III.
TIKAKANIPĀTO - NHÓM BA KỆ NGÔN
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 124: |
Trang 125:
|
▪ 1.
SAṄKAPPAVAGGO
|
▪ 1. PHẨM
TƯ DUY |
CHƯƠNG BA
(Ba bài kệ)
(14) PHẨM SANKAPPA
(HT. Thích Minh Châu) |
358. Saṅkapparāgadhotena
vitakkanisitena ca,
nālaṅkatena bhaddena na usukārakatena ca.
|
358. “Mũi tên ấy đă được tưới
nước luyến ái cùng với sự tư duy (về dục), và đă được nương vào
sự suy tầm, không được trau chuốt, tốt đẹp, và không được tạo ra
bởi người thợ làm tên. |
Không có người bắn cung
Phóng tên ở bên tai,
Không có tên bằng lông
Được nhổ từ cánh công,
Và được trang hoàng đẹp
Bởi người làm tên khéo. |
359. Na kaṇṇāyatamuttena napi
morūpasevinā,
tenamhi hadaye viddho sabbaṅgaparidāhinā.
|
359. Nó không được bắn ra sau khi
kéo căng đến tận lỗ tai, cũng không được thực hiện với lông chim
công. Ta đă bị mũi tên (ái dục) ấy đâm vào trái tim cùng với sự
nóng nảy của toàn bộ thân thể.
|
Chính là tâm của ta
Được gột sạch tham ái
Liên hệ với dục tầm
Bằng quyết tâm, trí tuệ,
Chính dục tạo vết thương
Thiêu đốt khắp tay chân
Chẳng khác ǵ ngọn lửa. |
360. Āvedhañca na passāmi yato
ruhiramassave,
yāva ayoniso cittaṃ sayaṃ me dukkhamābhatan ”ti.
1. Saṅkappajātakaṃ.
|
360. Và ta không nh́n thấy chỗ bị
đâm, từ đó máu có thể chảy ra. Chừng nào tâm c̣n hoạt động không
đúng đường lối, ta c̣n đem đến khổ đau cho chính ḿnh.”
1. Bổn sanh Tư Duy.
|
Ta không thấy vết thương.
Từ đấy máu rỉ chảy,
Do tâm không chân chính,
Đă đâm thủng tự thân.
Câu chuyện
251 |
361. Ajjāpi me taṃ manasi yaṃ maṃ
tvaṃ tilamuṭṭhiyā,
bāhāya maṃ gahetvāna laṭṭhiyā anutāḷayi.
|
361. “Hôm nay, trẫm cũng nghĩ đến
điều ấy, là việc khanh phạt trẫm v́ nắm hạt mè; khanh đă nắm lấy
trẫm ở cánh tay và đă đánh trẫm bằng cây gậy.
|
Hôm nay ta nghĩ đến
Sự việc ông đă làm,
Chỉ v́ một nắm mè,
Ông bắt trói tay ta,
Ông lấy cây gậy tre,
Đánh ta thật đau đớn. |
362. Nanu jīvite na ramasi yenāsi
brāhmaṇāgato,
yaṃ maṃ bāhaṃ gahetvāna tikkhattuṃ anutāḷayī.
|
362. Chẳng phải khanh không vui
thích mạng sống sao? V́ việc ấy, vị Bà-la- môn đă đi đến, là
việc sau khi nắm lấy cánh tay trẫm, khanh đă đánh trẫm ba lần.”
|
Ông không thích sống à?
Phạm chí không sợ sao
Khi bắt cánh tay ta,
Đánh ta đến ba lần?
Nay c̣n dám đến đây? |
362. Ariyo anariyaṃ kubbānaṃ yo
daṇḍena nisedhati,
sāsanatthaṃ na taṃ veraṃ iti naṃ paṇḍitā vidū ”ti.
2. Tilamuṭṭhijātakaṃ.
|
363. “Vị thánh thiện, trong lúc
làm việc không thánh thiện, là vị cấm đoán bằng gậy gộc với mục
đích chỉ dạy, việc ấy không phải là thù hận, các bậc sáng suốt
hiểu rơ điều ấy.”
2. Bổn sanh Nắm Hạt Mè.
|
Bậc thánh dùng gậy đánh,
Nhiếp phục hạnh không lành,
Như vậy đúng giáo lư,
Đây không phải hận thù,
Tất cả bậc hiền trí
Đều biết rơ như vậy.
Câu chuyện
252 |
364. Mamannapānaṃ vipulaṃ uḷāraṃ
uppajjatīmassa maṇissa hetu,
taṃ te na dassaṃ atiyācakosi
na cāpi te assamaṃ āgamissaṃ.
|
364. “Cơm và nước của ta được dồi
dào, tuyệt hảo,
được sanh lên do nhân của viên ngọc ma-ni này.
Ngươi là kẻ xin quá lố, ta không cho vật ấy,
và ta cũng sẽ không đến khu ẩn cư của ngươi nữa. |
Mọi đồ ăn và thức
uống
Được sung măn, đầy tràn,
Chính do ḥn ngọc báu
Đem lại cho ta vầy.
Bạn cầu xin quá nhiều,
Ta không muốn cho bạn.
Ta sẽ không đi đến
Am thất bạn nữa đâu. |
365. Susū yathā sakkharadhotapāṇī
tāsesi maṃ selaṃ yācamāno,
taṃ te na dassaṃ atiyācakosi
na cāpi te assamaṃ āgamissaṃ.
|
365. Như là những đứa trẻ tay cầm
dao mài bén,
ngươi làm ta run rẩy trong khi cầu xin viên ngọc.
Ngươi là kẻ xin quá lố, ta không cho vật ấy,
và ta cũng sẽ không đến khu ẩn cư của ngươi nữa.”
|
Như đứa trẻ cầm tay
Một ḥn sạn trơn láng,
Bạn làm ta sợ hăi
Khi xin ḥn ngọc này!
Bạn cầu xin quá nhiều,
Ta không muốn cho bạn.
Ta sẽ không đi đến
Am thất bạn nữa đâu. |
Trang 126: |
Trang 127:
|
366. Na taṃ yāce yassa piyaṃ
jigiṃse
desso hoti atiyācanāya,
nāgo maṇiṃ yācito brāhmaṇena
adassanaṃyeva tadajjhagamā ”ti.
3. Maṇikaṇṭhajātakaṃ.
|
366. “Dầu mong được vật yêu quư
của người, chớ van xin vật ấy.
Do cầu xin quá đáng trở thành bị ghét bỏ.
Con rồng bị người Bà-la-môn cầu xin ngọc ma-ni,
từ khi ấy, nó đă không c̣n xuất hiện nữa.”
3. Bổn sanh Rồng Chúa Maṇikaṇṭha.
|
Chớ cầu xin người nào
Mà ḿnh thường yêu mến,
V́ nếu xin quá nhiều
Ḿnh trở thành đáng ghét!
Phạm chí này xin măi
Ḥn ngọc của rắn thần,
Nên nó không trở lại
Để thăm viếng nữa đâu!
Câu chuyện
253 |
367. Bhutvā tiṇaparighāsaṃ bhutvā
ācāmakuṇḍakaṃ,
etaṃ te bhojanaṃ āsi kasmādāni na bhuñjasi.
|
367. “Ngươi đă ăn thức ăn chính
là cỏ, ngươi đă ăn cháo cám gạo đỏ. Vật này đă là thức ăn của
ngươi, v́ sao giờ đây ngươi không ăn?” |
Đă ăn cỏ, và cháo
Làm bằng cám gạo đỏ
Món ăn ngon ngày trước
Sao nay con không ăn? |
368. Yattha posaṃ na jānanti
jātiyā vinayena vā,
pahū tattha mahābrahme api ācāmakuṇḍakaṃ.
|
368. “Ở nơi nào số đông không
nhận biết một người về sanh chủng hoặc kỹ năng, ở nơi ấy, thưa
tôn ông, thậm chí cháo cám gạo đỏ cũng là nhiều. |
Khi người nào không biết
Sanh chủng và huấn luyện,
Đối với bậc Phạm chí,
Cháo cám đỏ vừa đủ. |
369. Tvañca kho maṃ pajānāsi
yādisāyaṃ hayuttamo,
jānanto jānamāgamma na te bhakkhāmi kuṇḍakan ”ti.
4. Kuṇḍakakucchisindhavajātakaṃ.
|
369. Và ngài quả thật biết rơ về
tôi rằng: ‘Ngựa như thế này là ngựa hạng nhất.’ Tôi biết, bởi v́
biết thế nên tôi sẽ không ăn cám gạo đỏ của ngài.”
4. Bổn sanh Ngựa Ṇi Với Bụng Cám Gạo Đỏ.
|
Nhưng ông rơ biết tôi
Là ngựa ṇi tối thượng,
Do vậy ở chỗ ông,
Tôi không ăn cháo gạo!
Câu chuyện
254 |
370. Yāva so mattamaññāsi
bhojanasmiṃ vihaṅgamo,
tāva addhānamāpādi mātarañca aposayi.
|
370. “Cho đến chừng nào con chim
ấy c̣n biết chừng mực về vật thực, cho đến khi ấy nó c̣n đạt
được tuổi thọ và c̣n cung phụng người mẹ. |
Khi nào con chim ấy
Biết đủ trong ăn uống,
Chim được thọ mạng dài,
Và nuôi dưỡng cha mẹ. |
371. Yato ca kho bahutaraṃ
bhojanaṃ ajjhupāhari,
tato tattheva saṃsīdi amattaññū hi so ahu.
|
371. Và thật vậy, vào lúc nó đă
thu nạp vật thực nhiều hơn trước, sau đó, nó đă bị ch́m xuống
ngay tại chỗ ấy, bởi v́ nó đă không biết chừng mực. |
Khi chim ăn quá nhiều,
Không biết sự tiết độ,
Tại đấy chim ch́m xuống,
Không c̣n ai thấy nữa. |
372. Tasmā mattaññutā sādhu
bhojanasmiṃ agiddhatā,
amattaññū hi sīdanti mattaññūva na sīdare ”ti.
5. Sukajātakaṃ.
|
372. Do đó, thật tốt đẹp thay sự
biết chừng mực, sự không thèm khát về vật thực. Chính những
người không biết chừng mực ch́m xuống, c̣n những người biết
chừng mực không ch́m xuống.”
5. Bổn sanh Con Két.
|
Do vậy, thật lành thay
Tiết độ, không tham ăn,
Không biết lường, ch́m xuống,
Biết lường đâu có ch́m?
Câu chuyện
255 |
373. Jarūdapānaṃ khaṇamānā vāṇijā
udakatthikā,
ajjhagaṃsu ayo lohaṃ tipusīsañca vāṇijā,
rajataṃ jātarūpañca muttā veḷuriyā bahū.
|
373. “Những người thương buôn có
nhu cầu về nước, trong khi đào bới cái giếng cũ, các thương buôn
đă đạt được nhiều sắt, đồng, thiếc và ch́, bạc và vàng, ngọc
trai, ngọc bích. |
Các lái buôn cần nước,
Đào cái giếng cũ xưa,
Ở đó họ t́m được
Sắt, đồng, ch́ và thiếc,
Hoàng kim và bạch ngân,
Nhiều trân châu, lưu ly. |
374. Te ca tena asantuṭṭhā bhiyyo
bhiyyo akhāṇisuṃ,
te tatthāsīviso ghoro tejassī tejasā hani.
|
374. Và bọn họ, không vừa ḷng
với chừng ấy, đă đào thêm, thêm nữa. Họ đă bị con rắn độc ghê
rợn, có uy lực, giết chết tại nơi ấy bằng uy lực.
|
Nhưng họ không biết đủ,
Cứ đào, đào thêm măi.
Các rắn độc điên tiết,
Phun lửa giết chết tiệt. |
Trang 128: |
Trang 129:
|
375. Tasmā khaṇe nātikhaṇe
atikhātaṃ hi pāpakaṃ,
khātena ca dhanaṃ laddhaṃ atikhātena nāsitan ”ti.
6. Jarūdapānajātakaṃ.
|
375. V́ thế, nên đào, không nên
đào quá, bởi v́ đào bới quá lố là xấu xa. Và do đào bới, tài sản
đă đạt được; do đă đào bới quá lố, tài sản bị tiêu tán.”
6. Bổn sanh Cái Giếng Cũ.
|
Vậy chớ đào quá sức,
Quá mức gây tác hại.
Do đào, được tài sản,
Đào quá, lại mất sạch!
Câu chuyện
256 |
376. Nāyaṃ gharānaṃ kusalo lolo
ayaṃ valīmukho,
kataṃ kataṃ kho dūseyya evaṃ dhammamidaṃ kulaṃ.
|
376. “Gă này không thiện xảo về
nhà cửa. Gă này buông lung, có khuôn mặt nhăn nhó. Nó có thể phá
hỏng việc này việc khác đă làm xong, ḍng dơi này có bản tính
như vậy. |
Nó không giỏi làm nhà,
Đó là khỉ mặt nhăn,
Chỉ phá việc đă làm,
Thói của ṇi giống đó. |
377. Nayidaṃ cittavato lomaṃ
nāyaṃ assāsiko migo,
satthaṃ me janasandhena nāyaṃ kiñci vijānati.
|
377. Gă có lông này không thuộc
loài có trí, gă là con thú không đáng tin. Kiến thức do cha tôi
Janasandha dạy rằng: ‘Gă này không biết bất cứ điều ǵ.’ |
Vật đầy lông lá này
Không sao có tâm trí,
Nó chỉ là con thú
Không gây được ḷng tin,
Như phụ vương đă dạy:
Con này chả biết ǵ! |
378. Na mātaraṃ vā pitaraṃ
bhātaraṃ bhagiṇiṃ sakhaṃ,
bhareyya tādiso poso siṭṭhaṃ dasarathena me ”ti.
7. Gāmaṇicaṇḍajātakaṃ.
|
378. Cha tôi Dasaratha đă dạy
rằng: ‘Người như thế ấy không giúp đỡ mẹ hay cha, anh em trai,
chị em gái, hay bạn bè.’”
7. Bổn sanh Người Hầu Gāmaṇicaṇḍa.
|
Con vật ấy không thể
Giúp đỡ mẹ hay cha,
Hay là anh, chị, bạn,
Phụ vương dạy ta vậy.
Câu chuyện
257 |
379. Yāvatā candimasuriyā
pariharanti disābhanti virocanā,
sabbeva dāsā mandhātu ye pāṇā paṭhavinissitā.
|
379. “Những sanh mạng nào nương
tựa vào trái đất, cho đến mặt trăng và mặt trời bảo hộ (núi
Sineru), các tia sáng chiếu sáng các phương, toàn bộ tất cả là
nô lệ của Chuyển Luân Vương Mandhātu. |
Dầu có được bao nhiêu
Mặt trăng và mặt trời
Chiếu sáng khắp mọi phương.
Tất cả là nô lệ.
Của vua Man-dhà-nà,
Cùng tất cả chúng sanh
Sống nương tựa cơi đất,
Đều thuộc quyền Đại vương. |
380. Na kahāpaṇavassena titti
kāmesu vijjati,
appassādā dukhā kāmā iti viññāya paṇḍito.
|
380. Không phải do trận mưa tiền
vàng mà sự thỏa măn ở các dục được t́m thấy. Bậc sáng suốt đă
biết rằng: ‘Các dục là khổ đau, có ít khoái lạc.’ |
Dầu có mưa tiền vàng,
Vẫn không thỏa ái dục,
Dục ít vị, khổ nhiều,
Bậc trí ư thức vậy. |
381. Api dibbesu kāmesu ratiṃ so
nādhigacchati,
taṇhakkhayarato hoti sammāsambuddhasāvako ”ti.
8. Mandhātujātakaṃ.
|
381. Thậm chí vị ấy cũng không
đạt đến sự vui thích trong các dục thuộc cơi Trời. Vị Thinh Văn
đệ tử của đấng Chánh Đẳng Giác vui thích ở sự cạn kiệt tham ái.”
8. Bổn sanh Vua Chuyển Luân
Mandhātu.
|
Ngay cả các thiên dục
Cũng không đem an lạc,
Đệ tử bậc Chánh giác
Chỉ thích ái diệt tận.
Câu chuyện
258 |
382. Nayimassa vijjāmayamatthi
kiñci
na bandhavo no pana te sahāyo,
atha kena vaṇṇena tirīṭavaccho
tedaṇḍiko bhuñjati aggapiṇḍaṃ.
|
382. “Người này không có bất cứ
sự hiểu biết nào,
không là thân quyến, hơn nữa không phải là bạn bè của bệ hạ.
Vậy th́ bởi lư do ǵ mà Tirīṭavaccha,
kẻ có ba cây gậy, thọ dụng thực phẩm cao quư?”
|
Con thấy hạng người này
Không có chút trí tuệ,
Nó không phải bà con,
Cũng không phải bạn vua,
Tại sao ẩn sĩ này,
Với ba cây que nhỏ,
Ti-ri-ta-vac-cha,
Lại được ăn thượng vị? |
Trang 130:
|
Trang 131:
|
383. Āpāsu me yuddhaparājitassa
ekassa katvā vivanasmi ghore,
pasārayī kicchagatassa pāṇiṃ
tenūdatāriṃ dukhasampareto.
|
383. Khi trẫm bị thua trận, ở vào
các cảnh hiểm nghèo,
chỉ c̣n một ḿnh, trẫm đă ở trong khu rừng ghê rợn,
Vị này đă đưa bàn tay ra cho trẫm, kẻ bị lâm cảnh khó khăn.
Nhờ vào vị ấy, trẫm đă vượt lên, dầu bị dày ṿ đau khổ.
|
Trong khi ta gặp nạn,
V́ chiến đấu thất bại,
Ta chỉ có một ḿnh,
Chính vị ấy đưa tay,
Trong rừng sâu ghê rợn,
Nhờ vị ấy, ta thoát,
Ra khỏi cảnh khó khăn,
Cơn đau khổ vây chặt. |
384. Etassa kiccena idhānupatto
vesāyino visayā jīvaloke,
lābhāraho tāta tirīṭavaccho
dethassa bhogaṃ yajatañca yaññan ”ti.
9. Tirīṭavacchajātakaṃ.
|
384. Với sự giúp đỡ của vị này,
trẫm đă đạt đến nơi đây,
ở thế giới của sống c̣n, khỏi phạm vi của Thần Chết.
Này con, vị Tirīṭavaccha là xứng đáng với bổng lộc,
hăy ban tặng của cải và hăy cống hiến phẩm vật đến vị này.”
9. Bổn sanh Ẩn Sĩ Tirīṭavaccha.
|
Nhờ sự giúp đỡ này
Ta đă trở về đây,
Thoát khỏi hàm thần chết,
Trở lại với đời sống,
Này hoàng tử con thân,
Ti-ri-ta Vac-cha
Xứng đáng được lợi dưỡng,
Hăy cúng dường tài sản
Cùng các lễ tế đàn.
Câu chuyện
259 |
385. Yassatthā dūramāyanti
amittamapi yācituṃ,
tassūdarassahaṃ dūto mā me kujjhi rathesabha.
|
385. “V́ nhu cầu của cái bụng,
người ta đi đến nơi xa xôi để cầu xin ngay cả kẻ thù. Tâu đấng
thủ lănh xa binh, thần là sứ giả của cái bụng. Xin ngài chớ giận
dữ với thần. |
V́ mục đích cái bụng,
Người ta đi thật xa,
Đi đến cả kẻ thù,
Để cầu xin ân huệ,
Tôi đây là sứ giả
Của chính cái bụng ḿnh. |
386. Yassa divā ca ratto ca
vasamāyanti māṇavā,
tassūdarassahaṃ dūto mā me kujjhi rathesabha.
|
386. Ngày và đêm, các chàng thanh
niên đi theo quyền lực của cái bụng. Tâu đấng thủ lănh xa binh,
thần là sứ giả của cái bụng. Xin ngài chớ giận dữ với thần.”
|
Xin chớ phẫn nộ tôi,
Ôi, chúa tể vương xa,
Suốt cả ngày lẫn đêm,
Mọi người trên đời này,
Đều rơi vào uy lực
Của cái bụng tham ăn. |
387. Dadāmi te brāhmaṇa rohiṇīnaṃ
gavaṃ sahassaṃ saha puṅgavena,
dūto hi dūtassa kathaṃ na dajjaṃ
mayampi tasseva bhavāma dūtā ”ti.
10. Dūtajātakaṃ.
|
387. Này Bà-la-môn, trẫm ban cho
khanh một ngàn ḅ cái màu hung đỏ với một con ḅ mộng.
Bởi v́ là
người sứ giả, tại sao trẫm lại không ban tặng cho người sứ giả? Chúng ta cũng
đều là sứ giả của chính cái bụng.”
10. Bổn sanh Sứ Giả.
|
Hỡi này Bà-la-môn,
Ta ban thưởng cho ông
Một ngàn con ḅ cái đỏ,
Một ḅ đực thêm vào,
Đây là phần quà tặng
Giữa sứ giả với nhau,
V́ tất cả chúng ta
Là sứ giả cái bụng!
Câu chuyện
260 |
Saṅkappavaggo paṭhamo.
*****
|
Phẩm Tư Duy là thứ nhất.
***** |
TASSUDDĀNAṂ
Usukāravaro tilamuṭṭhimaṇi
hayarājavihaṅgamaāsīviso,
janasandhakahāpaṇavassa puna
tirīṭa puna dūtavarena dasa.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Chuyện người thợ làm tên, nắm hạt mè, và ngọc ma-ni,
con ngựa đầu đàn, con chim, con rắn độc,
cha tôi Janasandha, thêm trận mưa tiền vàng,
thêm ẩn sĩ Tirīṭavaccha, với chuyện sứ giả, là mười.
--ooOoo--
|
Trang 132:
|
Trang 133:
|
▪ 2. PADUMAVAGGO |
▪ 2.
PHẨM HOA SEN
|
CHƯƠNG BA
(Ba bài kệ)
(15) PHẨM KOSIYA
(HT. Thích Minh Châu) |
388. Yathā kesā ca massū ca
chinnaṃ chinnaṃ virūhati,
evaṃ rūhatu te nāsā padumaṃ dehi yācito. |
388. “Giống như tóc và râu mỗi
lần được cắt th́ sẽ mọc lên, tương tự như vậy, cầu cho mũi của
ông hăy mọc lại. Đă được thỉnh cầu, xin ông hăy cho hoa sen.”
|
Như tóc râu bị cắt,
Sẽ mọc lên như cũ,
Cũng vậy, lỗ mũi ông
Sẽ mọc lại như tóc,
Nay tôi xin hoa sen,
Hăy cho tôi một bông! |
389. Yathā sāradikaṃ bījaṃ khette
vuttaṃ virūhati,
evaṃ rūhatu te nāsā padumaṃ dehi yācito. |
389. “Giống như vào mùa thu, hạt
giống được gieo ở ruộng th́ sẽ mọc lên, tương tự như vậy, cầu
cho mũi của ông hăy mọc lại. Đă được thỉnh cầu, xin ông hăy cho
hoa sen.” |
Như hột giống mùa thâu
Được gieo trong thửa ruộng,
Sẽ được mọc lên mau,
Cũng vậy, lỗ mũi ông
Ước mong sẽ mọc lên,
Nay tôi xin hoa sen,
Hăy cho tôi một bông! |
390. Ubhopi palapante ’te api
padumāni dassati,
vajjuṃ vā te na vā vajjuṃ natthi nāsāya rūhanā,
dehi samma padumāni ahaṃ yācāmi yācito ”ti.
1. Padumajātakaṃ. |
390. “Cả hai người này đều nói
nhảm (nghĩ rằng): ‘Ông ta sẽ cho các hoa sen.’ Dầu họ đă nói hay
không nói, không có việc mọc lại của cái mũi. Này bạn, tôi cầu
xin các hoa sen. Đă được thỉnh cầu, xin ông hăy cho.”
1. Bổn sanh Hoa Sen.
|
Hai đứa nói nhảm nhí,
Chúng nghĩ được bông sen,
Dầu nói có, nói không,
Mũi cũng không mọc lại,
Này bạn hăy cho tôi
Hoa sen, tôi xin bạn!
Câu chuyện
261 |
391. Pāṇi ce muduko cassa nāgo
cassa sukārito,
andhakāro ca vasseyya atha nūna tadā siyā. |
391. “Nếu có được bàn tay mềm
mại, và có được con voi đă khéo được huấn luyện, trời tối, và có
thể mưa, như vậy chắc chắc khi ấy là có thể.” |
Một bàn tay mềm mại,
Con voi khéo huấn luyện,
Và đêm tối trời mưa,
Ấy là thời thích hợp. |
392. Analā mudusambhāsā duppūrā
tā nadīsamā,
sīdanti naṃ viditvāna ārakā parivajjaye.
|
392. “Các nàng ấy có lối nói mềm
mỏng, không hề biết đủ, tựa như ḍng sông, khó làm cho tràn đầy,
các nàng ấy (sẽ) đọa (địa ngục); sau khi biết được điều ấy, nên
lánh xa các nàng. |
Dầu lời nói dịu dàng
Chúng không hề biết đủ,
Chúng ch́m, ch́m sâu xuống,
Rất khó làm đầy tràn,
Đàn ông hăy lánh xa,
Chạy trốn chúng thật xa! |
393. Yaṃ etā upasevanti chandasā
vā dhanena vā,
jātavedova saṇṭhānaṃ khippaṃ anudahanti nan ”ti.
2. Mudupāṇijātakaṃ.
|
393. Các nàng hầu hạ người nào,
dầu do sự mong muốn hay v́ tài sản, các nàng thiêu hủy người ấy
một cách mau chóng, tựa như ngọn lữa đốt cháy nhiên liệu.”
2. Bổn sanh Bàn Tay Mềm Mại.
|
Nếu chúng phục vụ ai,
V́ dục hay tiền tài,
Chúng thiêu sạch người ấy,
Như chất đốt trong lửa.
Câu chuyện
262 |
394. Abhijjamāne vārismiṃ sayaṃ
āgamma iddhiyā,
missībhāv’ itthiyā gantvā saṃsīdasi mahaṇṇave.
|
394. “Sau khi tự ḿnh đi đến bằng
thần thông ở mặt nước không bị xao động, sau khi đi đến sự giao
tiếp với phụ nữ, ngài ch́m xuống đại dương. |
Không phải rẽ nước biển,
Nhưng với thần thông lực
Ngài du hành qua đây
Vào buổi mai thật sớm,
Liên hệ ác nữ thần,
Ngài phải ch́m xuống biển. |
395. Āvaṭṭanī mahāmāyā
brahmacariyavikopanā,
sīdanti naṃ viditvāna ārakā parivajjaye.
|
395. Có sức quyến rũ, có nhiều
xảo trá, có sự làm tổn hại Phạm hạnh, các nàng ấy (sẽ) đọa (địa
ngục); sau khi biết được điều ấy, nên lánh xa các nàng.
|
Làm mọi người thối thất,
Đầy mê hoặc huyễn ảo,
Quyến rũ người thanh tịnh
Khiến họ ch́m dần xuống.
Kẻ trí biết nữ thần,
Nên xa lánh, từ bỏ. |
396. Yaṃ etā upasevanti chandasā
vā dhanena vā,
jātavedova saṇṭhānaṃ khippaṃ anudahanti nan ”ti.
3. Cullapalobhanajātakaṃ.
|
393. Các nàng hầu hạ người nào,
dầu do sự mong muốn hay v́ tài sản, các nàng thiêu hủy người ấy
một cách mau chóng, tựa như ngọn lữa đốt cháy nhiên liệu.”
2. Bổn sanh Sự Cám Dỗ Nhỏ. |
Nữ nhân phục vụ ai
V́ dục hay tiền tài,
Chúng đốt sạch người ấy
Như lửa thiêu hủy củi!
Câu chuyện
263 |
397. Paṇādo nāma so rājā yassa
yūpo suvaṇṇayo,
tiriyaṃ soḷasa pabbedho uccamāhu sahassadhā.
|
398. “Vị vua ấy tên
là Paṇāda, ṭa lâu đài của vị ấy có nhiều màu sắc đẹp, chiều
ngang 16 tầm tên bắn, chiều cao đă là 16 phần.
|
TẬP VI
(Gs. Trần Phương Lan)
Vua Pa-nà-da có cung điện ấy
Mười sáu ngàn tầm rộng, một ngàn cao, |
Trang 134:
|
Trang 135:
|
398. Sahassakaṇḍaṃ sataheṇḍuṃ
dhajālu haritāmayo,
anaccuṃ tattha gandhabbā chasahassāni sattadhā.
|
398. Một trăm tầng
lầu gồm một ngàn đơn vị, được trang hoàng cờ xí và làm bằng ngọc
lục. Tại nơi ấy, sáu ngàn vũ công đă nhảy múa ở bảy địa điểm. |
Ngàn tầm cao, cờ xí rợp muôn màu,
Ngọc bích kết cả trăm tầng lầu các.
Sáu ngàn văn công tới lui chơi nhạc
Gồm bảy ban, vẫn múa hát đồng thời, |
399. Evametaṃ tadā āsi yathā
bhāsasi bhaddaji,
sakko ahaṃ tadā āsiṃ veyyāvaccakaro tavan ”ti.
4. Mahāpanādajātakaṃ.
|
399. Khi ấy, điều này đă là như
vậy, giống như Bhaddaji nói. Khi ấy, ta đă là Thiên Chủ Sakka,
người làm công việc phục dịch cho ngươi.”
4. Bổn sanh Vua Mahāpanāda.
|
Bhad-da-ji đă nói, đúng như
lời:
- Tâu Đế Thích, nô tài chờ thượng lệnh.
Câu chuyện
264 |
400. Disvā khurappe
dhanuveganunne
khagge gahīte tikhiṇe teladhote,
tasmiṃ bhayasmiṃ maraṇe viyūḷhe
kasmā nu te nāhu chambhitattanti.
|
400. “Sau khi nh́n thấy những mũi
tên đă được bắn ra bằng lực đẩy của những cây cung,
và những thanh gươm sắc bén có
bôi dầu đă được nắm chặt,
trong sự hiểm nguy khi thần chết
hiện diện ấy,
tại sao ông đă không có trạng
thái khiếp đảm?” |
Khi nhiều cung bắn vèo tên
tới,
Nhiều bàn tay đưa lưỡi thép gần,
Trước hàng hung hăn Tử-thần,
Sao người chẳng sợ giữa cơn hiểm nghèo? |
401. Disvā khurappe
dhanuveganunne
khagge gahīte tikhaṇe teladhote,
tasmiṃ bhayasmiṃ maraṇe viyūḷhe
vedaṃ alatthaṃ vipulaṃ uḷāraṃ.
|
401. “Sau khi nh́n thấy những mũi
tên đă được bắn ra bằng lực đẩy của những cây cung,
và những thanh gươm sắc bén có
bôi dầu đă được nắm chặt,
trong sự hiểm nguy khi thần chết
hiện diện ấy,
tôi đă có được sự hân hoan bao la
và cao cả.
|
Khi nhiều cung bắn vèo tên
tới,
Nhiều bàn tay đưa lưỡi thép gần,
Trước hàng hung hăn Tử-thần,
Hôm nay tôi thấy ngập tràn niềm vui. |
402. So vedajāto ajjhabhaviṃ
amitte
pubbeva me jīvitamāsi cattaṃ,
na hi jīvite ālayaṃ kubbamāno
sūro kayirā sūrakiccaṃ kadācī ”ti.
5. Khurappajātakaṃ.
|
402. Với niềm hân hoan sanh khởi,
tôi đây đă khuất phục những kẻ thù.
Ngay trước đó, mạng sống đă được
tôi buông bỏ.
Bởi v́ trong khi không thể hiện
sự bám víu vào mạng sống,
người dũng sĩ có thể thực hiện
phận sự dũng sĩ bất cứ lúc nào.”
5. Bổn sanh Mũi Tên.
|
Niềm vui ấy cho tôi thắng lợi,
Tôi liều thân nếu tới lúc cần,
Hành vi dũng liệt muốn toàn,
Làm anh hùng, phải coi thường đời ta!
Câu chuyện
265 |
403. Yenāsi kisiyā paṇḍu yena
bhattaṃ na ruccati,
ayaṃ so āgato tāto kasmādāni palāyasi.
|
403. “Người t́nh khiến mẹ ốm o,
vàng vọt, lư do khiến thức ăn không c̣n được ưa thích, người
t́nh ấy đă đi đến, v́ sao giờ đây mẹ lại thoái lui?” |
Mẹ v́ chàng ốm o vàng vọt,
Mẹ v́ chàng chẳng chút uống ăn.
Ngựa yêu kia mới đến gần,
Cớ sao mẹ bỗng đâm sầm phóng đi? |
404. Sace panādikeneva santhavo
nāma jāyati,
yaso hāyati itthīnaṃ tasmā tāta palāyahaṃ.
|
404. “Vả lại, nếu ngay từ lúc
đầu, điều gọi là sự thân mật sanh khởi, th́ danh dự của hàng phụ
nữ bị mất mát, này con, v́ thế mẹ đă thoái lui.” |
Chàng kia đến một khi kề sát,
Nếu ban đầu nhường bước tức thời,
Tiêu ma giá ngọc cao vời,
Cho nên mẹ phải vội dời chân ngay! |
405. Yasassīnaṃ kule jātaṃ āgataṃ
yā na icchati,
socati cirarattāya vātaggamiva kundalī ”ti.
6. Vātaggajātakaṃ.
|
405. “Người nữ nào không ưa thích
người nam sanh ở gia tộc của những người có danh tiếng đă đi đến
(với ḿnh), th́ sẽ sầu muộn thời gian dài, tựa như con lừa cái
Kundalī và con ngựa Vātagga.”
6. Bổn sanh Con Ngựa Vātagga.
|
Nếu từ chối chàng trai sang
trọng
Đến bên nàng mong ngóng yêu đương,
Nàng đành dằng dặc sầu thương,
Như Công-đa-lợi đau buồn Như phong!
Câu chuyện
266 |
406. Siṅgī migo āyatacakkhunetto
aṭṭhittaco vārisayo alomo,
tenābhibhūto kapaṇaṃ rudāmi
mā heva maṃ pāṇasamaṃ jaheyya.
|
406. “Con thú có màu vàng sẫm, có
cặp mắt lồi ra,
có lớp vỏ bằng xương, sống trong nước, không có lông.
Bị nó chế ngự, tôi khóc lóc một cách thảm thương,
Nàng chớ bao giờ từ bỏ tôi, người sánh bằng mạng sống của nàng.” |
Con vật càng vàng, lồi cặp
mắt,
Sống hồ, trần trụi, bọc trong mai,
Tôi kêu, nó kẹp, nghe đau đớn,
Nàng hỡi, thương tôi, chớ bỏ tôi! |
407. Ayya taṃ na jahissāmi
kuñjara saṭṭhihāyana,
pathavyā cāturantāya suppiyo hosi me tuvaṃ.
|
407. “Chàng ơi, thiếp sẽ không từ
bỏ chàng, hỡi chàng voi với sự suy nhược ở tuổi sáu mươi. Khắp
bốn phương ở trên trái đất, chàng là người vô cùng yêu quư của
thiếp.” |
Rời chàng, thiếp quyết chẳng
khi nào,
Sáu chục năm đời, chúa tối cao,
Cả bốn phương trời đều chứng tỏ
Chẳng ai thắm thiết sánh chàng đâu! |
408. Ye kuḷirā samuddasmiṃ
gaṅgāya nammadāya ca,
tesaṃ tvaṃ vārijo seṭṭho muñca rodantiyā patin ”ti.
7. Kakkaṭakajātakaṃ.
|
408. “Trong số các con cua ở biển
cả, ở sông Gaṅgā, và sông Nammadā, ngài là loài thủy tộc hạng
nhất, xin ngài hăy phóng thích người chồng của thiếp, kẻ đang
khóc lóc (van xin cho chồng).”
7. Bổn sanh Con Cua.
|
Trong các loài Cua ở biển xa,
Hoặc là Ner-bud, hoặc Hằng Hà,
Ngài là tối thượng, nay tôi biết,
Xin để chồng tôi được thoát ra.
Câu chuyện
267 |
Trang 136:
|
Trang 137:
|
409. Yo ve sabbasametānaṃ ahuvā
seṭṭhasammato,
tassāyaṃ edisī paññā kimeva itarā pajā.
|
409. “Gă này hẳn nhiên đă được
công nhận là hạng nhất trong tất cả bọn này. Trí tuệ của gă là
như thế này, c̣n các gă khác sẽ là cái ǵ nữa đây?” |
Giỏi nhất trong bọn là đây,
Thông minh như kiểu thế này được sao?
Khỉ kia nếu chọn tối cao,
Những tên c̣n lại phận nào định đây? |
410. Evameva tuvaṃ brahme
anaññāya vinindasi,
kathaṃ mūlaṃ adisvāna rukkhaṃ jaññā patiṭṭhitaṃ.
|
410. “Thưa Bà-la-môn, ngài không
biết rơ nên mới chê bai như vậy. Không nh́n thấy cái rễ, làm thế
nào có thể biết được cây đă phát triển như thế nào?” |
Lời kia, người cũng chẳng hay,
Thế này trách cứ la rầy chúng tôi!
Nếu không biết rễ ngắn dài,
Làm sao thấy được cây trồi lớn đây? |
411. Nāhaṃ tumhe vinindāmi ye
caññe vānarā vane,
vissasenova gārayho yassatthā rukkharopakā ”ti.
8. Ārāmadūsakajātakaṃ.
|
411. “Ta không chê bai ngươi và
những con khỉ khác ở trong rừng. Chính đức vua Vissasena mới
đáng chê trách, v́ ngài sử dụng những kẻ trồng cây (như các
ngươi).”
8. Bổn sanh Kẻ Làm Hỏng Khu Vườn.
|
Khỉ ơi, ta chẳng trách bây,
Cũng không trách bọn đó đây trong rừng.
Chủ kia mới thật điên khùng,
Ra đi giao hết cây trồng nhờ coi!
Câu chuyện
268 |
412. Na hi vaṇṇena sampannā
mañjukā piyadassanā,
kharavācā piyā honti asmiṃ loke paramhi ca.
|
412. “Người được thành tựu sắc
đẹp, có giọng nói du dương, có dáng vẻ đáng yêu, nhưng có lời
nói thô lỗ th́ không được yêu mến ở đời này và đời khác. |
Kẻ hưởng được vẻ
ngoài duyên dáng,
Thoạt nh́n vào, tươi sáng đẹp thay,
Nhưng buông lời nói chối tai,
Đời này đời kế chẳng ai yêu v́! |
413. Nanu passasimaṃ kāḷiṃ
dubbaṇṇaṃ tilakāhataṃ,
kokilaṃ saṇhabhāṇena bahunnaṃ pāṇinaṃ piyaṃ.
|
413. Chẳng phải mẹ nh́n thấy con
chim cu cu đen đủi, có màu sắc xấu xí, lốm đốm các chấm hạt mè,
được yêu mến bởi nhiều sinh vật nhờ vào tiếng kêu êm dịu. |
Chim Cu kia,
thường khi mẹ thấy,
Lốm đốm đen xấu vậy mặc dầu,
Tiếng kêu êm dịu ngọt ngào,
Bao nhiêu kẻ đón người chào mến thương. |
414. Tasmā sakhilavācassa
mantabhāṇī anuddhato,
atthaṃ dhammañca dīpeti madhuraṃ tassa bhāsitan ”ti.
9. Sujātajātakaṃ.
|
414. V́ thế, nên có lời nói tử
tế, có cách nói khôn khéo, không cao ngạo, làm sáng tỏ ư nghĩa
và Giáo Pháp; lời nói của vị ấy là ngọt ngào.”
9. Bổn sanh Nàng Sujātā.
|
Mong tiếng mẹ dịu dàng thanh lịch,
Lời khôn ngoan bỏ hết tự kiêu,
Âm thanh êm ái mỹ miều
Giảng bày Thánh pháp ư nêu tỏ tường.
Câu chuyện
269 |
415. Sabbehi kira ñātīhi kosiyo
issaro kato,
sace ñātīh’ anuññāto bhaṇeyyāhaṃ ekavāciyaṃ.
|
415. “Nghe nói chim cú được các
bà con lập làm chúa tể, nếu được bà con cho phép, tôi xin phát
biểu một lời.” |
Cú là vua của các loài chim,
Xin phép, cho tôi tỏ nỗi niềm. |
416. Bhaṇa samma anuññāto atthaṃ
dhammañca kevalaṃ,
santi hi daharā pakkhī paññāvanto jutindharā.
|
416. “Này bạn, hăy nói, bạn được
phép nói lời có ư nghĩa và thật sự hợp lư lẽ, bởi v́ c̣n có
những con chim c̣n trẻ, có trí tuệ, sáng láng.” |
Giữa bọn trẻ kia, xin cứ nói,
Mong sao tốt đẹp, tỏ tường thêm. |
417. Na me ruccati bhaddaṃ vo
ulūkassābhisecanaṃ,
akuddhassa mukhaṃ passa kathaṃ kuddho karissatī ”ti.
10. Ulūkajātakaṃ. |
417. “Sự việc trọng đại của các
vị không làm tôi vui thích, là việc phong vương cho chim cú. Hăy
nh́n xem khuôn mặt của gă khi không giận dữ, khi giận dữ gă sẽ
làm thế nào?”
10. Bổn sanh Con Chim Cú.
|
Trân trọng tŕnh bày ư của
tôi,
Tôi đây chẳng muốn Cú lên ngôi,
Hăy nh́n mặt mũi kia như thế,
Hắn sẽ làm ǵ lúc giận sôi?
Câu chuyện
270 |
Padumavaggo dutiyo.
***** |
Phẩm Padumavaggo là thứ nh́.
***** |
TASSUDDĀNAṂ
Padumuttamanāgasirivhayano
samahaṇṇavayūpakhurappavaro,
atha kundalikuñjararukkha puna
kharavāca-ulūkavarena dasā ”ti.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Hoa sen tối thượng, con voi có tên may mắn,
với đại dương, ṭa lâu đài, và chuyện mũi tên,
rồi lừa cái Kundalī, con voi đực, lại cây cối nữa,
lời nói thô lỗ, với chuyện chim cú, là mười.
--ooOoo--
|
Trang 138: |
Trang 139:
|
▪ 3.
ARAÑÑAVAGGO
|
▪ 3.
PHẨM KHU RỪNG
|
CHƯƠNG BA
(Ba bài kệ)
(Gs. Trần Phương Lan) |
418. Āraññakassa isino
cirarattatapassino,
kiccā kataṃ udapānaṃ kathaṃ samma avāhasi.
|
418. “Giếng nước đẫ được thực
hiện một cách khó khăn dành cho các vị ấn sĩ tu trong rừng và
các đạo sĩ trường kỳ khổ hạnh, này bạn, tại sao bạn lại làm nhơ
bẩn?”
|
Giếng được tạo do người ẩn dật,
Độc cư nơi khoảng đất rừng sâu,
Nhọc nhằn khổ cực bấy lâu,
Bạn ơi, sao vấy dơ vào giếng trong? |
419. Esa dhammo sigālānaṃ
yampītvā ohadāmase,
pitupitāmahaṃ dhammo na naṃ ujjhātumarahasi. |
419. “Điều ấy là tập quán của các
con chó rừng, chúng tôi đại tiện sau khi uống nước, là thói quen
của cha ông, bạn không xứng đáng để lên án điều ấy.” |
Đó là luật giống ḍng tôi đấy,
Uống nơi nào là vấy cho dơ,
Tổ tiên làm thế đến giờ,
Lời ngài trách cứ, có ngờ sai chăng? |
420. Yesaṃ vo ediso dhammo
adhammo pana kīdiso,
mā vo dhammaṃ adhammaṃ vā addasāma kudācanan ”ti.
1. Udapānadūsakajātakaṃ. |
420.
Việc như thế
này đối với các bạn đây là điều hợp pháp, thế th́ việc như thế
nào là điều phi pháp? Chớ để chúng tôi nh́n thấy điều hợp pháp
hay phi pháp của các bạn vào bất cứ lúc nào.”
1. Phẩm Kẻ Làm Bẩn Giếng Nước.
|
Nếu luật ấy chó rừng đă đặt,
Lạ lùng thay, phi pháp mất rồi!
Mong rằng lần cuối thấy ngươi,
Hành vi kia đúng hay sai, chớ làm.
Câu chuyện
271 |
421. Yena mittena saṃsaggā
yogakkhemo vihiṃsati,
pubbevajjhābhavantassa rakkhe akkhīva paṇḍito. |
421. “Do sự tiếp xúc với người
bạn nào khiến sự an toàn đối với các trói buộc bị tổn giảm, th́
nên duy tŕ sự khống chế đối với kẻ ấy giống như trước đây, tựa
như người sáng suốt bảo vệ cặp mắt.
|
Nếu do gần bạn tri âm,
B́nh an có thể bị làm tiêu tan,
C̣n ǵ cao trọng cho hơn
Như tṛng con mắt người khôn giữ ǵn. |
422. Yena mittena saṃsaggā
yogakkhemo pavaḍḍhati,
kareyyattasamaṃ vuttiṃ sabbakiccesu paṇḍito. |
422. Do sự tiếp xúc với người bạn
nào khiến sự an toàn đối với các trói buộc được tăng trưởng,
người sáng suốt nên thực hiện sự đối xử b́nh đẳng như là đối với
bản thân trong tất cả các công việc.”
|
Nhưng khi bạn tri âm thực sự
Làm tăng thêm mức độ b́nh an;
Hăy làm đời bạn an khang,
Hăy thương đời bạn như thương đời ḿnh. |
423. Etha vyagghā nivattavho
paccametha mahāvanaṃ,
mā vanaṃ chindi nivyagghaṃ vyagghā māhesu nibbanā ”ti.
2. Vyagghajātakaṃ. |
423. “Này các ông hổ, xin các ông
hăy đi đến, xin các ông hăy quay lại, xin các ông hăy trở về khu
rừng lớn. Chớ để người ta chặt phá khu rừng không có cọp. Mong
rằng các ông hổ chớ ĺa khỏi khu rừng.”
2. Bổn sanh Con Cọp.
|
Xin quay trở lại rừng già,
Để rừng khỏi bị san ra đồng bằng.
Bạn đi, ŕu sẽ hạ rừng,
Không rừng, măi măi bạn không có nhà!
Câu chuyện
272 |
424. Ko nu udditabhattova
pūrahatthova brāhmaṇo,
kahannu bhikkhaṃ acari kaṃ saddhaṃ upasaṅkami.
|
424. “Ai giống như là người có
bữa ăn thịnh soạn, ai tựa như vị Bà-la-môn với hai tay được chất
đầy? Vậy đă đi khất thực nơi đâu, đă đi đến tín đồ nào?” |
Ai kia đem bát xin ăn,
Vốn từ đâu lại, có phần ǵ chăng? |
425. Ahaṃ kapismi dummedho
anāmāsāni āmasiṃ,
tvaṃ maṃ mocaya bhaddante mutto gaccheyya pabbataṃ.
|
425. “Tôi là con khỉ ngu muội.
Tôi đă sờ vào những chỗ không nên sờ đến. Xin ngài hăy cứu thoát
tôi. Cầu mong sự tốt đẹp đến ngài. Được tự do, tôi sẽ đi đến
ngọn núi.” |
Con làm quấy, thật điên khùng,
Xin ngài cứu giúp; con mong vào rừng. |
426. Kacchapā kassapā honti
koṇḍaññā honti makkaṭā,
muñca kassapa koṇḍaññaṃ kataṃ methunakaṃ tayā ”ti.
3. Kacchapajātakaṃ.
|
426. “Loài rùa là ḍng họ
Kassapa, loài khỉ là ḍng họ Koṇḍañña. Này Kassapa, hăy phóng
thích Koṇḍañña. Ngươi đă làm việc có tính chất đôi lứa.”
3. Bổn sanh Con Rùa.
|
Qui, Hầu hai giống vốn đồng,
Rùa ơi, tha khỉ cho xong đi nào!
Câu chuyện
273
|
Trang 140: |
Trang 141:
|
427. Kāyaṃ balākā sikhinī corī
laṅghipitāmahā,
oraṃ balāke āgaccha caṇḍo me vāyaso sakhā.
|
427. “Con hạc nâu có chỏm lông
này, kẻ trộm cướp, tổ tiên của cơn dông, là ai? Này hạc nâu, hăy
đi đến nơi khác, con quạ bạn của tôi là dữ tợn.” |
Cô Hạc này là ai thế nhỉ,
Cô đâu có thể ở nơi đây?
Ra mau! Bạn Quạ tôi gần đến,
E Quạ sẽ làm hại Hạc ngay! |
428. Nāhaṃ balākā sikhinī ahaṃ
lolosmi vāyaso,
akatvā vacanaṃ tuyhaṃ passa lūnosmi āgato.
|
428. “Tôi không phải là con hạc
nâu có chỏm lông, tôi là con quạ tham lam. Sau khi không làm
theo lời nói của bạn, bạn hăy nh́n xem tôi đă đi đến t́nh trạng
bị vặt trụi lông.” |
Không, không, chẳng Hạc chẳng ai
mà,
Tên Quạ tham ăn quả thật ta.
Ta chẳng muốn làm như được dặn,
Bạn nh́n, ta bị vặt lông ra. |
429. Puna pāpajjasi samma sīlaṃ
hi tava tādisaṃ,
na hi mānusakā bhogā subhuñjā honti pakkhinā ”ti.
4. Lolajātakaṃ.
|
429. “Này bạn, bạn lại phạm vào
điều ác, bởi v́ bản chất của bạn là như thế ấy, bởi v́ của cải
thuộc con người là không dễ ǵ thọ dụng bởi loài chim.”
4. Bổn sanh Con Chim Tham Lam.
|
Tôi biết bạn c̣n phải muộn
phiền,
Cũng do bản tính bạn gây nên.
Ai đâu để thịt mời chim nhỏ,
Khi đă dọn thành một đĩa lên?
Câu chuyện
274 |
430. Kāyaṃ balākā rucirā
kākanīḷasmiṃ acchati,
caṇḍo kāko sakhā mayhaṃ tassa cetaṃ kulāvakaṃ.
|
430. “Con hạc nâu xinh xắn này là
ai mà ngụ ở trong ổ của con quạ? Con quạ bạn của tôi là dữ tợn,
và cái tổ này là của nó.” |
Hạc kia xinh đẹp là ai,
Cớ sao chú đến nơi đây mà nằm?
Bạn tôi, anh Quạ dữ dằn,
Tổ anh ta đó, tôi cần chú hay! |
431. Nanu maṃ samma jānāsi dija
sāmākabhojana,
akatvā vacanaṃ tuyhaṃ passa lūnosmi āgato.
|
431. “Này bạn, chẳng lẽ bạn không
biết tôi? Này chim (bồ câu), này loài có thức ăn là hạt kê, sau
khi không làm theo lời nói của bạn, bạn hăy nh́n xem tôi đă đi
đến t́nh trạng bị vặt trụi lông.” |
- Bạn chẳng nhận ra tôi sao bạn?
Ta cùng nhau thường vẫn đi ăn.
Chẳng làm như được bảo răn,
Nên lông bị vặt, bạn trông rơ ràng! |
432. Puna pāpajjasi samma sīlaṃ
hi tava tādisaṃ,
na hi mānusakā bhogā subhuñjā honti pakkhinā ”ti.
5. Rucirajātakaṃ.
|
432. “Này bạn, bạn lại phạm vào
điều ác, bởi v́ bản chất của bạn là như thế ấy, bởi v́ của cải
thuộc con người là không dễ ǵ thọ dụng bởi loài chim.”
5. Bổn sanh Con Chim Xinh Xắn.
|
- Tôi biết bạn hăy c̣n phiền
muộn,
Đó là do tính bạn mà thôi.
Người ta làm đĩa thịt rồi,
Phải đâu là để đem mời chim ăn!
Câu chuyện
275 |
433. Tava saddhañca sīlañca
viditvāna janādhipa,
vaṇṇaṃ añjanavaṇṇena kāliṅgasmiṃ nimimhase.
|
433. “Tâu quân vương, biết được
đức tin và giới hạnh của ngài, chúng tôi, thay mặt vua xứ
Kāliṅga, xin trao đổi vàng bạc lấy con voi Añjanavaṇṇa.” |
Biết ngài tín hạnh cao sâu,
Chúng tôi đến để mong cầu ngài đây:
Chỉ v́ muốn có voi này,
Chúng tôi tiêu hết tiền tài quốc gia. |
434. Annabhaccā ca bhaccā ca
yodha uddissa gacchati,
sabbe te appaṭikkhippā pubbācariyavaco idaṃ.
|
434. “Người nào đi đến nơi này
liên quan đến việc phục dịch kiếm ăn và không phục dịch, tất cả
bọn họ đều không bị xua đuổi; điều này là lời dạy của các bậc
cha mẹ (vị thầy đầu tiên).”
|
Các người có làm sao chăng ấy,
Ta vẫn theo thầy dạy ngày xưa:
Hễ ai đă đến với ta,
Ta luôn chào đón, thiết tha mọc mời! |
Trang 142:
|
Trang 143:
|
435. Dadāmi vo brāhmaṇā nāgametaṃ
rājārahaṃ rājabhoggaṃ yasassinaṃ,
alaṅkataṃ hemajālābhichannaṃ
sasārathiṃ gacchatha yena kāman ”ti.
6. Kurudhammajātakaṃ.
|
435. “Này các Bà-la-môn, trẫm sẽ
ban cho các khanh con voi ấy,
(là con voi) có danh tiếng, xứng đáng với vua, thuộc sở hữu của
vua,
(con voi) đă được trang điểm, đă được choàng lên bằng tấm lưới
vàng,
cùng với viên quản tượng. Các khanh hăy ra đi theo như ư thích.”
6. Bổn sanh Tập Quán Xứ Kuru.
|
Trao quư vị thớt voi quà tặng
Đáng một phần tài sản quân vương,
Voi đây, trang phục, xích vàng,
Và nài, mọi thứ, hăy mang trở về.
Câu chuyện
276
|
436. Vassāni paññāsa samādhikāni
vasimha selassa guhāya romaka,
asaṅkamānā abhinibbutattā
hatthattamāyanti mamaṇḍajā pure.
|
436. “Sánh bằng hoặc hơn năm mươi
năm,
chúng ta đă sống ở hang đá, này Romaka.
Trong khi không nghi ngờ, có trạng thái tĩnh lặng,
trước đây, các con chim (bồ câu) đi đến với ta trong khoảng tầm
tay.” |
Dăy đồi này, năm mươi năm lẻ một,
Lũ chim muông vẫn lui tới thăm ta.
Ở nơi đây bao đầm ấm, an ḥa.
Đâu cần phải e dè hay sợ hăi! |
437. Tedāni vakkaṅga
kimatthamussukā
bhajanti aññaṃ girikandaraṃ dijā,
na nūna maññanti mamaṃ yathā pure
cirappavuttā athavā na te ime.
|
437. Này Vakkaṅga, giờ đây, chúng
v́ lư do ǵ mà có vẻ chộn rộn?
Các con chim rủ nhau đi đến hang núi khác,
phải chăng chúng nghĩ rằng ta không c̣n giống như trước đây,
hay những con này không phải là chúng, khi sống xa cách đă lâu?”
|
Thế mà nay lũ cháu chắt con cái
Ngại nơi này, bay đến ở đồi kia.
Chúng đă quên niềm kính trọng ngày xưa,
Chúng có phải bầy chim ḍng giống cũ? |
438. Jānāma taṃ na mayamsma mūḷhā
soyeva tvante mayamasma nāññe,
cittañca te asmiṃ jane paduṭṭhaṃ
ājīvaka tena taṃ uttasāmā ”ti.
7. Romakajātakaṃ.
|
438. “Chúng tôi biết ông, chúng
tôi không phải là khờ dại,
ông vẫn y như thế, chúng tôi cũng vậy, không phải những ai khác,
nhưng tâm của ông là độc ác với lũ chim chúng tôi.
Này gă tu khổ hạnh, v́ thế chúng tôi khiếp sợ ông.”
7. Bổn sanh Bồ Câu Romaka.
|
Ta chẳng khùng đâu, biết rơ
ông,
Ta đây, ḍng giống của tôn tông.
C̣n ông vẫn thế, rắp tâm hại,
Ẩn giả, ta đây phải ngại ngùng.
Câu chuyện
277 |
439. Kamatthamabhisandhāya
lahucittassa dūbhino,
sabbakāmaduhasseva idaṃ dukkhaṃ titikkhasi.
|
439. “Đối với con khỉ, kẻ có tâm
khinh suất, bội bạc, có thái độ như là của người ban cho mọi
điều mong muốn (có thái độ như là của chủ nhân), liên quan đến
lợi ích ǵ ǵ mà ngài chịu đựng khổ đau này? |
Sao ngài vẫn kiên tŕ
Chịu đựng chuyện kỳ quặc,
Khỉ hỗn hào ích kỷ
Quấy phá ngài lắm khi? |
440. Siṅgena nihanāhetaṃ padasā
ca adhiṭṭhaha,
bhīyo bālā pakujjheyyuṃ no cassa paṭisedhako.
|
440. Bạn hăy quật ngă con thú này
bằng sừng và hăy dẫm đạp nó bằng bàn chân. Và nếu không có người
ngăn chặn, những kẻ ngu dốt có thể quậy phá nhiều hơn nữa.”
|
Hăy đạp nó bằng chân
Hăy đâm nó bằng sừng,
Phải liền ngăn cản nó
Kẻo bọn trẻ khinh lờn. |
441. Mamevāyaṃ maññamāno
aññampevaṃ karissati,
te taṃ tattha vadhissanti sā me mutti bhavissatī ”ti.
8. Mahisajātakaṃ.
|
441. “Nó cũng sẽ làm như vậy với
kẻ khác trong khi nghĩ rằng kẻ này chính là ta. Trong trường hợp
ấy, chúng sẽ giết chết nó, sự giải thoát (khỏi việc) ấy sẽ có
cho ta.”
8. Bổn sanh Con Trâu.
|
Nếu nó quấy kẻ khác,
Như đă quấy ta đây,
Nó liền bị hạ sát,
Ta sẽ thảnh thơi ngay.
Câu chuyện 278 |
Trang 144:
|
Trang 145:
|
442. Yathā māṇavako panthe
sigāliṃ vanagocariṃ,
atthakāmaṃ pavedentiṃ anatthakāmāti maññati,
anatthakāmaṃ satapattaṃ atthakāmoti maññati.
|
442. “Giống như chàng trai trẻ
trên đường đi nghĩ rằng con chó rừng cái–đi kiếm ăn ở khu rừng,
có ư định tốt, đang (t́m cách) thông báo (tai họa)–là ‘kẻ có ư
định không tốt,’ và nghĩ rằng con chim gơ kiến–có ư định không
tốt– là ‘kẻ có ư định tốt.’” |
Như chàng trai trẻ trên đường,
Chó rừng ấy đă làm chùng bước chân.
Chàng ta nhầm tưởng ác nhân,
Nào ngờ là kẻ cho chàng điều hay.
Lại nhầm Hạc chính bạn ngay,
Trong khi Hạc lại quyết bày ác mưu. |
443. Evameva idhekacco puggalo
hoti tādiso,
hitehi vacanaṃ vutto patigaṇhāti vāmato.
|
443. Tương tự y như vậy, một
người nào đó, ở đây, là thuộc hạng người như vậy, khi được nói
lời nói với những điều lợi ích, th́ tiếp thu ngược lại. |
Nay có kẻ được nhiều bạn tốt,
Lại hiểu lầm sai sót bạn hiền,
Tai không nghe tiếng bạn khuyên
Những điều tốt đẹp dành riêng cho ḿnh. |
444. Ye ca kho naṃ pasaṃsanti
bhayā ukkaṃsayanti ca,
tañhi so maññate mittaṃ satapattaṃva māṇavo ”ti.
9. Satapattajātakaṃ.
|
444. Và thật vậy, những người nào
khen ngợi và tán dương kẻ ấy do sự sợ hăi, kẻ ấy nghĩ rằng chính
người kia là bạn bè, tựa như chàng trai trẻ nghĩ về con chim gơ
kiến.”
9. Bổn sanh Con Chim Gơ Kiến.
|
Hễ người ca tụng mới tin,
Ấy điều hung xấu đă liền hé ra:
Như chàng trai trẻ ngày xưa
Yêu con Hạc nọ bay qua đầu ḿnh.
Câu chuyện
279 |
445. Addhā hi nūna migarājā
puṭakammassa kovido,
tathāhi puṭaṃ dūseti aññaṃ nūna karissati.
|
445. “Có lẽ vua loài thú đương
nhiên là rành rẽ về việc làm giỏ. Bởi v́, gă làm hỏng cái giỏ
như thế này, có lẽ gă sẽ làm cái khác.” |
Hẳn chúa đàn có tài khéo léo
Làm giỏ kia lắm nẻo công phu,
Đời nào ông lại làm hư
Trừ phi giỏ khác ông trù làm thêm. |
446. Na me pitā vā mātā vā
puṭakammassa kovido,
kataṃ kataṃ kho dūsema evaṃ dhammamidaṃ kulaṃ.
|
446. “Cha tôi hoặc mẹ tôi là
không rành rẽ về việc làm giỏ. Chúng tôi quả thật làm hỏng từng
cái giỏ đă được làm ra; gia tộc có tập quán này như vậy.” |
Từ cha mẹ đến tôi nữa đó,
Có thế nào làm giỏ như người?
Người làm, ta xé ră rời
Tính riêng loài khỉ truyền đời là đây! |
447. Yesaṃ vo ediso dhammo
adhammo pana kīdiso,
mā vo dhammaṃ adhammaṃ vā addasāma kudācanan ”ti.
10. Puṭadūsakajātakaṃ.
|
447. “Việc như thế này đối với
các bạn đây là tập quán, thế th́ việc như thế nào là phi tập
quán? Chớ để chúng tôi nh́n thấy tập quán hay phi tập quán các
bạn vào bất cứ lúc nào.”
10. Bổn sanh Kẻ Làm Hỏng Cái Giỏ.
|
Nếu ta tính riêng bầy khỉ đột,
Quả là không thích hợp tính này!
Dù ngươi có đúng hay sai,
Cũng không đáng kể cả hai, cút liền!
Câu chuyện
280 |
Araññavaggo tatiyo.
*****
|
Phẩm Khu Rừng là thứ ba.
***** |
TASSUDDĀNAṂ
Udapānavaraṃ vanabyagghakapi
sikhinī ca balākaruciravaro,
sujanādhiparomakadūsa puna
satapattavaro puṭakamma dasā ”ti.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Chuyện giếng nước, khu rừng và con cọp, con khỉ,
và con hạc nâu có chỏm lông, chuyện con chim xinh xắn,
vị vua tốt, bồ câu Romaka, thêm nữa kẻ làm hại,
chuyện con chim gơ kiến, công việc làm giỏ, là mười.
--ooOoo-- |
Trang 146:
|
Trang 147:
|
▪ 4.
ABBHANTARAVAGGO
|
▪ 4. PHẨM CHÍNH
GIỮA
|
CHƯƠNG BA
(Ba bài kệ)
(Gs. Trần Phương Lan) |
448. Abbhantaraṃ nāma dumo yassa
dibbamidaṃ phalaṃ,
bhutvā dohaḷinī nārī cakkavattiṃ vijāyati. |
448. “Có loại cây tên là Chính
Giữa, trái của nó thuộc về cơi trời. Sau khi ăn vào, người đàn
bà ốm nghén (sẽ) hạ sanh vị vua chuyển luân. |
Có cây nọ trên cành mang trái
Thật diệu kỳ tên gọi Chính trung
Phu nhân ăn trái vào ḷng,
Sinh con ngôi báu nắm tṛn thế gian. |
449. Tañca bhadde mahesīsi sā
cāsi patino piyā,
āharissati te rājā idaṃ abbhantaraṃ phaḷaṃ.
|
449. Tâu lệnh bà, lệnh bà là
chánh cung hoàng hậu. Và lệnh bà đây được chồng yêu quư; đức vua
sẽ mang lại trái Chính Giữa này cho lệnh bà.” |
Thưa Chánh hậu, bà hoàng trọng
đại,
Đấng quân vương sủng ái người thay,
Hăy xin ngài bảo mang xoài
Chính trung trái ấy mà người cần ăn. |
450. Bhatturatthe parakkanto yaṃ
ṭhānamadhigacchati,
sūro attapariccāgī labhamāno bhavāmahan ”ti.
1. Abbhantarajātakaṃ.
|
450. “Quyền lợi nào mà người dũng
sĩ đạt được trong lúc nỗ lực cho những mục đích của chủ nhân,
trong khi nhận lănh (thứ ấy), tôi là người dũng sĩ, có sự buông
bỏ bản thân.”
1. Bổn sanh Chính Giữa.
|
Những người dũng cảm quyên
ḿnh
Một ḷng sốt sắng hy sinh cuộc đời,
Chốn nào họ đạt đến rồi,
Nơi kia chốc lát nữa tôi tới gần.
Câu chuyện
281 |
451. Seyyaṃso seyyaso hoti yo
seyyamupasevati,
ekena sandiṃ katvāna sataṃ vajjhe amocayiṃ.
|
451. “Người thân cận với người
tốt là tốt hơn, là tốt hơn một phần. Sau khi tạo sự kết giao với
một người (bằng tâm từ ái), ta đă cứu thoát một trăm người khỏi
phải chết. |
Điều tốt nhất các khanh nên biết:
Việc tốt hơn hăy quyết ḷng làm,
Kẻ kia, ta đối thiện tâm
Nên ta cứu tử được năm trăm người. |
452. Tasmā sabbena lokena sandhiṃ
katvāna ekako,
pecca saggaṃ nigaccheyya idaṃ suṇotha kāsayo.
|
452. V́ thế, này các cư dân xứ
Kāsi, các người hăy lắng nghe điều này. Sau khi tạo sự kết giao
với tất cả thế gian (bằng tâm từ ái), mỗi một cá nhân có thể
sanh về cơi trời sau khi chết.” |
Khuyên các khanh, với đời hăy tỏ
Vẻ khoan dung đức độ, hiền ḥa,
Cơi trời, vào hết chẳng riêng
Dân Kà-si hỡi, hăy liền nghe ta. |
253. Idaṃ vatvā mahārājā kaṃso
bārāṇasiggaho,
dhanuṃ tūṇiñca nikkhippa saṃyamaṃ ajjhupāgamī ”ti.
2. Seyyaṃsajātakaṃ.
|
453. “Đại vương Kaṃsa, người cai
trị thành Bārāṇasī, đă nói lời này: ‘Sau khi quăng bỏ cây cung
và túi tên, ta đă đạt đến sự tự chế ngự (thiền chứng).’”
2. Bổn sanh Tốt Hơn Một Phần.
|
Ta là Đại đế Ba-la-nại
Vua Kam-sa, có bấy nhiêu lời:
Cung tên ta đă bỏ rời,
Thành người tự thắng, ta thời nên công.
Câu chuyện
282 |
454. Varaṃ varaṃ tvaṃ nihanaṃ
pure cari
asmiṃ padese abhibhuyya sūkare,
sodāni eko vyapagamma jhāyasi
balannu te vyaggha na cajja vijjati.
|
454. “Trước đây, sau khi đă khuất
phục các con heo rừng ở khu vực này, ông đă thực hiện việc giết
chết con heo nào mập nhất, ngon nhất. Bây giờ, ông đây chỉ một
ḿnh phải trốn chạy và bực bội. Này ông cọp, phải chăng hôm nay
sức mạnh của ông không hiện hữu?” |
Mồi ngon nhất bạn luôn luôn được
Mỗi khi đi săn rượt heo rừng.
Bạn nay phiền muộn, tay không,
Nào đâu sức mạnh hào hùng trước đây? |
455. Ime sudaṃ yanti disodisaṃ
pure
bhayaṭṭitā leṇagavesino puthu,
te dāni saṃgamma rasanti ekato
yattha ṭhitā duppasahajja me mayā.
|
455. “Trước đây, những con heo
này chạy tứ tán. Bị khốn khổ v́ sợ hăi, chúng t́m kiếm nơi nương
náu một cách riêng rẽ. Giờ đây, chúng kết hợp lại, cùng nhau gào
thét. Hôm nay, ta khó áp chế được chúng ở nơi chúng sinh sống.”
|
Trước kia chúng thường hay tháo
chạy,
T́m về hang, kinh hăi, tả tơi;
Nay thành hàng ngũ hẳn hoi,
Đứng lên dũng mănh, quyết đ̣i ta lui. |
Trang 148:
|
Trang 149:
|
456. Namatthu saṅghānaṃ
samāgatānaṃ
disvā sayaṃ sakhyaṃ vadāmi abbhutaṃ,
vyagghaṃ migā yattha jiniṃsu dāṭhino
sāmaggiyā dāṭhabalesu muccare ”ti.
3. Vaḍḍhakīsūkarajātakaṃ.
|
456. “Hăy tỏ sự kính nể đến các
hội chúng đă được tập hợp lại, ta nói về t́nh bằng hữu kỳ diệu
sau khi tự thân nh́n thấy. Nơi ấy, những con thú có răng nanh đă
chiến thắng con cọp. Do sự hợp nhất giữa các con heo rừng mà
chúng được tự do.”
3. Bổn sanh Con Heo Rừng Của Người Thợ Mộc.
|
Ta đă thấy một kết đoàn kỳ đặc
Vinh quang thay, những bộ tộc hợp quần!
Đám heo rừng đă đánh hổ tan hoang
Bằng sức mạnh và sừng nanh hợp nhất.
Câu chuyện
283 |
457. Yaṃ ussukā saṅgharanti
alakkhikā bahuṃ dhanaṃ,
sippavanto asippā ca lakkhivā tāni bhuñjati.
|
457. “Những người siêng năng gom
góp được nhiều tài sản không do vận may, c̣n những người có nghề
nghiệp hoặc không có nghề nghiệp có vận may thọ hưởng chúng. |
Những của cải do ḿnh tạo dựng,
Chẳng phải nhờ may mắn mà thành,
Do ơn thần nữ phúc lành
Người hay, kẻ dở đều dành phần cho. |
458. Sabbattha katapuññassa
aticcaññeva pāṇino,
uppajjanti bahū bhogā appanāyatanesupi.
|
458. Ở tất cả các nơi, nhiều của
cải sanh lên cho người đă có tạo phước (trước đây) vượt trội
những chúng sinh khác, thậm chí ở một số ít trường hợp không
phải là đối tượng thích hợp.” |
Trên cuộc thế sờ sờ lắm kẻ
Thiện hiền hay ác tệ hung tàn,
Cuối cùng được hưởng giàu sang,
Đúng ra nào phải là phần họ đâu? |
459. Kukkuṭamaṇayo daṇḍā thiyo ca
puññalakkhaṇā,
uppajjanti apāpassa katapuññassa jantuno ”ti.
4. Sirijātakaṃ.
|
459. “Con gà trống, các viên ngọc
ma-ni, các cây gậy, và những người phụ nữ có phước tướng sanh
lên cho người không ác độc, đă có tạo phước (trước đây).”
4. Bổn sanh Sự May Mắn.
|
Gà kia, ngọc nọ, gậy này,
Rồi người vợ nữa, vận may luân hành.
Cho hay một kẻ thiện lành
Kho tàng kia vẫn được dành phần riêng.
Câu chuyện
284 |
460. Dariyā sattavassāni
tiṃsamattā vasāmase,
hañjema maṇino ābhaṃ iti no mantitaṃ ahu.
|
460. “Chúng tôi gồm ba mươi mạng
sống ở hang được bảy năm. ‘Chúng ta hăy hủy ánh sáng của ngọc
ma-ni,’ chúng tôi đă có suy nghĩ như thế.
|
Ba chục chúng tôi đă sống
trong
Vẻ sáng động kia nay nhọc sức,
Chúng tôi chẳng thể vấy dơ xong. |
461. Yāva yāva nighaṃsāma bhiyyo
vodāyate maṇi,
idañcadāni pucchāma kiṃ kiccaṃ idha maññasi.
|
461. Chúng tôi càng chà xát chừng
nào th́ ngọc ma-ni càng trong sáng thêm. Vậy giờ đây, chúng tôi
hỏi điều này: ‘Ở đây, ông nghĩ việc nên làm là việc ǵ?’” |
Dù đă tốn công đem hết sức,
Làm lu mờ bóng sáng kia đi,
Bóng kia càng sáng hơn lên măi,
Xin hỏi chẳng hay duyên cớ ǵ? |
462. Ayaṃ maṇi veḷuriyo akāco vimalo subho,
nāssa sakkā siriṃ gantuṃ apakkamatha sūkarā ”ti.
5. Maṇisūkarajātakaṃ.
|
462. “Ngọc ma-ni này là ngọc
bích, không t́ vết, không vết nhơ, chói sáng, các ngươi không
thể nào hủy được sự chói sáng, các heo rừng hăy lánh xa.”
5. Bổn sanh Ngọc Ma-ni Và Heo Rừng.
|
Thủy tinh kia quư giá dường
bao,
Trong sáng, luôn luôn rực ánh hào,
Tuyệt chẳng vật ǵ ngăn vẻ sáng,
Heo nên dời chỗ ở đi nào!
Câu chuyện
285 |
Trang 150:
|
Trang 151:
|
463. Mā sālukassa pihayi
āturannāni bhuñjati,
appossukko bhusaṃ khāda etaṃ dīghāyulakkhaṇaṃ.
|
463. “Chớ mong cầu (cuộc sống)
của Sāluka, nó ăn thức ăn (vỗ béo) của kẻ sắp bị giết. Em hăy ít
đ̣i hỏi, hăy nhai rơm rạ; điều ấy là dấu hiệu của cuộc sống thọ.
|
Chớ ganh với món Liên căn,
Đồ ăn của nó là phần tử vong,
Rạ rơm kia, hăy bằng ḷng,
Dài lâu cuộc sống, riêng phần của em. |
464. Idāni so idhāgantvā atithi
yuttasevako,
atha dakkhisi sālukaṃ sayantaṃ musaluttaraṃ.
|
464. Giờ đây, người khách ấy, sau
khi đi đến nơi này, là người phục vụ đă được giao phó. Rồi em sẽ
nh́n thấy Sāluka (bị giết chết) nằm dài với phần môi phía trên.” |
Chẳng bao lâu khách quen sẽ tới,
Chuyện tṛ vui, cười nói này kia,
Liên căn sẽ bị chặt ra,
Với mồm há bẹp thật là đáng thương. |
465. Vikantaṃ sūkaraṃ disvā
sayantaṃ musaluttaraṃ,
jaraggavā vicintesuṃ varamhākaṃ bhusāmivā ”ti.
6. Sālukajātakaṃ.
|
465. “Sau khi nh́n thấy con heo
bị xẻ banh, nằm dài với phần môi phía trên, hai con ḅ già đă
cân nhắc rằng: ‘Chỉ có rơm rạ là tuyệt vời cho chúng ta.’”
6. Bổn sanh Con Heo Sāluka.
|
Thấy Liên căn trăm đường tội
nghiệp
Bị chặt rời, mơm bẹp phơi bày,
Đôi ḅ mới tỏ nói lời này:
Rạ rơm thô thiển tốt may hơn nhiều.
Câu chuyện
286 |
466. Nānummatto nāpisuno nānaṭo
nākutūhalo,
mūḷhesu labhate lābhaṃ esā te anusāsanī.
|
466. “Trong số những người bị mê
mờ, kẻ nhận được lợi lộc không phải là kẻ không bị điên, không
phải là kẻ không nói đâm thọc, không phải là kẻ không nhảy múa,
không phải là kẻ không nói lung tung; sự giáo huấn này là dành
cho ngươi.” |
Kẻ cuồng si, kẻ chuyên lời phỉ
báng,
Kẻ tinh ranh như những bọn phường chèo.
Kẻ nói ác, đều thu lợi thật nhiều,
Châm ngôn ấy, giữa đám người điên loạn. |
467. Dhiratthu taṃ yasalābhaṃ
dhanalābhañca brāhmaṇa,
yā vutti vinipātena adhammacariyāya vā.
|
467. “Thưa Bà-la-môn, thật xấu hổ
thay việc đạt được danh vọng và đạt được tài sản theo lối hành
xử với sự hủy hoại hoặc với việc làm sai pháp. |
Hổ thẹn thay kẻ nào
Thâu đạt lợi danh vào
Bằng hủy diệt tàn hại,
Bằng tội lỗi gắt gao. |
468. Api ce pattamādāya anāgāro
paribbaje,
esāva jīvikā seyyo yā cādhammena esanā ”ti.
7. Lābhagarahajātakaṃ.
|
468. Và hơn nữa, vị (xuất gia)
không nhà nên cầm lấy b́nh bát hành hạnh du sĩ, chính sự nuôi
mạng ấy là tốt hơn việc tầm cầu sai pháp.”
7. Bổn sanh Chê Trách Lợi Lộc.
|
Trong tay một b́nh bát,
Theo cuộc đời không nhà
C̣n hơn theo kiếp sống
Tham lam và ác tà.
Câu chuyện
287 |
469. Agghanti macchā adhikaṃ
sahassaṃ
na so atthi yo imaṃ saddaheyya,
mayhañca assu idha satta māsā
ahampi taṃ macchuddānaṃ kiṇeyyaṃ.
|
469. “Những con cá trị giá hơn
một ngàn,
không có người nào có thể tin chuyện này.
C̣n đối với tôi, ở đây đă là bảy xu,
tôi cũng đă mua phần cá dành riêng ấy.” |
Nào ai tin được chuyện này
Mấy con cá nọ giá ngay ngàn đồng,
Ta đây chỉ bảy hào con,
Mong ǵ mua được cá tṛn một dây? |
470. Macchānaṃ bhojanaṃ datvā mama dakkhiṇamādisi,
taṃ dakkhiṇaṃ sarantiyā kataṃ apacitiṃ tayā.
|
470. “Sau khi cho thức ăn đến
những con cá, ngài đă đề cập đến việc cúng dường đến ta. Trong
khi ta nhớ lại sự cúng dường ấy, sự nể v́ đă được ta thực hiện.
|
Người cho lũ cá ăn
Cúng dường ta có phần,
Ta ghi công đức ấy
Và đạo tâm vẹn toàn. |
Trang 152:
|
Trang 153:
|
471. Paduṭṭhacittassa na phāti
hoti
na cāpi naṃ devatā pūjayanti,
yo bhātaraṃ pettikaṃ sāpateyyaṃ
avañcayī dukkatakammakārī ”ti.
8. Macchuddānajātakaṃ.
|
471. Không có sự hưng thịnh dành
cho kẻ có tâm xấu xa,
và các Thiên thần cũng không cúng dường kẻ ấy,
kẻ đă lừa gạt, đă làm hành động sái quấy
đối với người anh trai về tài sản (thừa kế) của cha.”
8. Bổn sanh Phần Cá Dành Riêng.
|
Tâm địa xấu, dối lừa, trộm
cắp,
Gạt anh em mong đạt gia tài;
Ác tâm nào gặp vận may,
Quỉ thần chẳng chút tỏ bày kính tâm.
Câu chuyện
288 |
472. Nānācchandā mahārāja ekāgāre
vasāmase,
ahaṃ gāmavaraṃ icche brāhmaṇī ca gavaṃ sataṃ.
|
472. “Tâu đại vương, chúng tôi
sống trong một ngôi nhà với những mong muốn khác nhau, tôi thích
ân huệ là ngôi làng, c̣n người vợ Bà-la-môn thích một trăm ḅ
sữa. |
Chúng tôi chung sống một nhà,
Ư này ư nọ chia ra mỗi người!
Trăm ḅ sữa, ư vợ tôi;
C̣n tôi th́ muốn một ngôi làng giàu; |
473. Chatto ca ājaññarathaṃ kaññā
ca maṇikuṇḍalaṃ,
yā cesā puṇṇikā jammī udukkhalaṃ abhikaṅkhati.
|
473. Con trai thích cỗ xe kéo bởi
ngựa thuần chủng, con gái thích bông tai ngọc ma-ni, c̣n đứa tớ
gái hèn hạ ấy mong mỏi cái cối giă.” |
Trai ưa ngựa kéo xe sau;
Hoa tai gắn ngọc, mong cầu gái kia;
Punnà bé nhỏ, nữ tỳ
Nói rằng nàng muốn cối đi cùng chày! |
474. Brāhmaṇassa gāmavaraṃ detha
brāhmaṇiyā gavaṃ sataṃ,
puttassa ājaññarathaṃ kaññāya maṇikuṇḍalaṃ,
yañcetaṃ puṇṇikaṃ jammiṃ paṭiyādetha udukkhalan ”ti.
9. Nānācchandajātakaṃ.
|
474. “Trẫm ban cho người
Bà-la-môn ân huệ là ngôi làng, cho người vợ Bà-la-môn một trăm
ḅ sữa, cho người con trai cỗ xe kéo bởi ngựa thuần chủng, cho
người con gái bông tai ngọc ma-ni, và trẫm thí cho đứa tớ gái
hèn hạ ấy cái cối giă.”
9. Bổn sanh Các Mong Muốn Khác Nhau.
|
Hăy cho người vợ trăm ḅ;
Người chồng tốt bụng được cho ngôi làng;
Hoa tai ngọc tặng cô nàng;
Xe đôi ngựa kéo gởi chàng trai kia;
C̣n cô giúp việc trong nhà
Trao cho chày cối - Thế là thỏa chung.
Câu chuyện
289 |
475. Sīlaṃ kireva kalyāṇaṃ sīlaṃ
loke anuttaraṃ,
passa ghoraviso nāgo sīlavāti na haññati.
|
475. “Nghe nói giới là tốt lành,
giới là vô thượng ở thế gian. Hăy nh́n xem con rồng dữ tợn, có
nọc độc, không bị giết chết v́ ‘có giới hạnh.’ |
Cho rằng Đức hạnh đáng yêu
Người ta tôn quí bao nhiêu trên đời.
Xem kia! Rắn độc chết người,
Bảo rằng nó tốt, chẳng đ̣i chết ngay. |
476. Sohaṃ sīlaṃ samādissaṃ loke
anumataṃ sivaṃ,
ariyavuttisamācāro yena vuccati sīlavā.
|
476. Tôi đây sẽ thọ tŕ giới, sự
an toàn đă được chứng thực ở thế gian. Người có sự thực hành lối
sống của bậc Thánh được gọi là ‘người có giới.’ |
Tôi nay bảo, khắp đầy trần thế
Đức hạnh là tôn quí đáng yêu:
Kẻ nào đạo đức vẫn nêu
Con đường đạo quả bước theo măi hoài. |
477. Ñātīnañca piyo hoti mittesu
ca virocati,
kāyassa bhedā sugatiṃ upapajjati sīlavā ”ti.
10. Sīlavīmaṃsajātakaṃ.
|
477. Người có giới được các thân
nhân yêu quư, và chói sáng trong số những bạn bè, khi thân này
bị tan ră sẽ tái sanh vào chốn an vui.”
10. Bổn sanh Suy Xét Về Giới.
|
T́nh thân thiết, sáng ngời
chúng bạn
Rồi đến khi số tận mạng chung,
Kẻ nào tích đức sẵn sàng
Cơi trời, kẻ ấy được phần tái sinh.
Câu chuyện
290 |
Abbhantaravaggo catuttho.
*****
|
Phẩm Chính Giữa là thứ tư.
***** |
TASSUDDĀNAṂ
Dumakaṃsavaruttamabyagghamigā
maṇiyo maṇi sālukamavhayano,
anusāsaniyopi ca macchavaro
maṇikuṇḍalakena kirena dasā ”ti.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Cây cối, chuyện vua Kaṃsa hay nhất, cọp và thú (có nanh),
các viên ngọc ma-ni, ngọc ma-ni, con heo tên Sāluka,
các lời giáo huấn và chuyện các con cá,
với bông tai ngọc ma-ni, với việc nghe nói, là mười.
--ooOoo--
|
Trang 154:
|
Trang 155:
|
▪ 5.
KUMBHAVAGGO |
▪ 5. PHẨM
CÁI HŨ
|
CHƯƠNG BA
(Ba bài kệ)
(Gs. Trần Phương Lan) |
478. Sabbakāmadadaṃ kumbhaṃ kuṭaṃ
laddhāna dhuttako,
yāva so anupāleti tāva so sukhamedhati.
|
478. “Gă vô lại đă nhận được cái
chậu, cái hũ ban cho mọi điều ước muốn. Ngày nào gă c̣n ǵn giữ
cái hũ th́ ngày ấy gă c̣n thành tựu hạnh phúc. |
Kẻ vô dụng một lần được bát,
Ḷng muốn ǵ, Bát tất thỏa ngay,
Bao lâu c̣n giữ Bát này,
Tiền tài luôn vẫn c̣n đầy cho anh. |
479. Yadā matto ca ditto ca
pamādā kumbhamabbhidā,
tato naggo ca pottho ca pacchā bālo vihaññati.
|
479. Vào lúc bị say sưa và kiêu
ngạo, do xao lăng gă đă làm vỡ cái hũ. Từ đó, gă sống lơa lồ và
rách rưới. Về sau, gă ngu si lâm cảnh khốn cùng. |
Trong một lúc ngông nghênh say
khướt,
Anh làm tan Bát phước lành rồi!
Lơa lồ, rách rưới tả tơi,
Kẻ rồ tội nghiệp sống đời đắng cay. |
480. Evameva yo dhanaṃ laddhā
amattā paribhuñjati,
pacchā tapati dummedho kuṭaṃ1 bhinnova dhuttako ”ti.
1. Bhadraghaṭajātakaṃ.
|
480. Tương tự y như vậy, người
nào sau khi đạt được tài sản rồi thọ dụng không chừng mực, về
sau kẻ ngu muội bị sầu muộn, tựa như gă vô lại đă làm vỡ cái
chậu.”
1. Bổn sanh Cái B́nh Tốt Lành.
|
Kẻ nào có gia tài đồ sộ
Nhưng hưởng đời, tiết độ chẳng hay,
Phút giây tàn mạt! - cũng tày
Anh chàng khờ khạo vỡ ngay Bát thần.
Câu chuyện
291 |
481. Bārāṇassaṃ mahārāja kākarājā
nivāsiko,
asītiyā sahassehi supatto parivārito.
|
481. “Tâu đại vương, quạ vương
tên Supatta thường trú ở Bārāṇasī là được tùy tùng bởi tám mươi
ngàn con quạ. |
Ở nơi đây, thành
Ba-la-nại,
Tâu Đại vương, có vị Quạ Vua,
Tên Hoàng Dực, với đàn kia,
Tám mươi ngàn quạ đều là thần dân. |
482. Tassa dohaḷinī bhariyā
suphassā macchamicchati,
rañño mahānase pakkaṃ paccagghaṃ rājabhojanaṃ.
|
482. Vợ của quạ vương là Suphassā
bị ốm nghén, và muốn ăn cá là món ăn đắt giá của vua, được nấu ở
bếp của nhà vua. |
Nhu Hoàng hậu muôn
phần mơ ước:
Bà khát khao có được bữa cơm,
Cá kia riêng của Đại vương
Bắt tươi nấu chín vừa mang lên bàn. |
483. Tesāhaṃ pahito dūto rañño
camhi idhāgato,
bhattu apacitiṃ kummi nāsāyamakaraṃ vaṇan ”ti.
2. Supattajātakaṃ.
|
483. Được bọn họ phái đi, tôi là
sứ giả của đức vua, và tôi đă đi đến nơi này. Tôi thể hiện sự
kính nể đến chủ nhân, tôi đă gây nên vết thương ở mũi.”
2. Bổn sanh Quạ Vương Supatta.
|
Xin xem tôi như hàng sứ giả,
Vua tôi sai nên đă đến đây.
Kính Vua, tôi tỏ ḷng này,
Mũi người kia bị tôi gây đau phiền.
Câu chuyện
292 |
484. Phuṭṭhassa me aññatarena
vyādhinā
rogena bāḷhaṃ dukhitassa ruppato,
parisussati khippamidaṃ kaḷebaraṃ
pupphaṃ yathā paṃsuni ātape kataṃ.
|
484. “Lúc tôi bị tác động bởi một
cơn bệnh nào đó,
tôi bị khổ sở, bị hành hạ một cách dữ dội bởi sự ốm đau,
thân xác này của tôi bị tàn tạ một cách nhanh chóng,
giống như bông hoa được đặt trên mặt đất ở nơi nắng nóng, bị héo
úa. |
Bị cơn bệnh trầm kha quật xuống,
Ta nằm dài đau đớn sầu bi.
Thân ta chóng héo tàn đi
Như hoa trên đất khô v́ nắng kia. |
485. Ajaññaṃ jaññasaṅkhātaṃ
asuciṃ sucisammataṃ,
nānākuṇapaparipūraṃ jaññarūpaṃ apassato.
|
485. Đối với người không nh́n
thấy sắc thân mỹ miều chứa đầy các vật ghê tởm khác loại, th́
vật không mỹ miều được xem là mỹ miều, vật không trong sạch được
gọi là trong sạch. |
Cao sang cũng như là hèn nhục,
Tinh khiết cùng vẩn đục như nhau.
Kẻ nào mù quáng biết đâu
Tưởng vùng hư thối là mầu đẹp tươi. |
486. Dhiratthu taṃ āturaṃ
pūtikāyaṃ
jegucchiyaṃ asuciṃ byādhidhammaṃ,
yatthappamattā adhimucchitā pajā
hāpenti maggaṃ sugatūpapattiyā ”ti.
3. Kāyavicchandajātakaṃ.
|
486. Thật xấu hổ thay cái thân
xác hôi thối ốm đau, đáng ghê tởm, không trong sạch, có bản chất
bệnh hoạn ấy! Bị say đắm, bị mê mẫn thân xác này, chúng sanh bỏ
quên đạo lộ đưa đến việc tái sanh ở cảnh giới an vui.”
3. Bổn sanh Không C̣n Mong Muốn Ở Thân.
|
Thân bệnh hoạn này thời đáng
thẹn
Quá thối hư, bất tịnh mà thôi.
Kẻ cuồng si hễ biếng lười,
Lang thang khắp lối, cơi trời chẳng sinh.
Câu chuyện
293 |
Trang 156:
|
Trang 157:
|
487. Koyaṃ bindussaro vaggu
pavadantānam uttamo,
accuto jambusākhāya moracchāpova kūjati.
|
487. “Người này là ai mà có
giọng hót tṛn trịa, có âm thanh ngọt ngào, hạng nhất trong số
những loài có tiếng hót, đang đậu ở cành cây đào đỏ, tựa như con
công trẻ kêu líu lo?” |
Ai đó ngồi cây đào đỏ hồng,
Giọng ca thanh lịch rót vào ḷng,
Dáng nàng uyển chuyển như công múa
Và vẫn ngồi yên, vẫn lặng không! |
488. Kulaputtova jānāti kulaputte
pasaṃsituṃ,
vyagghacchāpasarīvaṇṇo bhuñja samma dadāmi te.
|
488. “Chỉ con nhà danh giá mới
biết ca ngợi những người con nhà danh giá. Này bạn, với vóc dáng
tựa như cọp con, bạn hăy ăn đi, ta tặng cho bạn.” |
Kẻ nào gia thế cao sang
Mới khen kẻ khác là hàng quư cao.
Chàng cùng mănh hổ khác nào,
Đến đây! Ăn thứ tôi trao tặng chàng! |
489. Cirassaṃ vata passāmi
musāvādī samāgate,
vantādaṃ kuṇapādañca aññamaññaṃ pasaṃsake ”ti.
4. Jambukhādakajātakaṃ.
|
489. “Thật vậy, cuối cùng ta nh́n
thấy những kẻ nói lời dối trá gặp gỡ nhau, con quạ chuyên ăn vật
ói mửa và con chó rừng ăn thịt xác chết, những kẻ ca ngợi lẫn
nhau.”
4. Bổn sanh Kẻ Nhai Trái Đào Đỏ.
|
Quân nói dối, ta đây rơ quá!
Tên Quạ kia, tên Chó rừng kia,
Chuyên ăn xác chết thối tha,
Nịnh nhau qua lại nghe ra om ṣm!
Câu chuyện
294 |
490. Usabhasseva te khandho
sīhasseva vijambhitaṃ,
migarāja namo tyatthu api kiñci labhāmase.
|
490. “Thân h́nh của ngài tựa như
con ḅ mộng, sự vươn vai của ngài tựa như loài sư tử. Thưa vị
vua của loài thú, xin kính lễ ngài! Chúng ta có nhận được một
vật ǵ đó không?” |
Như chàng ḅ mộng, tấm thân
ông,
Sinh hoạt như sư tử mạnh hùng,
Vinh hiển thay ông, vua các thú!
Đừng quên một miếng tặng tôi cùng. |
491. Kulaputtova jānāti kulaputte
pasaṃsituṃ,
mayūragīvasaṅkāsa ito pariyāhi vāyasa.
|
491. “Chỉ con nhà danh giá mới
biết ca ngợi những người con nhà danh giá. Này quạ, kẻ (có cái
cổ) giống như cổ của chim công, bạn hăy đi loanh quanh ở nơi đây
(để ăn thịt xác chết).” |
Những ai gia thế trọng cao
Mới ca ngợi đúng kẻ nào quí sang.
Cổ cô giống cổ chim công.
Quạ ơi, bay xuống mà dùng thịt đây. |
492. Migānaṃ kotthuko anto
pakkhīnaṃ pana vāyaso,
eraṇḍo anto rukkhānaṃ tayo antā samāgatā ”ti.
5. Antajātakaṃ.
|
492. “Chó rừng là hạng chót trong
số các loài thú, thêm nữa, con quạ là hạng chót trong số các
loài chim, cây eraṇḍa là hạng chót trong số các giống
cây, ba kẻ hạng chót gặp gỡ nhau.”
5. Bổn sanh Hạng Chót.
|
Loài thú hèn nhất, là Chó
rừng,
Trong loài chim, Quạ bét sau cùng,
Thầu dầu hạ liệt nhất loài mộc,
Ba thứ chung đây, tối hạ tầng!
Câu chuyện
295 |
493. Konāyaṃ loṇatoyasmiṃ samantā
paridhāvati,
macche makare ca vāreti ūmīsu ca vihaññati.
|
493. “Kẻ này là ai mà chạy loanh
quanh khắp các nơi ở vùng nước mặn, ngăn cản các loài cá và các
cá đao, rồi bị khốn khổ về những làn sóng?” |
Trên sóng biển ai bay qua đó?
Ai cố công cản trở thủy loài,
Ngăn đàn cá lội ngoài khơi,
Sợ rằng biển cả sẽ vơi dần dà? |
494. Anantapāyī sakuṇo atittoti
disāsuto,
samuddaṃ pātumicchāmi sāgaraṃ saritaṃ patiṃ.
|
494. “Tôi được nổi tiếng khắp bốn
phương là ‘con chim không được thỏa măn tên Anantapāyī (uống
không giới hạn).’ Tôi muốn uống cạn biển lớn, biển cả, chúa tể
của các con sông.” |
Trên thế giới người ta vẫn nói
Rằng tôi đây uống măi chẳng vừa,
Ra công uống hết biển kia
Làm cho biển chúa giang hà cạn khô. |
495. Svāyaṃ hāyati ceva pūrate ca
mahodadhi,
nāssa nāyati pītanto apeyyo kira sāgaro ”ti.
6. Samuddajātakaṃ.
|
495. “Đại dương này đây tự cạn
xuống và đầy lên (thủy triều lên xuống). Không nhận ra mức nước
đă được uống của biển cả; nghe nói biển cả không thể bị uống
cạn.”
6. Bổn sanh Biển Cả.
|
Dù biển cả có vơi dần nước,
Cũng lại đầy cùng một ngày thôi,
Nào ai làm biển được vơi?
Uống vào nước ấy kể thời thấm chi!
Câu chuyện
296 |
Trang 158:
|
Trang 159:
|
496. Ucce sakuṇa ḍemāna pattayāna
vihaṅgama,
vajjāsi kho tvaṃ vāmūruṃ ciraṃ kho sā karissati.
|
496. “Này chim, trong khi di
chuyển ở trên cao, này loài di chuyển bằng đôi cánh, này loài đi
lại ở hư không, bạn có thể nói cho người vợ có cặp đùi xinh đẹp
của tôi không? Đă quá lâu, nàng ấy sẽ thể hiện sự giận dữ!
|
Chim ơi, bay ở trên trời,
Chim mang cánh nọ, cao vời xa bay.
Vợ tôi, đùi đẹp lắm thay,
Nhắn dùm nàng, đă lâu rày phải chăng? |
497. Idaṃ kho sā na jānāti asiṃ
sattiñca oḍḍitaṃ,
sā caṇḍī kāhati kodhaṃ taṃ me tapati no idha.
|
497. Nàng ấy thật sự không biết
điều này, là việc gươm và giáo đă được dựng lên. Nàng ấy tàn
nhẫn, sẽ thể hiện sự giận dữ; điều ấy làm tôi bực bội, không
phải sự việc (tôi bị hành hạ) ở đây. |
Nàng đâu biết tới đao, thương,
Giận hờn, nàng hẳn lắm đường so đo.
Việc kia, tôi sợ, tôi lo,
Chứ không do bị treo gị nơi đây! |
498. Esa uppalasannāho
nikkhamussīsake kataṃ,
kāsikañca muduṃ vatthaṃ tappatu dhanakāmikā ”ti.
7. Kāmavilāpajātakaṃ.
|
498. Chiếc áo giáo màu xanh ấy,
chiếc cà rá được đặt ở gối, và loại vải mềm mại của xứ Kāsi, hăy
làm thỏa măn cô nàng mong muốn tài sản.”
7. Bổn sanh Lời Than Văn Về Điều Mong Muốn.
|
Áo hoa sen, tôi nay bỏ lại,
Cùng ngọc ngà trên gối nằm kia.
Lụa Ba-la-nại mượt mà,
Để nàng thỏa ư cửa nhà giàu sang.
Câu chuyện
297 |
499. Udumbarā cime pakkā nigrodhā
ca kapitthanā,
ehi nikkhama bhuñjassu kiṃ jighacchāya mīyasi.
|
499. “Các cây sung, các cây đa,
và các cây vú sữa này đă chín tới. Này bạn hăy đến, hăy đi ra
ngoài, hăy ăn, việc ǵ bạn phải chết v́ đói?” |
Sung đă chín trên cây ngon
đẹp,
Khỉ nhà ta được dịp no nê.
Cùng ta đến đó ăn đi,
Bạn ơi, nào phải sợ ǵ đói đâu? |
500. Evaṃ so suhito hoti yo
vaddhamapacāyati,
yathāhamajja suhito dumapakkāni-m-āsito.
|
500. “Như vậy, người nào tôn kính
bậc trưởng thượng, người ấy được lợi ích tốt đẹp, giống như tôi
hôm nay, được lợi ích tốt đẹp, được ăn những trái cây chín.” |
Hạnh phúc thay kẻ nào cảm phục
Và tôn sùng những bậc niên cao,
Tôi đây hạnh phúc làm sao!
Bao nhiêu trái ấy ăn vào thỏa thuê! |
501. Yaṃ vanejo vanejassa
vañceyya kapino kapi,
daharopi taṃ na saddheyya na hi jiṇṇo jarākapī ”ti.
8. Udumbarajātakaṃ.
|
501. “Việc một con khi sanh ra ở
rừng lường gạt một con khỉ khác cũng sanh ra ở rừng, ngay cả con
khỉ nhỏ c̣n không thể tin vào điều ấy, th́ con khỉ già cả, lăo
niên, càng không thể tin.”
8. Bổn sanh Cây Sung.
|
Người Hy Lạp gặp nhau sinh
chiến,
Khỉ gặp nhau, ngửi chuyện mưu xa,
Dù cho trẻ nọ tinh ma,
Đời nào lừa bắt chim già được đâu.
Câu chuyện
298 |
502. Pure tuvaṃ sīlavataṃ sakāse
okkandikaṃ kīḷasi assamamhi,
karohare makkaṭiyāni makkaṭa
na taṃ mayaṃ sīlavataṃ ramāma.
|
502. “Trước đây, khi ngươi ở gần
các vị có giới hạnh,
ngươi thường xuyên giỡn hớt ở khu ẩn cư.
Ồ, này khỉ, ngươi hăy làm các tṛ khỉ,
chúng ta không vui thích giới và phận sự ấy.” |
Lúc trước đây người thường
nghịch phá
Trong lều cùng ẩn giả chúng ta,
Hăy làm tṛ khỉ như xưa,
Thành người đức hạnh chẳng vừa ḷng đây! |
503. Sutā hi mayhaṃ paramā
visuddhi
komāyaputtassa bahussutassa,
mādāni maṃ maññi tuvaṃ yathā pure
jhānānuyuttā viharāma āvuso.
|
503. “Bởi v́ tôi đă được nghe về
sự thanh tịnh tuyệt đối
của vị đa văn tên Komāyaputta.
Giờ đây, xin ông chớ nghĩ về tôi giống như trước đây,
chúng tôi sống gắn bó với việc tham thiền, thưa đạo hữu.”
|
Ko-mà-ya, bậc thầy trí tuệ,
Tôi đă nghe lời lẽ tuyệt vời.
Tôi nay đă khác xưa rồi,
Giờ đây suy tưởng tôi thời noi theo. |
Trang 160:
|
Trang 161:
|
504. Sacepi selasmiṃ vapeyya
bījaṃ
devo ca vasse neva hi taṃ ruheyya,
sutā hi te sā paramā visuddhi
ārā tuvaṃ makkaṭa jhānabhūmiyā ”ti.
9. Komāyaputtajātakaṃ.
|
504. “Nếu có thể gieo hạt giống ở
trên đá,
và Trời có thể đổ mưa, nhưng hạt ấy chẳng bao giờ có thể mọc
lên.
Dầu ngươi đă được nghe về sự thanh tịnh tuyệt đối ấy,
này khỉ, ngươi vẫn cách xa lĩnh vực của thiền.”
9. Bổn sanh Ẩn Sĩ Komāyaputta.
|
Nếu hạt kia người gieo trên
đá,
Dù trời mưa, hạt chả nên cây.
Dù người Tuệ Giác tṛn đầy,
Suy tư ngươi chẳng mảy may được nào.
Câu chuyện
299 |
505. Parapāṇarodhā jīvanto
maṃsalohitabhojano,
vako vataṃ samādāya upapajji uposathaṃ.
|
505. “Trong khi sống nhờ vào sự
giết hại mạng sống kẻ khác, có thức ăn là thịt và máu tươi, con
chó sói đă thọ tŕ phận sự và đă thực hành ngày Trai giới.
|
Chó Sói nọ chuyên bắt sống thú
Làm bữa ăn với máu thịt kia.
Một lần phát thành nguyện ra,
Giữ ngày trai giới quyết là chẳng sai. |
506. Tassa sakko vataññāya
ajarūpenupāgami,
vītatapo ajjhappatto bhañji lohitapo tapaṃ.
|
506. Biết được sự thọ tŕ của nó,
Thiên Chủ Sakka đă đi đến với h́nh dáng con dê. Ĺa bỏ khổ hạnh,
con chó sói đă lao vào (con dê); kẻ uống máu tươi đă phá vỡ sự
khổ hạnh. |
Thần Đế Thích biết ngay chuyện ấy
Hóa thành dê đến đấy thử coi.
Sói kia khát máu vồ mồi,
Hạnh liền ném mất, quên lời nguyện ngay. |
507. Evamevaṃ idhekacce
samādānasmiṃ dubbalā,
lahuṃ karonti attānaṃ vakova ajakāraṇā ”ti.
10. Vakajātakaṃ.
|
507. Tương tự y như vậy, ở đây,
một số người xem nhẹ bản thân do có năng lực yếu đuối trong việc
thọ tŕ, tựa như con chó sói với chuyện con dê.”
10. Bổn sanh Con Chó Sói. |
Người trên thế gian này cũng
vậy,
Định việc mà chẳng thấy sức ḿnh,
Sai đường mục đích chẳng thành,
Như khi Sói nọ thấy h́nh Dê kia.
Câu chuyện
300 |
Kumbhavaggo pañcamo.
*****
|
Phẩm Cái
Hũ là thứ năm.
***** |
TASSUDDĀNAṂ
Varakumbhasupattasirivahayano
sucisammatabinduvaro cūsabho,
saritaṃpaticaṇḍijarākapinā
atha makkaṭiyā vakakena dasā ”ti.
Tikanipāto niṭṭhito.
*****
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Chuyện cái hũ, tên gọi tốt lành Supatta,
được gọi là trong sạch, chuyện giọng hót tṛn trịa, và như con
ḅ mộng,
chúa tể của các con sông, tàn nhẫn, với con khỉ già cả,
rồi các tṛ khỉ, với con chó sói, là mười.
Nhóm Ba
Kệ Ngôn được chấm dứt.
*****
|
VAGGUDDĀNAṂ
Saṅkappo padumo ceva udapānena tatiyaṃ,
abbhantaraṃ ghaṭabhedaṃ tikanipātamhi ’laṅkatan ”ti.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC CÁC PHẨM
Phẩm tư duy, và hoa sen nữa, với giếng nước là thứ ba,
phẩm chính giữa, làm bể cái chậu, đă được tô điểm ở nhóm ba kệ
ngôn.
--ooOoo--
|
<Trang trước> |
<Trang Kế> |