Trang Chính

TTPV 32: Jātakapāḷi - Bổn Sanh tập I

Font VU-Times

 

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT

KHUDDAKANIKĀYA - TIỂU BỘ

JĀTAKAPĀḶI - BỔN SANH tập I

* TTPV tập 32 *

(Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader)

Cập Nhật: Saturday, December 26, 2015

IX. NAVAKANIPĀTO - NHÓM CHÍN KỆ NGÔN

 

Nguồn: Tam Tạng Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS)

Lời tiếng Việt: Tỳ khưu Indacanda

Trang 324:

 

Trang 325:

 

1242. Parisaṅkupatho nāma gijjhapantho sanantano,
tatrāsi mātāpitaro gijjho posesi jiṇṇake.

 

1242. “Con đường ở đỉnh núi Kên Kên gọi là lối đi phải chống gậy đă có từ xa xưa. Nơi ấy, có con chim kên kên đă nuôi dưỡng cha mẹ già yếu. 1. Được làm bằng đám gỗ chênh vênh,
Một lối đi xưa cũ dẫn lên
Những đỉnh núi non cao chót vót,
Thứu con nuôi dưỡng các thân sinh.

1243. Tesaṃ ajagaraṃ medaṃ accahāsi pahūtaso,
pitā ca puttaṃ avaca jānaṃ uccaṃ papātinaṃ,
supattaṃ pakkha sampannaṃ tejassiṃ dūragāminaṃ.

 
1243. Nó đă mang về cho cha mẹ nhiều mỡ của những con trăn. Biết được chim con đạt được cặp cánh, có lông dày, có năng lực, có sự du hành khoảng cách xa, có sự bay lượn cao, chim cha đă nói với chim con rằng: 2. Đôi cánh hùng cường đầy dũng lực,
Thứu đem mỡ rắn tặng song thân,
Khi cha nh́n Thứu bay cao quá,
Liều lĩnh du hành, vẫy dạy răn:

1244. Pariplavantaṃ paṭhaviṃ yadā tāta vijānahi,
sāgarena parikkhittaṃ cakkaṃva parimaṇḍalaṃ,
tato tāta nivattassu māssu etto paraṃ gami.

 
1244. ‘Này con yêu, khi nào con nhận thấy trái đất được bao quanh bởi biển cả đang nổi lên, tựa như quả cầu h́nh tṛn, này con yêu, từ nơi ấy, con hăy quay trở về, con chớ du hành quá giới hạn ấy.’ 3. "Khi con quan sát, hỡi con thân,
Quả địa cầu tṛn với đại dương
Bao bọc chung quanh, đừng tiến nữa,
Trở về ngay nhé, khẩn cầu con!"

1245. Uddhaṃ pattosa vegena balī pakkhī dijuttamo,
olokayanto vakkaṅgo pabbatāni vanāni ca.

 
1245. Là loài có cánh, có sức mạnh, đứng hàng đầu của loài lưỡng sanh, con chim đă đạt đến tầng bên trên bằng sức lực, rồi nh́n xuống các ngọn núi và các khu rừng. 4 - 5. Thứu vương thường cất cánh lên mau,
Bay lượn ṿng quanh cơi địa cầu
 

1246. Addasā paṭhaviṃ gijjho yathā sāsi pitussutaṃ,
sāgarena parikkhittaṃ cakkaṃva parimaṇḍalaṃ.

 
1246. Con chim kên kên đă nh́n thấy trái đất được bao quanh bởi biển cả, tựa như quả cầu h́nh tṛn, giống như điều đă được nghe người cha chỉ dạy. Với nhăn quan tinh tường thấu suốt,
Thứu con thấy rơ các rừng sâu,
Núi non phía dưới cao vời vợi,
Quả đất giống cha tả biết bao:

1247. Tañca so samatikkamma parameva pavattatha,
tañca vātasikhā tikkhā accahāsi baliṃ dījaṃ.

 
1247. Sau khi hoàn toàn vượt quá nơi ấy, nó đă tiến vào khu vực khác hẳn. Và có luồng gió dữ dội, sắc bén, đă xé tan xác con chim có sức mạnh ấy. 6- 7. Một quả cầu tṛn giữa đại dương,
Nhưng khi vượt quá giới hạn thông thường,
Dẫu là chim thứu đầy oai lực,
Một trận đại phong thật nộ cuồng
 

1248. Nāsakkhātigato poso punareva nivattituṃ,
dijo vyasanamāpādi verambānaṃ vasaṃ gato.

 

1248. Khi đă đi quá lố, con người không thể quay trở lại được nữa. Khi đă đi vào vùng tác động của các luồng gió Veramba, con chim đă gánh chịu điều bất hạnh.

Đă thổi Thứu tan tành bỏ mạng,
Bất tài không địch nổi cuồng phong.

1249. Tassa puttā ca dārā ca ye caññe anujīvino,
sabbe vyasanamāpāduṃ anovādakare dije.

 

1249. Các chim con, các con chim mái, và những những con chim khác sống phụ thuộc vào nó, tất cả đều gánh chịu điều bất hạnh khi con chim kên kên không làm theo lời giáo huấn (của chim cha).

8 -9. Như vậy Thứu con bởi bất tuân
Tử vong bỏ mặc cả song thân.
 

1250. Evampi idha vaddhānaṃ yo vākyaṃ nāvabujjhati,
atisīmacaro ditto gijjhovātītasāsano,
sa ve vyasanaṃ pappoti akatvā vuddhasāsanan ”ti.


1. Gijjhajātakaṃ.
 

1250. Cũng y như vậy, ở đây người nào không nhận chân được lời nói của các bậc trưởng thượng, kẻ ấy có sự hành xử vượt quá giới hạn, cao ngạo, tựa như con chim kên kên đă vượt qua lời chỉ dạy. Thật vậy, nó nhận lănh điều bất hạnh sau khi không thực hành lời chỉ dạy của bậc trưởng thượng.”

1. Bổn sanh Chim Kên Kên.

Kẻ nào khinh bỉ kẻ già cả
Chế nhạo lời khuyên của trí nhân,
Cũng chết như chim khinh bậc trí,
Xem thường giới hạn bởi kiêu căng.

Câu chuyện 427

Trang 326:

Trang 327:

 

1251. Puthusaddo samajano na bālo koci maññatha,
saṅghasmiṃ bhijjamānasmiṃ nāññaṃ bhiyyo amaññaruṃ.

 

1251. “Có tiếng động ồn ào, người người đều ngang bằng, không một ai đă nghĩ là ḿnh ngu. Khi hội chúng bị chia rẽ, chúng đă không suy nghĩ điều ǵ khác hơn.

1. Khi Giáo hội bị phân chia hai nhóm,
Dân chúng thường mở miệng kêu vang:
"Mỗi người đều tự tin tưởng khôn ngoan,
Và nh́n kẻ láng giềng đầy khinh bỉ".

1252. Parimuṭṭhā paṇḍitābhāsā vācā gocarabhāṇino,
yāvicchanti mukhāyāmaṃ yena nītā na taṃ vidū.

 

1252. Chúng hoàn toàn quên lăng, chúng tỏ ra vẻ sáng suốt, chúng có những lời nói thuộc phạm vi đấu khẩu, chúng mong muốn mỗi việc khua môi múa mỏ, chúng không biết đă bị cái ǵ dẫn dắt.

2. Tâm mê muội, chứa đầy niềm tự thị,
Chúng mở mồm phạm thượng thật si cuồng,
Vậy là do khẩu nghiệp, chúng sai đường,
Chúng không biết ai dẫn đầu ra lệnh.

1253. Akkocchi maṃ avadhi maṃ ajini maṃ ahāsi me,
ye taṃ upanayhanti veraṃ tesaṃ na sammati.

 

1253. Nó đă sỉ vả tôi, nó đă đánh đập tôi, nó đă chế ngự tôi, nó đă tước đoạt của tôi. Những người nào ấp ủ điều ấy, sự thù hận của những người ấy không được lặng yên.

3. "Người này nhục mạ tôi, người kia đánh
Người thứ ba chiến thắng, cướp bóc tôi!"
Những ai mang tư tưởng ấy trong người
Không hề muốn giảm dần niềm sân hận.

1254. Akkocchi maṃ avadhi maṃ ajini maṃ ahāsi me,
ye taṃ na upanayhanti veraṃ tesūpasammati.

 

1254. Nó đă sỉ vả tôi, nó đă đánh đập tôi, nó đă chế ngự tôi, nó đă tước đoạt của tôi. Những người nào không ấp ủ điều ấy, sự thù hận ở những người ấy được lặng yên.

4. "Xưa nó nhục mạ tôi và đánh đấm,
Nó thắng tôi và đàn áp tôi hoài!"
Ai chẳng mang ư tưởng đó trong người,
Sẽ xoa dịu hận thù, đem hoà hợp.

1255. Nahi verena verāni sammantīdha kudācanaṃ,
averena ca sammanti esa dhammo sanantano.

 

1255. Ở thế gian này, các sự thù hận không bao giờ được lặng yên bởi sự hận thù, và chúng được lặng yên bởi sự không thù hận; điều này là quy luật cổ xưa.

5. Không hận thù, chỉ t́nh thương đơn độc
Làm hận thù tiêu diệt, luật ngàn năm,

1256. Pare ca na vijānanti mayamettha yamāmase,
ye ca tattha vijānanti tato sammanti medhagā.

 

1256. Và những kẻ khác không nhận thức được, ở đây chúng ta nên tự kiềm chế. C̣n những ai tại nơi ấy nhận thức được (điều ấy), nhờ thế các sự tranh chấp được lặng yên.

Một số người khinh bỉ pháp điều thân.
Song kẻ biết giải hoà là trí thiện.

1257. Aṭṭhicchinnā pāṇaharā gavāssa dhanahārino,
raṭṭhaṃ vilumpamānānaṃ tesampi hoti saṅgati,
kasmā tumhāka no siyā.

 

1257. Những kẻ chuyên bẻ găy xương, có sự giết hại mạng sống, có sự đoạt lấy ḅ, ngựa, và tài sản, đối với những kẻ đang cướp bóc xứ sở, chúng c̣n có sự kết hợp, tại sao đối với các ngươi lại không được?

6. Nếu những kẻ bị thương trong tử chiến
Cùng những người cướp của, đoạt mạng dân,
Và những ai tàn phá nước lân bang,
Nay có thể cùng cựu thù thân thiết,

7. Thế tại sao chúng Tăng không hoà hiệp,

1258. Sace labhetha nipakaṃ sahāyaṃ
saddhiṃ caraṃ sādhu vihāri dhīraṃ,
abhibhuyya sabbāni parissayāni
careyya tenattamano satīmā.

 

1258. Nếu có thể đạt được người bạn khôn ngoan,
làm người đồng hành, có cách cư xử tốt đẹp, sáng trí,
sau khi vượt qua mọi hiểm nạn
nên đi với người ấy, hoan hỷ, có niệm.

Các ông nên t́m đồng bạn trí hiền,
Kẻ đồng tâm để chung sống b́nh yên,
Hiểm hoạ hết, bên người đồng tâm tính,
Ông suốt ngày hân hoan trong Thiền định!

1259. No ce labhetha nipakaṃ sahāyaṃ
saddhiṃ caraṃ sādhu vihāri dhīraṃ,
rājāva raṭṭhaṃ vijitaṃ pahāya
eko care mātaṅgaraññeva nāgo.

 

1259. Nếu không thể đạt được người bạn khôn ngoan,
làm người đồng hành, có cách cư xử tốt đẹp, sáng trí,
ví như vị vua đă từ bỏ vương quốc thâu phục được,
nên sống một ḿnh như là voi Mātaṅga ở trong rừng.

8. Song nếu ông không gặp bạn thân t́nh,
Thượng sách là ông phải sống một ḿnh,
Như hoàng tử bỏ ngai vàng điện ngọc,
Hay voi già bước lang thang cô độc.

1260. Ekassa caritaṃ seyyo
natthi bāle sahāyatā,
eko care na ca pāpāni kayirā
appossukko mātaṅgaraññeva nāgo ”ti.


2. Kosambajātakaṃ.
 

1260. Sống một ḿnh là tốt hơn,
không có t́nh bằng hữu ở kẻ ngu.
Nên sống một ḿnh và không nên làm các điều ác,
ít ham muốn, như là voi Mātaṅga ở trong rừng.


2. Bổn sanh Kosambī.
 

9. Vậy ưu tiên chấp nhận sống độc thân,
Bầu bạn ngu chỉ dẫn đến tranh phân,
Hay đeo đuổi đường đời trong phóng dật,
Như voi nọ trong rừng hoang đi lạc.

Câu chuyện 428

Trang 328:

 

Trang 329:

 

1261. Dumo yadā hoti phalūpapanno
bhuñjanti taṃ vihagā sampatantā,
khīṇanti ñatvāna dumaṃ phalaccaye
disodisaṃ yanti tato vihaṅgamā.

 

1261. “Vào lúc cây trổ quả,
các con chim lượn quanh nó ăn trái cây.
Sau khi biết được cây đă kiệt, hết trái,
các con chim từ đó bay đi các phương.

1. Bất cứ khi nào cây trái sinh,
Bầy chim đói lại đến đầy cành,
Song khi cây đă thành khô héo,
Lập tức bầy chim bỏ chạy nhanh.

1262. Cara cārikaṃ lohitatuṇḍa mācari
kiṃ tvaṃ suva sukkhadumamhi jhāyasi,
tadiṅgha maṃ brūhi vasanta sannibha
kasmā suva sukkhadumaṃ na riñcasi.

 

1262. Này chim mỏ đỏ, hăy đi du hành, chớ luẩn quẩn.
Này chim két, tại sao ngươi lại trầm tư ở thân cây khô?
Này loài chim của mùa xuân, nào, hăy nói điều ấy với ta.
Này chim két, v́ sao ngươi không ĺa bỏ thân cây khô?”

2. Này ông mỏ đỏ, hăy đi mau,
Ông vẫn ngồi mơ mộng, cớ sao?
Hăy nói ta nghe, xuân điểu hỡi,
Sao ông bám khúc gỗ khô nào?

1263. Ye ve sakhīna sakhāro bhavanti
pāṇaccaye sukhadukkhesu haṃsa,
khīṇaṃ akhīṇanti na taṃ jahanti
santo sataṃ dhammamanussarantā.

 

1263. “Những ai thật sự là bạn trong số bạn bè,
lúc sống hoặc chết, lúc sướng hoặc khổ, này chim thiên nga,
họ không từ bỏ bạn ấy dầu bạn bị khánh kiệt hay không khánh kiệt;
những người tốt luôn ghi nhớ đạo lư của những người tốt.

3. Ngay khi Anh vũ chúa cầu mong,
Biết rơ mọi điều kiện, chánh chân
Dầu sống, chết hay khi khổ lạc,
Đều không hề bỏ mặc thân bằng

1264. Sohaṃ sataṃ aññatarosmi haṃsa
ñātī ca me hoti sakhā ca rukkho,
taṃ nussahe jīvikattho pahātuṃ
khīṇanti ñatvāna na hesa dhammo.

 

1264. Này chim thiên nga, tôi đây là một trong số những người tốt.
Cây là thân quyến và là bạn của tôi.
V́ mục đích nuôi mạng sống, tôi không thể nào ĺa bỏ cây ấy,
sau khi biết rằng cây đă kiệt; bởi v́ việc ấy không phải là đạo lư.

4. Ta muốn ân cần, giữ thiện tâm
Với cây kết bạn đă lâu năm,
Ta mong sống, dẫu ḷng không nỡ
Rời bỏ cây khô đă chết dần.

1265. Sādhu sakkhi kataṃ hoti metti saṃsati santhavo,
sace taṃ dhammaṃ rocesi pāsaṃsosi vijānataṃ.

 

1265. “Lành thay t́nh bạn, t́nh thân hữu, sự thân thiết ở hội chúng đă được thiết lập! Nếu ngươi ưa thích đạo lư này, ngươi xứng đáng được khen ngợi bởi những người có sự hiểu biết.

 

5. Ta biết chim giao hữu thật t́nh
Trí nhân chắc chắn phải hoan nghênh,

1266. So te suva varaṃ dammi pattayāna vihaṅgama,
varaṃ varassu vakkaṅga yaṃ kiñci manasicchasi.

 

1266. Này chim két, này loài di chuyển bằng cặp cánh, này loài đi lại ở không trung, ta đây sẽ ban cho ngươi một ân huệ. Này chim, ngươi hăy chọn một ân huệ về bất cứ điều ǵ ngươi mong muốn ở trong tâm.”

 

Ta ban chim thứ ǵ chim mong muốn,
Anh vũ, ước cho thoả ư ḿnh

1267. Varañca me haṃsa bhavaṃ dadeyya
ayaṃ hi rukkho punarāyuṃ labhetha,
so sākhavā phalimā saṃvirūḷho
madhutthiko tiṭṭhatu sobhamāno.

 

1267. “Này chim thiên nga, nếu ông có thể ban cho tôi một ân huệ, xin ông hăy khiến cho chính cây này đạt lại được sức sống. Hăy khiến cho cây ấy đứng vững, có cành lá, có trái cây, được tăng trưởng, có mật ngọt, và tỏa sáng.”

6. Thiên nga, nếu bạn muốn ban ân
Mong ước cho cây sống lại dần
Lần nữa vươn lên sức mạnh cũ,
Quả ngon tươi mát mọc đầy thân.

1268. Taṃ passa samma phalimaṃ uḷāraṃ
sahāva te hotu udumbarena,
so sākhavā phalimā saṃvirūḷho
madhutthiko tiṭṭhatu sobhamāno.
 

1268. “Này bạn hiền, hăy nh́n xem cây ấy có trái cây, và cao quư. Hăy để cho nó sống chung cùng với cây sung của bạn. Cây ấy hăy đứng vững, có cành lá, có trái cây, được tăng trưởng, có mật ngọt, và tỏa sáng.”
 

7. Bạn nh́n! Cây quư quả sai đầy,
Thích hợp cho chim ở chốn này,
Lần nữa vươn lên sức mạnh cũ,
Quả ngon ngọt mát tươi thay!

Trang 330:

Trang 331:

 

1269. Evaṃ sakka sukhī hohi saha sabbehi ñātihi,
yathāhamajja sukhito disvāna phalitaṃ dumaṃ.

 

1269. “Tương tự như vậy, thưa Thiên Chủ Sakka, mong ngài được hạnh phúc cùng với tất cả thân quyến, giống như tôi hôm nay được hạnh phúc, sau khi nh́n thấy cây được kết trái.”

8. Ước mong Thiên chủ, mọi Thiên thân,
Đều hưởng thọ tràn ngập phước ân,
Hạnh phúc như chim đang thọ hưởng
Khi nh́n cảnh tượng đẹp huy hoàng.

1270. Suvassa ca varaṃ datvā katvāna saphalaṃ dumaṃ,
pakkāmi sahabhariyāya devānaṃ nandanaṃ vanan ”ti.


3. Mahāsukajātakaṃ.

 

1270. “Sau khi ban cho con chim két ân huệ, và sau khi làm cho cây có trái, ta cùng với người vợ ra đi về khu rừng Nandana của chư Thiên.”


3. Bổn sanh Chim Két Lớn.
 

9. Ngay khi Anh vũ chúa cầu mong,
Lần nữa cây kia trổ trái dần,
Đế Thích cùng bà hoàng biến mất
Về vườn Thiên lạc cơi Thiên thần.

Câu chuyện 429

1271. Santi rukkhā haritapattā dumā nekaphalā bahū,
kasmā nu sukkhe koḷāpe sukassa nirato mano.

 
1271. “Có những cây xanh lá, có nhiều cây lắm trái. Tại sao tâm trí của chim két lại ưa thích cái cây khô, hết nhựa sống?” 1. Nh́n cây vô số ở quanh đây
Toàn thể xanh tươi, trái mọc đầy,
Cớ sao Anh vũ c̣n đeo đẳng
Cây đă héo khô tội nghiệp này?

1272. Phalassa upabhuñjimhā nekavassagaṇe bahū,
aphalampi viditvāna sāva metti yathā pure.

 
1272. “Chúng tôi đă ăn trái của cây này trong nhiều năm vô số kể. Dẫu biết rằng cây không c̣n trái, t́nh bạn ấy cũng vẫn như trước kia.” 2. Chúng ta hưởng thọ đă lâu năm
Trái ngọt ngon mà cây đă mang
Vậy dẫu trái nay không c̣n nữa,
Cây cần phải được sự quan tâm.

1273. Sukkhañca rukkhaṃ koḷāpaṃ opattamaphalaṃ dumaṃ,
ohāya sakuṇā yanti kiṃ dosaṃ passase dija.

 
1273. “Khi cây khô và hết nhựa sống, không c̣n lá, không c̣n trái, các con chim ĺa bỏ và ra đi, này chim, ngươi nh́n thấy tội lỗi ǵ?” 3. Cây chẳng c̣n sinh trái, lá nào
Than ôi! Cây đă chết, v́ sao?
Nay chim c̣n trách bầy chim bạn
Rằng chúng ta bay đi hết đă lâu?

1274. Ye phalatthā sambhajanti aphaloti jahanti naṃ,
attaṭṭha paññā dummedhā te honti pakkhapātino.

 
1274. “Những con chim thân cận v́ mục đích trái cây, khi biết cây đă hết trái liền từ bỏ, chúng là những kẻ chỉ biết lợi ích của bản thân, ngu muội, không theo tập thể.” 4. Chúng yêu cây bởi trái cây thôi,
Nay trái cây không c̣n nữa rồi,
Bọn ích kỷ ngu si tội nghiệp,
Thân t́nh ân nghĩa tếch mù khơi!

1275. Sādhu sakkhi kataṃ hoti metti saṃsati santhavo,
sace taṃ dhammaṃ rocesi pāsaṃsosi vijānataṃ.

 

1275. “Lành thay t́nh bạn, t́nh thân hữu, sự thân thiết ở hội chúng đă được thiết lập! Nếu ngươi ưa thích đạo lư này, ngươi xứng đáng được khen ngợi bởi những người có sự hiểu biết. 5. Ta đây công nhận mối ân t́nh,
Chim có ḷng chung thuỷ tốt lành,
Đức hạnh như là Anh vũ chúa,
Trí nhân măi măi sẽ hoan nghênh.

1276. Sote suva varaṃ dammi pattayāna vihaṅgama,
varaṃ varassu vakkaṅga yaṃkiñci manasicchasi.

 

1276. Này chim két, này loài di chuyển bằng cặp cánh, này loài đi lại ở không trung, ta đây sẽ ban cho ngươi một ân huệ. Này chim, ngươi hăy chọn một ân huệ về bất cứ điều ǵ ngươi mong muốn ở trong tâm.” 6. Ta muốn giờ đây ta tặng chim
Điều ǵ chim ước nguyện trong tim,
Ta cầu chim nói cho ta biết,
Điều ước làm tâm được phỉ nguyền?

1277. Api nāma naṃ puna passe sapattaṃ saphalaṃ dumaṃ,
daḷiddova nidhiṃ laddhā nandeyyāhaṃ punappunaṃ.

 

1277. “Nếu tôi thật sự có thể nh́n thấy cây ấy có lá, có trái trở lại, tựa như kẻ nghèo khổ đă đạt được của cải chôn giấu, tôi sẽ vui mừng khôn xiết.” 7. Mong cây này lại có cơ may
Sinh sản lá tươi, trái trĩu đầy,
Ta sẽ vô cùng hoan hỷ thấy
Bầy chim t́m được bảo toàn này!

1278. Tato amatamādāya abhisiñci mahīruhaṃ,
tassa sākhā virūhiṃsu sītacchāyā manoramā.
 

1278. Sau đó, Thiên Chủ Sakka đă lấy thuốc bất tử rưới lên cây ấy. Các cành của nó đă phát triển, có bóng mát, làm thích ư.
 

8. Thế rồi cây ấy được Sak-ka
Rảy nước hồi sinh để mọc ra
Cành lá sum suê đầy bóng mát,
Xinh tươi khả ái vẫn như xưa.

Trang 332:

 

Trang 333:

 

 

1279. Evaṃ sakka sukhī hohi saha sabbehi ñātihi,
yathāhamajja sukhito disvāna saphalaṃ dumaṃ.

 

1279. “Tương tự như vậy, thưa Thiên Chủ Sakka, mong ngài được hạnh phúc cùng với tất cả thân quyến, giống như tôi hôm nay được hạnh phúc, sau khi nh́n thấy cây được kết trái.”

9. Ước mong Thiên chủ, các Thiên thần
Đều hưởng thọ tràn ngập phước ân,
Hạnh phúc như chim đang thọ hưởng
Khi nh́n cảnh tượng đáng hân hoan!

1280. Suvassa ca varaṃ datvā katvāna saphalaṃ dumaṃ,
pakkāmi saha bhariyāya devānaṃ nandanaṃ vanan ”ti.


4. Cullasukajātakaṃ.

 

1280. “Sau khi ban cho con chim két ân huệ, và sau khi làm cho cây có trái, ta cùng với người vợ ra đi về khu rừng Nandana của chư Thiên.”


4. Bổn sanh Chim Két Nhỏ.
 

10. Như vậy cây trái được sinh
Nhờ lời Anh vũ nguyện ân t́nh,
Sak-ka trở lại cùng hoàng hậu
An hưởng vườn Thiên lạc hiển vinh

Câu chuyện 430

1281. Sutaṃ metaṃ mahābrahme kāme bhuñjati hārito,
kaccetaṃ vacanaṃ tucchaṃ kacci suddho iriyyasi.

 
1281. “Thưa bậc đại Phạm hạnh, có điều này trẫm đă được nghe là: Hārita thọ hưởng dục. Có phải điều ấy là không đúng? Có phải ngài c̣n trong sạch?”

1. Hà-ri Hiền hữu, trẫm nghe rằng
Tôn giả nay đang sống lỗi lầm,
Trẫm chẳng tin lời đồn đại ấy,
Ngài không phạm tội ư, thân chăng?

1282. Evametaṃ mahārāja yathā te vacanaṃ sutaṃ,
kummagge paṭipannosmi mohaneyyesu mucchito.

 
1282. “Tâu đại vương, điều ấy là như vậy, giống như lời nói đă được bệ hạ nghe. Thần đă đi vào con đường xấu xa, đă bị lầm lạc trong các pháp dẫn đến si mê.”

2. Ta phạm ác hành, hỡi Đại vương,
Đúng như Ngài đă được nghe rằng
Mắc vào tà thuật trong trần thế,
Ta đă đi sai lạc bước đường.

1283. Ādu paññā kimatthiyā nipuṇā sādhu cintanī,
yāya uppatitaṃ rāgaṃ kiṃ mano na vinodaye.

 
1283. “Vậy trí tuệ khôn khéo với sự suy nghĩ tốt đẹp có lợi ích ǵ? Tâm ǵ không thể xua đuổi sự luyến ái một khi nó đă được sanh khởi?”

3. Trí tuệ uyên thâm của thế nhân
Hoài công vô ích, chẳng xua tan
Dục tham bùng dậy trong ḷng dạ
Của bậc trí nhân đă lạc đường.

1284. Cattārome mahārāja loke atibalā bhusā,
rāgo doso mado moho yattha paññā na gādhati.

 
1284. “Tâu đại vương, bốn pháp này là mạnh mẽ, có năng lực vượt trội ở thế gian: luyến ái, sân hận, say đắm, si mê; ở nơi ấy, trí tuệ không đứng vững.”

4. Bốn ác dục này ở thế gian
Uy quyền lấn áp cứ lan tràn:
Tham, sân, vô độ và si ám,
Tri kiến không sao đứng vững vàng.

1285. Arahaṃ sīlasampanno suddho carati hārito,
medhāvī paṇḍito ceva iti no sammato bhavaṃ.

 
1285. “‘Hārita là bậc A-la-hán, đầy đủ về giới, sống trong sạch, thông minh, và sáng suốt nữa,’ ngài được chúng tôi tôn vinh như thế.”

5. Thánh hạnh tràn đầy với trí minh
Hà-ri Hiền giả đáng tôn vinh!

1286. Medhāvinampi hiṃsanti isiṃ dhammaguṇe rataṃ,
vitakkā pāpakā rāja subhā rāgūpasaṃhitā.

 
1286. “Tâu bệ hạ, các ư nghĩ xấu xa, vẻ đẹp kết hợp với sự luyến ái, chúng hăm hại vị ẩn sĩ thông minh, ưa thích giáo pháp và đức hạnh.”

6. Ác tâm, tham dục, do liên kết,
Huỷ hoại trí nhân hướng Thánh hành.

1287. Uppannāyaṃ sarīrajo
rāgo vaṇṇavidūsano tavaṃ,
taṃ pajaha bhaddamatthu te
bahunnāsi medhāvīsammato.

 
1287. “Điều này được sanh lên từ cơ thể,
sự luyến ái làm hư hoại nét rạng rỡ của ngài.
Ngài hăy dứt bỏ việc ấy. Mong rằng sự tốt lành hăy có cho ngài.
Ngài được nhiều người công nhận là thông minh.”

7. Vẻ đẹp trong tâm tịnh sáng ngời
Bị hư v́ ác dục sinh sôi,
Quẳng ngay, hạnh phúc đang chờ đón,
Quần chúng tuyên dương trí tuệ ngài.

1288. Te andhakaraṇe kāme bahudukkhe mahāvise,
tesaṃ mūlaṃ gavesissaṃ checchaṃ rāgaṃ sabandhanaṃ.

 

1288. “Các dục ấy tạo ra sự tăm tối, là các chất độc dữ dội có nhiều khổ đau, thần sẽ t́m kiếm gốc rễ của chúng, sẽ cắt đứt sự luyến ái luôn cả sự trói buộc.”

8. V́ tham dục trói buộc thân này,
Sinh sản cho ta quả đắng cay,
Ta quyết cắt sâu cho tận gốc
Mọi mầm tham dục khởi lên đây.

1289. Idaṃ vatvāna hārito isi saccaparakkamo,
kāmarāgaṃ virājetvā brahmalokūpago ahū ”ti.


5. Hāritajātakaṃ.
 

1289. “Sau khi nói điều này, vị ẩn sĩ Hārita, với sự nỗ lực về pháp chân thật, sau khi dứt trừ sự luyến ái ở các dục, đă là vị đạt đến thế giới Phạm Thiên.”


5. Bổn sanh Ẩn Sĩ Hārita.
 

9. Như vậy, Hà-ri bậc trí nhân
Đấu tranh v́ Chánh pháp kiên cường,
Vừa khi rời bỏ niềm tham dục,
Hướng đến Phạm thiên tiến thẳng đường.

Câu chuyện 431

Trang 334:

 

Trang 335:

 

1290. Bahussutaṃ cittakathiṃ gaṅgā vahati pāṭalaṃ,
vuyhamānaka bhaddante ekaṃ me dehi gāthakaṃ.

 

1290. “Sông Gaṅgā cuốn trôi Pāṭala, nhà thuyết giảng tài hoa, có kiến thức rộng. Tướng công ơi, hỡi người đang bị cuốn trôi, xin chàng hăy ban cho thiếp một bài kệ ngắn.”

1. Pà-ta bị cuốn bởi sông Hằng,
Ca vũ tài hoa tiếng lẫy lừng,
Chàng hởi! Chàng trôi theo sóng nước,
Xin chàng cho thiếp khúc ca ngâm.

1291. Yena siñcanti dukkhitaṃ yena siñcanti āturaṃ,
tassa majjhe marissāmi jātaṃ saraṇato bhayaṃ.

 

1291. “Chúng rưới rắc vật nào cho người bị khổ sở, chúng rưới rắc vật nào cho người bị bệnh, ta sẽ bị chết ở giữa vật ấy; sự nguy hiểm sanh lên từ nơi nương tựa.”

2. Những người đang bất tử mê man,
Nhờ nước vào để cứu thương,
Ta bị chết ngay trong sóng nước,
Nơi nương tựa đă hoá tai ương!

1292. Yattha bījāni rūhanti sattā yattha patiṭṭhitā,
sā me sīsaṃ nipīḷeti jātaṃ saraṇato bhayaṃ.

 

1292. “Các hạt giống mọc lên ở chỗ nào, các chúng sanh đứng vững ở chỗ nào, cái vật ấy giáng xuống đầu của ta; sự nguy hiểm sanh lên từ nơi nương tựa.”

3. Cái vật nhờ hạt nẩy mầm
Để nuôi sống tất cả người trần,
Đă làm ta vỡ đầu ra đấy,
Chỗ dựa thành tai hoạ bản thân.

1293. Yena bhattāni paccanti sītaṃ yena vihaññati,
so maṃ ḍahati gattāni jātaṃ saraṇato bhayaṃ.

 

1293. “Nhờ vật nào các bữa ăn được nấu chín, nhờ vật nào cái lạnh được tiêu diệt, cái vật ấy đốt cháy các tay chân của ta; sự nguy hiểm sanh lên từ nơi nương tựa.”

4. Cái vật làm tan vỡ giá băng
Và thiêu đốt hạt giống khô cằn,
Đang thiêu huỷ tứ chi ta đó,
Chỗ dựa thành tai hoạ khổ thân.

1294. Yena bhuttena yāpenti puthū brāhmaṇakhattiyā,
so maṃ bhutto viyāpādi jātaṃ saraṇato bhayaṃ.

 

1294. “Đông đảo các Bà-la-môn và Sát-đế-lỵ được nuôi sống nhờ vật nào khi được ăn vào, vật ấy khi được ăn vào gây tai họa cho tôi; sự nguy hiểm sanh lên từ nơi nương tựa.”

5. Thức ăn nuôi sống biết bao người
Đạo sĩ, La-môn giữa đời,
Đă giết chết ta đây trọn vẹn,
Nơi nương tựa hoá khổ đau rồi.

1295. Gimhānaṃ pacchime māse vātamicchanti paṇḍitā,
so me bhañjati gattāni jātaṃ saraṇato bhayaṃ.

 

1295. “Vào tháng cuối của mùa nóng, các bậc sáng suốt mong mỏi làn gió, gió ấy bẻ găy các tay chân của tôi; sự nguy hiểm sanh lên từ nơi nương tựa.”

6. Những bậc trí nhân vẫn nguyện cầu
Gió lành tháng sáu thổi lên mau.
Gió nay làm tứ chi ta găy,
Chỗ dựa thành tai hoạ khổ đau!

1296. Yaṃ nissitā jahati ruhaṃ vihaṅgamā soyaṃ aggiṃ pamuñcati,
disā bhajatha vakkaṅgā jātaṃ saraṇato bhayaṃ.

 

1296. Các con chim nương nhờ cây nào, chính cây này phát ra ngọn lửa, các con chim phân tán các phương; sự nguy hiểm sanh lên từ nơi nương tựa.”

7. Lửa phát sinh ra ở ngọn cây
Chúng ta an trú bấy lâu nay,
Mau lên, giải tán bầy chim nhé,
Chỗ dựa thành nơi hiểm hoạ đầy.

1297. Yamānayiṃ somanassaṃ māliniṃ candanussadaṃ,
sā maṃ gharā nīharati jātaṃ saraṇato bhayaṃ.

 

1297. “Cô gái nào có sự vui vẻ, có tràng hoa, có thoa trầm hương mà tôi đă đưa về, cô gái ấy đuổi tôi ra khỏi nhà; sự nguy hiểm sanh lên từ nơi nương tựa.”

8. Một gái xuân xanh đẹp biết bao
Với ṿng hoa trắng đội trên đầu
Dầu thơm sực nức chiên-đàn toả,
Đă được ta ngày trước đón dâu;
Nương tử hân hoan mong ngự trị
Trong nhà ta ở tự bao lâu;
Con dâu đuổi mẹ đi nơi khác,
Chỗ dựa thành tai hoạ thảm sâu!

1298. Yena jātena nandissaṃ yassa ca bhavamicchisaṃ,
so maṃ gharā nicchubhati jātaṃ saraṇato bhayaṃ.

 

1298. Tôi đă vui mừng khi người nào được sanh ra, và tôi đă mong mỏi sự hiện hữu của người nào, người ấy tống tôi ra khỏi nhà; sự nguy hiểm sanh lên từ nơi nương tựa.”

9. Kẻ mà ta ước muốn sinh ra,
Cũng chẳng hoài công mong đợi kia
Lại đuổi ta đi: Nơi trú ẩn
Hoá thành tai hoạ khổ thân ta.

1299. Suṇantu me jānapadā negamā ca samāgatā,
yatodakaṃ tadādittaṃ yato khemaṃ tato bhayaṃ.

 

1299. “Hỡi các dân chúng và các thị dân đă tụ tập lại, xin hăy lắng nghe tôi. Cái nào là nước, cái ấy là lửa cháy; từ nơi nào có sự an toàn, từ nơi ấy có sự nguy hiểm.

10. Này dân thành thị đến nông làng
Tề tựu lắng nghe tất cả rằng:
Ḱa! Nước lạnh nay đang đang bốc cháy
Chốn b́nh an phát xuất kinh hoàng.

1300. Rājā vilumpate raṭṭhaṃ brāhmaṇo ca purohito,
attaguttā viharatha jātaṃ saraṇato bhayan ”ti.


6. Padamāṇavakajātakaṃ.
 

1300. Đức vua và viên quan tế tự Bà-la- môn bóc lột đất nước, các vị hăy bảo vệ lấy bản thân; sự nguy hiểm sanh lên từ nơi nương tựa.”


6. Bổn sanh Chàng Trai
Xem Xét Vết Bàn Chân.
 

Đại vương, Đạo sĩ cùng than văn
Quốc độ bị cường đạo phá tan.
Vậy mọi người dân lo tự vệ,
Nơi nương tựa bỗng hoá tai nàn.

Câu chuyện 432

Trang 336:

 

Trang 337:

 

1301. Assa indasamo rāja accantaṃ ajarāmaro,
sace taṃ yaññaṃ yājeyya isiṃ lomasakassapaṃ.

 
1301. “Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ có thể khiến cho vị ẩn sĩ Lomasakassapa hiến cúng cuộc lễ tế thần, bệ hạ có thể sánh bằng Thiên Chủ Inda, vĩnh viễn không già không chết.”

1. Đại vương sẽ giống hệt Ind-ra,
Sẽ chẳng chết đi, cũng chẳng già,
Ví thử Kas-sa-pa nhận lệnh
Tế đàn sinh vật tại cung vua.

1302. Sasamuddapariyāyaṃ mahiṃ sāgarakuṇḍalaṃ,
na icche saha nindāya evaṃ sayha vijānahi.

 
1302. “Ta không mong muốn phần đất đai có biển cả bao quanh, có ṿng đai là đại dương, cùng với sự chê bai, này Sayha, ông hăy nhận biết như vậy.

2. Không hải đảo nào giữa đại dương
Được người canh giữ thật an toàn
Ḥng mong lôi cuốn ta, Tôn giả,
Vào việc bạo tàn đại bất lương.

1303. Dhiratthu taṃ yasalābhaṃ dhanalābhaṃ ca brāhmaṇa,
yā vutti vinipātena adhammacaraṇena vā.

 
1303. Này Bà-la- môn, thật xấu hổ thay việc đạt được danh tiếng và việc đạt được tài sản là việc mưu sinh với nghiệp đọa vào địa ngục, hoặc với việc thực hành phi pháp!

3. Ḷng tham lợi dưỡng với vinh danh,
Tội ác từ đây vẫn phát sinh,
Đưa đến khổ ưu không gián đoạn
Ác hành tai hại đáng chê khinh!

1304. Api ce pattamādāya anāgāro paribbaje,
sā eva jīvikā seyyo yā cādhammena esanā.

 
1304. Nếu có thể là người không nhà, cầm lấy b́nh bát và sống hạnh du sĩ, chính sự nuôi mạng ấy là tốt hơn là việc tầm cầu phi pháp.

4. Thà làm kẻ khốn khó ly gia,
Khất thực kiếm ăn khắp mọi nhà
Hơn phải tạo nên điều tội lỗi
Sẽ mang ô nhục trút đầu ta.

1305. Api ce pattamādāya anāgāro paribbaje,
aññaṃ ahiṃsayaṃ loke api rajjena taṃ varaṃ.

 
1305. Nếu có thể là người không nhà, cầm lấy b́nh bát và sống hạnh du sĩ, trong khi không hăm hại kẻ khác ở thế gian, việc ấy c̣n cao quư hơn cả vương quốc.”

5. Thà cầm b́nh bát ở trong tay
Để tránh thật xa tội lỗi này,
Hơn chiếm được toàn quyền quốc độ
Nhờ hành động ác độc như vầy.

1306. Balaṃ cando balaṃ suriyo balaṃ samaṇabrāhmaṇā,
balaṃ velā samuddassa balātibalamitthiyo.

 
1306. “Mặt trăng là có năng lực, mặt trời là có năng lực, các vị Sa-môn và Bà-la-môn là có năng lực, thủy triều của biển cả là có năng lực, các phụ nữ là có năng lực vượt trội trong số các loại năng lực.

6. Nhật, nguyệt đều mang đại lực thân,
Thuỷ triều không nhượng lực phàm trần,
La-môn, Đạo sĩ đầy oai lực,
Song vẫn kém xa lực nữ nhân.

1307. Yathā uggatapaṃ santaṃ isiṃ lomasakassapaṃ,
pitu atthā candavatī vājapeyyaṃ ayājayi.

 
1307. Giống như nàng Candavatī, v́ mục đích của vua cha, đă khiến cho vị ẩn sĩ an tịnh, có sự khổ hạnh cao tột Lomasakassapa hiến cúng cuộc lễ tế thần Vājapeyya.”

7. Nguyệt Nương cũng vậy, đă làm cho
Ca-diếp Hiền nhân mắc tội to,
Thúc giục ngài theo lời Chúa thượng
Tế đàn sinh vật tại cung vua.

1308. Taṃ lobhā pakataṃ kammaṃ kaṭukaṃ kāmahetukaṃ,
tassa mūlaṃ gavesissaṃ checchaṃ rāgaṃ sabandhanaṃ.

 
1308. “Việc làm ấy được tạo ra do tham, (có quả) cay đắng, có nhân là dục vọng, ta sẽ t́m kiếm gốc rễ của nó, ta sẽ cắt đứt sự luyến ái luôn cả sự trói buộc.”

8. Ác nghiệp này ta đă muốn làm,
Chính là kết quả của ḷng tham,
Cái mầm dục vọng đang tăng trưởng,
Gốc rễ nó, ta quyết cắt ngang.

1309. Dhiratthu kāme subahūpi loke
tapova seyyo kāmaguṇehi rāja,
tapo karissāmi pahāya kāme
taveva raṭṭhaṃ candavatī ca hotū ”ti.


7. Lomasakassapajātakaṃ.

 

1309. “Thật xấu hổ thay các dục là quá nhiều ở thế gian!
Tâu bệ hạ, khổ hạnh quả nhiên tốt hơn các loại dục.
Thần sẽ thực hành khổ hạnh sau khi dứt bỏ các dục,
vương quốc và công chúa Candavatī hăy thuộc về bệ hạ.”


7. Bổn sanh Ẩn Sĩ Lomasakassapa.
 

9. Đáng ghét bao tham dục thế thường
Thà theo khổ hạnh tốt lành hơn,
Ta làm ẩn sĩ nguyền ly dục,
Ngài giữ nước nhà với Nguyệt Nương.

Câu chuyện 433

1310. Kāsāyavatthe sakuṇe vadāmi
duve duve nandimane carante,
kaṃ aṇḍajaṃ aṇḍajā mānusesu
jātiṃ pasaṃsanti tadiṅgha brūtha.
 

1310. “Ta nói với các con chim có bộ lông màu vàng cam, từng đôi, từng cặp, với tâm ư vui vẻ, đang du ngoạn rằng: ‘Này các bạn chim, thiên hạ ca ngợi loài chim nào, ḍng dơi nào ở giữa loài người,? Vậy, xin các bạn hăy nói về điều ấy.’”

1. Đôi chim lông óng ả màu vàng
Quanh quẩn đó đây, lạc thú tràn
Chim loại ǵ người yêu mến nhất
Là điều ta mong muốn biết cho tường.

Trang 338:

 

Trang 339:

 

1311. Amhe manussesu manussahiṃsa
anubbake cakkavāke vadanti,
kalyāṇabhāvamha dijesu sammatā
abhītarūpā vicarāma aṇṇave.

 
1311. “Này con chim gây hại cho loài người, thiên hạ ca ngợi loài hồng hạc chúng tôi là xứng đáng. Chúng tôi được công nhận là có bản thể tốt đẹp trong số các loài chim. Với dáng vóc không bị kinh sợ, chúng tôi du ngoạn ở trong hồ nước.”

2. Này Quạ, vượt lên mọi dă cầm,
Hồng nga được hạnh phúc ban ân
Mọi miền vang dậy t́nh thân ái
Người lẫn chim đều vẫn tán dương
Hăy biết Hồng nga là Ngỗng đỏ
Bạo gan vùng vẫy nước sông Hằng

1312. Kiṃ aṇṇave kāni phalāni bhuñje
maṃsaṃ kuto khādatha cakkavākā,
kiṃ bhojanaṃ bhuñjatha vo anomā
balañca vaṇṇo ca anapparūpo.

 
1312. “Các bạn ăn các loại trái cây ǵ ở hồ nước? Này các chim hồng hạc, các bạn nhai thịt của những sinh vật nào? Này loài thú thượng đẳng, các bạn thọ dụng thức ăn ǵ mà các bạn có sức mạnh, sắc đẹp, và không phải là không có vóc dáng?”

3. Trái ǵ sung măn ở trên sông
T́m thấy "thịt" cho bạn Ngỗng hồng?
Hăy nói món trời cho Ngỗng hưởng
Để sinh sắc đẹp, lực tăng cường?

1313. Na aṇṇave santi phalāni dhaṅka
maṃsaṃ kuto khādituṃ cakkavāke,
sevālabhakkhamha avākabhojanā
na ghāsahetu pakaroma pāpaṃ.

 
1313. “Không phải các loại trái cây có ở hồ nước, này chim quạ, do đâu mà có việc nhai thịt đối với loài chim hồng hạc? Chúng tôi có thực phẩm là rong rêu, có thức ăn là vật không có vỏ cứng. Chúng tôi không tạo ra việc ác v́ nguyên nhân vật thực.”

4. Chẳng trái ǵ ăn ở giữa sông,
Và đâu có: "thịt" với chim Hồng
Sè-và-la ấy đem chà vỏ
Làm thức ăn không có lỗi lầm.

1314. Na me idaṃ ruccati cakkavāke
asmiṃ bhave bhojanasannikāso,
ahosi me pubbe tato me aññathā
icceva me vimati ettha jātā.

 
1314. “Việc này của loài chim hồng hạc không làm ta thích thú, là thức ăn và vóc dáng ở đời sống này. Thức ăn của của ta giờ đây phải đổi khác so với thức ăn của ta đă có trước đây, sự hoài nghi của ta về điều này đă được sanh lên y như thế ấy.

5. Ta chẳng thích lời ấy, Ngỗng hồng,
Trước kia ta thưởng thức cần dùng
Để nuôi ta sống, cần phù hợp
Với dáng bề ngoài ta ước mong.

1315. Ahampi maṃsāni phalāni bhuñje
annāni ca loṇiyateliyāni,
rasaṃ manussesu labhāmi bhottuṃ
sūrova saṅgāma mukhamhi jetvā,
na ca me tādiso vaṇṇo
cakkavāka yathā tava.

 
1315. Ta cũng ăn các loại thịt, các loại trái cây, các loại cơm có muối và dầu ăn. Ta nhận lănh để thọ dụng thức ăn có khẩu vị của loài người, tựa như người dũng sĩ chiến thắng ở tuyến đầu của trận đánh. Này chim hồng hạc, vóc dáng như thế ấy của ta không giống như là của bạn được.”

6. Nay ta nghi hoặc, bởi ta ăn
Gạo, muối, dầu, bơ, thịt, quả ngon
Như các anh hùng say yến tiệc
Khi vừa trở lại khải hoàn môn
Vậy ta thưởng thức đầy hương vị,
Song dẫu ta đang sống thật là sang,
H́nh dáng bề ngoài ta vẫn thế
Bên Hồng nga chẳng thể ngang bằng!

1316. Asuddhabhakkhosi khaṇānupātī
kicchena te labbhati annapānaṃ,
na tussasi rukkhaphalehi dhaṅka
maṃsāni vā yāni susānamajjhe.

 
1316. “Ngươi có thức ăn không trong sạch, có sự đeo đuổi cơ hội,
thức ăn nước uống của ngươi đạt được một cách khó khăn.
Này quạ, ngươi không vui thích với các trái cây,
hoặc các loại thịt ở giữa băi tha ma.

7. Không thoả v́ hoa quả rớt rơi
Trong vùng nghĩa địa hoả thiêu người,
Tham lam, Qua vẫn bay lơ lững
Săn đuổi mồi ngon cám dỗ hoài.

1317. Yo sāhasena adhigamma bhoge
paribhuñjati dhaṅka khaṇānupātī,
tato upakkosati naṃ sabhāvo
upakkuṭṭho vaṇṇabalaṃ jahāti.

 
1317. Kẻ nào đạt được các của cải bằng bạo lực, rồi thọ dụng, này quạ, là kẻ có sự đeo đuổi cơ hội. Về sau, tự bản thân (kẻ ấy) khiển trách kẻ ấy. Bị khiển trách, kẻ ấy đánh rơi sắc đẹp và sức mạnh.

8. Song những ai mong phạm ác hành,
Chỉ v́ dục lạc, giết sinh linh,
Lương tâm giày xéo thân ṃn mỏi,
Vẻ đẹp, tráng cường huỷ hoại nhanh.

1318. Appampi ce nibbutiṃ bhuñjati yadi
asāhasena aparūpaghātī,
balañca vaṇṇo ca tadassa hoti
na hi sabbo āhāramayena vaṇṇo ”ti.


8. Cakkavākajātakaṃ.
 

1318. Nếu chỉ có chút ít (thức ăn), nếu thọ hưởng sự b́nh yên, không do bạo lực, không có sự hăm hại người khác, khi ấy sắc đẹp và sức mạnh sẽ có cho người này, bởi v́ không phải toàn bộ sắc đẹp chi do mỗi vật thực tạo thành.”


8. Bổn sanh Chim Hồng Hạc.
 

9. Vậy cái thiện nhân chẳng hại ai,
H́nh dung cường tráng, vẻ xinh tươi,
Bởi v́ mỹ sắc, ta cần biết,
Chẳng phải thuộc vào thực phẩm thôi.

Câu chuyện 434

Trang 340:

 

Trang 341:

 

1319. Sutitikkhaṃ araññamhi pantamhi sayanāsane,
ye ca gāme titikkhanti te uḷāratarā tayā.

 

1319. “Sự bền chí tốt đẹp là ở trong rừng, ở nơi trú ngụ thanh vắng. C̣n những người nào bền chí ở xóm làng, những người ấy là cao cả hơn chàng.”

1. Trong chốn rừng hoang vắng một ḿnh
Con người có thể giữ tâm lành,
Dễ dàng chịu đựng tṛ lôi cuốn,
Song ở thôn quê hoặc thị thành
Đầy rẫy biết bao mùi cám dỗ
Người vươn đến hạnh phúc tối cao minh.

1320. Araññā gāmamāgamma kiṃ sīlaṃ kiṃ vataṃ ahaṃ,
purisaṃ tāta seveyyaṃ tamme akkhāhi pucchito.

 

1320. “Thưa cha, sau khi từ rừng đi vào làng, con nên thân cận người có giới thế nào, có sự hành tŕ thế nào? Được hỏi, xin cha hăy giải thích điều ấy cho con.”

2. Thưa cha, xin giải toả nghi nan:
Ví lỡ con đi lạc bước đường,
Từ chốn rừng này vào xóm nọ,
Người nào giữ đức độ hiền lương,
Hay là môn phái nào tu tập
Con phải noi theo thật chánh chơn?

1321. Yo te vissasate tāta vissāsañca khameyya te,
sussūsī ca titikkhī ca taṃ bhajehi ito gato.

 

1321. “Này con, người nào có thể tin tưởng con và có thể đạt được sự tin tưởng của con, có sự lắng nghe và có sự nhẫn nhịn (lời nói của con), con hăy thân cận người ấy khi con ra đi khỏi nơi này.

3-4. Một kẻ nào con tín nhiệm luôn,
Và con tạo được mối yêu thương,
Người này tin cậy lời con nói,
Tỏ với con kiên nhẫn nhịn nhường,

1322. Yassa kāyena vācāya manasā natthi dukkataṃ,
urasīva patiṭṭhāya taṃ bhajehi ito gato.

 

1322. Đối với người nào không có việc làm sai trái bằng thân, bằng khẩu, bằng ư, con hăy thân cận người ấy khi con ra đi khỏi nơi này, tựa như (đứa bé trai) nằm yên ở trên ngực (người mẹ).

Người ấy chẳng bao giờ phạm lỗi
Về lời nói, ư tưởng hay thân,
Hăy đem người ấy vào ḷng dạ
Theo sát người kia tựa bạn vàng

1323. Yo ca dhammena carati carantopi na maññati,
visuddhakāriṃ sappaññaṃ taṃ bhajehi ito gato.

 

1323. Người nào cư xử đúng pháp và không có vẻ tự cao trong khi cư xử, người có hành vi trong sạch, có trí tuệ, con hăy thân cận người ấy khi con ra đi khỏi nơi này.

 

1324. Haḷiddirāgaṃ kapicittaṃ purisaṃ rāgavirāginaṃ,
tādisaṃ tāta mā sevi nimmanussampi ce siyā.

 

1324. Này con, với người có tâm chao đảo như loài khỉ, mau chóng thay đổi, con chớ phục vụ người như thế ấy, dẫu cho không có người nào khác.

5-6. Với hạng người thay đổi lạ lùng
Như lời loài khỉ vượn nhảy lung tung,
Tính t́nh bất định, th́ con nhớ
Đừng hướng tâm giao kết bạn cùng,
Dù số phần con quanh quẩn măi
Một ḿnh trơ trọi ở trong rừng.

1325. Asīvisaṃva kupitaṃ mīḷhalittaṃ mahāpathaṃ,
ārakā parivajjehi yānīva visamaṃ pathaṃ.

 

1325. Con hăy lánh xa (người ấy) tựa như lánh xa con rắn có nọc độc đă nổi giận, lánh xa con đường lớn bị phân lem luốc, ví như người đi xe lánh xa con đường không bằng phẳng.

7. Hăy tránh xa đường hướng ác hành,
Như con tránh rắn dữ cho nhanh,
Hay như người lái xe xa lánh
Một lối đi gai gốc gập ghềnh.

1326. Anatthā tāta vaḍḍhanti bālaṃ accupasevato,
māssu bālena saṅgañchi amitteneva sabbadā.

 

1326. Này con, các sự bất lợi tăng trưởng cho người thân cận mật thiết với kẻ ngu. Vậy chớ có đi chung với kẻ ngu, cũng như với kẻ thù, vào mọi lúc.

8-9. Các nỗi khổ đau vẫn ngập tràn
Khi người hầu cận hạng si cuồng,
Đừng giao kết bọn người ngu xuẩn,

1327. Taṃ tāhaṃ tāta yācāmi karassu vacanaṃ mama,
māssu bālena saṅgañchi dukkho bālehi saṅgamo ”ti.


9. Haḷiddirāgajātakaṃ.
 

1327. Này con, cha cầu xin con về điều ấy, con hăy làm theo lời nói của cha. Vậy chớ có đi chung với kẻ ngu. Sự kết hợp với những kẻ ngu là khổ.”


9. Bổn sanh Tâm Chao Đảo.
 

Lời nói của cha phải phục tuân,
Làm bạn với phường vô trí ấy
Chỉ làm mồi khổ năo đau buồn.

Câu chuyện 435

 

Trang 342:

 

Trang 343:

 

1328. Kuto nu āgacchatha bho tayo janā
svāgataṃ ettha nisīdathāsane,
kaccittha bhonto kusalaṃ anāmayaṃ
cirassamabbhāgamanaṃ hi vo idha.

 
1328. “Thưa ông, ba người quư vị từ đâu đi đến vậy?
Nơi đây xin hoan nghênh. Mời quư vị ngồi xuống ở ghế.
Thưa quư vị, có lẽ quư vị đều được tốt lành, mạnh khỏe?
Bởi v́, lâu lắm rồi, mới có sự quang lâm của quư vị ở nơi này.”
1. Ḱa đến từ đâu, các bạn ta?
Chào mừng ba vị đến thăm nhà,
Vui ḷng ở với ta giây lát,
Ta chắc các ngươi sống thuận hoà,
Hạnh phúc, v́ lâu ngày chẳng thấy
Vị nào qua lại chốn đường xa.

1329. Ahameva eko idha majjhapatto
na cāpi me dutiyo koci vijjati,
kimeva sandhāya te bhāsitaṃ ise
kuto nu āgacchatha bho tayo janā.

 
1329. “Chỉ có một ḿnh tôi đă ngự đến nơi này,
và cùng với tôi, cũng không có người thứ hai nào.
Thưa ẩn sĩ, liên quan đến điều ǵ, mà ngài đă nói:
‘Thưa ông, ba người quư vị từ đâu đi đến vậy?’”
2. Tôi đến thăm ngài chỉ một thân
Chứ không người, vật khác đi cùng,
Cớ sao ngài nói, thưa Tôn giả,
"Ḱa đến từ đâu, các bạn vàng,
Tất cả ba người cùng đủ mặt
Hôm nay quả thật đáng chào mừng!"

1330. Tuvañca eko bhariyā ca te piyā
samuggapakkhittanikiṇṇamantare,
sā rakkhitā kucchigatāva te sadā
vāyussa puttena sahā tahiṃ ratā.

 
1330. “Ông là một và người vợ yêu dấu của ông
đă được đặt vào và dấu kín ở bên trong cái hộp.
Nàng ấy luôn luôn được ông ǵn giữ và c̣n được để vào trong bụng,
ở nơi ấy, nàng vui thích cùng với người con trai của Vāyu.”
3. Hăy biết rằng ngươi với vợ ngươi,
Nằm yên trong hộp ấy là hai
Được canh pḥng kỹ trong ḷng kín,
Chơi với Và-yu Tứ thật vui!

1331. Saṃviggarūpo isinā viyākato
so dānavo tattha samuggamuggili,
addakkhi bhariyaṃ suci māladhāriniṃ
vāyussa puttena sahā tahiṃ rataṃ.

 
1331. “Được vị ẩn sĩ giải thích, với dáng vẻ bị chấn động,
gă khổng lồ ấy đă ói ra cái hộp ở tại nơi ấy,
và đă nh́n thấy người vợ có mang tràng hoa tinh khiết,
ở nơi ấy, nàng vui thích cùng với người con trai của Vāyu.”
4. Ác quỷ v́ gươm, thấy hăi kinh,
Nhả ra chiếc hộp tự trong ḿnh,
Đặt ngay xuống đất nh́n cô vợ
Trang điểm ṿng hoa thật đẹp xinh
Như thế cô dâu cùng chú rể
Và- yu Tử nọ hưởng men t́nh!

1332. Sudiṭṭharūpuggatapānuvattinā
hīnā narā ye pamadāvasaṃgatā,
yathā have pāṇarivettha rakkhitā
duṭṭhā mayi aññamabhippamodati.

 
1332. “Sự việc được nh́n thấy rơ ràng nhờ vào việc vận dụng khổ hạnh cao tột (của ngài). Những gă đàn ông hạ liệt là những kẻ bị rơi vào quyền lực của sự xao lăng. Thật vậy, giống như ở đây, được ta ǵn giữ tựa như sinh mạng, nàng ấy đă phản bội ta và vui thú với người đàn ông khác. 5. Thánh giả nhăn quang thấy rơ ràng
Đắm ch́m hạ liệt bọn nam nhân,
Làm thân nô lệ cho nhi nữ,
Tôi giữ nó vào trong bụng luôn
Như chính đời tôi song khốn nạn,
Nó chơi tṛ mất nết hư thân.

1333. Divā ca ratto ca mayā upaṭṭhitā
tapassinā jotirivā vane vasaṃ,
sā dhammamokkamma adhammamācari
akiriyarūpo pamadāhi santhavo.

 
1333. Ngày và đêm nàng được ta hầu cận, tương tự như ngọn lửa được thờ phụng bởi vị đạo sĩ khổ hạnh trong lúc sống ở trong rừng. Cô ấy, sau khi xem thường đạo đức, đă thực hành việc phi đạo đức. Sự thân thiết với những người phụ nữ là h́nh thức không nên làm. 6. Ngày đêm săn sóc nó, canh chừng
Như ẩn sĩ chăm chút lửa rừng,
Song nó vẫn sa vào tội lỗi
Vượt ngoài ṿng đạo lư công bằng.
Dính vào nữ giới tất nhiên phải
Gánh chịu bao ô nhục cuối cùng.

1334. Sarīramajjhamhi ṭhitāti maññihaṃ
mayhaṃ ayanti asatiṃ asaññataṃ,
sā dhammamokkamma adhammamācari
akiriyarūpo pamadāhi santhāvo.

 
1334. Tôi đă nghĩ về một người phụ nữ không đoan chính, không tự kiềm chế rằng: ‘Nàng ở bên trong cơ thể của ta. Nàng là của ta.’ Cô ấy, sau khi xem thường đạo đức, đă thực hành việc phi đạo đức. Sự thân thiết với những người phụ nữ là h́nh thức không nên làm. 7. Tưởng dấu trong ḿnh, chẳng thấy ai,
Nó là sở hữu của riêng tôi,
Song tên nó chính là "dâm phụ",
Nó phạm tội kia trái đạo trời.
Liên luỵ nữ nhân ắt phải chịu
Nhận bao ô nhục đến tàn đời.

1335. Surakkhitaṃ meti kathannu vissase
anekacittāsu nahettha rakkhaṇā,
etā hi pātālapapātasannibhā
etthappamatto vyasanaṃ nigacchati.
 

1335. Làm sao có thể tin rằng nàng đă được khéo ǵn giữ bởi ta?
Bởi v́ không có sự ǵn giữ ở đây, ở người phụ nữ có nhiều tâm tánh.
Chính những người nữ này giống như khe sâu và vực thẳm,
người nam bị xao lăng ở đây sẽ đọa vào cảnh bất hạnh.
 

8. Bọn nam nhi thật chỉ hoài công
Địch với ngàn mưu chước nữ nhân.
Tin tưởng hộ pḥng là chắc chắn
Cứ như vực thẳm cứ xuôi dần
Xuống miền địa ngục bao chàng ngốc
Nó đă lôi vào chỗ liệt vong.

Trang 344:

 

Trang 345:

 

1336. Tasmā hi te sukhino vītasokā
ye mātugāmehi caranti nissaṭā,
etaṃ sivaṃ uttamamābhipatthayaṃ
na mātugāmehi kareyya santhavan ”ti.


10. Samuggajātakaṃ.

 

1336. Chính v́ thế, những người nào sống cách ly với những người phụ nữ, nhừng người ấy có sự an lạc, có sự sầu muộn được xa ĺa. Trong khi ước nguyện sự an toàn tối thượng, không nên tạo ra sự thân thiết với những người phụ nữ.”

 

10. Bổn sanh Cái Hộp.
 

9. Người tránh lối đường của nữ nhi
Sống đầy hạnh phúc thoát sầu bi,
Thấy niềm cực lạc trong cô tịch,
Xa lánh hồng nhan phản bội kia!

Câu chuyện 436

1337. Na kho me ruccati āḷi pūtimaṃsassa pekkhaṇā,
etādisā saṅkhārasmā ārakā parivajjaye.

 
1337. “Này cô bạn, cái ngước nh́n của Pūtimaṃsa không được tôi ưa thích. Tôi nên lánh xa người bạn gái như thế ấy.”

1. Sao Pù-ti lại ngó trừng trừng
Vẻ chó nh́n dê thật ghét căm,
Với bạn thế, ta cần thận trọng,
Và nên chạy trốn thật nhanh chân.

1338. Ummattikā ayaṃ veṇī vaṇṇeti patino sakhiṃ,
pajjhāti paṭigacchantiṃ āgataṃ meḷamātaraṃ.

 
1338. “Veṇī này điên khùng, cô ả ca ngợi bạn gái với chồng. Giờ than phiền về việc Meḷamātu đă đến rồi bỏ đi.”

2. Ve-ni, vợ dại, kém thông minh
Lại khoe đă kết bạn thân t́nh,
Bơ vơ trong bụi, ngồi than khóc,
V́ bị Mê-la phỉnh gạt ḿnh.

1339. Tvaṃ khosi samma ummatto dummedho avicakkhaṇo,
yo tvaṃ matālayaṃ katvā akālena vipekkhasi.

 
1339. “Này chồng à, ông quả thật điên khùng, ngu muội, không có sự khôn khéo, ông đây đă giả vờ chết mà c̣n ngước nh́n không đúng lúc.”

3. Chàng cũng chẳng khôn khéo tư nào!
Ngu si, chàng đă ngẩng đầu cao,
Trừng trừng, chàng mở to hai mắt,
Dù giả vờ nằm chết đó sao?

1340. Na akāle vipekkheyya kāle pekkheyya paṇḍito,
pūtimaṃsova pajjhāti4 yo akāle vipekkhati.

 
1340. “Người sáng suốt không nên ngước nh́n không đúng lúc, và nên ngước nh́n đúng lúc, tựa như Pūtimaṃsa, là kẻ ngước nh́n không đúng lúc, lại c̣n than phiền.”

4. Người nào khôn khéo đúng thời cơ
Biết nhắm mắt và mở mắt to,
Ai mở mắt nh́n không đúng lúc
Như Pù-ti nọ, phải buồn lo!

1341. Piyaṃ kho āḷi me hotu puṇṇapattaṃ dadāhi me,
pati saṃjīvito mayhaṃ eyyāsi piyapucchikā.

 
1341. “Này cô bạn, sự yêu quư hăy dành cho tôi. Bạn hăy ban cho tôi tặng phẩm. Chồng của tôi đă được hồi sinh. Bạn hăy đến, này người thăm hỏi yêu quư.”

5. T́nh bạn, trước đây hăy phục hồi,
Xin đem bát cháo đến nhà tôi,
Chồng tôi tưởng chết nay hồi tỉnh,
Hăy viếng chàng, thăm hỏi thật vui.

1342. Piyaṃ kho āḷi te hotu puṇṇapattaṃ dadāmi te,
mahatā parivārena essaṃ kayirāhi bhojanaṃ.

 
1342. “Này cô bạn, sự yêu quư hăy dành cho bạn. Tôi sẽ ban cho bạn tặng phẩm. Tôi sẽ đến cùng với đoàn tùy tùy đông đảo. Bạn cần phải làm thức ăn.”

6. T́nh bạn cũ, nay muốn phục hồi
Ta đem bát cháo, dạ mừng vui
Với đoàn hộ tống ta đi đến
Ăn tiệc tưng bừng, nhanh bước thôi.

1343. Kīdiso tuyhaṃ parivāro yesaṃ kāhāmi bhojanaṃ,
kiṃnāmakā ca te sabbe taṃ me akkhāhi pucchitā.

 

1343. “Đoàn tùy tùy của bạn là những loại nào để tôi sẽ làm thức ăn cho họ? Và tất cả bọn họ có tên gọi là ǵ? Được hỏi, xin bạn hăy giải thích điều ấy cho tôi.”

7. Những ai hộ tống bạn bên ḿnh
Để đăi bạn, tôi phải nhiệt t́nh,
Danh tánh những ai thăm hỏi đó,
Xin cho tôi biết thật chân thành.

1344. Māliyo caturakkho ca piṅgalo atha jambuko,
ediso mayhaṃ parivāro tesaṃ kayirāhi bhojanaṃ.

 

1344. “Là bốn giống chó tên Māliya, Caturakkha, và Piṅgala, rồi Jambuka, đoàn tùy tùy của tôi là như thế ấy, bạn cần phải làm thức ăn cho họ.”

8. Chó săn nâu xám, bốn mắt lồi,
H́nh quỷ Jam-buk, hộ tống tôi,
Thôi hăy về nhà, mau sửa soạn
Dồi dào yến tiệc để chào mời.

1345. Nikkhantāya agārasmā bhaṇḍakampi vinassati,
ārogyaṃ āḷino vajjaṃ idheva vasa māgamā ”ti.


11. Pūtimaṃsajātakaṃ.

 

1345. “Trong lúc bạn rời khỏi nhà, đồ đạc cũng bị mất mát. Tôi sẽ nói cho chồng về sự khỏe mạnh của bạn. Bạn hăy sống ngay tại đây, chớ đi đến.”


11. Bổn sanh Chó Rừng Pūtimaṃsa.
 

9. Đừng rời nhà bạn, kẻo ta e
Đồ đạc sẽ nhanh chóng mất đi.
Ta sẽ đem lời dê nhắn gửi,
Đứng yên! Đừng nói nữa, ta về!

Câu chuyện 437

1346. Yo te puttake akhādi dinnabhatto adūsake,
tasmiṃ dāṭhaṃ nipātehi mā te muñcittha jīvato.

 

1346. “Kẻ nào đă ăn thịt hai đứa con nhỏ vô tội của ngươi, mặc dầu đă được ngươi ban cho bữa ăn, ngươi hăy cắm sâu răng nanh vào kẻ ấy. Chớ để mạng sống của kẻ ấy được thoát khỏi nanh vuốt của ngươi.”

1. Nó đă ăn tươi bọn trẻ thơ
Dù con cho nó thật nhiều quà
Răng con hăy cắn sâu vào cổ
Đứng để ác nhân trốn thoát ra

1347. Ākiṇṇaḷuddo puriso dhāticelaṃva makkhito,
padesaṃ taṃ na passāmi yattha dāṭhaṃ nipātaye.
 

1347. “Gă đàn ông là kẻ sát nhân tàn nhẫn, bị lem luốc, tựa mảnh khăn của người vú em. Tôi không nh́n thấy phần cơ thể nào của gă mà tôi có thể cắm sâu răng nanh vào.

 

2. Thâm tâm của nó tạo bùn nhơ
Chẳng khác áo người giữ trẻ thơ
Tôi e toàn thể thân ḿnh nó
Chống đỡ răng tôi mạnh lắm mà!

Trang 346:

 

Trang 347:

 

1348. Akataññussa posassa niccaṃ vivaradassino,
sabbaṃ ce paṭhaviṃ dajjā neva naṃ abhirādhaye.

 

1348. Đối với con người không biết ơn nghĩa, thường xuyên soi mói lỗi lầm, dầu ban cho toàn thể trái đất, cũng không bao giờ làm kẻ ấy vừa ḷng.”

 

3. Lỗi lầm kẻ hạ liệt vong ân
Đều thấy khắp nơi rơ ràng,
Tâm nó chẳng bao giờ thỏa măn
Với bao tặng vật của trần gian

1349. Kinnu subāhu taramānarūpo
pacchāgatosi saha māṇavena,
kiṃ kiccamatthaṃ idhamatthi tuyhaṃ
akkhāhi me pucchito etamatthaṃ.

 
1349. “Này bạn Cọp Subāhu, tại sao bạn có vẻ vội vă quay trở lại cùng với người thanh niên? Có công việc ǵ, mục đích ǵ ở nơi này cho bạn? Được tôi hỏi, xin bạn hăy giải thích về mục đích ấy.”

 

4. Đi đâu vội vă thế Su-bà,
Sao kéo chàng trai trẻ thế ư?
Có việc ǵ cần, đây muốn biết,
Nói mau thành thật chớ chần chừ?

1350. Yo te sakhā daddadaro sādhurūpo
tassa vadhaṃ parisaṅkāmi ajja,
purisassa kammāyatanāni sutvā
nāhaṃ sukhiṃ daddaraṃ ajja maññe.

 
1350. “Hôm nay, tôi hoài nghi về cái chết của bạn gà gô, bạn ấy có vóc dáng tốt đẹp và là thân hữu của bạn. Sau khi nghe được các phạm vi hoạt động của con người, tôi nghĩ rằng hôm nay bạn gà gô không có được sự an lành.”

 

5. Bạn quư Gà gô của chúng ta
Hôm nay, tôi đoán, hóa thành ma
Chuyện xưa kẻ ấy làm tôi sợ
Nghe được hung tin của bạn Gà.

1351. Kānissa kammāyatanāni assu
purisassa vuttisamodhānatāya,
kaṃ vā paṭiññaṃ purisassa sutvā
parisaṅkasi daddaraṃ māṇavena.

 
1351. “Bạn đă nh́n thấy các phạm vi hoạt động ǵ của gă này có liên quan đến tính chất chung về hành vi của con người? Hoặc sau khi nghe được điều thú nhận ǵ của con người khiến bạn hoài nghi gà gô đă bị giết chết bởi gă thanh niên?”

 

6. Chuyện xưa của kẻ ấy ra sao,
Tội lỗi ǵ y thú nhận mau
Đă khiến Cọp nghi ngờ đại họa
Xảy ra cho bạn quư ta nào?

1352. Ciṇṇā kaliṅgā caritā vaṇijjā
vettācaro saṅkupathopi ciṇṇo,
naṭehi ciṇṇaṃ saha vākurehi
daṇḍena yuddhampi samajjamajjhe.

 
1352. “Gă đă đi lại ở xứ sở Kaliṅga, đă hành nghề buôn bán. Với cây gậy chống, gă đă đi lại ở con đường gồ ghề khó đi. Gă đă du hành cùng với những người nhảy múa và những người ca hát. Gă cũng đă tham gia cuộc chiến đấu bằng gậy gộc ở giữa các lễ hội.  

7. Trong nước Kà-ling nó bán rong
Đi đường lởm chởm, gậy tay cầm,
Ở cùng bọn đánh đu nhào lộn,
Đánh bẫy bao súc vật buộc chùm,
Nó cũng thường chơi tṛ súc sắc,
Lưới giăng bắt sống lũ chim muông,
Đánh nhau từng đám dùng đao trượng,
Nó kiếm lời nhờ việc đếm đong.

1353. Baddhākulikā mitamāḷhakena
akkhā jitā saṃyamo abbhatīto,
appahitaṃ pupphakaṃ aḍḍharattaṃ
hatthā daḍḍhā piṇḍapaṭiggahena.

 
1353. Gă đă đánh bắt những con chim, đă làm việc cân đong thóc gạo, đă thắng tṛ chơi xúc xắc, đă vi phạm sự thu thúc về giới, đă ngăn lại ḍng máu chảy lúc nửa đêm, hai bàn tay gă đă bị phỏng v́ chứa đựng thức ăn.  

8. Phản bội lời thề, đánh nữa khuya,
Bị thương, nó chảy máu dầm dề;
Bàn tay nó cháy v́ gan góc,
Chụp lấy thức ăn nóng vụng về

1354. Tānissa kammāyanatāni assuṃ
purisassa vuttisamodhānatāya,
yathā ayaṃ dissati lomapiṇḍo
gāvo hatā kiṃ pana daddarassā ”ti.


12. Tittirajātakaṃ.

 

1354. Tôi đă nh́n thấy các phạm vi hoạt động ấy của gă này có liên quan đến tính chất chung về hành vi của con người. Giống như mảnh lông này được nh́n thấy và hai con ḅ đă bị giết, vậy th́ c̣n việc ǵ với bạn gà gô nữa?”


12. Bổn sanh Con Gà Gô.
 

Nghe nó sống đời tồi tệ vậy,
Đó là tội ác chất đầu kia.

9. V́ ta đều biết con ḅ chết,
Giữa tóc người kia mấy sợi lông
Xuất hiện, nên tôi đầy khủng khiếp
Lo Gà gô bạn ắt vong thân.

Câu chuyện 438

TASSUDDĀNAṂ

Varagijjha samajjanaṃ haṃsavaro
nidhisavhaya hārita pāṭaliko,
ajarāmara dhaṃka titikkhakuto
atha dvādasa pekkhana daddarī ”ti.

Navakanipāto niṭṭhito.

--ooOoo--
 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

Chim kên kên cao quư, người người như nhau, chuyện chim thiên nga,
được gọi là của cải chôn giấu, ẩn sĩ Hārita, vị thuyết giảng Pāṭala,
sự không già không chết, chim quạ, sự chịu đựng, từ đâu (đi đến),
rồi sự ngước nh́n, và con gà gô là mười hai.

Nhóm Chín Kệ Ngôn được chấm dứt.

--ooOoo--

<Trang trước>

<Trang Kế>

 

<Mục Lục Jātakapāḷi - Bổn Sanh tập I>

<Đầu Trang>