VIII.
AṬṬHAKANIPĀTO - NHÓM TÁM KỆ NGÔN
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 302: |
Trang 303:
|
KACCĀNIVAGGO
|
PHẨM
BÀ KACCĀNI |
CHƯƠNG
TÁM (Tám bài kệ)
(Gs. Trần Phương Lan) |
1147. Odātavatthā suci allakesā
kaccāni kiṃ kumbhimadhissayitvā,
piṭṭhā tilā dhovasi taṇḍulāni
tilodano hohiti kissa hetu.
|
1147. “Bà mặc y phục trắng, sạch
sẽ, tóc thấm ướt.
Này Kaccāni, bà đă nấu cái nồi ǵ vậy?
Mè đă được xay, bà vo gạo.
Cơm mè sẽ là nguyên nhân của việc ǵ?” |
1. Mặc áo trắng và tóc xơa
vai,
Kac-cà-ni lại nấu nồi sôi,
Gạo mè bà rửa đằng kia đó,
Bà có dùng không lúc chín rồi? |
1148. Na kho ayaṃ brāhmaṇa
bhojanatthā
tilodano hohiti sādhupaññā,
dhammo mato tassa bahūtamajja
ahaṃ karissāmi susānamajjhe.
|
1148. “Thưa vị Bà-la-môn, cái này
không phải để ăn. Cơm mè sẽ có mục đích tốt đẹp. Đạo lư đă chết
rồi, tôi sẽ thực hiện việc cúng cơm cho nó ở giữa băi tha ma.”
|
2. Đạo sĩ ơi, tôi chẳng muốn
ăn
Mè xay và cả món cơm hầm:
Giờ đây đă chết thần Công chánh,
Tôi muốn cúng dâng lễ tế thần. |
1149. Anuvicca kaccāni karohi
kiccaṃ
dhammo mato ko nu tavetasaṃsī,
sahassanetto atulānubhāvo
na mīyati dhammavaro kadāci.
|
1149. “Này Kaccāni, bà hăy suy
xét và hăy làm việc nên làm.
Vậy ai đă tuyên bố với bà là đạo lư đă chết rồi?
Đấng Ngàn Mắt có năng lực không thể sánh bằng.
Đạo lư cao quư không bị chết bao giờ.” |
3. Khi quyết định, bà phải
nghĩ suy:
Bà nghe ai nói vọng ngôn kia?
Ngài ngàn mắt ấy đầy uy lực,
Công chánh Thần không thể chết đi. |
1150. Daḷhappamāṇaṃ mama ettha
brahme
dhammo mato natthi mamettha kaṅkhā,
ye yevadāni pāpā bhavanti
te tevadāni sukhitā bhavanti.
|
1150. “Thưa vị Bà-la-môn, tôi có
sự phán quyết chắc chắn về điều này.
Đạo lư đă chết rồi, tôi không có nghi ngờ về điều này.
Hiện nay, những cái ǵ là sai trái,
những cái ấy, hiện nay, được an ổn. |
4. La-môn, tôi chứng kiến rành
rành,
"Công lư chết rồi." Tôi phải tin:
Tất cả kẻ nào theo ác hạnh
Hiện giờ hưởng đại phồn vinh. |
1151. Suṇisā hi mayhaṃ vañjhā
ahosi
sā maṃ vadhitvāna vijāyi puttaṃ,
sādāni sabbassa kulassa issarā
ahaṃ panamhi apaviddhā ekikā.
|
1151. Bởi v́ con dâu của tôi đă
bị hiếm muộn.
Cô ta, sau khi hành hạ tôi, đă sanh con trai.
Giờ đây, cô ta là chủ nhân của toàn bộ gia đ́nh.
C̣n tôi, ngược lại, bị đuổi đi, chỉ có một ḿnh.” |
5. Dâu của tôi ngày trước hiếm
hoi,
Đánh tôi, rồi lại đẻ con trai,
Nó thành bà chủ trong nhà ấy,
Tôi bị lăng quên, bị bỏ rơi. |
1152. Jīvāmi vohaṃ nāhaṃ matosmi
taveva atthāya idhāgatosmi,
yā taṃ vadhitvāna vijāyi puttaṃ
sahāva puttena karomi bhasmaṃ.
|
1152. “Ta vẫn c̣n sống, ta không
có bị chết.
Ta đă đi đến nơi này v́ lợi ích của chính bà.
Cô dâu nào, sau khi hành hạ bà, đă sanh con trai,
ta sẽ làm cho cô ta và đứa con trai hóa ra tro.” |
6. Không phải đâu, ta sống măi
mà,
Nay ta giáng thế, chính v́ bà,
Dâu bà đánh mẹ, song dâu cháu,
Sẽ hóa tro trong lửa của ta. |
1153. Etañca te ruccati devarāja
mameva atthāya idhāgatosi,
ahañca putto suṇisā ca nattā
sammodamānā gharamāvasema.
|
1153. “Thưa Thiên Vương, điều này
được ngài vui thích,
ngài đă đi đến nơi này v́ lợi ích của chính tôi.
Tôi, con trai, con dâu, và cháu trai,
hăy cho chúng tôi sống chung nhà, ḥa thuận.”
|
7. Thiên chủ, mong sao hợp ư
ngài,
V́ tôi, ngài đến tự trên trời,
Ước mong đôi trẻ và thằng cháu
Được sống đời ḥa thuận với tôi. |
Trang 304: |
Trang 305: |
|
1154. Etañca te ruccati kātiyāni
hatāpi santā na jahāsi dhammaṃ,
tuvañca putto suṇisā ca nattā
sammodamānā gharamāvasetha.
|
1154. “Này Kātiyāni, điều này
được bà vui thích,
ngay cả trong khi bị đánh đập, bà cũng không từ bỏ đạo lư.
Bà, con trai, con dâu, và cháu trai,
quư vị hăy sống chung nhà, ḥa thuận.” |
8. Ka-ti sẽ măn nguyện, v́ bà
Bị đánh, song bà tin tưởng ta
Công chánh, vậy cùng con, cháu nội
Sống đời ḥa thuận ở trong nhà. |
1155. Sā kātiyāni suṇisāya
saddhiṃ
sammodamānā gharamāvasitvā,
putto ca nattā ca upaṭṭhahiṃsu
devānamindena adhiggahītā ”ti.
1. Kaccānijātakaṃ.
|
1155. “Bà Kātiyāni ấy cùng với
người con dâu
đă sống chung nhà, ḥa thuận.
Con trai và cháu trai đă phụng dưỡng.
Bà đă được vị Chúa của chư Thiên nâng đỡ.”
1. Bổn sanh Bà Kaccāni.
|
9. Với con dâu thảo lại vui
mừng
Bà lăo Ka-ti đă sống chung,
Thiên chủ giải ḥa xung đột cũ,
Cháu con săn sóc thật ân cần.
Câu chuyện
417 |
1156. Idaṃ pure ninnamāhu
bahumacchaṃ mahodikaṃ,
āvāso bakarājassa pettikaṃ bhavanaṃ mama,
tyajja bhekena yāpema okaṃ na vijahāmase.
|
1156. “Trước đây, chỗ này đă là
vùng trũng, có nhiều cá, có nhiều nước, là chỗ ngụ của hạc chúa,
là nơi cư trú của cha ta. Hiện nay, chúng tôi đây nuôi sống bằng
loài ếch nhái, chúng tôi không ĺa bỏ chỗ ở này.” |
1. Ngày xưa thường gọi chốn
này
Ao sâu, tôm cá lội đầy tung tăng,
Là nơi cư trú Hạc vương,
Tổ tiên ta cũng sống thường trước kia.
Dẫu ăn ếch nhái bây giờ,
Chúng ta không thể xa bờ ao xưa. |
1157. Ko dutiyaṃ asīlassa
bandhurassakkhi bhejjati,
ko me putte kulāvakaṃ mañca sotthiṃ karissati.
|
1157. “Ai sẽ làm hỏng con mắt thứ
hai của kẻ phá giới Bandhura? Ai sẽ tạo ra sự an toàn cho các
chim con của tôi, cái tổ chim, và tôi?” |
2. Anh chàng một mắt Ban-ra
Là ai mà cứ phá nhà của tôi?
Bầy chim mới nở, than ôi!
Ai người thân thiện cứu tôi khốn cùng? |
1158. Sabbā parikkhatā pheggu
yāva tassā gatī ahu,
khīṇabhakkho mahārāja sāre na ramatī ghuṇo.
|
1158. “Tất cả phần giác gỗ đă bị
gặm nhấm cho đến chỗ tận cùng của nó. Tâu đại vương, thức ăn bị
cạn kiệt, loài mọt không ưa thích lơi gỗ. |
3. Ta vừa ăn hết gỗ sung,
Mọi nơi ta đă đi ṿng quanh co,
Gỗ nào cứng, mọt khó ưa,
C̣n thức ăn khác ở xa dưới ḿnh! |
1159. Sā nūnāhaṃ ito gantvā rañño
muttā nivesanā,
attānaṃ ramayissāmi dumasākhāniketinī.
|
1159. “Ước ǵ sau khi đi đến nơi
này, chim cu cu tôi được thoát khỏi cung điện của đức vua, tôi
sẽ vui thích tự thân, khi có được chỗ ngụ ở cành cây!” |
4. Ước ǵ rời chốn cung đ́nh!
Ước ǵ giải thoát thân ḿnh tự do!
Hân hoan bay lượn rừng già,
Rồi ta xây tổ của ta trên cành. |
1160. So nūnāhaṃ ito gantvā rañño
mutto nivesanā,
aggo dakāni pivissāmi yūthassa purato vajaṃ.
|
1160. “Ước ǵ sau khi đi đến nơi
này, nai tôi được thoát khỏi cung điện của đức vua, là thủ lănh,
tôi sẽ uống nước, trong khi đi phía trước bầy nai.” |
5. Ước ǵ rời chốn cung đ́nh!
Ước ǵ giải thoát thân ḿnh vui sao!
Uống ḍng nước suối trong veo,
Dẫn đàn nai vẫn bước theo sau ḿnh! |
1161. Taṃ maṃ kāmehi sampannaṃ
rattaṃ kāmesu mucchitaṃ,
ānayī harato luddo bāhiko bhaddamatthu te.
|
1161. “Được đầy đủ các dục, tôi
đây bị luyến ái, bị mê mẫn trong các dục. Gă thợ săn Bharata
người ngoại xứ đă dắt tôi đi. Mong rằng sự may mắn hăy có cho
ông.” |
6. Ḷng ta nặng trĩu dục t́nh,
Với bao ước vọng thân ḿnh nhiễm ô,
Bha-ta, lạp hộ bắt ta,
Ước mong phước phận lăo gia tràn trề! |
1162. Andhakāratimisāyaṃ tuṅge
uparipabbate,
sā maṃ saṇhena mudunā mā pādaṃ khaṇiyasmani.
|
1162. “Trong bóng tối của đêm
đen, ở phía trên ngọn núi cao nhọn, nàng đă nói với tôi bằng
giọng nói mềm mỏng, dịu dàng: ‘Chàng chớ để trượt chân ở tảng
đá.’” |
7. Bóng đêm dày đặc kéo về
Trên non cao nọ tứ bề cô đơn,
"Xin chàng đừng ngă trượt chơn",
Nàng khe khẽ nhắc bên sườn đá xưa. |
1163. Asaṃsayaṃ jātikhayantadassī
na gabbhaseyyaṃ punarāvajissaṃ,
ayaṃ hi me antimā gabbhaseyyā
khīṇo me saṃsāro punabbhavāyā ”ti.
2. Aṭṭhasaddajātakaṃ.
|
1163. “Là người nh́n thấy sự tiêu
hoại của việc sanh ra một cách chắc chắn, tôi sẽ không đi đến
việc nằm trong bào thai lần nữa. Đây chính là lần nằm trong bào
thai cuối cùng. Sự luân hồi đưa đến việc hiện hữu lần nữa của
tôi đă được cạn kiệt.”
2. Bổn sanh Tám Âm Thanh.
|
8. Tái sinh đă tận với ta,
Không vào thai mẹ từ giờ về sau,
Đây đời cuối ở địa cầu
Sắp tàn cùng mọi khổ đau phàm trần.
Câu chuyện
418
|
Trang 306: |
Trang 307:
|
1164. Idaṃ suvaṇṇakāyūraṃ muttā
veḷuriyā bahū,
sabbaṃ harassu bhaddante mañca dāsīti sāvaya.
|
1164. “Chàng kính, cái ṿng kiềng
vàng này, nhiều ngọc trai và ngọc bích, xin chàng hăy mang đi
tất cả, xin chàng hăy công bố thiếp là ‘nữ tỳ.’” |
1. Này đây là chiếc ṿng vàng,
Này đây ngọc bích cùng tràng hạt trai,
Lấy đi tất cả chàng ôi,
Xin chàng cho thiếp làm tôi tớ chàng! |
1165. Oropayassu kalyāṇi mā bahuṃ
paridevasi,
na cāhaṃ abhijānāmi ahantvā dhanamāhataṃ.
|
1165. “Này người đẹp, nàng hăy bỏ
chúng xuống và chớ khóc than nhiều. Ta biết chắc chắn rằng không
giết nàng th́ ta không lấy được tài sản.” |
2. Để vàng ngọc xuống, kiều
nương,
Và nàng đừng có khóc thương buồn phiền,
Ta nay muốn giết nàng liền
V́ ta không chắc hưởng tiền hồi môn! |
1166. Yato sarāmi attānaṃ yato
pattosmi viññutaṃ,
na cāhaṃ abhijānāmi aññaṃ piyataraṃ tayā.
|
1166. “Kể từ khi thiếp nhớ được
bản thân, kể từ khi thiếp đạt được sự nhận thức, thiếp biết chắc
chắn rằng không có người đàn ông nào khác được thiếp yêu mến hơn
là chàng. |
3. Suốt bao năm tháng lớn
khôn,
Với bao hồi tưởng trong hồn thật chân,
Thiếp thề giữa cơi phàm trần
Không người nào đă thiết thân hơn chàng. |
1167. Ehi taṃ upagūhissaṃ
karissañca padakkhiṇaṃ,
na hi dāni punā atthi mama tuyhañca saṅgamo.
|
1167. Xin chàng hăy đến, thiếp sẽ
ôm lấy chàng và sẽ đi nhiễu xung quanh chàng, bởi v́ giờ đây
không c̣n có sự gặp gỡ giữa thiếp và chàng nữa. |
4. Đến đây lần nữa cuối cùng,
Thiếp xin kính lễ trong ṿng bàn tay,
Chẳng bao giờ ở đời này
Đôi ta gặp mặt từ đây hỡi chàng! |
1168. Na hi sabbesu ṭhānesu
puriso hoti paṇḍito,
itthipi paṇḍitā hoti tattha tattha vicakkhaṇā.
|
1168. “Không phải trong mọi
trường hợp người nam đều sáng suốt, phụ nữ cũng sáng suốt và
khôn ngoan trong trường hợp này hoặc trường hợp khác. |
5. Trí tuệ khôn ngoan cũng lắm
khi
Không dành riêng với bọn nam nhi,
Nữ nhi có thể nhiều minh trí
Xuất hiện trong t́nh thế hiểm nguy. |
1169. Na hi sabbesu ṭhānesu
puriso hoti paṇḍito,
itthipi8 paṇḍitā hoti lahumatthavicintikā.
|
1169. Không phải trong mọi trường
hợp người nam đều sáng suốt, phụ nữ cũng sáng suốt và suy xét
điều lợi ích một cách mau chóng. |
6. Trí tuệ khôn ngoan cũng lắm
khi
Không dành riêng với bọn nam nhi,
Nữ nhi nhanh trí nhiều mưu kế
Dự định làm công việc kịp th́. |
1170. Lahuñca vata khippañca
nikaṭṭhe samacetayi,
migaṃ puṇṇāya tenevaṃ sulasā sattukaṃ vadhi.
|
1170. Đúng vậy, nàng đă tự ḿnh
suy nghĩ kế hoạch giết chết kẻ thù đang đứng gần một cách nhẹ
nhàng và nhanh chóng. Người thợ săn giết chết con thú bằng cây
cung hoàn hảo như thế nào th́ Sulasā đă giết chết Sattuka như
vậy. |
7. Cô nàng bày tỏ trí khôn
ngoan
Hiểu biết tinh thông mọi lối đường,
Đă giết anh chàng này chẳng khác
Giết con nai với chiếc cung giương. |
1171. Yodha uppatitaṃ atthaṃ na
khippamanubujjhati,
so haññati mandamatī corova girigabbhare.
|
1171. Ở đây, kẻ nào không mau
chóng nhận ra cơ hội đă được sanh lên, kẻ có đầu óc đần độn ấy
bị giết chết tựa như gă trộm bị giết chết ở hang núi. |
8. Người nào khi gặp cảnh cùng
đường,
Không thể vươn lên để thoát thân
Sẽ ngă nhào như tên trộm ngốc
Ngă vào trong vực thẳm tan xương. |
1172. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ
khippameva nibodhati,
muccate sattu sambādhā sulasā sattukāmivā ”ti.
3. Sulasājātakaṃ.
|
1172. Và người nào mau chóng biết
được cơ hội đă được sanh lên, rồi được thoát khỏi sự áp bức của
kẻ thù, tựa như Sulasā được thoát khỏi gă Sattuka.”
3. Bổn sanh Nàng Sulasā.
|
9. C̣n kẻ tinh nhanh ấy sự
t́nh
Hiểm nguy đến với số phần ḿnh,
Như nàng được thoát thân ra khỏi
Cừu địch bên ḿnh đáng hăi kinh.
Câu chuyện
419 |
1173. Bhūsaṃ hi kuddhoti
avekkhiyāna
na tāvadaṇḍaṃ paṇayeyya issaro,
aṭṭhānaso appatirūpamattano
parassa dukkhāni bhusaṃ udīraye.
|
1173. “Bởi v́ sau khi thường
xuyên xem xét về sự ‘nóng giận,’
vị chúa tể không nên sử dụng đến h́nh phạt
không phù hợp một cách không hợp lư đối với tư cách của bản
thân,
và không nên thường xuyên gây ra những sự khổ đau cho kẻ khác.
|
1. Ư thức giận hờn, nét mặt
cau,
Quân vương đừng giáng trận đ̣n đau,
Những điều bất xứng ngôi Thiên tử
Sẽ tiếp theo sau cái gật đầu. |
Trang 308:
|
Trang 309:
|
1174. Yatova jāneyya
pasādamattano
atthaṃ niyuñjeyya parassa dukkataṃ,
tadāyamatthoti sayaṃ avekkhiya
athassa daṇḍaṃ sadisaṃ nivesaye.
|
1174. Chỉ khi nào biết được sự
cảm thông của bản thân (đối với tha nhân),
mới nên phán xét ư nghĩa và việc làm sai trái của kẻ khác,
khi ấy, sau khi đă tự ḿnh xem xét thấy ‘đây là ư nghĩa.’
rồi mới ấn định h́nh phạt tương xứng dành cho kẻ ấy. |
2. Ư thức tính t́nh bớt khắt
khe,
Quân vương ban pháp lệnh ra uy,
Khi nào vụ án đà thông hiểu,
Hăy xác định các h́nh phạt thích nghi. |
1175. Na cāpi jhāpeti paraṃ na
attanaṃ
amucchito yo nayate nayānayaṃ,
yo daṇḍadhāro bhavatīdha issaro
savaṇṇagutto siriyā na dhaṃsati.
|
1175. Không làm khó dễ người
khác, cũng không làm khó dễ bản thân,
là người không bị lầm lẫn, tự ḿnh phán xét đường lối đúng sai,
ở đây, vị chúa tể nào là người có sự ấn định h́nh phạt
có sự duy tŕ đức độ, vị chúa tể ấy không đánh mất sự vinh
quang. |
3. Không giận ḿnh và chẳng
giận ai,
Biết phân biệt rơ đúng và sai,
Dù vua ngự trị trên quần chúng,
Đức hạnh khiến vua vĩ đại hoài. |
1176. Ye khattiyā se
anisammakārino
paṇenti daṇḍaṃ sahasā pamucchitā,
avaṇṇasaṃyuttā jahanti jīvitaṃ
ito vimuttāpi ca yanti duggatiṃ.
|
1176. Các vị Sát-đế-lỵ nào có
hành động không cân nhắc,
sử dụng hành phạt một cách tàn bạo, bị lầm lẫn,
không quan tâm đến đức độ, các vị ấy từ bỏ cuộc sống,
lúc ĺa khỏi chốn này, liền đi đến chốn khổ đau. |
4. Vua chúa buông lung các
việc công,
Thực hành roi trượng chẳng bao dung,
Ô danh dưới thế phần vua hưởng,
Địa ngục đợi chờ lúc mạng chung. |
1177. Dhamme ca ye ariyapavedite
ratā
anuttarā te vacasā manasā kammanā ca,
te santi soraccasamādhisaṇṭhitā
vajanti lokaṃ dubhayaṃ tathāvidhā.
|
1177. Và những ai yêu thích đạo
lư được tuyên thuyết bởi các bậc Thánh,
các vị ấy hơn hẳn về lời nói, về ư nghĩ, và về hành động,
các vị ấy đă đứng vững ở sự an tịnh, ở sự hiền ḥa, và ở sự định
tâm,
các vị đi đến cả hai thế giới, người và trời, theo cách thức phù
hợp. |
5. Người nào yêu đạo đức hiền
nhân,
Trong sạch vẹn toàn khẩu, ư, thân,
Đầy đủ từ tâm, an tịnh quư,
Vượt qua hai thế giới phàm trần. |
1178. Rājāhamasmi narapamadānam
issaro
sacepi kujjhāmi ṭhapemi attanaṃ,
nisedhayanto janataṃ tathāvidhaṃ
paṇemi daṇḍaṃ anukampa yoniso.
|
1178. Trẫm là vua, là vị chúa tể
của những người nam nữ.
Thậm chí, nếu trẫm bị nổi giận, trẫm sẽ trấn tĩnh bản thân.
Trong khi răn đe dân chúng theo cách thức phù hợp,
trẫm sử dụng hành phạt đúng đắn thuận theo ḷng thương xót.”
|
6. Trẫm là vua chúa của thần
dân,
Sân hận không ngăn cản ư tâm,
Khi trẫm cầm gương đi trị tội,
Từ tâm thúc đẩy phạt công bằng. |
1179. Sirī ca lakkhī ca tameva
khattiya
janādhipa mā vijahi kudācanaṃ,
akkodhano niccapasannacitto
anīgho tuvaṃ vassasatāni pālaya.
|
1179. “Tâu vị Sát-đế -lỵ, vinh
quang và hưng thịnh là thuộc về bệ hạ.
Tâu quân vương, xin bệ hạ chớ ĺa bỏ đạo lư bất cứ lúc nào.
Xin bệ hạ hăy trị v́ một trăm năm, không phiền muộn,
không có giận dữ, với tâm luôn tin tưởng. |
7. Uy lực vinh quang của Đại
vương,
Đừng bao giờ bỏ đạo luân thường,
Thoát ly sân hận và kinh hăi,
Trị nước trăm năm măi lạc an. |
1180. Guṇehi etehi upeta khattiya
ṭhitamariyavatti suvaco akodhano,
sukhī anuppīḷa pasāsa mediniṃ
ito vimuttopi ca yāhi suggatiṃ.
|
1180. Tâu vị Sát-đế -lỵ, cầu mong
bệ hạ thành tựu những đức tánh ấy,
có lối cai trị cao thượng được thiết lập, dễ khuyên can, không
giận dữ,
có hạnh phúc. Cầu mong bệ hạ cai quản trái đất, không áp bức.
Lúc ĺa khỏi chốn này, cầu mong bệ hạ đi đến chốn an vui.
|
8. Vương tử có đầy đức tính
trên
Nhân từ, song đạo hạnh trung kiên,
Trị toàn dân với ḷng công chánh,
Khi bỏ cơi đời, đến cơi thiên. |
Trang 310: |
Trang 311:
|
1181. Evaṃ sunītena subhāsitena
dhammena ñāyena upāyaso nayaṃ,
nibbāpaye saṃkhubhitaṃ mahājanaṃ
mahāva megho salilena medinin ”ti.
4. Sumaṅgalajātakaṃ.
|
1181. Trong khi cai trị đúng đắn
bằng sự hướng dẫn khôn khéo, bằng lời nói tốt đẹp, bằng đạo đức,
bằng phương châm đúng đắn như vậy, bệ hạ có thể xoa dịu đám đông
dân chúng bị rối loạn, tựa như cơn mưa lớn làm mát mẻ trái đất
có nước bao quanh.”
4. Bổn sanh Gă Giữ Vườn Sumaṅgala.
|
9. Lời nói thật chân với thiện
hành,
Dùng phương tiện tốt đạt công thành,
Trấn an quần chúng c̣n dao động,
Như đám mây mưa thật mát lành.
Câu chuyện
420 |
1182. Aṅgārajātā paṭhavī
kukkulānugatā mahī,
atha gāyasi vattāni na taṃ tapati ātapo.
|
1182. “Trái đất đă sanh khởi than
hừng, mặt đất đă trở thành cát nóng. Vậy mà ngươi ca hát về các
phận sự. Sức nóng không đốt cháy ngươi. |
1. Địa cầu nóng rực như than,
Đất đai như đống tro than nóng bừng,
Song ngươi ca hát vang lừng,
Khí trời gay gắt chẳng nung ngươi nào! |
1183. Uddhaṃ tapati ādicco adho
tapati vālukā,
atha gāyasi vattāni na taṃ tapati ātapo.
|
1183. Mặt trời thiêu đốt ở bên
trên, cát nóng đốt cháy ở bên dưới. Vậy mà ngươi ca hát về các
phận sự. Sức nóng không đốt cháy ngươi. |
2. Mặt trời kia ở trên cao,
Dưới này cát nóng khác nào ḷ than,
Song ngươi ca hát lừng vang,
Khí trời nắng gắt chẳng làm cháy ngươi. |
1184. Na maṃ tapati ātapo ātappā
tapayanti maṃ,
atthā hi vividhā rāja te tapanti na ātapo.
|
1184. “Sức nóng không đốt cháy
thần, các dục khiến thần bị đốt cháy. Tâu bệ hạ, bởi v́ các hành
động do dục vọng có nhiều loại, chúng đốt cháy, chứ không phải
sức nóng. |
3. Chính v́ tham dục đốt tôi,
Chứ không phải ánh mặt trời nấu nung,
Chính v́ phận sự trong ḷng
Thúc tôi vội vă làm xong mọi phần. |
1185. Addasaṃ kāma te mūlaṃ
saṅkappā kāma jāyasi,
na taṃ saṅkappayissāmi evaṃ kāma na hohisi.
|
1185. “Này dục vọng, trẫm đă nh́n
thấy gốc rễ của ngươi. Này dục vọng, ngươi sản sanh ra các sự
suy tầm. Trẫm sẽ không suy tầm về ngươi nữa, này dục vọng, như
vậy ngươi sẽ không h́nh thành. |
4. Nhận ra tham dục, nguồn căn
Ở trong ước vọng tiềm tàng khắp nơi,
Ta không muốn nữa v́ ngươi,
Vậy ngươi, Tham dục, phải rời xa đi! |
1186. Appāpi kāmā na alaṃ
bahūhipi na tappati,
ahahā bālalapanā paṭivijjhetha jaggato.
|
1186. Các dục nếu ít th́ không
đủ, nhưng với nhiều dục cũng không bị đốt nóng. Chao ôi, những
lời lảm nhảm của kẻ ngu! Những người tỉnh thức, xin hăy tránh
xa. |
5. Dục tham ít ỏi chẳng vừa,
Dục tham nhiều chỉ mang ta khổ buồn.
Này, luôn thiếu, ngu nhân,
Nếu ngươi muốn đắc trí thông, bạn hiền! |
1187. Appassa kammassa phalaṃ
mama yidaṃ
udayo ajjhagamā mahattapattaṃ,
suladdhalābhā vata māṇavassa
yo pabbaji kāmarāgaṃ pahāya.
|
1187. Hành động ít ỏi (về dục) có
kết quả này đến ta,
Udaya ta đă đạt đến sự chứng đạt về bản thể vĩ đại.
Thật vậy, lợi ích khéo được nhận lănh thuộc về chàng trai trẻ,
là người đă dứt bỏ sự luyến ái trong các dục và đă xuất gia. |
6. Thiểu dục đem ta mọi quả
thành,
U-da-ya đạt đại quang vinh,
Người tinh cần được nhiều an lạc,
Làm ẩn sĩ, buông bỏ dục t́nh. |
1188. Tapasā pajahanti pāpakammaṃ
tapasā nahāpitakumbhakārabhāvaṃ,
tapasā abhibhuyya gaṅgamāla
nāmenālapasajja brahmadattaṃ.
|
1188. “Nhờ vào khổ hạnh, chúng
sinh dứt bỏ các nghiệp ác. Phải chăng những người này nhờ vào
khổ hạnh cũng dứt bỏ trạng thái người thợ cạo, người thợ gốm?
Này Gaṅgamāla, sau khi chiến thắng nhờ vào khổ hạnh, hôm nay,
ngươi xưng hô với vua Brahmadatta bằng tên gọi. |
7. Khổ hạnh xả ly hết lỗi lầm,
Thợ ghè, hớt tóc, mọi phàm nhân,
Gan-ga nhờ đó thành vinh hiển,
Liền gọi "Brah-ma" đấng quốc vương! |
Trang 312:
|
Trang 313:
|
1189. Sandiṭṭhikameva passatha
khanti soraccassa ayaṃ vipāko,
yo sabbajanassa vandito
taṃ vandāma sarājikā samaccā.
|
1189. “Hăy nh́n vào chính sự việc
hiện bày,
việc này là quả thành tựu của sự nhẫn nại và hiền ḥa.
Người nào được tất cả dân chúng kính lễ,
chúng ta cùng với hoàng thân và các quan viên hăy kính lễ người
ấy. |
8. Nh́n xem! Vào lúc phải vong
thân,
Khổ hạnh cho ta hưởng phước phần,
Người lễ bái ta trong kiếp trước,
Giờ đây vua chúa phải chào mừng. |
1190. Mā kiñci avacuttha
gaṅgamālaṃ
muniṃ monapathesu sikkhamānaṃ,
eso hi atari aṇṇavaṃ
yaṃ taritvā vicaranti vītasokā ”ti.
5. Gaṅgamālajātakaṃ.
|
1190. Chớ có nói bất cứ điều ǵ
về Gaṅgamāla,
bậc hiền trí đang học tập về các đạo lộ trí tuệ.
Bởi v́ vị ấy đă vượt qua biển cả luân hồi,
sau khi vượt qua nơi ấy, các vị du hành, xa ĺa sầu muộn.”
5. Bổn sanh Thợ Cạo Gaṅgamāla.
|
9. Chớ trách Gan-ga nói thế
này
Bước đường đạo hạnh thiện toàn thay!
Ngài đà vượt đại dương phiền năo,
Giải thoát khổ sầu chính tại đây.
Câu chuyện
421 |
1191. Dhammo have hato hanti
nāhato hanti kiñcanaṃ,
tasmā hi dhammaṃ na hane mā taṃ dhammo hato hani.
|
1191. “Thật vậy, pháp tôn kính bị
hủy hoại sẽ gây họa, không bị hủy hoại sẽ không gây họa bất cứ
điều ǵ. Chính v́ thế, không nên hủy hoại pháp tôn kính, chớ để
pháp tôn kính bị hủy hoại gây họa cho bệ hạ. |
1. Công lư tổn thương gây hiểm
họa,
Sẽ đền bù với giá tai ương,
Vậy đừng làm tổn thương công lư,
Sợ hiểm nguy ào đến Đại vương. |
1192. Alikaṃ bhāsamānassa
apakkamanti devatā,
pūtikañca mukhaṃ vāti sakaṭṭhānā ca dhaṃsati,
yo jānaṃ pucchito pañhaṃ aññathā naṃ viyākare.
|
1192. Đối với kẻ nói lời dối trá,
chư Thiên bỏ đi, miệng tỏa ra mùi hôi thối, và kẻ ấy đánh mất vị
thế của bản thân (ở không trung), là kẻ khi được hỏi câu hỏi th́
cố t́nh đáp lại điều ấy theo cách khác. |
2. Thần lực xa ĺa kẻ vọng
ngôn,
Miệng mồm hôi thối đáng kinh hồn,
Bước chân không vững trong trời đất,
Bất cứ kẻ nào đáp dối gian. |
1193. Sace hi saccaṃ bhaṇasi hohi
rāja yathā pure,
musā ce bhāsase rāja bhūmiyaṃ tiṭṭha cetiya.
|
1193. Tâu bệ hạ, bởi v́ nếu bệ hạ
nói sự thật, bệ hạ sẽ là như trước đây. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ nói
lời dối trá, bệ hạ sẽ lún vào mặt đất, tâu Cetiya. |
3. Lời thật cùng bao pháp
thuật thần,
Đại vương hồi phục được toàn phần,
C̣n lời nói dối giam ngài măi
Tại đất Ce-ti, đến tận cùng. |
1194. Akāle vassatī tassa kāle
tassa na vassati,
yo jānaṃ pucchito pañcaṃ aññathā naṃ viyākare.
|
1194. Trời đổ mưa cho kẻ ấy lúc
sái thời, trời không đổ mưa cho kẻ ấy lúc đúng thời, là kẻ khi
được hỏi câu hỏi th́ cố t́nh đáp lại điều ấy theo cách khác. |
4. Hạn hán vào thời phải đổ
mưa,
Và mưa trút xuống lúc mùa khô,
Khi người nào cố t́nh gian dối,
Đối đáp vọng ngôn để hại ta. |
1195. Sace hi saccaṃ bhaṇasi hohi
rāja yathā pure,
musā ce bhāsase rāja bhūmiyaṃ pavisa cetiya.
|
1195. Tâu bệ hạ, bởi v́ nếu bệ hạ
nói sự thật, bệ hạ sẽ là như trước đây. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ nói
lời dối trá, bệ hạ sẽ lún sâu vào mặt đất, tâu Cetiya. |
5. Lời thật cùng bao Pháp
thuật thần,
Đại vương hồi phục được toàn phần,
C̣n lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti măi tới cùng. |
1196. Jivhā tassa dvidhā hoti
uragasseva disampati,
yo jānaṃ pucchito pañhaṃ aññathā naṃ viyākare.
|
1196. Tâu vị chúa tể một phương,
lưỡi của kẻ ấy có hai phần, tựa như lưỡi của con rắn, là kẻ khi
được hỏi câu hỏi th́ cố t́nh đáp lại điều ấy theo cách khác. |
6. Người lưỡng thiệt này, hỡi
Đại vương,
Cũng như con rắn lắm mưu gian,
Người nào vẫn cố t́nh lừa dối
Đối đáp những lời chẳng thật chân. |
1197. Sace hi saccaṃ bhaṇasi hohi
rāja yathā pure,
musā ce bhāsase rāja bhiyyo pavisa cetiya.
|
1197. Tâu bệ hạ, bởi v́ nếu bệ hạ
nói sự thật, bệ hạ sẽ là như trước đây. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ nói
lời dối trá, bệ hạ sẽ lún sâu thêm nữa vào
trái
đất, tâu Cetiya. |
7. Lời thật cũng bao pháp
thuật thần,
Đại vương hồi phục đươc toàn phần,
C̣n lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti măi chẳng ngừng. |
1198. Jivhā tassa na bhavati
macchasseva disampati,
yo jānaṃ pucchito pañhaṃ aññathā naṃ viyākare.
|
1198. Tâu vị chúa tể một phương,
lưỡi của kẻ ấy là không có, tựa như của con cá, là kẻ khi được
hỏi câu hỏi th́ cố t́nh đáp lại điều ấy theo cách khác.
|
8. Kẻ ấy như con cá, Đại
vương,
Sẽ không có lưỡi ở trong mồm,
Người nào vẫn cố t́nh gian dối,
Đối đáp những lời lẽ vọng ngôn. |
Trang 314: |
Trang 315: |
1199. Sace hi saccaṃ bhaṇasi hohi
rāja yathā pure,
musā ce bhāsase rāja bhiyyo pavisa cetiya.
|
1199. Tâu bệ hạ, bởi v́ nếu bệ hạ
nói sự thật, bệ hạ sẽ là như trước đây. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ nói
lời dối trá, bệ hạ sẽ lún sâu thêm nữa vào trái đất, tâu Cetiya. |
9. Lời thật cùng bao pháp
thuật thần,
Đại vương hồi phục được toàn phần,
C̣n lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti măi chẳng ngừng. |
1200. Thiyova tassa jāyanti na
pumā jāyare kule,
yo jānaṃ pucchito pañhaṃ aññathā naṃ viyākare.
|
1200. Chỉ có các con gái được
sanh ra cho kẻ ấy, c̣n các con trai không được sanh ra ở gia
đ́nh của kẻ ấy, là kẻ khi được hỏi câu hỏi th́ cố t́nh đáp lại
điều ấy theo cách khác. |
10. Kẻ ấy chỉ sinh được gái
thôi,
Sẽ không sinh được một con trai,
Kẻ nào vẫn cố t́nh gian dối
Đối đáp vọng ngôn ở giữa đời. |
1201. Sace hi saccaṃ bhaṇasi hohi
rāja yathā pure,
musā ce bhāsase rāja bhiyyo pavisa cetiya.
|
1201. Tâu bệ hạ, bởi v́ nếu bệ hạ
nói sự thật, bệ hạ sẽ là như trước đây. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ nói
lời dối trá, bệ hạ sẽ lún sâu thêm nữa vào trái đất, tâu Cetiya. |
11. Lời thật cùng bao pháp
thuật thần,
Đại vương hồi phục được toàn phần,
C̣n lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti măi chẳng ngừng. |
1202. Puttā tassa na bhavanti
pakkamanti disodisaṃ,
yo jānaṃ pucchito pañhaṃ aññathā naṃ viyākare.
|
1202. Những đứa con không ở với
kẻ ấy, chúng ra đi khắp các phương, là kẻ khi được hỏi câu hỏi
th́ cố t́nh đáp lại điều ấy theo cách khác. |
12. Bầy con không ở với người
kia,
Ở khắp mọi nơi chúng chạy xa,
Người vẫn cố t́nh ưa nói dối,
Đáp lời hỏi với dạ gian tà. |
1203. Sace hi saccaṃ bhaṇasi hohi
rāja yathā pure,
musā ce bhāsase rāja bhiyyo pavisa cetiya.
|
1203. Tâu bệ hạ, bởi v́ nếu bệ hạ
nói sự thật, bệ hạ sẽ là như trước đây. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ nói
lời dối trá, bệ hạ sẽ lún sâu thêm nữa vào trái đất, tâu
Cetiya.” |
13. Lời thật cùng bao pháp
thuật thần,
Đại vương hồi phục được toàn phần,
C̣n lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti măi chẳng ngừng. |
1204. Sa rājā isinā satto
antalikkhe caro pure,
pāvekkhi paṭhaviṃ cecco hīnatto attapariyāyaṃ.
|
1204. “Đức vua Cetiya ấy, bị
nguyền rủa bởi vị ẩn sĩ, trước kia có sự di chuyển ở không
trung, rồi đă bị hút vào trái đất, có t́nh trạng tồi tệ trong
cuộc hành tŕnh của bản thân. |
14. Chuyện kể bị truyền bởi
trí nhân,
Vị vua từng bước giữa không trung,
Ch́m thân, bị nuốt vào ḷng đất
Ngay đúng ngày quy định số phần. |
1205. Tasmāhi chandāgamanaṃ
nappasaṃsanti paṇḍitā,
aduṭṭhacitto bhāseyya giraṃ saccupasaṃhitan ”ti.
6. Cetiyajātakaṃ.
|
1205. Chính v́ thế, các bậc sáng
suốt không khen ngợi việc đi theo sự mong muốn. Người không có
tâm xấu xa nên nói lời nói liên hệ đến sự thật.”
6. Bổn sanh Vua Cetiya.
|
15. Vậy trí nhân không thể tán
đồng
Dục tham xuất hiện ở trong ḷng,
Người nào ly dục, tâm thanh tịnh,
Lời nói sẽ luôn giữ vững vàng.
Câu chuyện
422 |
1206. Yo indriyānaṃ kāmena vasā
nārada gacchati,
so pariccajjubho loke jīvantova visussati.
|
1206. “Này Nārada, kẻ nào đi theo
quyền lực của các giác quan v́ dục vọng, sau khi ĺa bỏ hai thế
giới người trời, kẻ ấy bị héo hon, và ngay cả trong khi đang
sống. |
1. Người nào tuân lệnh dục
tham,
Mất hai thế giới, đời tàn về sau. |
1207. Sukhassānantaraṃ dukkhaṃ
dukkhassānantaraṃ sukhaṃ,
sosi patto sukhā dukkhaṃ pāṭikaṅkha varaṃ sukhaṃ.
|
1207. Khổ đau tiếp theo sau hạnh
phúc, hạnh phúc tiếp theo sau khổ đau. Ngươi đây đă đạt được khổ
đau từ hạnh phúc, vậy ngươi hăy mong mỏi hạnh phúc cao quư.
|
2. Hân hoan cùng với khổ đau
Vẫn thường dẫm bước lên nhau chẳng ngừng,
Con từng thấy chúng chuyển luân,
Hăy t́m hạnh phúc thật chân nhiệm mầu. |
1208. Kicchakāle kicchasaho yo
kicchaṃ nānuvattati,
sa kicchantaṃ sukhaṃ dhīro yogaṃ samadhigacchati.
|
1208. Vào thời điểm khó khăn,
người nào có sự chịu đựng khó khăn, không buông xuôi theo sự khó
khăn, vị sáng suốt ấy đạt đến sự rèn luyện, sự chấm dứt khó
khăn, sự hạnh phúc. |
3. Người nào kham nhẫn đối đầu
Gian lao nhiếp phục khổ sầu bao phen,
Là người vững mạnh tiến lên
Niết-bàn, cực lạc, dứt phiền năo xưa. |
1209. Na heva kāmāna kāmā
nānatthā natthakāraṇā,
na katañca niraṅkatvā dhammā cavitumarahasi.
|
1209. Không phải v́ mong muốn các
dục, không phải v́ không có lợi ích, không phải có lợi ích là
nguyên nhân, ngươi không thể nào buông lơi giáo pháp và lơ là
việc đă thực hành (tham thiền).
|
4. Con đừng phá hủy tiêu ma
Quăng đời Thanh hạnh, sa đà công năng,
Chỉ v́ dục vọng tham sân
Cầu mong lợi dưỡng, đau buồn nhỏ, to. |
Trang 316: |
Trang 317: |
1210. Dukkhaṃ gahapatiṃ sādhu
saṃvibhajjañca bhojanaṃ,
ahāso atthalābhesu atthabyāpatti abyatho.
|
1210. “Đời gia chủ là khổ nhọc,
và tốt lành thay sự sự thọ dụng được san sẻ, sự không đắc chí về
các của cải và lợi lộc, và không có sầu năo khi có sự tiêu hoại
về của cải. |
5. Biết đời phiền lụy lo âu,
Thức ăn uống phải phát cho nhiều người.
Chẳng ham tích trữ tiền tài,
Chẳng sầu khi chúng hết thời tiêu tan. |
1211. Ettāva tesaṃ paṇḍiccaṃ
asito devalo bravi,
nayito kiñci pāpiyo indriyānaṃ vasaṃ vaje.
|
1211. “Vị Devala ngăm đen đă nói
chỉ bấy nhiêu về sự sáng suốt của các vị ấy. Không có cái ǵ tệ
hại hơn điều này, là việc người nào đó chiều theo quyền lực của
các giác quan. |
6. De-va Trí giả Hắc nhan
Giờ đây khuyên nhủ khôn ngoan nhất đời:
Ta không hề thấy có người
Kém hơn kẻ chịu vâng lời dục tham. |
1212. Amittānaṃva hatthatthaṃ
siva pappoti māmiva,
kammaṃ vijjañca dakkheyyaṃ vivāhaṃ sīlamaddavaṃ.
|
1212. “Tâu đức vua Siva, bệ hạ
gánh chịu sự mất mát của cải vào trong tay các kẻ thù, tương tự
như trường hợp của tôi về nghề nghiệp, kiến thức, tài năng, hôn
nhân, giới hạnh, và sự lễ độ. |
7. Chính tôi đây, hỡi Quân
vương,
Khác nào giữa chốn đấu trường địch quân,
Công lao, nghề nghiệp, tài năng,
Vợ con, nhà ở b́nh an một thời,
Đă tiêu tan hết cả rồi,
Tôi mang nghiệp quả ngay đời thế gian. |
1213. Ete ca yase hāpetvā
nibbatto sehi kammehi,
sohaṃ sahassa jīnova abandhu aparāyaṇo.
ariyadhammā atikkanto yathā peto tathevahaṃ.
|
1213. Sau khi đánh mất những
tiếng tăm này, tôi bị thay đổi bởi các hành động của chính ḿnh.
Tôi đây giống như người bị thất bại một ngàn lần, không c̣n thân
quyến, không nơi nương tựa. Trong khi lệch ra khỏi đạo lư cao
thượng, tôi giống y như người đă chết. |
8. Giờ tôi tồi tệ muôn vàn
Không người quyến thuuộc, lang thang không nhà.
Từ đời chân chánh lạc xa,
Tôi như một cái bóng ma đọa đày. |
1214. Sukhakāme dukkhāpetvā
āpannosmi padaṃ imaṃ,
so sukhaṃ nādhigacchāmi cito bhānumatāmivā ”ti.
7. Indriyajātakaṃ.
|
1214. Sau khi gây khổ năo cho
ḿnh ở sự mong mỏi hạnh phúc, tôi đă bị rơi vào trạng thái này.
Tựa như bị vây quay bởi ngọn lửa, tôi đây không đạt đến hạnh
phúc.”
7. Bổn sanh Các Giác Quan. |
9. Nay tôi phải sống cảnh này
V́ tôi tạo khổ năo thay vui mừng.
Quanh tôi như đám lửa bừng,
Tôi không cảm thấy trong ḷng hân hoan.
Câu chuyện
423 |
1215. Ādittasmiṃ agārasmiṃ yaṃ
nīharati bhājanaṃ,
taṃ tassa hoti atthāya no ca yaṃ tattha ḍayhati.
|
1215. “Khi ngôi nhà bị cháy rực,
gia chủ mang ra vật dụng nào bởi v́ vật ấy là có lợi ích cho
người ấy, và không phải là vật bị đốt cháy ở tại nơi ấy. |
1. Thứ ǵ ta cứu thoát ra
Lửa đang đốt cháy nhà ta rụi dần,
Những ǵ sót lại sau cùng
Sẽ c̣n đó măi riêng phần ta thôi. |
1216. Evamādipito loko jarāya
maraṇena ca,
nīharetheva dānena dinnaṃ hoti sunīhataṃ.
|
1216. Tương tự như vậy, thế gian
là bị đốt cháy bởi sự già và sự chết. Bệ hạ hăy nên mang ra (cứu
vớt bản thân) nhờ vào sự bố thí; cái ǵ đă được bố thí là đă
được mang ra tốt đẹp.” |
2. Thế gian bừng cháy khắp nơi
Sanh, già, bệnh, chết làm mồi lửa nhanh,
Cứu ḿnh bằng các thiện hành,
Cúng dường bố thí để dành thật chân. |
1217. Yo dhammaladdhassa dadāti
dānaṃ
uṭṭhānaviriyādhigatassa jantuno,
atikkamma so vetaraṇiṃ yamassa
dibbāni ṭhānāni upeti macco.
|
1217. “Người nào dâng cúng vật
thí đến bậc đă đạt được giáo pháp,
đến con người đă đạt đến sự nỗ lực và tinh tấn,
người ấy, sau khi vượt qua ḍng sông Vetaraṇī của thần chết,
là người đạt được các vị thế ở cơi Trời.” |
3. Người nào bố thí chánh nhân
Kiên cường dơng lực, tinh cần tịnh tâm,
Vượt ḍng nước lũ Ma vương,
Đạt nơi an trú kim đường cơi thiên. |
1218. Dānañca yuddhañca
samānamāhu
appāpi santā bahuke jinanti,
appampi ce saddahāno dadāti
teneva so hoti sukhī parattha.
|
1218. “Sự bố thí và chiến đấu là
tương tự nhau,
dầu là ít người cũng thắng được nhiều người,
nếu người bố thí dầu là ít, nhưng có niềm tin,
chính v́ thế, người ấy có sự an lạc về sau này.”
|
4. Thiện hành nào khác trận
tiền
Trước vài địch thủ, chạy liền ba quân.
Cúng dường với cả tín tâm
Đời sau hưởng lạc là phần ngài thôi. |
Trang 318: |
Trang 319: |
1219. Viceyyadānaṃ
sugatappasatthaṃ
ye dakkhiṇeyyā idha jīvaloke,
etesu dinnāni mahapphalāni
bījāni vuttāni yathā sukhette.
|
1219. “Sự bố thí có suy xét đă
được bậc Thiện Thệ ca tụng,
các vị nào là xứng đáng cúng dường ở đây, ở thế gian của sự
sống,
những vật được bố thí ở các vị này là có những quả báu lớn lao,
giống như các hạt giống đă được gieo ở thửa ruộng ph́ nhiêu.”
|
5. Người cho làm đẹp ư trời,
Khôn ngoan xứng đáng làm vơi nhọc nhằn
Cúng dường mang quả hưng long,
Cũng như hạt giống gieo vùng ph́ nhiêu.
|
1220. Yo pāṇabhūtāni aheṭhayaṃ
caraṃ
parūpavādā na karoti pāpaṃ,
bhīruṃ pasaṃsanti na hi tattha sūraṃ
bhayā hi santo na karonti pāpaṃ.
|
1220. “Người nào sống không gây
tổn hại các chúng sanh có mạng sống, người ấy do (sợ hăi) sự phỉ
báng của người khác mà không làm điều ác. Trong trường hợp ấy,
các bậc trí ca ngợi sự khiếp sợ, nhưng không ca ngợi sự anh
hùng, bởi v́ do sự sợ hăi mà những người tốt không làm điều ác.”
|
6. Ai không hề nói lắm điều,
Tránh làm ác nghiệp hại nhiều chúng sinh,
Người đời gọi yếu, chê khinh,
Chính v́ sợ hăi giữ ḿnh thanh lương. |
1221. Hīnena brahmacariyena
khattiyaṃ upapajjati,
majjhimena ca devattaṃ uttamena visujjhati.
|
1221. “Với Phạm hạnh bậc thấp th́
được sanh vào ḍng dơi Sát- đế- lỵ, với bậc trung th́ trạng thái
chư Thiên, với bậc tối thượng th́ được thanh tịnh.” |
7. Tạo nên phước nghiệp thông
thường
Tái sinh nhân thế, quân vương oai quyền.
Phước nhiều đạt đến cơi thiên,
Công năng tối thượng đắc miền Tịnh Cư. |
1222. Addhā hi dānaṃ bahudhā
pasatthaṃ
dānā ca kho dhammapadaṃ va seyyo,
pubbeva hi pubbatare ca santo
nibbānamevajjhagamuṃ sapaññā ”ti.
8. Ādittajātakaṃ.
|
1222. “Đương nhiên, sự bố thí là
được ca ngợi theo nhiều cách,
và chỉ một câu Pháp vẫn là tốt hơn sự bố thí.
Bởi v́, ngay trước đây và trước hơn thế nữa, những người tốt,
có trí tuệ, đă chứng đạt luôn cả Niết Bàn.”
8. Bổn sanh Bị Cháy Rực.
|
8. Phước là bố thí đem cho,
Tuy nhiên Giáo pháp lợi to muôn phần,
Xưa nay chứng tỏ bao lần,
Nhờ đây bậc trí đạt toàn Lạc an.
Câu chuyện
424 |
1223. Gaṅgā kumudinī santā
saṅkhavaṇṇā ca kokilā,
jambu tālaphalaṃ dajjā atha nūna tadā siyā.
|
1223. “(Khi nào) sông Gaṅgā yên
tĩnh như hồ sen, các con chim cu có màu vỏ ốc, và cây mận đỏ có
thể cho trái thốt nốt, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng. |
1. Làm sao lặng sóng Hằng hà
Như hồ sen nọ, sơn ca trắng ngần,
Cây đào sinh trái cau vân,
Th́ điều như thế họa chăng có là! |
1224. Yadā kacchapalomānaṃ pāvāro
tividho siyā,
hemantikaṃ pāpuraṇaṃ atha nūna tadā siyā.
|
1224. Khi nào có thể có chiếc áo
khoác ba lớp bằng các lông rùa làm tấm choàng mùa đông, có lẽ
khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng. |
2. Bao giờ có đủ lông rùa
Kết thành ba tấm áo đưa ta dùng
Vào thời đông giá lạnh lùng,
Th́ điều như thế họa chăng có là! |
1225. Yadā makasadāṭhānaṃ aṭṭālo
sukato siyā,
daḷho ca appakampi ca atha nūna tadā siyā.
|
1225. Khi nào có thể có tháp canh
bằng các răng nanh của muỗi được khéo xây dựng, vững chải, và
không bị lay động, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng. |
3. Bao giờ răng muỗi nhô ra
Nàng xây cái tháp thật là khéo thay,
Tháp kia không thể chuyển lay,
Điều này chắc có cơ may, họa là! |
1226. Yadā sasavisāṇānaṃ, nisseṇi
sukatā siyā,
saggassā rohaṇatthāya atha nūna tadā siyā.
|
1226. Khi nào có thể có cái thang
bằng các sừng của loài thỏ được khéo xây dựng nhằm mục đích leo
lên cơi trời, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng. |
4. Bao giờ sừng thỏ mọc ra,
Nàng làm thang đứng thật là khéo thay,
Bậc thang trèo đến tận mây,
Th́ điều này có cơ may, hỡi nàng! |
1227. Yadā nisseṇimāruyha candaṃ
khādeyyuṃ mūsikā,
rāhuñca paripāteyyuṃ atha nūna tadā siyā.
|
1227. Khi nào các con chuột, sau
khi leo lên cái thang, có thể gặm nhấm mặt trăng và làm cho thần
Rāhu rơi xuống, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
|
5. Bao giờ chuột nhắt leo thang
Cùng nhau ăn hết mặt trăng sáng ngời.
Đem La-hầu xuống mặt trời,
Th́ điều này hẳn có thời xảy ra! |
Trang 320: |
Trang 321:
|
1228. Yadā surāghaṭaṃ pītvā
makkhikā gaṇacārinī,
aṅgāre vāsaṃ kappeyyuṃ atha nūna tadā siyā.
|
1228. Khi nào những con ruồi có
sự di chuyển thành đoàn, có thể uống hết hũ rượu, rồi sắp xếp
chỗ cư ngụ ở băi than hừng, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng. |
6. Khi đàn ruồi uống từng ṿ
Rượu nồng đầy đủ, tự do reo mừng
Ẩn ḿnh trong đám than bừng,
Th́ điều như thế họa hoằn xảy ra! |
1229. Yadā bimboṭṭhasampanno
gadrabho sumukho siyā,
kusalo naccagītassa atha nūna tadā siyā.
|
1229. Khi nào con lừa có đôi môi
đỏ mọng, có khuôn mặt đẹp, và thiện xảo trong việc múa hát, có
lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng. |
7. Khi bầy lừa khéo điểm tô
Môi hồng, mặt trắng làm tṛ khéo thay
Trổ tài múa hát thật hay,
Điều này hẳn có cơ may, hỡi nàng! |
1230. Yadā kākā ulūkā ca
mantayeyyuṃ rahogatā,
aññamaññaṃ pihayeyyuṃ atha nūna tadā siyā.
|
1230. Khi nào các con quạ và các
con cú đi đến nơi thanh vắng, có thể tṛ chuyện, và mong muốn
lẫn nhau, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng. |
8. Bao giờ quạ, cú từng đàn
Cùng nhau tụ họp luận bàn riêng tư,
Tỏ t́nh âu yếm chuyện tṛ,
Điều này có thể xảy ra, hỡi nàng! |
1231. Yadā pulasa pattānaṃ
chattaṃ thirataraṃ siyā,
vassassa paṭighātāya atha nūna tadā siyā.
|
1231. Khi nào cây dù làm bằng củ
và lá sen có thể bền vững hơn sự vùi dập của cơn mưa, có lẽ khi
ấy ta sẽ ra đi cùng nàng. |
9. Bao giờ nhặt lá trên ngàn
Từng cây rừng xuống kết làm dù che
Chống mưa ồ ạt tứ bề,
Có cơ xảy đến điều kia, hỡi nàng! |
1232. Yadā kuthaṅko sakuṇo
pabbataṃ gandhamādanaṃ,
tuṇḍenādāya gaccheyya atha nūna tadā siyā.
|
1232. Khi nào con chim nhỏ có thể
ngậm lấy ngọn núi Gandhamādana bằng cái mỏ và bay đi, có lẽ khi
ấy ta sẽ ra đi cùng nàng. |
10. Khi đàn chim sẻ cố mang
Tuyết Sơn đủ vẻ huy hoàng hùng anh,
Ngậm trong chiếc mỏ xinh xinh,
Họa may có thể sự t́nh xảy ra! |
1233. Yadā sāmuddikaṃ nāvaṃ
sayantaṃ savaṭākaraṃ,
ceṭo ādāya gaccheyya atha nūna tadā siyā ”ti.
9. Aṭṭhānajātakaṃ.
|
1233. Khi nào đứa trẻ trai có thể
điều khiển chiếc tàu vượt biển có đủ máy móc và dây thừng, rồi
khởi hành, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
9. Bổn sanh Sự Việc Không Xảy Ra.
|
11. Khi chàng trai nhẹ đẩy đưa
Chiếc thuyền buồm vượt biển xa ngàn trùng
Với ḷng can đảm anh hùng,
Điều này chắc hẳn mới mong, hỡi nàng!
Câu chuyện
425 |
1234. Khamanīyaṃ yāpanīyaṃ kacci
mātula te sukhaṃ,
sukhaṃ te ammā avaca sukhakāmā hi te mayaṃ.
|
1234. “Thưa cậu Báo, cậu có khỏe
không, có thoải mái không, có được an vui không? Mẹ đă hỏi về sự
an vui của cậu, bởi v́ chúng cháu có sự mong mỏi về sự an vui
của cậu.” |
1. Bác ơi, bác có được khang
an,
Và bác lâu nay mạnh khỏe chăng?
Mẹ cháu nhắn đưa lời kính hỏi,
Cháu mong cùng bác kết thân bằng! |
1235.Naṅguṭṭhaṃ me avakkamma
heṭhayitvāna eḷike,
sājja mātulavādena muñcitabbā nu maññasi.
|
1235. “Này cô dê, cô đă đạp lên
cái đuôi của ta và gây thương tích. Hôm nay, với tiếng thưa cậu,
cô đây nghĩ rằng cô có thể được tự do chăng?” |
2. Cô dẫm đuôi ta đấy, bé Dê,
Và làm ta phải bị đau ghê,
Tưởng rằng nhờ gọi ta là "bác"
Cô được tự do để trở về! |
1236. Puratthāmukho nisinnosi
ahaṃ taṃ mukhamāgatā,
pacchito tuyha naṅguṭṭhaṃ kathaṃ khohaṃ avakkamiṃ.
|
1236. “Cậu ngồi với mặt nh́n về
hướng đông, c̣n cháu đă đi đến trước mặt của cậu. làm sao cháu
đă đạp lên cái đuôi của cậu ở phía sau?” |
3. Tôi đi phía trước mặt, thưa
ngài,
Ngài vẫn ngồi kia đối diện tôi,
Đuôi của ngài nằm sau phía ấy,
Làm sao tôi lại dẫm lên đuôi? |
1237. Yāvatā caturo dīpā
sasamuddā sapabbatā,
tāvatā mayha naṅguṭṭhaṃ kathaṃ kho tvaṃ vivajjayi.
|
1237. “Cái đuôi của ta bao trùm
đến hết cả bốn ḥn đảo với các biển cả, với các ngọn núi, làm
sao cô đă tránh né cái đuôi của ta?”
|
4. Suốt cả trong toàn bốn đại
châu,
Với sông hồ biển núi non cao,
Đuôi ta trải rộng ra cùng khắp,
Sao cẳng Dê không dẫm nó nào? |
Trang 322:
|
Trang 323:
|
1238. Pubbevametaṃ akkhaṃsu
mātāpitā ca bhātaro,
dīghaṃ duṭṭhassa naṅguṭṭhaṃ samhi vehāsayāgatā.
|
1238. “Mẹ, cha, và anh em trai đă
nói điều ấy cho cháu ngay trước đây. Cái đuôi của kẻ xấu là dài,
nên cháu đây đă đi đến từ không trung.” |
5. Ta biết đuôi ông ác thật
dài,
V́ ta đă được báo tin rồi,
Anh em cha mẹ đều khuyên bảo
Lúc trước ta bay bổng giữa trời! |
1239. Tañca disvāna āyantiṃ
antalikkhasmiṃ eḷike,
migasaṅgho palāyittha bhakkho me nāsito tayā.
|
1239. “Này cô dê, sau khi nh́n
thấy cô đang đi đến ở trên hư không, bầy nai đă chạy trốn; thức
ăn của ta bị tiêu mất bởi v́ cô.” |
6. Bóng dáng cô Dê ở giữa trời
Bay qua không khí ấy mà thôi,
Đă làm kinh sợ đàn nai nọ,
V́ thế mồi ta bị hỏng rồi! |
1240. Icceva vilapantiyā eḷikiyā
ruhaṃghaso,
galakaṃ anvāvamaddi natthi duṭṭhe subhāsitaṃ.
|
1240. “Trong khi con dê cái đang
than văn như thế ấy, con báo đă cắn đứt cái cổ của nó; không có
lời nói tốt ở kẻ xấu. |
7. Chính Dê kêu lớn để cầu ân,
Song máu thịt kia mới thoả ḷng,
Dă thú chụp Dê vào cổ họng;
Ác nhân không tỏ chút ân cần. |
1241. Neva duṭṭhe nayo atthi na
dhammo na subhāsitaṃ,
nikkamaṃ duṭṭhe yujjetha so ca sabhi na rajjatī ”ti.
10. Dīpijātakaṃ.
|
1241. Không có lư lẽ, không có
bản chất, không có lời nói tốt ở kẻ xấu. Nên chứng tỏ sức mạnh
với kẻ xấu, và kẻ xấu không có thiện cảm với người đức hạnh.”
10. Bổn sanh Con Báo.
|
8. Kẻ ác không sao biết tỏ ra
Ân cần, chánh hạnh, tránh đường tà,
Nó thù ghét những người lương thiện,
Thượng sách là nên xáp lá cà!
Câu chuyện
426 |
Kaccānivaggo.
***** |
Phẩm
Bà Kaccāni.
***** |
TASSUDDĀNAṂ
Parisuddhāmanāvilāvatthadharā
bakarājassa kāyuraṃ daṇḍāvaro,
atha aṅgāracetiyadevilina
atha ādittagaṅgādaseḷakinā ”ti.
Aṭṭhakanipāto niṭṭhito.
--ooOoo-- |
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Bà mẹ mặc vải trong sạch, không bị dơ bẩn,
của hạc chúa, cái ṿng kiềng, chuyện h́nh phạt,
rồi than hừng, vua Cetiya, ẩn sĩ Devala,
rồi bị cháy rực, sông Gaṅgā, với con dê cái là mười.
Nhóm Tám Kệ Ngôn được chấm dứt.
--ooOoo-- |
<Trang trước> |
<Trang Kế> |