
ramamānāva jahanti jīvitaṃ.
|
573. Chư Thiên, nhân loại, loài
bốn chân,
các loài chim, và các loài ḅ sát có thân h́nh to lớn,
đều không có quyền hành về thân xác của ḿnh,
chúng từ bỏ mạng sống ngay trong lúc đang c̣n vui thích. |
Loài chim, loài thú bốn chân,
Rắn, người, thần thảy bước chung một đàng. |
574. Evañcalitaṃ asaṇṭhitaṃ
sukhadukkhaṃ manujesu apekkhiya,
kanditaruditaṃ niratthakaṃ
kiṃ vo sokagaṇābhikīrare.
|
574. Như vậy, hạnh phúc hay khổ
đau ở loài người
là bị dao động, không được ổn định, không thể trông đợi,
rên rỉ và khóc lóc là không có lợi ích,
tại sao quư vị lại gieo rắc lắm nỗi sầu muộn? |
Chống số phận, ta càng bất
lực,
Vui chết không khổ lạc thăng trầm.
Sao ch́m trong mối thương tâm
V́ người anh chết, lệ đầm đ́a rơi? |
575. Dhuttā soṇḍā akatā
bālā sūrā ayogino,
dhīraṃ maññanti bāloti
ye dhammassa akovidā ”ti.
7. Matarodanajātakaṃ.
|
575. Những kẻ vô lại, những kẻ
nghiện ngập, những kẻ vô học,
những kẻ ngu si, những kẻ vơ biền, những kẻ không rèn luyện,
chúng nghĩ rằng người sáng suốt là ‘kẻ ngu si,’
chúng là những kẻ không rành rẽ về các pháp (thế gian).”
7. Bổn sanh Khóc Người Đă Chết.
|
Chuyện lừa đảo, chuyện đời
phóng dật,
Kẻ dại cuồng hay bậc hùng oai,
Khôn ranh, chẳng biết điều ngay,
Khôn ngoan như thế cũng tày ngu si.
Câu chuyện
317
|
576. Yantaṃ vasantasamaye
kaṇaveresu bhānusu,
sāmaṃ bāhāya pīḷesi sā taṃ ārogyamabravi.
|
576. “Vào tiết mùa xuân, khi
những bông hoa kaṇavera chói sáng, chàng đă gh́ chặt Sāmā bằng
cánh tay, nàng ấy đă nói rằng nàng vẫn khỏe mạnh.” |
Giữa ngày vui đẹp của xuân
thời,
Cây cối mang hoa rực ánh tươi,
Tỉnh dậy sau cơn mê ngất ấy,
Sà-mà đang sống, sống v́ người. |
577. Ambho na kira saddheyyaṃ yaṃ
vāto pabbataṃ vahe,
pabbatañce vahe vāto sabbampi paṭhaviṃ vahe,
yattha sāmā kālakatā sā maṃ ārogyamabravi.
|
577. “Này ông, tôi thật sự không
thể tin rằng gió có thể dời đi ngọn núi, nếu gió có thể dời đi
ngọn núi th́ gió có thể dời đi toàn bộ trái đất; và trường hợp
nàng Sāmā đă qua đời mà nàng ấy đă nói rằng nàng vẫn khỏe mạnh.”
|
Gió dữ lung lay được núi đâu?
Gió làm đất vững chăi rung sao?
Thấy người đă chết đang c̣n sống,
Chuyện ấy hóa ra quá nhiệm mầu! |
578. Na ceva sā kālakatā na ca sā
aññamicchati,
ekabhattā kira sāmā tameva abhikaṅkhati.
|
578. “Nàng ấy chẳng những chưa
qua đời mà nàng ấy c̣n không ưa thích người đàn ông khác. Nghe
nói Sāmā chỉ ăn một bữa và mong mỏi chỉ mỗi ông thôi.”
|
Sà-mà quả thực sống đời này,
Nàng chẳng kết duyên với một ai,
Nhịn hết, mỗi ngày ăn một bữa,
Riêng người, nàng giữ mối mê say. |
Trang 178:
|
Trang 179:
|
579. Asanthutaṃ maṃ
cirasanthutena
nimini sāmā adhuvaṃ dhuvena,
mayāpi sāmā nimineyya aññaṃ
ito ahaṃ dūrataraṃ gamissan ”ti.
8. Kaṇaverajātakaṃ.
|
579. “Sāmā đă chọn lấy tôi, kẻ
không thân thiết, thay v́ người t́nh thân thiết lâu dài, đă chọn
lấy kẻ không chung thủy thay v́ người chung thủy, Sāmā cũng có
thể chọn lấy người khác thay v́ tôi; từ nơi này, tôi sẽ ra đi xa
hơn nữa.”
8. Bổn sanh Hoa Kaṇavera.
|
Sà-mà thay đổi măi t́nh thôi,
Tha thiết yêu đương, lại hợt hời.
Cũng vậy, với ta nàng sẽ phản,
Nếu ta chẳng quyết phải xa rời.
Câu chuyện
318
|
580. Susukhaṃ vata jīvāmi labhāmi
ceva bhuñjituṃ,
paripanthe ca tiṭṭhāmi kānu bhante gati mama.
|
580. “Quả thật, tôi sống vô cùng
sung sướng, và tôi c̣n nhận được thức ăn. Nhưng tôi tồn tại
trong sự hiểm nguy, thưa ngài, phần số tương lai của tôi thế
nào?” |
Đời hạnh phúc suốt ngày tôi
sống
Đến cùng tôi đầy những thức ăn.
Nhưng tôi gặp cảnh khó khăn,
Tương lai tôi ấy, số phần ra sao? |
581. Mano ce te na panamati
pakkhi pāpassa kammuno,
avyāvaṭassa bhadrassa na pāpamupalippati.
|
581. “Này chim, nếu tâm ư của
ngươi không thiên về hành động xấu xa, sự xấu xa không làm ô
nhiễm người hiền thiện, không chủ động.” |
Nếu ḷng chẳng tơ hào xấu ác
Khiến bạn gây nên việc nhục hèn.
Do phần thụ động mà nên,
Bạn nào bị tội trói lên số phần! |
582. Ñātako no nisinnoti bahu
āgacchate jano,
paṭicca kammaṃ phusati tasmiṃ me saṅkate mano.
|
582. “‘Quyến thuộc của chúng ta
ngồi kia,’ nghĩ vậy nhiều kẻ kéo đến, rồi phạm vào nghiệp liên
đới; ư của tôi lo ngại về điều ấy. |
Chúng bảo rằng: "Họ hàng ta
đấy!"
Cả đám đông đổ lại trông coi,
Phải chăng là tội của tôi
Khiến cho chúng chết? Xin ngài giải nghi. |
583. Paṭicca kammaṃ na phusati
mano ce nappadussati,
appossukkassa bhadrassa na pāpamupalippatī ”ti.
9. Tittirajātakaṃ.
|
583. “Không phạm vào nghiệp liên
đới, nếu tâm ư không sái quấy, sự xấu xa không làm ô nhiễm người
hiền thiện, không nỗ lực.”
9. Bổn sanh Chim Đa Đa.
|
Nếu tội không ẩn tŕ ḷng bạn
Th́ hành vi sẽ chẳng tội t́nh.
Kẻ nào thụ động phần ḿnh,
Thoát bao tội lỗi trở thành thong dong.
Câu chuyện
319
|
584. Succajaṃ vata naccaji vācāya
adadaṃ giriṃ,
kimhi tassaṃ cajantassa vācā adada pabbataṃ.
|
584. “Quả thật, vua đă không thí
bỏ vật dễ thí bỏ, trong khi không ban cho ngọn núi bằng lời nói.
Kẻ đă không ban cho ngọn núi bằng lời nói, kẻ ấy c̣n có thể xả
bỏ cái ǵ?” |
Ngài có thể ban phần nhỏ nhặt,
Đối với ngài có mất mát ǵ đâu!
Núi vàng, tôi cũng tặng trao,
Tôi xin mọi thứ, ngài đều bảo không! |
585. Yaṃ hi kayirā taṃ hi vade
yaṃ na kayirā na taṃ vade,
akarontaṃ bhāsamānaṃ parijānanti paṇḍitā.
|
585. “Có thể làm điều ǵ th́ nên
nói điều ấy, không thể làm điều ǵ th́ không nên nói điều ấy.
Các bậc sáng suốt biết rơ người nói mà không làm.” |
Khi có thể, bảo "vâng" sẽ tặng
Chớ hứa suông khi chẳng thể kham,
Lời ngoa khi hứa không làm,
Hiền nhân khinh ghét kẻ xàm dối thôi. |
586. Rājaputta namo tyatthu sacce
dhamme ṭhitovasi,
yassa te vyasanaṃ patto saccasmiṃ ramate mano.
|
586. “Tâu thái tử, xin kính lễ
ngài. Ngài quả đă đứng vững ở pháp chân thật. Đă bị lâm vào cảnh
bất hạnh, tâm ư của ngài đây vẫn vui thích ở sự chân thật.” |
Tâu quân vương, chúng tôi cầu
chúc
Ngài ngôi cao chính trực vững vàng.
Sang giàu có thể tiêu tan,
Chỉ riêng Chân lư ngài hằng hưởng vui. |
587. Yā daḷiddī daḷiddassa aḍḍhā
aḍḍhassa kittimā,
sā hissa paramā bhariyā sahiraññassa itthiyo ”ti.
10. Succajajātakaṃ.
|
587. “Người nữ nào nghèo khó khi
chồng nghèo khó, giàu có khi chồng giàu có, tâu bậc có danh
tiếng, chính nàng ấy là người vợ hạng nhất của ngài, c̣n các phụ
nữ khác là thuộc về đức vua, không xứng đáng.”
10. Bổn sanh Vật Dễ Thí Bỏ.
|
Danh vợ hiền lệnh bà đă tỏ,
Chia xẻ bao vui khổ cuộc đời,
Phận bà xứng đáng lắm rồi.
Cùng hàng vương giả kết đôi bạn ḷng.
Câu chuyện
320 |
Pucimandavaggo dutiyo.
*****
|
Phẩm
Cây Pucimanda là thứ
nh́.
***** |
TASSUDDĀNAṂ
Atha corasakassapakhantivaro
dujjīvitatā ca varāpharusā,
atha sasamatañca vasantasukhaṃ
succajaṃ vata navacajinā ca dasa.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Giờ kẻ trộm, với vị Kassapa, và chuyện nhẫn nại,
t́nh trạng cuộc sống xấu xa và các chuyện về thô lỗ
rồi con thỏ, và người đă chết, mùa xuân, và sung sướng,
thật sự dễ thí bỏ và đă không thí bỏ là mười.
--ooOoo-- |
Trang 180: |
Trang 181:
|
▪ 3.
KUṬIDŪSAKAVAGGO
|
▪ 3.
PHẨM KẺ PHÁ HOẠI CỐC LIÊU
|
CHƯƠNG BỐN
(Bốn bài kệ)
(Gs. Trần Phương Lan) |
588. Manussasseva te sīsaṃ
hatthapādā ca vānara,
atha kena nu vaṇṇena agāraṃ te na vijjati.
|
588. “Này khỉ, đầu, và tay chân
của ngươi đúng là của loài người. Vậy th́ lư do ǵ, nhà của
ngươi lại không có?” |
Khỉ ạ, tay chân mặt mũi ngươi,
Xem ra thật giống với người thôi.
Sao không xây lấy nơi cư trú
Để núp khi giông bảo đến nơi? |
589. Manussasseva me sīsaṃ
hatthapādā ca siṅgila,
yāhu seṭṭhā manussesu sā me paññā na vijjati.
|
589. “Này chim siṅgila, đầu, và
tay chân của ta đúng là của loài người. Họ đă nói rằng cái nào
là hạng nhất ở loài người, cái trí tuệ ấy ở ta lại không có.” |
Chim hỡi, tay chân mặt mũi ta
So cùng người thật giống, không xa
Trí khôn, lợi nhất người thừa hưởng
Phần ấy ta đây bị loại ra. |
590. Anavaṭṭhitacittassa
lahucittassa dubbhino,
niccaṃ addhuvasīlassa sucibhāvo na vijjati.
|
590. “Đối với kẻ có tâm không ổn
định, có tâm khinh suất, có âm mưu làm hại, thường xuyên có giới
không bền vững, bản tính trong sạch không tồn tại. |
Kẻ nào vẫn trơ tráo hoài,
Tâm hồn hời hợt đổi thay không ngừng.
Tỏ ra cung cách thất thường,
Th́ niềm hạnh phúc chẳng đường t́m ra. |
591. So karassu anubhāvaṃ
vītivattassu sīliyaṃ,
sītavātaparittāṇaṃ karassu kuṭikaṃ kapī ”ti.
1. Kuṭidūsakajātakaṃ.
|
591. Này khỉ, ngươi đây hăy thể
hiện năng lực, hăy vượt qua bản chất xấu xa, hăy thực hiện chỗ ở
nhằm bảo vệ khỏi bị gió lạnh.”
1. Bổn sanh Kẻ Phá Hoại Cốc Liêu.
|
Khỉ ơi, hạnh muốn tiến xa,
Ngươi cần gắng sức thật là tinh chuyên
Đi đi, lều lá dựng lên
Để mà trú ẩn tránh phiền gió đông.
Câu chuyện
321 |
592. Daddabhāyati bhaddante
yasmiṃ dese vasāmahaṃ,
ahampetaṃ na jānāmi kimetaṃ daddabhāyati.
|
592. “Thưa đức ông, có tiếng động
ầm ầm ở khu vực tôi sống. Tôi cũng không biết ǵ về việc ấy, cái
ǵ gây nên tiếng động ầm ầm ấy?” |
Từ nơi trú ẩn của tôi đây,
Tiếng thụp bỗng nghe kinh hăi thay.
Tiếng ấy là ǵ không thể nói,
Cũng không hiểu được bởi ǵ gây. |
593. Beluvaṃ patitaṃ sutvā
daddabhanti saso javi,
sasassa vacanaṃ sutvā santattā migavāhinī.
|
593. “Sau khi nghe trái cây
beluva rơi xuống gây tiếng động ầm ầm, con thỏ đă phóng chạy.
Sau khi nghe lời con thỏ, bầy thú rừng bị hoảng hốt. |
Hăi hùng v́ tiếng trái rơi ra,
Thỏ nọ, một lần đă chạy xa.
Tất cả thú kia đều nối gót,
Rúng ḷng v́ thỏ hoảng kinh mà |
594. Appatvā padaviññāṇaṃ
paraghosānusārino,
pamādaparamā bālā te honti parapattiyā.
|
594. Chưa đạt đến sự nhận biết
căn bản, chúng có sự thuận theo lời nói của người khác; những kẻ
ngu si nổi bật ở sự xao lăng, chúng có sự dựa dẫm vào người
khác. |
Chúng không xem rơ việc là ǵ,
Chuyện nhảm, không đâu, lắng tai nghe,
Cả đám, đều vô cùng rối loạn
Với niềm kinh hoảng rất ngu si. |
595. Ye ca sīlena sampannā
paññāyupasame ratā,
ārakā viratā dhīrā na honti parapattiyā ”ti.
2. Daddabhajātakaṃ.
|
595. Và những vị nào được thành
tựu về giới, được vui thích ở tuệ và sự an tịnh, là các bậc sáng
trí đă ĺa khỏi, đă lánh xa (ác pháp), (những vị ấy) không có sự
dựa dẫm vào người khác.”
2. Bổn sanh Tiếng Động Ầm Ầm.
|
Những ai đạt được hạnh thông
cao,
Trí tuệ lạc an nhập được vào,
Việc xấu dù cho c̣n xúi gọi.
Kinh hoàng, như thế xá chi nào!
Câu chuyện
322 |
596. Dvayaṃ yācanako rāja
brahmadatta nigacchati,
alābhaṃ dhanalābhaṃ vā evaṃ dhammā hi yācanā.
|
596. “Tâu đức vua Brahmadatta,
người cầu xin trải qua hai trường hợp: không nhận được hoặc nhận
được tài sản, bởi v́ việc cầu xin có bản chất như thế. |
Như thế này đúng là tính chất,
Của lời xin, kính bạch Đại vương,
Nó luôn luôn vẫn sẽ mang
Hoặc lời từ chối, hoặc phần tặng trao. |
597. Yācanaṃ rodanaṃ āhu
pañcālānaṃ rathesabha,
yo yācanaṃ paccakkhāti tamāhu paṭirodanaṃ.
|
597. Tâu đấng thủ lănh xa binh
của xứ Pañcāla, người đời đă nói sự cầu xin có sự khóc lóc, và
người nào từ chối sự cầu xin, người ấy có sự khóc lóc đáp trả.
|
Tâu chúa công, kẻ nào thỉnh
nguyện,
Nước mắt kia đă muốn trào ra;
C̣n người từ chối lời kia
Cũng là khó giữ đầm đ́a lệ rơi. |
598. Mā maddasaṃsu rodantaṃ
pañcālā susamāgatā,
tuvaṃ vā paṭirodantaṃ tasmā icchāmahaṃ raho.
|
598. Chớ để những người xứ
Pañcāla đă đến đông đủ nh́n thấy thần đang khóc lóc, hoặc bệ hạ
đang khóc lóc đáp trả; v́ thế, thần muốn được kín đáo.”
|
Tôi sợ rằng mọi người thấy
được
Chúng ta đây nhỏ nước mắt suông
Nêu điều tôi hỏi xin mang
Bên ngài thầm kín, tôi cần rỉ tai. |
Trang 182:
|
Trang 183:
|
599. Dadāmi te brāhmaṇa rohiṇīnaṃ
gavaṃ sahassaṃ saha puṅgavena,
ariyo hi ariyassa kathaṃ na dajje
sutvāna gāthā tava dhammayuttā ”ti.
3. Brahmadattajātakaṃ.
|
599. “Này Bà-la-môn, trẫm ban cho
khanh một ngàn ḅ cái màu hung đỏ với một con ḅ mộng. Bởi v́ là
người thánh thiện, tại sao trẫm lại không ban tặng cho người
thánh thiện, sau khi đă lắng nghe các kệ ngôn gắn liền với lư lẽ
của khanh?”
3. Bổn sanh Vua Brahmadatta.
|
Ta tặng ngài một bầy ḅ đỏ,
Gồm ngàn con, thêm có người chăn
Lời ngài cao quí muôn vàn,
Phần ta xúc cảm rộng ḷng phát ban.
Câu chuyện
323 |
600. Kalyāṇarūpo vatayaṃ
catuppado
subhaddako ceva supesalo ca,
yo brāhmaṇaṃ jātimantapapannaṃ
apacāyati meṇḍavaro yasassī.
|
600. “Con thú bốn chân này quả
thật có bản chất tốt lành,
không những vô cùng hiền thiện mà c̣n vô cùng đáng yêu,
là con cừu cao quư, có tiếng tăm, nó tôn kính
vị Bà-la-môn thành tựu về ḍng dơi và các chú thuật.” |
Con vật hảo tâm tỏ ra khâm
phục
Trước Bà-la-môn đạo thức, đẳng cao.
Thú kia, ngươi thiện hảo biết là bao,
Mong ngươi được vang danh khắp loài vật. |
601. Mā brāhmaṇa ittaradassanena
vissāsamāpajji catuppadassa,
daḷhappahāraṃ abhikaṅkhamāno
apasakkati dassati suppahāraṃ.
|
601. “Này Bà-la-môn, mới xem qua,
chớ đặt niềm tin vào con thú bốn chân.
Trong lúc mong muốn cú húc mạnh bạo,
nó bước lui, và nó sẽ giáng cho cú húc tuyệt vời.” |
Bà-la-môn, chớ kinh thường,
tin nó,
Nó sẽ húc, người ngă xuống đất ngay.
Cừu đực kia đang lui lại như vầy,
Để phóng mạnh tới tấn công người đó. |
602. Ūraṭṭhi bhaggaṃ patito
khāribhāro
sabbaṃ bhaṇḍaṃ brāhmaṇassīdhabhinnaṃ,
bāhā paggayha kandati
abhidhāvathā haññate brahmacārī.
|
602. “Xương đùi bị găy, túi mang
vai bị bật tung,
tất cả vật dụng của vị Bà-la-môn bị bể nát tại nơi này.
Vị Bà-la-môn đưa hai tay lên, than văn:
‘Quư vị mau chạy đến, có người hành Phạm hạnh bị hăm hại.’” |
B́nh bát lật úp và chân bị
găy,
Người tiếc than thân phận ấy đau buồn.
Đừng dang tay khóc lóc thật hoài công,
Mau cứu chữa trước khi người bị giết! |
603. Evaṃ so nihato seti yo
apūjaṃ namassati,
yathāhamajja pahaṭo hato meṇḍena dummatī ”ti.
4. Cammasāṭakajātakaṃ.
|
603. “Như vậy, tôi đây bị ngă
gục, nằm dài. Kẻ nào ca ngợi người không xứng đáng sự tôn vinh,
là kẻ có trí tồi, giống như tôi hôm nay bị húc ngă, bị giết chết
bởi con cừu.”
4. Bổn sanh Tấm Choàng Da Thú.
|
Kẻ nào tỏ kính cung nơi chẳng
xứng,
Đều xẻ chia số phận của tôi nay,
Bị cừu kia húc ngă xuống đất đây.
Tôi phải chết v́ ḷng tin vụng dại.
Câu chuyện
324 |
604. Samaṇaṃ taṃ maññamāno
upagacchiṃ asaññataṃ,
so maṃ daṇḍena pāhāsi yathā assamaṇo tathā.
|
604. “Trong khi nghĩ rằng kẻ ấy
là Sa-môn, tôi đă đi đến gần kẻ không tự chế ngự. Kẻ ấy đă đánh
tôi bằng cây gậy, như thế không phải là Sa-môn. |
Kẻ nào đóng vai tu ẩn dật,
Chế ngự ḿnh, cần được tỏ ra.
Chính người ném gậy vào ta,
Người tu ẩn dật hẳn là giả danh. |
605. Kiṃ te jaṭāhi dummedha kiṃ
te ajinasāṭiyā,
abbhantaraṃ te gahanaṃ bāhiraṃ parimajjasi.
|
605. Này kẻ ngu muội, có ích ǵ
với những búi tóc bện của ngươi? Có ích ǵ với y phục bằng da dê
của ngươi? Ngươi đánh bóng bên ngoài, bên trong của ngươi là
rừng rậm (ô nhiễm).” |
Tóc bện ấy, da trần không áo
Để che trùm, tội giấu kín hoài.
Khùng thay! Lo sạch bề ngoài,
Bỏ quên mọi thứ xấu tồi bên trong. |
606. Ehi godha nivattassu bhuñja
sālīnamodanaṃ,
telaṃ loṇañca me atthi pahūtaṃ mayha pipphali.
|
606. “Này con kỳ đà, hăy đến, hăy
quay lại, hăy ăn cơm gạo sālī. Ta có dầu và muối, ta có nhiều
hạt tiêu dài.” |
Tắc kè ơi, mau ṿng quay lại,
Muối, dầu, ta chẳng phải thiếu đâu.
Cả tiêu, ta nảy ư cầu
Một phần thích khẩu thêm vào món cơm. |
607. Esa bhiyyo pavekkhāmi
vammikaṃ sataporisaṃ,
telaṃ loṇañca kittesi ahitaṃ mayha pipphalī ”ti.
5. Godhajātakaṃ.
|
607. “Điều ấy là quá thừa thăi,
ta sẽ đi vào g̣ mối có chiều cao bằng một trăm người. Ngươi cứ
việc ca ngợi dầu, và muối, hạt tiêu dài là không có lợi ích đối
với ta.”
5. Bổn sanh Con Kỳ Đà.
|
Ta ẩn náu êm đềm ấm cúng
Giữa đám đông trong đụn kiến này.
Muối, dầu, chuyện nhảm chớ bày
Cả tiêu kia nữa, ta đây chán rồi.
Câu chuyện
325 |
608. Kāyena yo nāvahare vācāya na
musā bhaṇe,
yaso laddhā na majjeyya sa ve kakkārumarahati.
|
608. “Người nào không trộm cắp
bằng thân, không nói lời dối trá bằng khẩu, sau khi đạt được
danh vọng không bị say đắm, người ấy thật sự xứng đáng hoa
kakkāru (của cơi Trời).” |
Kẻ nào giữ ḿnh không trộm cắp.
Miệng lưỡi luôn tránh tật dối lời
Đạt nên danh vọng cao vời.
Giữ tâm yên ổn - xứng đ̣i hoa đây. |
Trang 184:
|
Trang 185:
|
609. Dhammena vittameseyya na
nikatyā dhanaṃ hare,
bhoge laddhā na majjeyya sa ve kakkārumarahati.
|
609. “Người nào tầm cầu của cải
một cách chân chánh, không lấy đi tài sản bằng cách lường gạt,
sau khi đạt được các vật sở hữu không bị say đắm, người ấy thật
sự xứng đáng hoa kakkāru (của cơi Trời).” |
Kẻ nào kiếm tiền tài chân thật
Tránh gian manh để đạt giàu sang
Thú vui quá độ, tránh luôn,
Xứng phần được đóa thiên hương đây này. |
610. Yassa cittaṃ ahāliddaṃ
saddhā ca avirāginī,
eko sāduṃ na bhuñjeyya sa ve kakkārumarahati.
|
610. “Người nào có tâm không thay
đổi và đức tin không bị phai nhạt, một người không thọ dụng thức
ăn ngon ngọt, người ấy thật sự xứng đáng hoa kakkāru (của cơi
Trời).” |
Kẻ nào chẳng lệch xa mục đích,
Và ḷng tin bất dịch chẳng rời,
Thức ăn ngon chẳng đoái hoài,
Chánh chân đ̣i hỏi hoa trời này đây. |
611. Sammukhā vā parokkhā vā yo
sante na paribhāsati,
yathāvādī tathākārī sa ve kakkārumarahatī ”ti.
6. Kakkārujātakaṃ.
|
611. “Người nào không mắng nhiếc
những người tốt, có mặt hay vắng mặt, là người nói như thế nào
th́ làm như thế ấy, người ấy thật sự xứng đáng hoa kakkāru (của
cơi Trời).”
6. Bổn sanh Hoa Kakkāru.
|
Kẻ nào chẳng phê b́nh người tốt
Dù sau lưng hay trước mặt người
Làm tṛn việc đúng như lời,
Xứng đ̣i phần thưởng hoa trời này đây.
Câu chuyện
326 |
612. Vāti cāyaṃ tato gandho
yattha me vasatī piyā,
dūre ito hi kākāti yattha me nirato mano.
|
612. “Mùi hương này thổi đến từ
nơi ấy, nơi người yêu dấu của tôi cư ngụ. Nàng Kākātī ở xa nơi
này, tâm ư của tôi vương vấn ở nơi nàng.” |
Hương quyện quanh tôi là hơi
thở
Của mối t́nh người ở nơi xa.
Kà-kà-ti đẹp ấy mà
Khiến tôi rung động sâu xa trong ḷng. |
613. Kathaṃ samuddamatari kathaṃ
atari kebukaṃ,
kathaṃ satta samuddāni kathaṃ simbalimāruhi.
|
613. “Làm thế nào vượt qua biển
cả? Làm thế nào vượt qua sông Kebukā? Làm thế nào vượt qua bảy
biển cả? Làm thế nào leo lên cây Simbalī?” |
Vượt qua biển, qua ḍng
Ke-buk,
Phải chăng người đến được đảo ta?
Bảy vùng biển rộng bay qua.
Sim-bal rừng ấy người đà đến nơi? |
614. Tayā samuddamatariṃ tayā
atari kebukaṃ,
tayā satta samuddāni tayā simbalimāruhiṃ.
|
614. “Nhờ ngài, tôi đă vượt qua
biển cả. Nhờ ngài, tôi đă vượt qua sông Kebukā. Nhờ ngài, tôi đă
vượt qua bảy biển cả. Nhờ ngài, tôi đă leo lên cây Simbalī.”
|
Khắp trời rộng, nhờ ngài tôi
vượt,
Và tôi đây đến được Sim-bal,
Bay ngang bao biển, bao sông,
Mối t́nh tôi gặp, nhờ phần ngài thôi. |
615. Dhiratthu maṃ mahākāyaṃ
dhiratthu maṃ6 acetanaṃ,
yattha jāyāyahaṃ jāraṃ āvahāmi vahāmi cā ”ti.
7. Kākātijātakaṃ.
|
615. “Thật xấu hổ thay cái thân
xác to lớn của ta! Thật xấu hổ thay sự vô ư của ta! Bởi v́ ta
mang t́nh nhân đến cho người vợ của ta, rồi ta lại mang đi.”
7. Bổn sanh Hoàng Hậu Kākātī.
|
Thật cuồng si, việc tôi xảo
trá,
Khiến tôi thành một gă ngu đần
Người yêu nên giữ riêng phần,
Ḱa! Tôi phục vụ như hàng mối mai.
Câu chuyện
327 |
616. Bahunnaṃ vijjati bhotī tehi
kimme bhavissati,
tasmā etaṃ na socāmi piyaṃ sammillabhāsiniṃ.
|
616. “Hiền thê hiện hữu trong số
nhiều người (đă chết), với họ tôi sẽ có được điều ǵ? V́ thế,
tôi không sầu muộn về nàng Sammillabhāsinī yêu dấu ấy. |
Sao ta nhỏ lệ v́ em chứ,
Hỡi Sam-mil-la-bhà-si-ni.
Em xinh đẹp đă chết đi
Từ nay ta hẳn c̣n ǵ em đâu? |
617. Taṃ tañce anusoceyya yaṃ yaṃ
tassa na vijjati,
attānamanusoceyya sadā maccuvasaṃ gataṃ.
|
617. Người nào u sầu về một ai đó
không c̣n hiện hữu đối với người ấy nữa, người ấy u sầu chính
bản thân ḿnh, là kẻ luôn luôn bị rơi vào quyền lực của Thần
Chết. |
Kẻ yếu đuối âu sầu ǵ chớ?
Khóc lóc làm chi những thứ mượn vay?
Tử vong đă hơi thở này,
Th́ từng giờ phút trao tay tử thần. |
618. Na heva ṭhitaṃ nāsīnaṃ na
sayānaṃ na paddhaguṃ,
yāva pāti nimmisati tatrāpi saratī vayo.
|
618. Bởi v́, không chỉ đối với
người đang đứng, đang ngồi, đang nằm, hay đang đi tới lui, mà
chỉ trong khoảnh khắc mở mắt nhắm mắt, tuổi thọ chấm dứt thậm
chí ngay khi ấy. |
Dầu ai đứng hay đang ngồi đó,
Đang nằm hay dời chỗ, ǵ chăng,
Chỉ trong chớp mắt qua ngang,
Chỉ trong một lúc tử thần kề ngay. |
619. Tatthattani vatappaddhe
vinābhāve asaṃsaye,
bhūtaṃ sesaṃ dayitabbaṃ vītaṃ ananusociyan ”ti.
8. Ananusociyajātakaṃ.
|
619. Thật vậy, trong trường hợp
ấy, khi bản thân đang c̣n tuổi thọ, khi sự chia cách là không
c̣n nghi ngờ, th́ nên yêu thương sinh linh đang c̣n tồn tại,
không nên sầu muộn về người đă chết.”
8. Bổn sanh Không Nên Sầu Muộn.
|
Đời bất ổn ta đây đă tính,
Mất bạn bè chẳng tránh được ra.
Hăy yêu mọi thứ c̣n kia,
Chớ buồn khi chúng phải lià xa ta.
Câu chuyện
328 |
Trang 186:
|
Trang 187:
|
620. Yaṃ annapānassa pure labhāma
taṃdāni sākhāmigameva gacchati,
gacchāmadāni vanameva rādha
asakkatā casma dhanañjayāya.
|
620. “Phần cơm nước của vua mà
chúng ta nhận được trước đây,
phần ấy giờ đây giao cho chỉ mỗi con khỉ.
Này Rādha, giờ đây chúng ta hăy đi vào rừng thôi,
chúng ta không có khả năng trong việc chiến thắng tài sản.”
|
Ta từng hưởng lắm thức ăn,
Khỉ kia nay lại được phần ta xưa.
Rà-dha hăy đến rừng già,
Cách người xử tệ sửa ra thế nào? |
621. Lābho alābho ayaso yaso ca
nindā pasaṃsā ca sukhañca dukkhaṃ,
ete aniccā manujesu dhammā
mā soci kiṃ socasi poṭṭhapāda.
|
621. “Lợi lộc, không lợi lộc,
không danh tiếng, và có danh tiếng,
sự chê bai, và sự ca ngợi, hạnh phúc, và khổ đau,
các pháp này là không bền vững ở con người,
chớ sầu muộn, này Poṭṭhapāda, em sầu muộn việc ǵ?” |
Dù là được, mất ra sao,
Khen, chê, vui, khổ, vinh cao, nhục dày,
Đều là giả tạo, đổi thay.
Sao em lại cứ ngập đầy sầu đau? |
622. Addhā tuvaṃ paṇḍitakosi
rādha
jānāsi atthāni anāgatāni,
kathannu sākhāmigaṃ dakkhisāma
niddhāpitaṃ rājakulatova jammaṃ.
|
622. “Này Rādha, hiển nhiên anh
là người sáng suốt,
anh biết được các sự việc c̣n chưa xảy ra.
Làm thế nào chúng ta sẽ nh́n thấy được con khỉ
đáng khinh bỉ bị tống ra khỏi hoàng cung?” |
Rà-dha, chim trí tuyệt cao,
Hẳn anh phải biết việc nào xảy ra.
Ai sẽ là người đuổi tên kia
Từ triều vua trở lại nhà nó xưa? |
623. Cāleti kaṇṇaṃ
bhakuṭiṃ karoti
muhuṃ muhuṃ bhāyayate kumāre,
sayameva taṃ kāhati kāḷabāhu
yenārakā ṭhassati annapānā ”ti.
9. Kāḷabāhujātakaṃ.
|
623. “Nó nhúc nhích lỗ tai, nó
làm mặt nhăn nhó,
nó mau chóng làm cho các vương tử sợ hăi,
Kāḷabāhu sẽ tự chính ḿnh làm điều ấy,
v́ thế, nó sẽ sống xa ĺa phần cơm nước.”
9. Bổn sanh Con Khỉ Kāḷabāhu.
|
Mặt nhăn, tai động ấy mà,
Sẽ làm bầy trẻ vương gia hăi hùng.
Khỉ kia tinh quái lạ thường,
Ngày kia sẽ chạy t́m đường kiếm ăn.
Câu chuyện
329 |
624. Sīlaṃ kireva kalyāṇaṃ sīlaṃ
loke anuttaraṃ,
passa ghoraviso nāgo sīlavāti na haññati.
|
624. “Nghe rằng giới quả thật là
tốt đẹp, giới là vô thượng ở thế gian. Hăy nh́n xem, con rắn có
chất độc dữ dội (không cắn người) được khen là ‘có giới,’ nó
không bị giết chết. |
Quyền lực trên đời khó sánh tày,
Đức hiền uy lực diệu kỳ thay.
Khi mang lấy dáng dấp hiền hậu,
Rắn độc tránh điều tổn hại ngay. |
625. Yāvadevassahu kiñci tāvadeva
akhādisuṃ,
saṅgamma kuḷalā loke na hiṃsanti akiñcanaṃ.
|
625. Cho đến khi nào kẻ này c̣n
có vật ǵ, cho đến khi ấy chúng đă c̣n cấu xé, lũ diều hâu ở thế
gian, sau khi tụ tập lại, không hăm hại kẻ không có bất cứ vật
ǵ. |
Chim cắt đang khi có thức ăn,
Bọn chim mồi đến mổ đau ran;
Khi chim đành thả rơi phần thịt,
Bọn chúng liền thôi, chẳng ngó ngàng. |
626. Sukhaṃ nirāsā supati āsā
phalavatī sukhā,
āsaṃ nirāsaṃ katvāna sukhaṃ supati piṅgalā.
|
626. Không mong mỏi, nàng ngủ an
lạc. Điều mong mỏi có được kết quả là hạnh phúc. Sau khi không
c̣n mong mỏi điều mong mỏi, nàng Piṅgalā ngủ an lạc. |
Vui thay mơ ước được hoàn
thành.
Trái ngược dường bao, mộng vỡ nhanh.
Hy vọng tiêu tan, dù chán nản.
Pin-ga-là đấy! Ngủ an lành. |
627. Na samādhiparo atthi asmiṃ
loke paramhi ca,
na paraṃ nāpi attānaṃ vihiṃsati samāhito ”ti.
10. Sīlavīmaṃsajātakaṃ.
|
627. Không có sự an lạc nào khác
ngoài định, ở đời này và đời sau. Người đă được định tĩnh không
hăm hại người khác, cũng không hăm hại bản thân.”
10. Bổn sanh Suy Xét Về Giới.
|
Ở cơi này hay ở cơi nào,
Không ǵ vượt hỷ lạc thiền đâu
Kẻ nào miệt mài tu thanh tịnh
Thân được b́nh an, hại chẳng vào.
Câu chuyện
330 |
Kuṭidūsakavaggo tatiyo.
*****
|
Phẩm Kẻ Phá Hoại Cốc Liêu là
thứ ba.
***** |
TASSUDDĀNAṂ
Samanussa sadaddabha yācanako
atha meṇḍavaruttama godhavaro,
atha kāya sakebuka bhotivaro
atha rādha susīlavarena dasa.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Với loài người, với tiếng động ầm ầm, người cầu xin,
rồi chuyện con cừu là hạng nhất, chuyện con kỳ đà,
rồi (trộm cắp) bằng thân, với sông Kebukā, chuyện hiền thê,
rồi con vẹt Rādha, với chuyện giới hạnh tốt, là mười.
--ooOoo-- |
Trang 188:
|
Trang 189:
|
▪ 4.
KOKĀLIKAVAGGO
|
▪ 4. PHẨM
KOKĀLIKA
|
CHƯƠNG BỐN
(Bốn bài kệ)
(Gs. Trần Phương Lan) |
628. Yo ve kāle asampatte
ativelaṃ pabhāsati,
evaṃ so nihato seti kokilāyiva atrajo.
|
628. “Thật vậy, kẻ nào, khi thời
điểm chưa đến, phát biểu quá thời hạn cho phép, như vậy, kẻ ấy
bị giết chết nằm dài, tựa như chim cu cu con. |
Kẻ phạm lỗi nói không thích
đáng,
Như chim cu tận mạng oan thôi.
|
629. Na hi satthaṃ sunisitaṃ
visaṃ halāhalaṃ iva,
evaṃ nikaṭṭhe pāteti vācā dubbhāsitā yathā.
|
629. Bởi v́, con dao đă khéo được
mài bén, tựa như thuốc độc cực mạnh, không quật ngă mau chóng
như vậy, giống như lời nói đă được nói vụng về. |
Dù cho thuốc độc, gươm mài,
Cũng không tàn hại bằng lời nói sai |
630. Tasmā kāle akāle ca vācaṃ
rakkheyya paṇḍito,
nātivelaṃ pabhāseyya api attasamamhi vā.
|
630. V́ thế, vào lúc hợp thời
hoặc không hợp thời, bậc sáng suốt nên ǵn giữ lời nói; không
nên phát biểu quá thời hạn cho phép, hay trong trường hợp với
người thân tín cũng thế. |
Người khôn đắn đo hoài lời
nói,
Với người thân không vội tỏ ḷng. |
631. Yo ca kāle mitaṃ bhāse
matipubbo vicakkhaṇo,
sabbe amitte ādeti supaṇṇo uragaṃ ivā ”ti.
1. Kokālikajātakaṃ.
|
631. Và người nào nói đúng thời,
vừa phải, có suy xét trước, có sự khôn khéo, người ấy thâu tóm
tất cả những kẻ thù địch, tựa như con linh điểu nắm giữ con
rắn.”
1. Bổn sanh Kokālika.
|
Muốn trao lời, xét tận cùng
Như Kim sí điểu bắt Thần rắn kia.
Câu chuyện
331
|
632. Api hantvā hato brūti jetvā
jitoti bhāsati,
pubbamakkhāyino rāja ekadatthuṃ na saddahe.
|
632. “Thậm chí sau khi đánh người
lại nói là ‘bị đánh,’ sau khi đánh bại người lại nói là ‘bị đánh
bại.’ Tâu bệ hạ, trước tiên, không nên tin vào quan điểm một
phía của người thuật chuyện. |
Hại người, lại tỏ ḿnh bị hại
Ḿnh đánh người, than phải đ̣n thoi. |
633. Tasmā paṇḍitajātiyo suṇeyya
itarassa pi,
ubhinnaṃ vacanaṃ sutvā yathā dhammo tathā kare.
|
633. V́ thế, người có bản tánh
sáng suốt nên lắng nghe luôn cả của phía bên kia. Sau khi lắng
nghe lời nói của cả hai bên, công lư như thế nào th́ nên hành
động như thế ấy. |
Trí nhân thận trọng xét soi,
Nghe hai bên trước, tuyên lời chánh chân. |
634. Alaso gihī kāmabhogī na
sādhu
asaññato pabbajito na sādhu,
rājā na sādhu anisammakārī
yo paṇḍito kodhano taṃ na sādhu.
|
634. Người tại gia biếng nhác có
sự thọ hưởng các dục, là không tốt,
bậc xuất gia không tự chế ngự, là không tốt,
vị vua có hành động không cân nhắc, là không tốt,
người sáng suốt có sự phẫn nộ, việc ấy là không tốt. |
Ghét thế nhân dục tầm, biếng
nhác,
Người giả tu dối gạt rành rành!
Hôn quân thường quyết định nhanh,
Mà không nghe rơ sự t́nh ra sao.
Nóng giận không đời nào có thể
Trong người hiền hợp lẽ biện minh. |
635. Nisamma khattiyo kayirā
nānisamma disampati,
nisamma kārino rāja yaso kitti ca vaḍḍhatī ”ti.
2. Rathalaṭṭhijātakaṃ.
|
635. Vị Sát-đế-lỵ nên hành động
sau khi cân nhắc. Bậc chúa tể không thể không cân nhắc. Tâu bệ
hạ, người hành động sau khi cân nhắc có danh vọng và tiếng tăm
tăng trưởng.”
2. Bổn sanh Gậy Điều Khiển Xe Ngựa.
|
Đời đời công chính vang danh,
Quân vương cân nhắc ban hành lệnh ra.
Câu chuyện
332 |
636. Tadeva me tvaṃ vidito
vanamajjhe rathesabha,
yassa te khaggabaddhassa sannaddhassa tirīṭino,
assatthadumasākhāya pakkā godhā palāyatha.
|
636. “Tâu đấng thủ lănh xa binh,
chính vào lúc ấy, ở giữa cánh rừng, thiếp đă hiểu được bệ hạ.
Vào lúc bệ hạ đây mặc áo vỏ cây đă được nai nịt, đă buộc chặt
gươm, thế mà từ nơi cành cây sung, con kỳ đà được nướng chín đă
tẩu thoát.” |
Ngài cho tôi biết rơ ra
Ở trong rừng thẳm, trước kia, tâu ngài:
Tắc kè nướng bứt dây gai,
Từ cành đa nọ thoát ngay ấy mà.
Bên trong lớp áo vỏ dà,
Giáp dày, gươm sắc, tôi đà rơ soi. |
637. Name namantassa bhaje
bhajantaṃ
kiccānukubbassa kareyya kiccaṃ,
nānatthakāmassa kareyya atthaṃ
asambhajantampi na sambhajeyya.
|
637. “Nên cúi chào lại người đang
cúi chào, nên cộng sự với người đang cộng sự, nên thực hành phận
sự đối với người đang thực hành phận sự, không nên làm điều lợi
ích đến người không mong mỏi điều lợi ích, không nên gắn bó với
người không gắn bó.
|
Ai trọng ta, ta thời xứng trọng,
Tỏ hảo tâm, hành động đáp đền;
Chẳng nên tốt với bọn hèn,
Kẻ nào tránh mặt, chẳng nên yêu v́. |
Trang 190:
|
Trang 191:
|
638. Caje cajantaṃ vanathaṃ na
kayirā
apetacittena na sambhajeyya,
dvijo dumaṃ khīṇaphalanti ñatvā
aññaṃ samekkheyya mahā hi loko.
|
638. Nên từ bỏ người đang từ bỏ
ta, không nên thể hiện sự yêu thương,
không nên gắn bó với người có tâm hờ hững.
Con chim, sau khi biết cây đă hết trái,
th́ t́m kiếm cây khác, bởi v́ thế gian là rộng lớn.” |
Kẻ bỏ ta, ta th́ bỏ hẳn,
Chớ yêu thương kẻ chẳng thương ta.
Như chim ĺa bỏ cây khô,
Bay t́m trú xứ nơi xa trong rừng. |
639. So te karissāmi
yathānubhāvaṃ
kataññutaṃ khattiye pekkhamāno,
sabbañca te issariyaṃ dadāmi
yassicchasī tassa tuvaṃ dadāmī ”ti.
3. Pakkagodhajātakaṃ.
|
639. “Này nữ Sát-đế-lỵ, trong khi
xem xét ḷng biết ơn,
trẫm đây sẽ làm cho nàng theo như năng lực của trẫm.
Và trẫm ban cho nàng tất cả quyền uy,
nàng ước muốn điều ǵ, trẫm ban cho nàng điều ấy.”
3. Bổn sanh Con Kỳ Đà Nướng Chín.
|
Chức quyền cao quân vương có sẵn
Nên tỏ bày t́nh nặng nghĩa thâm,
Ta đem vương quốc tặng nàng
Hăy ban tặng phẩm cho hàng ái ưu.
Câu chuyện
333 |
640. Gavañce taramānānaṃ jimhaṃ
gacchati puṅgavo,
sabbā tā jimhaṃ gacchanti nette jimhaṃ gate sati.
|
640. “Trong khi bầy ḅ đang vượt
qua sông, nếu con ḅ đực đi quanh co, tất cả các con ḅ cái sẽ
đi quanh co khi con ḅ dẫn đường đi quanh co. |
Con ḅ đực vượt ḍng đi lạc
hướng,
Đàn cái theo, hàng ngũ rối tan tành. |
641. Evameva manussesu yo hoti
seṭṭhasammato,
so ce adhammaṃ carati pageva itarā pajā,
sabbaṃ raṭṭhaṃ dukhaṃ seti rājā ce hoti adhammiko.
|
641. Tương tự y như thế ở loài
người, nếu người được phong làm thủ lănh thực hành không đúng
pháp, không phải đề cập đến những người khác, toàn bộ vương quốc
sẽ bị lầm than nếu đức vua là kẻ không công chính. |
Người cầm đầu theo các lối loanh
quanh,
Dẫn bọn kém đến đường cùng hèn mạt,
Toàn vương quốc, hận một đời phóng dật. |
642. Gavañce taramānānaṃ ujuṃ
gacchati puṅgavo,
sabbā tā ujuṃ gacchanti nette ujugate sati.
|
642. Trong khi bầy ḅ đang vượt
qua sông, nếu con ḅ đực đi ngay thẳng, tất cả các con ḅ cái sẽ
đi ngay thẳng khi con ḅ dẫn đường đi ngay thẳng. |
Ḅ đực kia, nếu hướng dẫn thẳng
đường,
Bầy cái theo sau nó sẽ ngay hàng. |
643. Evameva manussesu yo hoti
seṭṭhasammato,
so cepi dhammaṃ carati pageva itarā pajā,
sabbaṃ raṭṭhaṃ sukhaṃ seti rājā ce hoti dhammiko ”ti.
4. Rājovādajātakaṃ.
|
643. Tương tự y như thế ở loài
người, nếu người được phong làm thủ lănh thực hành đúng pháp,
không phải đề cập đến những người khác, toàn bộ vương quốc sẽ
được hạnh phúc nếu đức vua là người công chính.”
4. Bổn sanh Giáo Huấn Đức Vua.
|
Người cầm đầu, nếu theo đường
công chính
Cả đám đông sẽ tránh điều bất hạnh
Khắp nước nhà sẽ hưởng lạc tịnh an.
Câu chuyện
334 |
644. Brahā pavaḍḍhakāyo so
dīghadāṭho ca jambuka,
na tvaṃ tamhi kule jāto yattha gaṇhanti kuñjaraṃ.
|
644. “Này chó rừng, nó to lớn, có
thân vươn cao, và có ngà dài. Ngươi không sanh ra từ ḍng dơi
bắt voi. |
Chó rừng, coi chừng đấy!
Đôi ngà voi dài ấy.
Loài bạn bé tí hon
Khó có được một con
Dám đối mặt thú nọ
Oai hùng và đồ sộ. |
645. Asīho sīhamānena yo attānaṃ
vikubbati,
kotthuva gajamāsajja seti bhūmyā anutthunaṃ.
|
645. “Kẻ nào không phải là loài
sư tử, tự đánh tráo bản thân với ngă mạn của loài sư tử, tựa như
con chó rừng nằm dài trên mặt đất rên rỉ, sau khi chạm trán với
con voi. |
Chó rừng nọ mang oai Sư tử,
Đă một lần toan cự voi kia.
Ngă nhào, ngực vỡ kêu la,
Mới hay tiếc đă vội ra đối đầu. |
646. Yasassino uttamapuggalassa
sañjātakhandhassa mahabbalassa,
asamekkhiya thāmabalūpapattiṃ
sa seti nāgena hatova jambuko.
|
646. Sau khi không suy xét về
việc đạt đến sức mạnh và trí lực
của hạng người tối thượng, có danh tiếng,
có thân h́nh được h́nh thành với sức mạnh vĩ đại,
con chó rừng ấy đă bị giết chết bởi con voi. |
Ai thích đấu kẻ nào siêu đẳng
Sức mạnh kia nếu chẳng nhận ghi,
Sẽ đành chia xẻ tức th́
Chó rừng số phận sầu bi thế này. |
647. Yo cidha kammaṃ kurute
pamāya
thāmabalaṃ attani saṃviditvā,
jappena mantena subhāsitena
parikkhavā so vipulaṃ jinātī ”ti.
5. Jambukajātakaṃ.
|
647. Và ở đây, người nào làm công
việc sau khi đă lượng sức,
sau khi tự nhận biết sức mạnh và trí lực của bản thân,
với tri thức, nhờ vào sự tham vấn, bằng lời khéo nói,
có sự khôn khéo, người ấy chiến thắng kẻ thù to lớn.”
5. Bổn sanh Con Chó Rừng.
|
Kẻ biết lượng sức tài ḿnh có,
Biết e dè khi tỏ lời ra,
Sống tṛn bổn phận đời ta,
Bao nhiêu cừu địch cũng là thắng thôi.
Câu chuyện
335 |
Trang 192:
|
Trang 193:
|
648. Tiṇaṃ tiṇanti lapasi ko nu
te tiṇamāhari,
kinnu te tiṇakiccatthi tiṇameva pabhāsasi.
|
648. “Bệ hạ nói lảm nhảm: ‘Cỏ,
cỏ,’ vậy người nào đă mang cỏ lại cho bệ hạ? Bệ hạ chỉ nói về cỏ
mà thôi, vậy bệ hạ có việc ǵ cần làm với cỏ?” |
"Cỏ" vẫn là tiếng ngài kêu măi,
Kẻ nào giành cỏ ấy của ngài?
Ngài cần chi với cỏ vầy?
Tại sao ngài cứ lời này thốt ra? |
649. Idhāgamā brahmācārī brahā
chatto bahussuto,
so me sabbaṃ samādāya tiṇaṃ nikkhippa gacchati.
|
649. “Vị thực hành Phạm hạnh vĩ
đại, nổi tiếng, tên Chatta đă đi đến đây. Vị ấy đă lấy tất cả
(của cải) của trẫm, để lại cỏ, rồi ra đi.” |
Chính đạo sĩ Chat-ta nổi tiếng.
Như thế này câu chuyện xảy ra;
Nó đem cỏ thế vàng ta,
Ta đây trách cứ riêng nhà nó thôi. |
650. Evetaṃ hoti kattabbaṃ appena
bahumicchatā,
sabbaṃ sakassa ādānaṃ anādānaṃ tiṇassa ca,
cāṭīsu pakkhipitvāna tattha kā paridevanā.
|
650. “Như vậy, điều ấy là nên
làm, là việc muốn nhiều so với ít.
Việc lấy tất cả cho bản thân, và việc không lấy đối với cỏ,
sau khi đă để cỏ trong những cái hũ, trường hợp ấy, có sự than
văn ǵ?” |
Bọn tinh ma vẫn noi đường lối:
"Cho ít thôi, nhưng đổi lấy nhiều".
Của riêng phần nó mang theo,
Cỏ kia để lại, há điều khôn ngoan? |
651. Sīlavanto na kubbanti bālo
sīlāni kubbati,
aniccasīlaṃ dussīlyaṃ kiṃ paṇḍiccaṃ karissatī ”ti.
6. Brahāchattajātakaṃ.
|
651. “Những người có giới hạnh
không làm thế, kẻ ngu c̣n thực hành các giới. Giới không bền
vững là giới tồi, cái ǵ sẽ tạo nên sự sáng suốt?”
6. Bổn sanh Vị Chatta Vĩ Đại.
|
Đức hạnh chẳng theo đàng lối nọ,
Đức này dành cho lũ ngu si,
Đức kia chắc hẳn đáng nghi,
Học theo cũng chẳng ích chi, hăo huyền!
Câu chuyện
336 |
652. Na te pīṭhamadāyimhā na
pānaṃ napi bhojanaṃ,
brahmacāri khamassu me etaṃ passāma accayaṃ.
|
652. “Chúng tôi đă không mời ghế
ngồi đến ngài, không nước uống, vật thực cũng không. Thưa bậc
hành Phạm hạnh, xin ngài hăy tha thứ cho tôi; chúng tôi nh́n
thấy lỗi lầm ấy. |
Ôi, tôi đă chẳng mời ngồi,
Chẳng mang nước uống, chẳng mời ngài ăn.
Tôi đây thú thật tội phần.
Cầu xin Tôn giả một lần thứ tha. |
653. Nevābhisajjāmi na cāpi kuppe
na cāpi me appiyamāsi kiñci,
athopi me āsi manovitakko
etādiso nūna kulassa dhammo.
|
653. “Tôi chẳng vướng mắc chút
ǵ, cũng không bị bực bội,
cũng chẳng có điều ǵ ghét bỏ ở tôi,
tuy nhiên, cũng đă có ư nghĩ khởi lên ở tôi rằng:
‘Có lẽ tập quán của gia đ́nh là như thế ấy?’” |
Thứ tha tôi có chi mà!
Tôi nào cảm thấy phiền hà ǵ đâu!
Lần kia, một ư thoáng mau:
"Người đây, thói tục phần nào lạ xa". |
654. Esasmākaṃ kule dhammo
pitupitāmaho sadā,
āsanaṃ udakaṃ pajjaṃ sabbetaṃ nipadāmase.
|
654. “Điều này là tập quán của
gia đ́nh chúng tôi, thường xuyên từ thời cha ông: chỗ ngồi, nước
rửa chân, dầu thoa chân, chúng tôi dâng mọi thứ ấy. |
Thói tục từ lâu đời
Truyền tận đến chúng tôi
Mỗi lần khác lạ đến
Ân cần vẫn đón mời. |
655. Esasmākaṃ kule dhammo
pitupitāmaho sadā,
sakkaccaṃ upatiṭṭhāma uttamaṃ viya ñātakan ”ti.
7. Pīṭhajātakaṃ.
|
655. Điều này là tập quán của gia
đ́nh chúng tôi, thường xuyên từ thời cha ông: chúng tôi phục vụ
một cách trân trọng tựa như thân nhân bậc trên.”
7. Bổn sanh Ghế Ngồi.
|
Chỗ khách ngồi, mời mọc,
Cung cấp thứ khách cần,
Mang nước đến rửa chân,
Đăi khách như thân tộc.
Câu chuyện
337 |
656. Viditaṃ thusaṃ undurānaṃ
viditaṃ pana taṇḍulaṃ,
thusaṃ thūlaṃ vivajjetvā taṇḍulaṃ pana khādare.
|
656. “Đối với những con chuột, vỏ
trấu được nhận biết, hạt cơm lại càng được nhận biết. Sau khi
loại bỏ vỏ trấu thô cứng, chúng ăn toàn hạt cơm. |
Giác quan nhạy, chuột kia tinh
xảo,
Trong phần cơm, nhận thấu rơ ra:
Tránh ăn nhiều vỏ trấu kia,
Lựa cơm từng hạt để mà ăn thôi. |
657. Yā mantanā araññasmiṃ yā ca
gāme nikaṇṇikā,
yañcetaṃ iticītica etampi viditaṃ mayā.
|
657. Lời bàn bạc nào ở trong
vườn, và lời thủ thỉ nào ở trong làng, hành động nào là như vầy
và như vầy, việc ấy cũng được trẫm biết nữa. |
Chuyện bí mật ở trong rừng đó,
Chính ta đây hiểu rơ c̣n chi!
Trong làng, mưu định thầm th́,
Bao nhiêu cũng đă rơ ghi tai này. |
658. Dhammena kira jātassa pitā
puttassa makkaṭo,
daharasseva santassa dantehi phalamacchidā.
|
658. Nghe nói rằng khỉ cha, theo
bản năng, đă dùng những cái răng cắn đứt tinh hoàn của khỉ đực
con đă được sanh ra, trong khi nó hăy c̣n rất trẻ. |
Con khỉ nọ ra tay một bận,
Làm những điều tán tận ác nguy.
Khi con bé bỏng biết chi,
Sức kia há đủ để b́ được chăng? |
659. Yametaṃ parisappasi
ajakāṇova sāsape,
yopāyaṃ heṭṭhato sesi etampi viditaṃ mayā ”ti.
8. Thusajātakaṃ.
|
659. Việc ngươi ḅ trườn quanh,
tựa như con dê chột mắt chạy lạc ở cánh đồng mù-tạt, kẻ nào là
người nằm ở bên dưới, điều này cũng đă được trẫm biết rồi.”
8. Bổn sanh Vỏ Trấu.
|
Ngươi thận trọng trườn thân,
giống với
Dê chột kia, đồng cải lạc bầy,
Ngươi đang ẩn nấp dưới đây.
Là ai, ta cũng biết ngay cả rồi!
Câu chuyện
338 |
Trang 194:
|
Trang 195:
|
660. Adassanena morassa sikhino
mañjubhāṇino,
kākaṃ tattha apūjesuṃ maṃsena ca phalena ca.
|
660. “Do chưa nh́n thấy con công,
có chỏm lông, có tiếng kêu ngọt ngào, ở nơi ấy người ta đă cung
phụng con quạ với thịt và trái cây. |
Trước khi công có chỏm
Xuất hiện ở nơi đây.
Quạ được thịt, trái cây,
Làm quà cung dâng đến. |
661. Yadā ca sarasampanno moro
bāverumāgamā,
atha lābho ca sakkāro vāyasassa ahāyatha.
|
661. Và khi con công có âm giọng
đă đến xứ Bāveru, khi ấy lợi lộc và sự trân trọng đối với con
quạ đă bị bỏ quên. |
Giọng ngọt ngào tŕu mến,
Công đến Bà-ve-ru,
Quạ liền bị khước từ,
Lợi dưỡng và danh vọng. |
662. Yāva nupajjati buddho
dhammarājā pabhaṅkaro,
tāva aññe apūjesuṃ puthū samaṇabrāhmaṇe.
|
662. Cho đến khi nào đức Phật,
bậc Pháp Vương, đấng Mặt Trời c̣n chưa hiện khởi, cho đến khi ấy
người ta đă c̣n cúng dường các Sa-môn và Bà-la-môn phàm phu
khác. |
Người ta rất kính trọng
Nhiều đạo sĩ tu hành.
Đến khi Phật khai minh
Ánh hào quang chân lư. |
663. Yadā ca sarasampanno buddho
dhammamadesayi,
atha lābho ca sakkāro titthiyānaṃ ahāyathā ”ti.
9. Bāverujātakaṃ.
|
663. Và khi đức Phật, có âm giọng
của Phạm Thiên, đă thuyết giảng Giáo Pháp, khi ấy lợi lộc và sự
trân trọng đối với các ngoại đạo đă bị bỏ quên.”
9. Bổn sanh Xứ Bāveru.
|
Khi với giọng từ ái,
Đức Phật thuyết pháp ra;
Ngoại đạo bị người ta
Tước đi mọi danh lợi.
Câu chuyện
339 |
664. Adāsi dānāni pure visayha
dadato ca te khayadhammo ahosi,
ito parañce na dadeyya dānaṃ
tiṭṭheyyuṃ te saññamantassa bhogo.
|
664. “Này Visayha, trước đây ngài
đă bố thí nhiều vật thí,
và trong khi ngài bố thí, t́nh trạng khánh kiệt đă xảy ra cho
ngài.
Nếu từ nay về sau, ngài không bố thí vật thí nữa,
trong khi ngài tự kiềm chế, các của cải sẽ tồn tại cho ngài.”
|
Vi-say-ha, xưa người ban tặng,
Bố thí nhiều, mất hẳn giàu sang.
Nay giữ ḿnh, chớ trao ban
Niềm vui bền vững, người hằng sống luôn. |
665. Anariyamariyena sahassanetta
suduggatenāpi akiccamāhu,
mā vo dhanaṃ taṃ janinda ahuvā
yambhogahetu vijahema saddhaṃ.
|
665. “Thưa vị Ngh́n Mắt, chư
Thánh nhân đă nói việc không cao thượng là việc không nên làm
bởi người cao thượng, mặc dầu vô cùng nghèo khổ. Thưa vị chúa
của loài người, nếu v́ nguyên nhân thọ dụng của cải mà chúng tôi
ĺa bỏ niềm tin bố thí, th́ của cải ấy chớ có cho chúng tôi.
|
Thế không đúng - đời thường vẫn
bảo:
Hành vi hèn làm xấu cho danh.
Đấng ngh́n mắt, hăy ngó ngàng
Cho tôi khỏi lỗi, dù đang khổ sầu. |
666. Yena eko ratho yāti yāti
tena paro ratho,
porāṇaṃ nihitaṃ vattaṃ vattataññeva vāsava.
|
666. Chiếc xe trước đi bằng con
đường nào, th́ chiếc xe sau cũng đi bằng chính con đường ấy.
Thưa Chúa của chư Thiên, hăy để cho công việc đă được lập ra
trước đây được tiếp tục (chớ ngăn lại). |
Xin chớ để bao nhiêu của cải
Tôi chi tiêu, ngu dại, phóng cuồng
Ch́m vào dục lạc, hư danh
Chỉ xin như trước, thêm phần phúc may. |
667. Yadi hessati dassāma asante
kiṃ dadāmase,
evaṃ bhūtāpi dassāma mā dānaṃ pamadāmhase ”ti.
10. Visayhajātakaṃ.
|
667. Nếu chúng tôi c̣n sống,
chúng tôi sẽ bố thí, khi không c̣n sống th́ chúng tôi bố thí cái
ǵ? Mặc dầu chúng tôi là (người cắt cỏ) như vầy, chúng tôi cũng
sẽ bố thí, chớ để chúng tôi xao lăng việc bố thí.”
10. Bổn sanh Trưởng Giả Visayha.
|
Theo xe xưa, xe nay vững tiến,
C̣n sống đây, tôi vẫn trao ban
Dù đang cảnh khổ tôi mang,
Ư tôi cao thượng xin đừng cản ngăn.
Câu chuyện
340 |
Kokālikavaggo catuttho.
*****
|
Phẩm Kokālika là
thứ tư.
***** |
TASSUDDĀNAṂ
Ativelaṃ pabhāsati jinavaro
vanamajjherathesabhajimhagamo,
atha jambutiṇāsanapīṭhavaraṃ
atha taṇḍula mora visayha dasa.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Kẻ phát biếu quá thời hạn, chuyện đánh bại người,
đấng thủ lănh xa binh ở giữa cánh rừng, việc đi quanh co,
rồi chó rừng, cỏ, chuyện chỗ ngồi và ghế ngồi,
rồi hạt cơm, con công, và trưởng giả Visayha, là mười.
--ooOoo-- |
Trang 196:
|
Trang 197:
|
▪ 5.
CŪḶAKUṆĀLAVAGGO |
▪ 5. PHẨM
TIỂU KUṆĀLA
|
CHƯƠNG BỐN
(Bốn bài kệ)
(Gs. Trần Phương Lan) |
668. Narānamārāmakarāsu nārisu
anekacittāsu aniggahāsu ca,
sabbattanāpītikarāpi ce siyā
na vissase titthasamā hi nāriyo.
|
668. “Các nữ nhân là những người
tạo ra sự khoái lạc cho các nam nhân, các nàng có tâm thất
thường, và không có khả năng kiềm chế, thậm chí có nàng có thể
là người tạo ra sự không vui thích cho mọi đối tượng, không nên
tin tưởng các nàng, bởi v́ các nữ nhân là tương tự như những bến
tắm (ai cũng có thể đến tắm). |
20. Đàn bà phục vụ thú đàn ông,
Chớ một ai tin bọn nữ nhân,
Ḷng dạ chúng thường thay đổi măi,
Dục tham chúng lại cứ buông lung.
Nữ nhân xứng gọi người cầu lạc
Hèn mạt nhất trong đám hạ tầng,
Chúng vẫn giống như là bến tắm
Thường chung chạ với mọi nam nhân. |
669. Yaṃ ve disvā kaṇḍarī
kinnarānaṃ.
sabbitthiyo na ramanti agāre,
taṃ tādisaṃ maccaṃ cajitvā bhariyā
aññaṃ disvā purisaṃ pīṭhasappiṃ.
|
669. Thật vậy, sau khi nh́n thấy
ở chuyện của vua Kaṇḍarī và hoàng hậu Kinnarā rằng: Tất cả các
nữ nhân không thích thú (những ông chồng của ḿnh) ở gia đ́nh.
Sau khi từ bỏ người nam như vị vua Kaṇḍarī ấy, người vợ (hoàng
hậu) đă gặp gỡ nam nhân khác là người què quặt. |
21. Từ chuyện Kin-na, Kan-da vương
Có nhiều việc tỏ lộ ra rằng:
Nữ nhân tất cả đều không thấy
Thích thú trong nhà chúng trú an;
Người vợ bỏ rơi chồng cách ấy,
Dù chồng thắm thiết lại hùng cường,
Vẫn thường đi với đàn ông khác,
Ngay với gă què cũng lạc đường. |
670. Bakassa ca pāvārikassa rañño
accantakāmānugatassa bhariyā,
avācarī baddhavasānugassa
kaṃ vā itthī nāticare tadaññaṃ.
|
670 Vua Baka và vua Pāvārika,
là người đeo đuổi dục vọng tột đỉnh, có người vợ
đă hành quấy với gă tôi đ̣i bị giam giữ;
vậy c̣n người nam nào khác nữa mà nữ nhân không thể hành quấy? |
22. Pà-và chánh hậu, Ba-ka vương,
Tham dục hai vua thật khó lường,
Tuy thế, nàng kia c̣n phạm tội
Với tên nô lệ của chồng nàng.
Vậy c̣n tên hạ tiện nào khác
Nàng lại không mong thuốn phạm gian? |
671. Piṅgiyāni sabbalokissarassa
rañño piyā brahmadattassa bhariyā,
avācarī baddhavasānugassa
taṃ vāpi sā nājjhagā kāmakāminī ”ti.
1. Kinnarījātakaṃ.
|
671. Người vợ yêu dấu của vua
Brahmadatta,
của vị chúa tể toàn thể thế gian, tên Piṅgiyānī
đă hành quấy với gă tôi đ̣i bị giam giữ,
người nữ có ham muốn dục vọng ấy đă không đạt được vua hay gă
ấy.”
1. Bổn sanh Hoàng Hậu Kinnarī.
|
23. Kiều nữ Ping-ya, ái hậu vua
Brah-ma-dat ngự trị sơn hà,
Tuy nhiên, nàng với tên nô lệ,
Của đấng quân vương phạm dục tà,
Do bởi hoang dâm, nàng mất hết
Cả quân vương lẫn gă gia nô.
Câu chuyện
341 |
672. Asakkhiṃ vata attānaṃ
uddhātuṃ udakā thalaṃ,
na dānāhaṃ puna tuyhaṃ vasaṃ gacchāmi vārija.
|
672. “Này cá sấu, hiển nhiên ta
đă có thể nâng đỡ bản thân từ trong nước lên đất liền, giờ đây,
ta sẽ không rơi vào quyền lực của ngươi lần nữa. |
Ta từ nước, cá ơi!
Lên tới đất khô này,
Há chỉ để sau tốt
Rơi vào thế lực ngươi? |
673. Alametehi ambehi jambūhi
panasehi ca,
yāni pāraṃ samuddassa varaṃ mayhaṃ udumbaro.
|
673. Quá đủ với những trái xoài,
những trái mận đỏ, và những trái mít ấy, chúng ở bên kia của
biển cả; đối với ta trái sung quư giá hơn. |
Mít, hồng đào đó ḱa,
Khi ta đă chán ra,
Sung đây ta nên hái,
Hơn trái xoài đằng xa. |
674. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ na
khippamanubujjhati,
amittavasamanveti pacchā ca anutappati.
|
674. Và kẻ nào không mau chóng
nhận ra cơ hội đă được sanh lên, rồi đi theo quyền lực của kẻ
thù, sau này sẽ bị ân hận. |
Kẻ nào gặp dịp tốt
Mà chẳng vươn lên được,
Dưới chân kẻ nghịch thù,
Thảm thương nằm lạy lục. |
675. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ khippameva nibodhati,
muccate sattusambādhā na ca pacchānutappatī ”ti.
2. Vānarajātakaṃ.
|
675. Và người nào mau chóng biết
được cơ hội đă được sanh lên, rồi được thoát khỏi sự áp bức của
kẻ thù, sau này sẽ không bị ân hận.”
2. Bổn sanh Con Khỉ.
|
Kẻ nào biết ngay liền
Nỗi nguy biến phần ḿnh,
Không hề bị uy hiếp.
Trước kẻ nghịch cường quyền.
Câu chuyện
342 |
Trang 198:
|
Trang 199:
|
676. Avasimhā tavāgāre niccaṃ
sakkatapūjitā,
tvameva dāni c’ akari handa rāja vajāmahaṃ.
|
676. “Tôi đă sống ở nhà của bệ
hạ, thường xuyên được tôn vinh trân trọng. Và giờ đây, chính bệ
hạ đă làm quấy. Tâu bệ hạ, vậy tôi phải ra đi.” |
Lâu nay tôi giúp đỡ nhà này
Như chính nhà tôi - được trọng thay,
Nhưng chính v́ ngài làm thế đấy.
Bây giờ tôi phải bỏ đi ngay. |
677. Yo ve kate paṭikate kibbise
paṭikibbise,
evaṃ taṃ sammati veraṃ vasa kuntini māgamā.
|
677. “Thật vậy, người nào, khi
tội ác đă được gây ra, và hành động báo thù đă được đáp trả; như
vậy, hận thù ấy đă được lặng yên, này chim dẽ cái, hăy ở lại,
chớ bỏ đi.” |
Người ta thanh toán nỗi cừu
oan,
Hại nọ, hại này phải xứng cân,
Thù hận thế là nên dẹp bỏ,
Hạc hiền, hăy ở lại, ta van. |
678. Na katassa ca kattā ca metti
sandhīyate puna,
hadayaṃ nānujānāti gacchaññeva rathesabha.
|
678. “T́nh thân hữu giữa người bị
hại và kẻ gây hại không thể kết nối lại được nữa. Tôi không thể
mềm ḷng, tâu đấng thủ lănh xa binh, tôi nhất định ra đi.”
|
Kẻ bị hại cùng người tác hại.
Không bao giờ ḥa hợp như xưa
Tâu vua chớ giữ tôi đây nữa,
Thôi nhé, tôi đây đến chốn xa. |
679. Katassa ceva kattā ca metti
sandhīyate puna,
dhīrānaṃ no ca bālānaṃ vasa kuntini māgamā ”ti.
3. Kuntinījātakaṃ.
|
679. “T́nh thân hữu giữa người bị
hại và kẻ gây hại có thể kết nối lại được giữa các bậc sáng trí,
và không thể giữa những kẻ ngu si; này chim dẽ cái, hăy ở lại,
chớ bỏ đi.”
3. Bổn sanh Chim Dẽ Cái.
|
Nếu họ khôn ngoan chẳng dại
khờ,
Có cơ sống an ổn, hài ḥa,
Kẻ gây hại với người mang hại,
Này hạc hiền ơi, ở lại mà.
Câu chuyện
343 |
680. Yo nīliyaṃ maṇḍayati
saṇḍāsena vihaññati,
tassa sā vasamanvetu yā te ambe avāhari.
|
680. “Cô nào đă trộm những trái
xoài của ông, cầu cho nàng ấy hăy rơi vào quyền lực của người
đàn ông trang điểm tóc nhuộm đang khổ sở v́ cái nhíp nhổ tóc. |
Cô nào đă ăn xoài ngài đó
Sẽ gặp chồng thô lỗ cục cằn,
Râu lông xoắn xám, xảo giảm,
Tóc kia từng lọn uốn quăn trên đầu. |
681. Vīsaṃ vā pañcavīsaṃ vā
ūnatiṃsaṃva jātiyā,
tādisā patimāladdhā yā te ambe avāhari.
|
681. “Cô nào đă trộm những trái
xoài của ông, người như nàng ấy chớ có kiếm được chồng cho đến
hai mươi, hoặc hai mươi lăm, hoặc xấp xỉ ba mươi tuổi.” |
Hăy cho cô trộm cây xoài ấy,
Kiếm măi chồng chẳng thấy ai ra.
Mười ba, mười chín tuổi qua,
Ba mươi gần đến biết là làm sao. |
682. Dīghaṃ gacchatu addhānaṃ
ekikā abhisāriyā,
saṅkete pati māddasa yā te ambe avāhari.
|
682. “Cô nào đă trộm những trái
xoài của ông, cầu cho nàng ấy phải lặn lội đường xá xa xôi, đơn
độc một ḿnh, đi gặp người yêu, và chẳng gặp được người t́nh ở
điểm hẹn.” |
Kẻ nào đă vào ăn xoài ngọt
Sẽ cô đơn khổ nhọc lên đường,
Đến nơi ḥ hẹn muộn màng,
Sầu đau khi thấy t́nh lang đi rồi! |
683. Alaṅkatā suvasanā mālinī
candanussadā,
ekikā sayane setu yā te ambe avāharī ”ti.
4. Ambacorajātakaṃ.
|
683. “Cô nào đă trộm những trái
xoài của ông, cầu cho nàng ấy đă được trang điểm, mặc y phục
đẹp, có tràng hoa, thoa nhiều trầm hương, nằm ngủ đơn độc một
ḿnh ở trên giường.”
4. Bổn sanh Kẻ Trộm Xoài.
|
Cô nào đă làm hư cây hết,
Mặc đồ xinh, đầu kết hoa cài.
Dầu chiên-đàn vẫn xức hoài,
Nhưng giường kia vẫn miệt mài gái tân!
Câu chuyện
344 |
Trang 200:
|
Trang 201:
|
684. Vanaṃ yadaggi dahati pāvako
kaṇhavattanī,
kathaṃ karosi pacalaka evaṃ dandhaparakkamo.
|
684. “Vào lúc ngọn lửa, thần hỏa
với sự làm thành tối đen, thiêu đốt khu rừng, này rùa, với sự ra
sức chậm chạp như vậy, ngươi sẽ làm thế nào?” |
Một khi lửa cháy lan rừng,
Phải rời đi tránh con đường khói sau,
Hỡi anh Lệt-bệt, làm sao
T́m ra cho được cách nào an thân? |
685. Bahūni rukkhachiddāni
pathavyā vivarāni ca,
tāni ce nābhisambhoma hoti no kālapariyāyo.
|
685. “Có nhiều lỗ hổng ở các cây
và nhiều khe nứt ở mặt đất, nếu chúng tôi không đến được các nơi
ấy, th́ chúng tôi sẽ chấm dứt cuộc đời.” |
Nơi nào cũng lắm lỗ hang,
Cây nào cũng nứt ra từng hốc kia.
Đấy đều chỗ trú ấy mà,
Nếu không t́m được đành là chết luôn! |
686. Yo dandhakāle tarati
taraṇīye ca dandhati,
sukkhapaṇṇaṃva akkamma atthaṃ bhañjati attano.
|
686. “Người nào vội vă vào thời
điểm chậm răi và chậm răi vào lúc nên vội vă, người ấy phá vỡ
mục đích của bản thân tựa như giẫm đạp chiếc lá khô. |
Ai hấp tấp khi cần nghĩ lại,
Và chậm lâu khi phải thực nhanh
Sẽ làm tiêu phúc mong manh,
Như cành lá nọ dưới chân đạp đầy. |
687. Yo dandhakāle dandheti
taraṇīye ca tārayi,
sasīva rattiṃ vibhajaṃ tassattho paripūratī ”ti.
5. Gajakumbhajātakaṃ.
|
687. Người nào chậm răi vào thời
điểm chậm răi và vội vă vào lúc nên vội vă, mục đích của người
ấy được tṛn đầy tựa như mặt trăng được tṛn dần trong lúc chiếu
sáng vào ban đêm.”
5. Bổn sanh Con Rùa.
|
Nhưng hễ ai chờ ngay đúng lúc,
Thực hành không hấp tấp vội vàng,
Làm tṛn mục đích ḿnh mang,
Như vần trăng vẫn trọn đường nó đi.
Câu chuyện
345 |
688. Manussindaṃ jahitvāna
sabbakāmasamiddhinaṃ,
kathaṃ nu bhagavā kesi kappassa ramati assame.
|
688. “Sau khi rời bỏ đấng chúa tể
của dân chúng, vị có sự thành tựu mọi ước muốn, làm thế nào mà
bậc hữu phần Kesava lại vui thích ở khu ẩn cư của Kassapa?” |
Ngài vừa sống cùng hàng vương
giả
Vua sẵn ḷng cho thỏa nguyện ngài
Lều Kap-pa có ǵ hay
Ke-sa-va phải nơi đây lui về? |
689. Sādhūni ramaṇīyāni santi
vakkhā manoramā,
subhāsitāni kappassa nārada ramayanti maṃ.
|
689. “Này Nārada, có những cây
làm thích ư, và những lời khéo nói, ngọt ngào, đáng mến của
Kassapa làm ta vui thích.” |
Mọi thứ đây, tràn trề yêu mến,
Nà-ra-da, yêu đến cả cây
Lời Kap-pa, hỷ lạc đầy
Dâng lên âm hưởng vui vầy ḷng ta. |
690. Sālīnaṃ odanaṃ bhuñje
sucimaṃsūpasecanaṃ,
kathaṃ sāmākanīvāraṃ aloṇaṃ chādayanti taṃ.
|
690. “Ngài thọ thực bữa ăn với
gạo sālī, có trộn lẫn thịt tinh khiết, làm thế nào mà ngài ưa
thích cơm lúa miến và hạt kê không muối ấy?” |
Quen gạo tinh nấu pha với
thịt,
Món nhạt kia, ngài biết sao ăn?
Làm sao hạt cỏ, gạo hoang,
Ngài chia xẻ được với đoàn ẩn tu? |
691. Asāduṃ yadi vā sāduṃ appaṃ
vā yadi vā bahuṃ,
vissattho yattha bhuñjeyya vissāsaparamā rasā ”ti.
6. Kesavajātakaṃ.
|
691. “Dầu là không ngon ngọt hay
là ngon ngọt, dầu là ít hay là nhiều, nơi nào có thể thọ thực
với niềm tin, các vị nếm có sự tin tưởng là nhất hạng.”
6. Bổn sanh Ẩn Sĩ Kesava.
|
Thức ăn có thể là ngon, dở,
Chỉ ít ỏi hay có rất nhiều;
Nhưng ăn đầy đủ thương yêu,
Thương yêu, nước chấm tuyệt chiêu được t́m.
Câu chuyện
346 |
692. Sabbāyasaṃ kūṭamatippamāṇaṃ
paggayha so tiṭṭhati antalikkhe,
rakkhāya me tvaṃ vihito nusajja
udāhu me vāyamase vadhāya.
|
692. “Ngươi đứng ở hư không giơ
lên
cây búa hoàn toàn làm bằng sắt, có kích thước quá cỡ.
Hôm nay, có phải ngươi tính toán để bảo vệ ta,
hay ngươi ra sức để giết chết ta?” |
Tại sao giữa không trung,
ngươi đang đứng
Hỡi Dạ-xoa, chày sắt lớn trên tay,
Phải chăng ngươi ngăn kẻ hại ta đây,
Hay chính lúc ta bị ngươi làm hại? |
693. Dūto ahaṃ rājidha
rakkhasānaṃ
vadhāya tuyhaṃ pahitohamasmi,
indo ca taṃ rakkhati devarājā
tenuttamaṅgaṃ na te phālayāmi.
|
693. “Tâu đức vua, ở đây tôi là
sứ giả của các loài quỷ sứ,
tôi được phái đến để giết ngài,
nhưng vị Thiên Vương Inda hộ tŕ ngài,
v́ thế, tôi không chẻ đôi cái đầu của ngài được.”
|
Là sứ giả của các thần La-sát
Hiện ra đây, tôi nhằm giết ngài thôi,
Chày không vung đập xuống được đầu ngài, |
Trang 202:
|
Trang 203:
|
694. Sace ca maṃ rakkhati
devarājā
devānamindo maghavā sujampati,
kāmaṃ pisācā kandantu sabbe
na santase rakkhasiyā pajāya.
|
694. “Và nếu vị hộ tŕ ta là đấng
Thiên Vương,
Chúa tể của chư Thiên, vị Trời Đế Thích, Chồng của nàng Sujā,
th́ hăy để cho tất cả yêu tinh kêu gào theo ư thích,
ta không run sợ ḍng dơi của loài quỷ sứ.
|
Nếu Ind-ra là Su-jà Chúa tể
Đấng Đại vương, Thiên chủ đoái giúp ta,
Dù xé trời, yêu quỷ thét gầm la,
Cũng chẳng đủ sức làm ta sợ hăi. |
695. Kāmaṃ kandantu kumbhaṇḍā
sabbe paṃsupisācakā,
nālaṃ pisācā yuddhāya mahatī sā vibhiṃsikā ”ti.
7. Ayakūṭajātakaṃ.
|
695. Hăy để cho tất cả các Dạ Xoa
bụng bự, các yêu tinh ở băi rác kêu gào theo ư thích. Các yêu
tinh không đủ khả năng để chiến đấu với ta, mặc dù chúng lớn xác
và có vẻ khủng khiếp.”
7. Bổn sanh Cái Búa Sắt.
|
Hăy để bọn ma bùn, yêu tinh ấy
Mặc sức mà xàm bậy nói lung tung
Bọn chúng đâu đủ sức sánh ngang cùng
Khi có cuộc đối đầu rất nghiêm trọng!
Câu chuyện
347 |
696. Araññā gāmamāgamma kiṃ sīlaṃ
kiṃ vataṃ ahaṃ,
purisaṃ tāta seveyyaṃ taṃ me akkhāhi pucchito.
|
696. “Thưa cha, sau khi từ rừng
đi vào làng, con nên phục vụ người có giới thế nào, có phận sự
thế nào? Được hỏi, xin cha hăy nói về điều ấy cho con.” |
Mối nghi này, thưa cha xin
giải tỏa
Nếu từ rừng, con lạc tới làng kia,
Người tông môn, hay trường phái đâu là,
Con phải chọn để kết giao làm bạn? |
697. Yo taṃ vissāsaye tāta
vissāsañca khameyya te,
sussūsī ca titikkhī ca taṃ bhajehi ito gato.
|
697. “Này con, người nào tin
tưởng con và đạt được sự tin tưởng của con, có sự lắng nghe và
có sự nhẫn nhịn, con hăy thân cận người ấy khi con ra đi khỏi
nơi này. |
Kẻ được con yêu mến,
Đem tâm t́nh trao đến,
Là kẻ tin lời con,
Nhẫn nhịn con trọn vẹn. |
698. Yassa kāyena vācāya manasā
natthi dukkaṭaṃ,
orasiva patiṭṭhāya taṃ bhajehi ito gato.
|
698. Người nào không có việc làm
sái quấy bằng thân, bằng khẩu, và bằng ư, con hăy thân cận người
ấy khi con ra đi khỏi nơi này, tựa như (đứa bé trai) nằm yên ở
trên ngực (người cha). |
Ai tư tưởng, lời nói,
Hành vi không phạm lỗi,
Con hăy chọn người này,
Làm bạn ḷng măi măi. |
699. Haḷiddarāgaṃ kapicittaṃ
purisaṃ rāgavirāginaṃ,
tādisaṃ tāta mā sevi nimmanussampi ce siyā ”ti.
8. Āraññajātakaṃ.
|
699. Này con, với người có tâm
không chắc chắn, như màu của củ nghệ, như tâm của loài khỉ, mau
chóng thay đổi, con chớ phục vụ người như thế ấy, dẫu cho không
có người nào khác.”
8. Bổn sanh Khu Rừng.
|
Với người hay thay đổi,
Như loài khỉ lông bông,
Thà chịu phận cô đơn,
Đừng hướng về kẻ ấy.
Câu chuyện
348 |
700. Neva itthīsu sāmaññaṃ napi
bhakkhesu sārathi,
athassa sandhibhedassa passa yāva sucintitaṃ.
|
700. “Này người đánh xe, (giữa sư tử và ḅ mộng) chẳng những
không có sự tương đồng về nữ giới, mà c̣n không có sự giống nhau
về thức ăn nữa, giờ ngươi hăy nh́n xem sự suy nghĩ khôn khéo
trong việc phá vỡ mối liên kết này (giữa hai con thú).
|
Cặp này chẳng có ǵ chung
Vợ con, ăn uống, chẳng cùng xẻ chia.
Nhưng ḱa, lời nói gièm pha
Như gươm hai lưỡi thật là bén thay. |
701. Asi tikkhova maṃsamhi
pesuññaṃ parivattati,
yatthūsabhañca sīhañca bhakkhayanti migādhamā.
|
701. Việc nói đâm thọc tác động tựa như cây gươm bén chia cắt
miếng thịt, ở câu chuyện này, các con thú tồi tệ xơi thịt con ḅ
mộng và con sư tử. |
Xảo gian thủ thuật khéo bày
Phân chia bằng hữu lâu ngày kết thân.
Thú kia hèn kém nhất trần
Nhưng ḅ, sư tử phải thành mồi ngon: |
702. Imaṃ so sayanaṃ seti yayimaṃ
passasi sārathi,
yo vācaṃ sandhibhedassa pisunassa nibodhati.
|
702. Này người đánh xe, ngươi hăy nh́n thấy điều này: Kẻ nào
nghe theo lời nói đâm thọc chia rẽ mối liên kết, kẻ ấy lâm vào
hoàn cảnh này (bị chết như hai con thú kia).
|
Bạn ḷng cũng sẽ khổ buồn
Như đôi thú nọ một tuồng mà thôi;
Nếu như tai cố nghe lời
Khiêu khích to nhỏ của người gièm pha. |
Trang 204:
|
Trang 205:
|
703. Te janā sukhamedhanti narā
saggagatāriva,
yo vācaṃ sandhibhedassa nāva bodhenti sārathī ”ti.
9. Sandhibhedajātakaṃ.
|
703. Này người đánh xe, những người nào không tiếp thu lời nói
chia rẽ mối liên kết, những người ấy đạt được sự an lạc, tựa như
những người đă đi đến cơi trời.”
9. Bổn sanh Chia Rẽ Mối Liên Kết.
|
Gièm pha vốn vẫn chia xa
Những người bằng hữu thật là thiết thân.
Gièm pha nếu chẳng quan tâm,
Sẽ như tiên ở thiên đàng vinh quang.
Câu chuyện
349 |
704. Hanti hatthehi pādehi
mukhañca parisumbhati,
sa ve rāja piyo hoti kaṃ tenamabhipassasi.
|
704. “Gă ấy đánh bằng những cánh
tay, bằng những bàn chân, và gă ấy đấm vào mặt. Tâu bệ hạ, gă ấy
quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có ai đáng yêu hơn gă ấy?” |
50. Kẻ ấy đánh bằng chân lẫn tay,
Đánh luôn cả mặt, mũi, tai, mày,
Tuy nhiên kẻ ấy, tâu Hoàng thượng,
Thân thiết hơn chồng nữa, lạ thay! |
705. Akkosati yathākāmaṃ
āgamañcassa na icchati,
sa ve rāja piyo hoti kaṃ tenamabhipassasi.
|
705. “Người sỉ vả gă ấy tùy theo
ư thích, nhưng người lại mong muốn sự quay về của gă ấy. Tâu bệ
hạ, gă ấy quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có ai đáng yêu hơn gă
ấy?” |
51. Bà mắng kẻ kia thật tệ tàn,
Nhưng bà muốn nó ở kề gần,
Kẻ kia, tuy vậy, tâu Hoàng thượng,
C̣n thiết thân hơn chính cả chồng. |
706. Abbhakkhāti abhūtena
alikenamabhisāraye,
sa ve rāja piyo hoti kaṃ tenamabhipassasi.
|
706. “Người trách móc gă ấy với
việc không có thật, người buộc tội với chuyện giả dối. Tâu bệ
hạ, gă ấy quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có ai đáng yêu hơn gă
ấy?” |
52. Nàng mắng nhiếc chàng chẳng lư do,
Và nàng trách móc thật vu vơ,
Tuy nhiên, chàng ấy, tâu Hoàng thượng,
Thân thiết hơn chồng nữa, lạ chưa? |
707. Haraṃ annañca pānañca
vatthasenāsanāni ca,
aññadatthu harā santā te ve rāja piyā honti,
kaṃ tenamabhipassasī ”ti.
10. Devatāpañhajātakaṃ.
|
707. “Trong khi lấy mang đi cơm,
nước, y phục, và chỗ trú ngụ, thật vậy, những người lấy mang đi
là những người tốt. Tâu bệ hạ, những người ấy quả thật đáng yêu;
bệ hạ xem có những ai đáng yêu hơn những người ấy?”
10. Bổn sanh Các Câu Hỏi Của Vị Thiên Nhân.
|
53. Lấy thực phẩm,
y phục, tọa sàng,
Thiện nhân mang mọi vật lên đàng,
Tuy nhiên, các vị, tâu Hoàng thượng,
C̣n thiết thân hơn chính cả chồng.
Câu chuyện
350 |
Cūḷakuṇālavaggo pañcamo.
*****
|
Phẩm
Tiểu Kuṇāla là thứ năm.
***** |
TASSUDDĀNAṂ
Narānaṃ asakkhivasimhavaro
nīliyamaggivarañca puna,
puna rasāyasakūṭavaro
tathāraññasārathi hanti dasa.
Catukkanipāto niṭṭhito.
*****
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Đối với các nam nhân, ta đă có thể, và chuyện tôi đă sống,
tóc nhuộm, rồi lại chuyện ngọn lửa,
thêm nữa là chuyện các vị nếm, và cái búa bằng sắt,
tương tự là khu rừng, người đánh xe, và gă ấy đánh, là mười.
Nhóm Bốn Kệ Ngôn được chấm dứt.
***** |
TATRA VAGGUDDĀNAṂ
Vivaraṃ pucimandañca
kuṭidūsaṃ bahūbhāṇakaṃ,
cūḷakuṇālavaggo so
pañcamo suppakāsito ”ti.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC CÁC PHẨM Ở NHÓM NÀY
Hăy mở ra, và cây Pucimanda,
kẻ phá hoại cốc liêu, kẻ nói nhiều,
phẩm tiểu Kuṇāla ấy,
là thứ năm, đă khéo được giảng giải.
--ooOoo-- |
<Trang trước> |
<Trang Kế> |