XI.
EKĀDASAKANIPĀTO - NHÓM MƯỜI MỘT KỆ NGÔN
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 388:
|
Trang 389:
|
1532. Tassa nāgassa vippavāsena
virūḷhā sallakī ca kuṭajā ca,
kuruvindakaravarā bhisasāmā
nivāte pupphitā ca kaṇikārā.
|
1532. “Do sự vắng mặt của con voi
ấy, các loại cây sallakī, kuṭajā, kuruvinda,
trúc đào, và các cây thuộc họ sen súng được phát triển, c̣n các
cây kaṇikāra ở nơi khuất gió
được trổ hoa. |
1. Dù cho Voi chúa phải đi xa,
Dược thảo, nhũ hương vẫn mọc ra,
Lúa cỏ, trúc đào, cùng súng trắng,
Kén xanh chỗ khuất vẫn đơm hoa. |
1533. Kocideva suvaṇṇakāyūrā
nāgarājaṃ bharanti piṇḍena,
yattha rājā rājakumāro vā
kavacamabhihessati asambhīto.
|
1533. Ở một nơi nào đó, những
người đeo ṿng vàng ở bắp tay chu cấp miếng ăn cho con voi chúa.
Các vị vua hoặc các vị hoàng tử ngồi ở lưng voi sẽ không bị kinh
sợ và sẽ đánh tan đoàn quân có áo giáp.” |
2. Tượng vương hẳn đến tận
phương nao
Sung túc nhờ bao kẻ tước cao,
Trang điểm ngọc vàng, vua chúa cỡi,
Oai hùng thắng địch thủ mang bào. |
1534. Gaṇhāhi nāga kabaḷaṃ mā
nāga kisako bhava,
bahūni rājakiccāni yāni nāga karissasi.
|
1534. “Này voi, hăy nhận lấy nắm
thức ăn. Này voi, chớ để gầy ốm. Này voi, có nhiều phận sự đối
với đức vua mà ngươi sẽ phải làm.” |
3. Nào ăn đi một miếng, Voi này,
Đừng có buồn chi, chớ héo gầy,
Để phụng sự vua, c̣n lắm việc
Mà Voi sẽ đảm trách sau này. |
1535. Sā nūna sā kapaṇikā andhā
aparināyikā,
khāṇuṃ pādena ghaṭṭeti giriṃ caṇḍoraṇaṃpati.
|
1535. “Bà ấy, quả thật là một bà
lăo đáng thương, mù ḷa, không sáng suốt, thường cọ bàn chân vào
gốc cây
ở khu vực
đối diện với núi Caṇḍoraṇa.” |
4. Không, trên đỉnh núi
Chiên-đồ-gia,
Khốn khổ bà kia, mắt lại ḷa,
Dậm một chân vào gốc cổ thụ
V́ không Voi chúa, ấy con bà. |
1536. Kā nu te sā mahānāga andhā
aparināyikā,
khāṇuṃ pādena ghaṭṭeti giriṃ caṇḍoraṇaṃpati.
|
1536. “Này voi chúa, bà lăo mù
ḷa, không sáng suốt, thường cọ bàn chân vào gốc cây
ở khu vực
đối diện với núi Caṇḍoraṇa, bà ấy là ǵ đối với ngươi?” |
5. Ai ở trên đồi Chiên-đồ-gia,
Nào ai khốn khổ, lại mù ḷa?
Dậm chân vào một gốc cây nọ,
V́ chẳng chúa Voi, con của bà? |
1537. Mātā me sā mahārāja andhā
aparināyikā,
khāṇuṃ pādena ghaṭṭeti giriṃ caṇḍoraṇaṃpati.
|
1537. “Tâu đại vương, bà lăo mù
ḷa, không sáng suốt, thường cọ bàn chân vào gốc cây
ở khu vực
đối diện với núi Caṇḍoraṇa, bà ấy là mẹ của thần.” |
6. Mẹ ta ở trên núi Chiên-đồ gia,
Khốn khổ mù ḷa thật xót xa,
Dậm một chân vào gốc cổ thụ,
Bởi v́ Voi chúa ấy là ta. |
1538. Muñcathetaṃ mahānāgaṃ yo
’yaṃ bharati mātaraṃ,
sametu mātarā nāgo saha sabbehi ñātihi.
|
1538. “Hăy thả con voi chúa này,
nó phải nuôi dưỡng mẹ. Hăy để cho con voi hội họp với mẹ cùng
tất cả thân quyến.” |
7. Voi hùng phụng dưỡng mẫu thân
ḿnh,
Nên thả tự do, cứ mặc t́nh,
Thôi để Voi đi về với mẹ
Và cùng sum họp với gia đ́nh. |
1539. Mutto ca bandhanā nāgo
kāsirājena pesito,
muhuttaṃ vissamitvāna agamā yena pabbato.
|
1539. “Và con voi đă được thoát
khỏi sự trói buộc, đă được đức vua xứ Kāsi phóng thích. Sau khi
phục hồi sức lực, nó đă nhanh chóng đi đến ngọn núi. |
8. Khỏi cảnh giam cầm được thoát
thân,
Hết dây ràng buộc, chúa Voi rừng,
Vài lời khuyên nhủ cùng vua ấy,
Voi lại trở về chốn núi ngàn. |
1540. Tato so naliniṃ gantvā
sītaṃ kuñjarasevitaṃ,
soṇḍāya udakamāhatvā mātaraṃ abhisiñcatha.
|
1540. Sau đó, nó đă đi đến hồ
nước mát lạnh, nơi các con voi thường lai văng. Nó đă dùng ṿi
mang nước lại rồi rưới lên con voi mẹ.” |
9. Rồi xuống hồ kia mát lạnh
trong,
Nơi này Voi vẫn tới bao lần,
Dùng ṿi hút nước từ hồ ấy
Tung vẫy khắp ḿnh của mẫu thân. |
1541. Koyaṃ anariyo devo
akālenapi vassati,
gato me atrajo putto yo mayhaṃ paricārako.
|
1541. “Vị Trời không cao thượng
này là vị nào mà lại đổ mưa sái mùa? Đứa con trai ruột của tôi,
người phục vụ cho tôi đă ra đi.” |
10. Ai đó đem mưa thật trái thời,
Thần nào độc ác quá, trời ơi!
V́ nay con trẻ đà đi vắng,
Con trẻ xưa thường phụng dưỡng tôi. |
1542. Uṭṭhehi amma kiṃ sesi āgato
tyāhamatrajo,
muttomhi kāsirājena vedehena yasassinā.
|
1542. “Mẹ ơi, hăy đứng dậy. Việc
ǵ mẹ lại nằm? Con là con trai của mẹ đă về đến. Con được thả ra
nhờ vào đức vua xứ Kāsi có danh tiếng tên Veheha.” |
11. Sao măi nằm kia vậy, mẹ ơi!
Này đây con mẹ đă về rồi,
Ca-thi Đại đế, ngài Thông tuệ,
Cho trẻ b́nh an được tái hồi. |
1543. Ciraṃ jīvatu so rājā
kāsīnaṃ raṭṭhavaddhano,
yo me puttaṃ amocesi sadā vuddhāpacāyikan ”ti.
1. Mātuposakajātakaṃ.
|
1543. “Cầu cho đức vua ấy sống
lâu với việc phát triển vương quốc Kāsi. Ngài đă phóng thích đứa
con trai của ta, đứa con trai luôn luôn có sự tôn kính bậc
trưởng thượng.”
1. Bổn sanh Người Phụng Dưỡng Mẹ.
|
12. Vạn tuế trường tồn, đấng
Đại vương!
Cầu ngài đem lại nước hùng cường,
Tự do ngài trả cho con đó,
Với mẹ, con tṛn vẹn kính thương!
Câu chuyện
455 |
Trang 390: |
Trang 391:
|
1544. Suṇohi mayhaṃ vacanaṃ
janinda
atthena juṇhamhi idhānupatto,
na brāhmaṇe addhike tiṭṭhamāne
gantabbamāhu dipadāna seṭṭha.
|
1544. “Tâu vị chúa của loài
người, xin bệ hạ hăy lắng nghe lời nói của tôi. Tôi đă t́m đến
nơi này với mục đích gặp Juṇha. Tâu vị đứng đầu của loài hai
chân, người đời đă nói rằng: ‘Khi vị Bà-la-môn là người đi đường
xa đang đứng ở bên đường, th́ không nên bỏ đi.’” |
1. Tâu Đại vương, nghe lăo nói
điều này
Chẳng phải là vô cớ lăo về đây,
Đời thường bảo: Ḿnh không nên vượt quá
Người du sĩ đứng ngay trên đường sá. |
1545. Suṇomi tiṭṭhāmi vadehi
brahme
yenāsi atthena idhānupatto,
kaṃ vā tvamatthaṃ mayi patthayāno
idhāgamā brahme tadiṅgha brūhi.
|
1545. “Này Bà-la-môn, trẫm nghe,
và trẫm đứng lại, vậy ngài hăy nói. V́ mục đích ǵ mà ngài đă
t́m đến nơi này? Hoặc trong khi ước nguyện điều ǵ ở trẫm, mà
ngài đă đi đến nơi đây? Này Bà-la-môn, ngài hăy nói ra điều ấy
đi.” |
2. Ta đứng nghe, này Đạo sĩ
nói ngay,
Cớ sao ngài cất bước đến nơi đây?
Ngài ao ước một đặc ân nào đó,
Mà phải t́m, xin nói cho ta rơ. |
1546. Dadāhi me gāmavarāni pañca
dāsīsataṃ sattagavaṃ satāni,
parosahassañca suvaṇṇanikkhe
bhariyā ca me sādisī dve dadāhi.
|
1546. “Xin bệ hạ hăy ban cho tôi
năm ngôi làng hạng nhất, một trăm nữ tỳ, bảy trăm con ḅ cái, và
hơn một ngàn đồng tiền vàng. Và xin bệ hạ hăy ban cho tôi hai
người vợ tương đương về ḍng tộc.” |
3. Xin cho lăo năm ngôi làng
thượng hạng,
Bảy trăm ḅ, tỳ nữ một trăm nàng,
Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
Hai người vợ với ta cùng ḍng dơi. |
1547. Tapo nu te brāhmaṇa
bhiṃsarūpo
mantā nu te brāhmaṇa cittarūpā,
yakkhā ca te assavā santi keci
atthaṃ vā me abhijānāsi kattaṃ.
|
1547. “Này Bà-la-môn, phải chăng
sự khắc khổ của ngài có h́nh thức khủng khiếp? Này Bà-la-môn,
phải chăng chú thuật của ngài có h́nh thức đa dạng? Và có nhiều
Dạ-xoa trung thành với ngài? Hay ngài biết
chắc
điều lợi ích ǵ
đă được làm cho trẫm?” |
4. Đạo sĩ ơi, ngài có điều sám
hối
Thật hăi hùng khi phải thổ lộ ra,
Ngài có nhiều thần chú hoặc đạo bùa,
Hay ma quỷ sẵn sàng tuân mệnh lệnh?
Hoặc thỉnh cầu v́ hầu ta chân chính? |
1548. Na me tapo atthi na cāpi
mantā
yakkhāpi me assavā natthi keci,
atthampi te nābhijānāmi kattaṃ
pubbe ca kho saṅgatimattamāsi.
|
1548. “Không có sự khắc khổ đối
với tôi, và cũng không có chú thuật. Luôn cả các Dạ-xoa trung
thành với tôi cũng không có . Tôi không biết
chắc
điều lợi ích
ǵ đă được làm cho bệ hạ. Nhưng trước đây, bệ hạ đă có dịp gặp gỡ
với tôi.” |
5. Không ăn năn, chẳng thần
chú, đạo bùa,
Không quỷ ma nào tuân lệnh của ta,
Không đ̣i thưởng v́ công lao giúp đỡ,
Song trước kia chúng ta đà gặp gỡ,
Đây chính là sự thật phải tŕnh ra. |
1549. Paṭhamaṃ imaṃ dassanaṃ
jānato me
na tābhijānāmi ito puratthā,
akkhāhi me pucchito etamatthaṃ
kadā kuhiṃ vā ahu saṅgamo no.
|
1549. “Theo như trẫm biết th́ lần
gặp này là lần đầu tiên. Trẫm không biết chắc đă có lần gặp
trước đây. Được trẫm hỏi, xin ngài hăy nói về việc ấy. Sự gặp gỡ
của chúng ta đă xảy ra khi nào, hay ở đâu?” |
6. Trẫm không sao nhớ nổi,
thời gian qua,
Rằng trẫm đă tương phùng ngài thuở nọ,
Trẫm van ngài nói điều này cho rơ
Khi gặp nhau, nơi chốn, thuở xưa xa? |
1550. Gandhārarājassa puramhi
ramme
avasimhase takkasilāya deva,
tatthandhakāramhi timissikāyaṃ
aṃsena aṃsaṃ samaghaṭṭayimha.
|
1550. “Tâu bệ hạ, chúng ta đă
sống ở Takkasilā, thành phố đáng yêu của đức vua Gandhāra. Tại
nơi ấy, trong bóng tối dày đặc vào ban đêm, chúng ta đă va chạm
nhau, vai sát vai. |
7. Trong thành đô mỹ lệ chúa
Gan-dhà,
Tâu Chúa thượng, Tak-ka là chốn ở,
Đêm tối đen như mực kia, tại đó
Lăo và ngài cùng vụt tới chạm vai, |
1551. Te tattha ṭhatvāna ubho
janinda
sārāṇiyaṃ vītisārimha tattha,
sāyeva no saṃgatimattamāsi
tato na pacchā na pure ahosi.
|
1551. Tâu vị chúa của loài người,
cả hai chúng ta đă đứng tại nơi ấy. Chúng ta đă trao đổi lời
giao hẹn với nhau tại nơi ấy. Chính lúc ấy đă là dịp gặp gỡ của
chúng ta, không có lần nào khác sau đó, trước đó cũng đă không
có."
|
8. Khi chúng ta đang đứng đó,
thưa ngài,
Cuộc tṛ chuyện bắt đầu đầy thân thiện,
Chỉ lần đó chúng ta cùng diện kiến,
Trước chẳng hề và sau đó cũng không. |
Trang 392:
|
Trang 393:
|
1552. Yadā kadāci manujesu brahme
samāgamo sappurisena hoti,
na paṇḍitā saṅgatisanthavāni
pubbe kataṃ vāpi vināsayanti.
|
1552. “Này Bà-la-môn, ở giữa loài
người, vào bất cứ lúc nào, có được sự gặp gỡ với bậc thiện nhân,
các vị sáng suốt không phủ nhận sự gặp gỡ (phút chốc) hay sự
thân thiết (lâu dài), hoặc luôn cả việc ân nghĩa trước đây.
|
9. Khi trí nhân đă gặp, hỡi
La-môn,
Thiện nhân giữa đời không nên để mặc
T́nh bạn xưa nay cố nhân đi khuất,
Chẳng v́ đâu, làm việc cũ chẳng quên! |
1553. Bālā ca kho
saṅgatisanthavāni
pubbe kataṃ vāpi vināsayanti,
bahumpi bālesu kataṃ vinassati
tathā hi bālā akataññurūpā.
|
1553. C̣n những kẻ ngu phủ nhận
sự gặp gỡ (phút chốc) hay sự thân thiết (lâu dài), hoặc luôn cả
việc ân nghĩa trước đây. Thậm chí nhiều việc đă được làm cho
những kẻ ngu vẫn bị quên lăng, bởi v́ những kẻ ngu có bản chất
vô ơn như thế ấy. |
10. Chính kẻ ngu chối bỏ việc
xưa liền.
Và bỏ mặc t́nh người xưa chẳng nhớ
Những người ấy chúng có lần gặp gỡ;
Người ngu làm nhiều việc chẳng ra ǵ,
Chúng vong ân và chúng cứ quên đi. |
1554. Dhīrā ca kho
saṅgatisanthavāni
pubbe kataṃ vāpi na nāsayanti,
appampi dhīresu kataṃ na nassati
tathā hi dhīrā sukataññurūpā.
|
1554. Và những người sáng trí
không phủ nhận sự gặp gỡ (phút chốc) hay sự thân thiết (lâu
dài), hoặc luôn cả việc ân nghĩa trước đây. Dầu ít việc đă được
làm cho những người sáng trí cũng không bị quên lăng, bởi v́
những người sáng trí có bản chất nhớ ơn tốt đẹp như thế ấy.
|
11. Song chánh nhân chẳng hề
quên quá khứ,
T́nh bằng hữu, người quen, luôn gắn bó,
Việc nhỏ nhoi do bằng hữu làm nên
Cũng chẳng hề bị từ chối, lăng quên,
Chánh nhân tận cuối đời ghi ơn bạn. |
1555. Dadāmi te gāmavarāni pañca
dāsīsataṃ sattagavaṃ satāni,
parosahassañca suvaṇṇanikkhe
bhariyā ca te sādisī dve dadāmi.
|
1555. Trẫm ban cho ngài năm ngôi
làng hạng nhất, một trăm nữ tỳ, bảy trăm con ḅ cái, và hơn một
ngàn đồng tiền vàng. Trẫm ban cho ngài hai người vợ tương đương
về ḍng tộc.” |
12. Trẫm ban cố nhân năm làng
thượng hạng,
Bảy trăm ḅ, nữ tỳ một trăm nàng,
Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
Hai người vợ, với ngài cùng đẳng cấp. |
1556. Evaṃ sataṃ hoti samecca
rāja
nakkhattarājāriva tārakānaṃ,
āpūratī kāsipatī yathā ahaṃ
tayā hi me saṅgamo ajja laddho ”ti.
2. Juṇhajātakaṃ.
|
1556. “Tâu bệ hạ, sau khi đi đến
gặp gỡ những người tốt là như vậy. Tựa như mặt trăng, đức vua
của các v́ sao, được tṛn đầy, tâu vị chúa tể của xứ Kāsi, tương
tự như thế tôi được đầy đủ, bởi v́ hôm nay cuộc gặp gỡ giữa tôi
với bệ hạ đă được đạt đến.”
2. Bổn sanh Hoàng Tử Juṇha.
|
13. Đại vương ôi, khi thiện
nhân ḥa hợp,
Như trăng rằm ta thấy giữa sao trời,
Như ta đây cũng vậy, Chúa công ôi,
V́ ngài đă giữ lời xưa giao ước.
Câu chuyện
456 |
1557. Yasokaro puññakarohamasmi
sadatthuto samaṇabrāhmaṇānaṃ,
maggāraho devamanussapūjito
dhammo ahaṃ dehi adhamma maggaṃ.
|
1557. “Ta là người tạo ra danh
tiếng, là người làm việc phước thiện, luôn được các vị Sa-môn và
Bà-la-môn khen ngợi. Được chư Thiên và nhân loại tôn vinh, ta
xứng đáng với con đường. Này Adhamma (Phi Pháp), ta là Dhamma
(Chánh Pháp); ngươi hăy nhường đường.”
|
1. Ta hành chánh hạnh ở trần
gian,
Danh tiếng người đời được tặng ban,
Đạo sĩ, hiền nhân, khen ngợi măi,
Phần ta, đường Chánh, được tôn sùng,
Đường ta là đó, ta chân chánh,
Tà pháp, vậy ngài hăy tránh đường. |
1558. Adhammayānaṃ daḷhamāruhitvā
asantasanto balavāhamasmi,
sa kissa hetumhi tavajja dajjaṃ
maggaṃ ahaṃ dhamma adinnapubbaṃ.
|
1558. “Sau khi đă leo lên chiếc
xe tà pháp vững chăi, ta có sức mạnh, không run sợ. Này Dhamma
(Chánh Pháp), v́ nguyên nhân ǵ mà hôm nay, ta đây phải nhường
cho ngươi con đường trước đây chưa được nhường cho ai?” |
2-Trong chiếc hùng xa của pháp
Tà,
Ngự trên ngôi báu ấy là ta,
Đại hùng không kẻ làm kinh hăi,
V́ vậy ta không tự trước giờ
Nhường chỗ, sao nay đành nhượng bộ
Để cho Chánh pháp vượt xe qua? |
1559. Dhammo have pāturahosi
pubbe
pacchā adhammo udapādi loke,
jeṭṭho ca seṭṭho ca sanantano ca
uyyāhi jeṭṭhassa kaniṭṭha maggā.
|
1559. “Thật vậy, chánh pháp đă
xuất hiện trước, rồi sau đó phi pháp mới sanh khởi ở thế gian.
Ta là đàn anh, lớn hơn, và già hơn. Này người trẻ tuổi, hăy đi
ra khỏi con đường dành cho người lớn tuổi.”.
|
3. Chánh pháp đă bày tỏ trước
tiên,
Là Thần ưu thắng, bậc cao niên,
Tà pháp trẻ hơn v́ đẻ muộn,
Hậu sinh nhường bước, lệnh bề trên! |
Trang 394: |
Trang 395: |
1560. Na yācanāya napi pāṭirūpā
na arahati tehaṃ dadeyya maggaṃ,
yuddhañca no hotu ubhinnamajja
yuddhasmi yo jessati tassa maggo.
|
1560. “Không phải do cầu xin,
cũng không phải do việc hợp lư lẽ, không phải ở sự xứng đáng mà
ta có thể nhường đường cho ngươi. Hôm nay, hăy có trận đấu giữa
hai chúng ta. Ai sẽ chiến thắng ở trận đấu th́ con đường sẽ
thuộc về người ấy.” |
4. Dù ngài đức độ hoặc cầu
xin,
Hoặc nếu công b́nh lẽ tự nhiên,
Ta quyết cũng không hề nhượng bộ,
Hôm nay ta dự đấu tranh liền,
Bất kỳ ai hễ giành ưu thắng,
Vị ấy được nhường chỗ trước tiên. |
1561. Sabbā disā anuvisaṭohamasmi
mahabbalo amitayaso atullo
guṇehi sabbehi upetarūpo
dhammo adhamma tvaṃ kathaṃ vijessasi.
|
1561. “Ta là Dhamma (Chánh Pháp)
được nổi tiếng ở tất cả các phương, có sức mạnh vĩ đại, có danh
tiếng không thể đo lường, không người sánh bằng, có dáng vóc
thành tựu tất cả các đức tánh. Này Adhamma (Phi Pháp), ngươi sẽ
chiến thắng bằng cách nào?” |
5. Khắp cơi gần xa, ta nổi
danh
Anh hùng vô địch, đại quang vinh,
Trong ta, h́nh thái này mang đủ
Tất cả công năng kết hợp thành,
Tà pháp này, ta là Chánh pháp,
Làm sao ngài chiến thắng phần ḿnh? |
1562. Lohena ve haññati jātarūpaṃ
na jātarūpena hananti lohaṃ,
sace adhammo haññati dhammamajja
ayo suvaṇṇaṃ viya dassaneyyaṃ.
|
1562. “Thật ra, vàng bị đập nện
bởi (búa) đồng thau, và người ta không đập nện đồng thau bằng
(búa) vàng. Nếu hôm nay Adhamma (Phi Pháp) sẽ tiêu diệt Dhamma
(Chánh Pháp), th́ sắt có thể được xem như là vàng vậy.” |
6. Nhờ sắt, mà vàng được đập
ra,
Lấy vàng đập sắt, thấy bao giờ?
Nếu Tà đánh Chánh mà Tà thắng,
Sắt đẹp như vàng chẳng kém thua. |
1563. Sace tuvaṃ yuddhabalo
adhamma
na tuyha vaddhā ca garū ca atthi,
maggaṃ ca te dammi piyāppiyena
vācā duruttānipi te khamāmi.
|
1563. “Này Adhamma (Phi Pháp),
dầu cho ngươi có sức mạnh ở trận đấu, nhưng sự trưởng thượng và
kính trọng vẫn không có cho ngươi, c̣n ta sẽ nhường đường cho
ngươi cho dù thích hay không thích. Dẫu sao, ta cũng tha thứ cho
ngươi về những lời đă nói sái quấy.” |
7. Nếu ngài chiến đấu thật
hùng cường,
Lời nói ngài dẫu chẳng thiện chơn,
Ta sẽ thứ tha lời ác ấy,
Và dù không muốn, phải nhường đường. |
1564. Idañca sutvā vacanaṃ
adhammo
avaṃsiro patito uddhapādo,
yuddhatthiko ce na labhāmi yuddhaṃ
ettāvatā hoti hato adhammo.
|
1564. “Và sau khi nghe lời nói
này, Adhamma (Phi Pháp) đă bị rơi xuống, đầu ở phía dưới, chân ở
phía trên (trong khi than văn rằng): ‘Là người mong muốn trận
đấu, nhưng tôi không có được trận đấu.’ Adhamma (Phi Pháp) bị
chết như thế ấy. |
8. Lời ấy vừa nghe tự cơi cao,
Pháp Tà kia đă ngă lăn nhào,
Kinh hoàng số phận cho Tà pháp,
Dù muốn, ta không đánh trận nào. |
1565. Khantibalo yuddhabalaṃ
vijetvā
hantvā adhammaṃ nihanitva bhummā,
pāyāsi vitto abhiruyha sandanaṃ
maggeneva atibalo saccanikkamo.
|
1565. Vị có sức mạnh của sự nhẫn
nại đă chiến thắng kẻ có sức mạnh ở trận đấu, sau khi đă giết
chết Adhamma (Phi Pháp) và vùi sâu trong ḷng đất, vị có sức
mạnh vượt trội, có sự nỗ lực về hạnh chân thật, đă vui vẻ bước
lên cỗ xe kéo và đă ra đi bằng con đường ấy. |
9. Vậy pháp Tà khiêu chiến bạo
hung,
Bại v́ Đại sĩ lượng khoan dung,
Chết v́ bị nuốt vào ḷng đất,
Bậc Chánh chân an lạc, đại hùng,
Bảo vệ cho ḿnh bằng chánh lư,
Ngự lên xa giá vội đằng vân. |
1566. Mātāpitā samaṇabrāhmaṇā ca
asammānitā yassa sake agāre,
idheva nikkhippa sarīradehaṃ
kāyassa bhedā nirayaṃ vajanti
yathā adhammo patito avaṃsiro.
|
1566. Mẹ và cha, các vị Sa-môn và
Bà-la-môn không được tôn kính ở ngôi ngôi nhà riêng của người
nào, th́ ngay ở nơi này, sau khi rời bỏ cơ thể thân xác, d0 sự
hoại ră của thân, chúng di chuyển đến địa ngục, giống như
Adhamma (Phi Pháp) đă bị rơi xuống, đầu ở phía dưới. |
10. Ở nhà ai chẳng kính song
thân,
Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
Từ đây kẻ ở chốn phàm trần
Thẳng vào địa ngục ngay, nào khác
Tà pháp kia nhào xuống ngă lăn. |
1567. Mātāpitā samaṇabrāhmaṇā ca,
susammānitā yassa sake agāre,
idheva nikkhippa sarīradehaṃ
kāyassa bhedā sugatiṃ vajanti,
yathāpi dhammo abhiruyha sandanan ”ti.
3. Dhammajātakaṃ.
|
1567. Mẹ và cha, các vị Sa-môn và
Bà-la-môn khéo được tôn kính ở ngôi nhà riêng của người nào, th́
ngay ở nơi này, sau khi rời bỏ cơ thể thân xác, d0 sự hoại ră
của thân, chúng di chuyển đến chốn an vui, giống như Dhamma
(Chánh Pháp) đă bước lên cỗ xe kéo.”
3. Bổn sanh Thiên Tử Dhamma.
|
11. Ở nhà ai kính trọng song
thân,
Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
Cơi Thiên thẳng tiến tự phàm trần,
Như ngài Chánh pháp trên xa giá
Đi đến cung trời của thiện nhân.
Câu chuyện
457 |
Trang 396: |
Trang 397: |
1568. Ekā nisinnā sucisaññatūru
pāsādamāruyha aninditaṅgi,
yācāmi taṃ kinnaranettacakkhu
imekarattiṃ ubhayo vasema.
|
1568. “Hỡi nàng có dáng h́nh
không bị chê bai, sau khi đă bước lên ṭa lâu đài, nàng ngồi một
ḿnh, (y phục) tinh khiết, với hai bắp vế được khép lại. Hỡi
nàng có cặp mắt tựa như mắt của loài
nhân điểu, ta cầu xin
nàng, hai chúng ta hăy sống chung một đêm này.” |
1. Dung sắc nàng trong sáng,
vẹn toàn,
Nàng ngồi lầu thượng, dáng cô đơn,
Diễm kiều, trông tựa như Thiên nữ,
Xin được đêm nay ở với nàng. |
1569. Ukkiṇṇantara parikhaṃ
daḷhamaṭṭālakoṭṭhakaṃ,
rakkhitaṃ khaggahatthehi duppavesamidaṃ puraṃ.
|
1569. “Thành này khó xâm nhập, có
hào được đào ở bên trong, có tháp canh và cổng thành vững chắc,
được canh giữ bởi các vệ sĩ gươm cầm ở tay. |
2. Thành này tường bọc, lũy
đào sâu,
Việc đến gần đây khó biết bao,
Trong lúc tháp cao và lũy rộng,
Canh pḥng đoàn kết với cung đao. |
1570. Daharassa yudhino cāpi
āgamo ca na vijjati,
atha kena nu vaṇṇena saṅgamaṃ icchase mayā.
|
1570. Việc đi đến nơi này là
không được phép đối với người trẻ tuổi và luôn cả binh lính. Vậy
bởi lư do ǵ, chàng lại mong mỏi sự gặp gỡ với thiếp?” |
3. Chẳng bầy niên thiếu, bậc
anh hùng
Có thế vào đây được dễ dàng,
Hăy nói, việc ǵ là có sự
Cùng ta gặp gỡ chốn thâm cung? |
1571. Yakkhohamasmi kalyāṇi
āgatosmi tavantikaṃ,
tvaṃ maṃ nandaya bhaddante puṇṇakaṃsaṃ dadāmi te.
|
1571. “Này mỹ nữ, ta là Dạ-xoa.
Ta đă đi đến bên nàng. Này công nương, nàng hăy làm cho ta vui
vẻ. Ta tặng cho nàng chiếc đĩa đầy (vàng).” |
4. Đại quư là Ta, hỡi tố nga,
Với nàng, ta xuất hiện bây giờ,
Ban ta ân huệ nàng, nương tử,
Đây dĩa vàng, xin nhận của ta. |
1572. Devañca yakkhaṃ atha vā
manussaṃ
na patthaye udayamaticcamaññaṃ,
gaccheva tvaṃ yakkha mahānubhāva
mā cassu gantvā punarāvajittha.
|
1572. “Sau khi đức vua Udaya từ
trần, thiếp không mong mỏi người nào khác, dầu là Thiên thần,
Dạ-xoa, hay là loài người. Này vị Dạ-xoa có đại thần lực, ngài
hăy đi ngay, và ngài chớ có ở đây. Sau khi đi rồi, ngài chớ quay
lại nữa.” |
5. Từ thuở Thiện Lai vĩnh biệt
trần,
Ta không đ̣i, dẫu quư hay thần,
Hoặc người ở cạnh, này Thiên tử,
Đừng đến nữa đây, chớ ở gần. |
1573. Yā sā ratī uttamā
kāmabhoginaṃ
ratīsu sattā visamaṃ caranti,
mā taṃ ratiṃ jīyi tuvaṃ sucimhite
dadāmi te rūpiyaṃ kaṃsapūraṃ.
|
1573. “Sự khoái lạc nào là cùng
tột đối với những người hưởng thụ dục lạc, và chúng sanh hành xử
không giống nhau ở các khoái lạc, nàng chớ làm mai một sự khoái
lạc ấy. Hỡi nàng có nụ cười làm vui ḷng, ta tặng cho nàng chiếc
đĩa bạc đầy.” |
6. Cực lạc cùng nhau biết rơ
rành,
Hoàn toàn trọn vẹn giữa đôi t́nh,
Khiến người đời phạm bao điều ác,
Ôi quư nương, nàng chớ vội khinh!
Chén bạc, hăy nh́n, ta kính tặng,
Hỡi nàng, cười mỉm giá khuynh thành. |
1574. Nāriṃ naro nijjhapayaṃ
dhanena
ukkaṃsati yattha karoti chandaṃ,
vipaccaṇīko tava devadhammo
paccakkhato thokatarena esi.
|
1574. “Người nam, trong khi lấy
ḷng người nữ bằng tài sản, th́ ca ngợi về điều nào tạo ra sự
mong muốn ở người nữ; c̣n phương pháp ở chư Thiên của ngài th́
ngược lại, điều rơ ràng là ngài đi đến với của cải ít hơn.” |
7. Nam nhi mong tán tỉnh hồng
quần,
Đem tặng vàng kia cứ măi tăng,
Cho đến khi nàng ch́u thỏa ư,
Nhưng ta xét cách của Thiên thần
Nơi ngài khác hẳn: nay ngài đến,
Tặng vật xem ra cứ giảm dần. |
1575. Āyuñca vaṇṇañca manussaloke
nihīyati manujānaṃ sugatte,
teneva vaṇṇena dhanampi tuyhaṃ
nihīyati jiṇṇatarāsi ajja.
|
1575. “Hỡi cô nàng có cơ thể xinh
xắn, tuổi thọ và sắc đẹp của loài người ở thế giới nhân loại bị
giảm dần. Chính v́ lư do đó, tài sản dành cho nàng cũng bị giảm
dần; hôm nay, nàng già hơn. |
8. Ôi mỹ nhân, xuân sắc tàn
phai,
Hỡi nàng thục nữ giữa trần ai,
Hôm nay nàng phải già hơn trước,
Nên số vàng ta tặng giảm hoài. |
1576. Evaṃ me pekkhamānassa
rājaputti yasassini,
hāyate vata te vaṇṇo ahorattānamaccaye.
|
1576. Hỡi nàng công chúa có danh
tiếng, tương tự như vậy, trong khi tôi nh́n ngắm nàng. Quả thật
sắc đẹp của nàng bị phai tàn, khi các ngày và đêm trôi qua. |
9. Vậy thưa nàng nữ chúa huy
hoàng,
Trước mắt ta đang ngưỡng mộ nàng,
Trong lúc ngày đêm qua thấm thoắt,
Sắc nàng tươi đẹp sẽ phai tàn. |
1577. Iminā ca tvaṃ vayasā
rājaputti sumedhase,
brahmacariyaṃ careyyāsi bhiyyo vaṇṇavatī siyā.
|
1577. Hỡi nàng công chúa thông
minh, với độ tuổi này, nếu nàng có thể thực hành Phạm hành, th́
nàng có thể trở thành người có sắc đẹp hơn nữa.”
|
10. Song hỡi công nương trí
tuyệt trần,
Nếu như nàng thuận ư bằng ḷng,
Giữ ǵn Thánh đạo và thanh tịnh,
Nàng sẽ luôn kiều diễm bội phần. |
Trang 398: |
Trang 399: |
1578. Devā na jīranti yathā
manussā
gattesu tesaṃ valiyo na honti,
pucchāmi taṃ yakkha mahānubhāva
kathannu devāna sarīradeho.
|
1578. “Chư Thiên không trở nên
già giống như loài người. Ở các phần thân thể của họ không có
các nếp nhăn. Thưa vị Dạ-xoa có đại thần lực, thiếp hỏi ngài, cơ
thể thân xác của chư Thiên là như thế nào?” |
11. Chư Thiên chẳng giống các
người trần,
Da chẳng già, không thấy nếp nhăn,
Thiên chúng làm sao không thể xác?
Điều này, Đại quư nói cho cùng. |
1579. Devā na jīranti yathā
manussā
gattesu tesaṃ valiyo na honti,
suve suve bhiyyatarova tesaṃ
dibbo ca vaṇṇo vipulā ca bhogā.
|
1579. “Chư Thiên không trở nên
già giống như loài người. Ở các phần thân thể của họ không có
các nếp nhăn. Sắc đẹp thiên thần và của cải sung túc của họ càng
nhiều hơn thêm nữa theo từng ngày một.” |
12. Thiên chúng không như
người thế gian,
Chẳng già, da chẳng thấy đường nhăn,
Mai đây và măi về sau nữa,
Thiên lạc vô ngần, mỹ sắc tăng. |
1580. Kiṃsūdha bhītā janatā anekā
maggo ca nekāyatanaṃ pavutto,
pucchāmi taṃ yakkha mahānubhāva
kattha ṭhito paralokaṃ na bhāye.
|
1580. “Các hạng người ở nơi này
sợ hăi điều ǵ? Và con đường nào có nhiều nơi chốn nương tựa đă
được nói đến. Thưa vị Dạ-xoa có đại thần lực, thiếp hỏi ngài,
đứng ở nơi nào th́ không sợ hăi thế giới khác?” |
13. Điều ǵ làm khiếp sợ quần
sinh,
Xin hỏi ở đời, đấng hiển linh,
Làm sáng tỏ con đường thiện ấy,
Xin ngài giải thích thật phân minh
Làm sao đi hướng về Thiên giới,
Nơi ấy chẳng c̣n phải hăi kinh. |
1581. Vācaṃ manañca paṇidhāya
sammā
kāyena pāpāni akubbamāno
bavhannapānaṃ gharamāvasanto,
saddho mudū saṃvibhāgī vadaññū
saṅgāhako sakhilo saṇhavāco
ettha ṭhito paralokaṃ na bhāye.
|
1581. “Người nào ǵn giữ lời nói
và ư nghĩ một cách đúng đắn, không làm các việc ác bằng thân,
sống ở ngôi nhà có nhiều cơm ăn và nước uống, là người có niềm
tin, mềm mỏng, có sự san sẻ, rộng lượng, là người hào phóng, nói
năng tử tế, có lời nói mềm mỏng, người (có những đức tính như
thế) đứng ở nơi này th́ không sợ hăi thế giới khác.” |
14. Ai khéo hộ tŕ khẩu, ư,
căn,
Chăng ưa làm ác nghiệp về thân,
Trong nhà ta thấy nhiều lương thực,
Ban phát rộng ḷng, tín chánh chân,
Hào phóng, ngọt ngào, đầy thiện ư,
Sẽ sinh thiên giới chẳng kinh hoàng. |
1582. Anusāsasi maṃ yakkha yathā
mātā yathā pitā,
uḷāravaṇṇa pucchāmi ko nu tvamasi subrahā.
|
1582. “Thưa vị Dạ-xoa, ngài chỉ
dạy thiếp giống như người mẹ, giống như người cha (chỉ dạy con
cái). Hỡi vị có sắc đẹp nổi bật, thiếp xin hỏi ngài. Hỡi bậc vô
cùng cao thượng, ngài là ai?” |
15. Giống như bà mẹ, giống như
cha,
Đại lực thần đang giáo hóa ta,
Hỡi Đại thần oai hùng mỹ diệu,
Ngài là ai đó, nói ngay ra. |
1583. Udayohamasmi kalyāṇi
saṅgaratthā idhāgato,
āmanta kho taṃ gacchāmi muttosmi tava saṅgarā.
|
1583. “Này mỹ nữ, ta là Udaya. Do
đă có lời hứa hẹn nên ta đi đến nơi này. Sau khi đă nói với nàng
th́ ta ra đi. Ta đă tháo gở xong lời hứa hẹn với nàng.” |
16. Ta chính Thiện Lai, hỡi mỹ
nhân,
V́ lời ước hẹn, đến bên nàng,
Giờ đây đă nói, ta từ giă,
Lời hứa ngày xưa hết buộc ràng! |
1584. Sace kho tvaṃ udayosi
saṅgaratthā idhāgato,
anusāsa maṃ rājaputta yathāssu puna saṅgamo.
|
1584. “Nếu ngài quả là Udaya, và
ngài đi đến nơi này do đă có lời hứa hẹn. Thưa Thiên tử, ngài
hăy chỉ dạy thiếp theo cách nào để có được sự gặp gỡ lại nữa.”
|
17. Nếu Đại vương là chúa
Thiện Lai,
Đến đây v́ nguyện ước, không sai,
Th́ xin dạy thiếp, ôi Hoàng thượng,
Để sống cùng nhau măi măi hoài. |
1585. Adhipatati vayo khaṇo
tatheva
ṭhānaṃ natthi dhuvaṃ cavanti sattā,
parijīyati addhuvaṃ sarīraṃ
udaye mā pamādaṃ carassu dhammaṃ.
|
1585. “Cuộc sống thoáng qua giống
y như phút chốc. Không có sự tồn tại bền vững, các chúng sanh
chết đi, cơ thể bị tàn tạ, không trường tồn. Này nàng Udayā,
nàng chớ xao lăng, hăy thực hành thiện pháp. |
18. Thoáng chốc, xuân th́ vụt
quá nhanh,
Đời không bền vững, mọi loài sinh,
Chết rồi, sống lại đời sau nữa,
Thối nát, thân này thật mỏng manh.
Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
Tiến lên, vững bước, giữ tâm thành. |
1586. Kasiṇā paṭhavī dhanassa
pūrā
ekasseva siyā anaññaveyyā,
tañcāpi jahāti avītarāgo
udaye mā pamādaṃ carassu dhammaṃ.
|
1586. Nếu toàn bộ trái đất được
chứa đầy tài sản chỉ thuộc về một người, không phụ thuộc vào
người nào khác, và ngay cả kẻ có tham ái chưa được xa ĺa rồi
cũng phải rời bỏ nó. Này nàng Udayā, nàng chớ xao lăng, hăy thực
hành thiện pháp. |
19. Nếu cả trần gian, mọi bạc
vàng
Thuộc quyền cai trị một anh quân,
Thánh nhân c̣n vượt xa vua ấy
Trong cuộc thi đua giữa cơi trần,
Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
Tín tâm giữ vững, bước lên đàng. |
1587. Mātā ca pitā ca bhātaro ca
bhariyā yāpi dhanena hoti kītā,
te cāpi jahanti aññamaññaṃ
udaye mā pamādaṃ carassu dhammaṃ.
|
1587. Mẹ, cha, và anh em trai,
luôn cả người vợ được mua về bằng tài sản, bọn họ rồi cũng ĺa
bỏ, lần lượt từng người một. Này nàng Udayā, nàng chớ xao lăng,
hăy thực hành thiện pháp.
|
20. Song thân cùng quyến
thuộc, anh em,
Và vợ (có tiền lại kết duyên),
Tất cả đều ra đi lũ lượt,
Kẻ này xa kẻ khác luân phiên,
Vậy đừng sống cuộc đời buông thả,
Giữ tín tâm bền vững, bước lên. |
Trang 400: |
Trang 401:
|
1588. Kāyo parabhojananti ñatvā
saṃsāre sugatī ca duggatī ca,
ittaravāsoti jāniyā
udaye mā pamādaṃ carassu dhammaṃ.
|
1588. Sau khi biết rằng thân này
là bữa ăn cho các chúng sanh khác, nhàn cảnh và khổ cảnh trong
sự luân hồi có cuộc sống ngắn ngủi do sự mất mát, này nàng
Udayā, nàng chớ xao lăng, hăy thực hành thiện pháp.” |
21. Thân kia, hăy nhớ, sẽ làm
thành
Thực phẩm cho nhiều loại chúng sinh,
Hoan lạc cũng như niềm khổ năo
Chỉ là giờ khắc thoáng trôi nhanh,
Đời này nối tiếp đời sau măi,
Vậy chớ buông lung, giữ tín thành. |
1589. Sādhu bhāsatayaṃ yakkho
appaṃ maccāna jīvitaṃ,
kasirañca parittañca tañca dukkhena saṃyutaṃ,
sāhaṃ ekā pabbajissāmi hitvā kāsiṃ surundhanan ”ti.
4. Udayajātakaṃ.
|
1589. “Vị Dạ-xoa này nói khéo
léo. Đời sống của loài người là ít ỏi, khó khăn, và nhỏ nhoi;
điều ấy là gắn liền với khổ đau. Thiếp đây, một ḿnh, sẽ xuất
gia, sau khi từ bỏ xứ sở Kāsi và thành phố Surundhana.”
4. Bổn sanh Đức Vua Udaya.
|
22. Thiên thần này nói ngọt
ngào,
Thế nhân thấy rơ ngắn sao cuộc đời,
Đời buồn, ngắn ngủi thế thôi,
Đi theo đời sống, không rời sầu bi.
Giă từ trần thế, ta đi,
Từ kinh đô xứ Ca-thi lên đàng.
Câu chuyện
458 |
1590. Mitto mittassa pānīyaṃ
adinnaṃ paribhuñjisaṃ,
tena pacchā vijigucchiṃ taṃ pāpaṃ pakataṃ mayā,
mā puna akaraṃ pāpaṃ tasmā pabbajito ahaṃ.
|
1590. “Là bạn bè, mà tôi đă thọ
dụng nước uống của người bạn theo lối trộm cắp; v́ thế, về sau
này tôi đă ghê tởm việc ác ấy do tôi đă gây ra. (Nghĩ rằng:) ‘Ta
chớ có làm việc ác nữa;’ do đó, tôi đă xuất gia.” |
1. Ngụm nước kia là của bạn
ḿnh,
Ta đà uống trộm, dẫu thân t́nh,
Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
Phát nguyện về sau sẽ trở thành
Ẩn sĩ, giă từ đời thế tục,
V́ e tái phạm tội phần ḿnh. |
1591. Paradārañca disvāna chando
me adapajjatha,
tena pacchā vijigucchiṃ taṃ pāpaṃ pakataṃ mayā,
mā puna akaraṃ pāpaṃ tasmā pabbajito ahaṃ.
|
1591. “Sau khi nh́n thấy vợ của
người khác, dục vọng của tôi đă sanh khởi; v́ thế, về sau này
tôi đă ghê tởm việc ác ấy do tôi đă gây ra. (Nghĩ rằng:) ‘Ta chớ
có làm việc ác nữa;’ do đó, tôi đă xuất gia.” |
2. Vợ của người kia, lỡ liếc
nh́n,
Trong ḷng ta dục vọng bừng lên,
Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
Ta quyết về sau tự phát nguyền
Từ giă thế gian làm ẩn sĩ,
V́ e tái phạm lỗi lầm trên. |
1592. Pitaramme mahārāja corā
agaṇhuṃ kānane,
tesāhaṃ pucchito jānaṃ aññathā naṃ viyākariṃ.
|
1592. “Tâu đại vương, bọn cướp ở
trong rừng đă bắt giữ cha của tôi. Tôi đă bị bọn chúng hỏi,
trong khi tôi biết, tôi đă trả lời về cha tôi theo cách khác.
|
3. Trộm cướp trong rừng bắt
phụ thân,
Ta đành nói với bọn kia rằng:
"Người này chẳng phải là thân phụ", |
1593. Tena pacchā vijigucchiṃ taṃ
pāpaṃ pakataṃ mayā,
mā puna akaraṃ pāpaṃ tasmā pabbajito ahaṃ.
|
1593. V́ thế, về sau này tôi đă
ghê tởm việc ác ấy do tôi đă gây ra. (Nghĩ rằng:) ‘Ta chớ có làm
việc ác nữa;’ do đó, tôi đă xuất gia.” |
Ta biết ngay là nói dối gian,
Chán ghét lỗi lầm ta phạm phải,
Về sau ta ước nguyện tu thân.. (như trên) |
1594. Pāṇātipātamakaruṃ somayāge
upaṭṭhite,
tesāhaṃ samanuññāsiṃ tena pacchā vijigucchiṃ,
taṃ pāpaṃ pakataṃ mayā mā puna akaraṃ pāpaṃ,
tasmā pabbajito ahaṃ.
|
1594. “Họ đă gây nên việc giết
hại mạng sống khi cuộc tế lễ Soma đă đến gần. Tôi đă cho phép
họ; v́ thế, về sau này tôi đă ghê tởm việc ác ấy do tôi đă gây
ra. (Nghĩ rằng:) ‘Ta chớ có làm việc ác nữa;’ do đó, tôi đă xuất
gia.” |
4. Người làm tửu hội sát sinh
linh,
Chẳng phải là không thuận ư ḿnh,
Chán ghét lỗi lầm ta đă phạm..
Về sau ta đă phát tâm thành.. (như trên) |
1595. Surāmerayamadhukā ye janā
paṭhamāsu no,
bahunnate anatthāya majjapānamakappayuṃ,
tesāhaṃ samanuññāsiṃ tena pacchā vijigucchiṃ,
taṃ pāpaṃ pakataṃ mayā mā puna akaraṃ pāpaṃ,
tasmā pabbajito ahaṃ.
|
1595. “Những người dân ở trong
làng của chúng tôi trước đây đă cho rằng rượu và chất lên men là
mật ngọt. Bọn họ đă sắp đặt nước uống có chất say không v́ sự
lợi ích cho nhiều người. Tôi đă cho phép họ; v́ thế, về sau này
tôi đă ghê tởm việc ác ấy do tôi đă gây ra. (Nghĩ rằng:) ‘Ta chớ
có làm việc ác nữa;’ do đó, tôi đă xuất gia.” |
5. Cả bọn người kia một thuở
xưa,
Cùng nhau chè chén thật say sưa,
Đánh nhau gây sự nhiều người khổ,
Chẳng phải là không thuận ư ta.
Chán ghét lỗi lầm ta đă phạm,
Về sau ta ước nguyện ly gia,
Giă từ thế tục, làm tu sĩ,
Vị sợ ta c̣n phạm lỗi xưa. |
1596. Dhīratthu subahū kāme
duggandhe bahukaṇṭake,
ye ahaṃ patisevanto na labhiṃ tādisaṃ sukhaṃ.
|
1596. “Thật xấu hổ thay, trong
khi đeo đuổi quá nhiều các dục, với các mùi hương tồi tệ và có
nhiều gai nhọn, trẫm đă không đạt được an lạc như thế ấy.” |
6. Ta quyết ly tham, diệt dục
tham,
Bốn bề vô vị, tựa gai đâm!
Chẳng bao giờ nữa, dù từ trước
Ta đă đi theo chuyện lỗi lầm,
Lạc thú như vầy ta đă gặp,
Đây là lạc thú của tham tâm. |
1597. Mahassādā sukhā kāmā natthi
kāmaparaṃ sukhaṃ,
ye kāme patisevanti saggaṃ te upapajjare.
|
1597. “Các dục là hạnh phúc, có
khoái lạc lớn lao, không có hạnh phúc nào
sánh bằng
dục. Những
người nào đeo đuổi các dục, những người ấy sanh về cơi Trời.”
|
7. Cựu lạc dịu êm thật khó
lường,
Thú nào hơn được thú yêu thương,
Ai theo lạc thú này sau đạt
Hạnh phúc trên cao cơi ngọc đường! |
Trang 402:
|
Trang 403:
|
1598. Appassādā dukhā kāmā natthi
kāmāparaṃ dukhaṃ,
ye kāme patisevanti nirayaṃ te upapajjare.
|
1598. “Các dục là khổ đau, có
khoái lạc ít ỏi, không có khổ đau nào
sánh bằng
dục. Những người
nào đeo đuổi các dục, những người ấy sanh về địa ngục. |
8. Tham dục hôi tanh, thật
đáng nhờm,
Chẳng c̣n khổ năo khốc tàn hơn,
Ai theo ác dục này sau phải
Gặt lấy sầu bị địa ngục môn. |
1599. Asī yathā sunisito
nettiṃsova supāyiko,
sattīva urasī khitto kāmā dukkhatarā tato.
|
1599. Giống như thanh kiếm khéo
được mài sắc cạnh, tựa như cây gươm là vật dễ làm đổ máu, ví như
cây thương đă đâm vào lồng ngực, các dục c̣n khổ đau hơn thế
nữa. |
9. Thèm muốn khát khao măi
chẳng nguôi,
C̣n hơn kiếm sắc khéo tay mài,
Hơn dao đâm suốt vào lồng ngực,
Tham dục càng nên phỉ nhổ hoài. |
1600. Aṅgārānaṃva jalitaṃ kāsuṃ
sādhikaporisaṃ,
phālaṃva divasaṃ tattaṃ kāmā dukkhatarā tato.
|
1600. Tựa như hố than sâu
quá
thân người đă được đốt cháy, tựa như lưỡi cày đă được đốt nóng
trọn ngày, các dục c̣n khổ đau hơn thế nữa. |
10. Hố kia sâu đến cỡ thân
người,
Than củi kia đang cháy đỏ tươi,
Cái lưỡi cày nung ngoài nắng gắt,
Dục tham c̣n độc hại hơn thôi. |
1601. Visaṃ yathā halāhalaṃ
telamukkaṭṭhitaṃ yathā,
tambaloha vilīnaṃva kāmā dukkhatarā tato ”ti.
5. Pānīyajātakaṃ.
|
1601. Giống như thuốc độc cực
mạnh, giống như dầu
đă
được đun sôi, tựa như đồng đỏ
đă
được nung
chảy, các dục c̣n khổ đau hơn thế nữa.”
5. Bổn sanh Nước Uống Được.
|
11. Thuốc độc nào tàn hại tối
đa,
Dầu nào nguy hiểm với thân ta,
Rỉ nào bám chặt đồng hư hoại,
Tham dục c̣n hơn chúng nữa mà.
Câu chuyện
459 |
1602. Mittāmaccaparibbūḷhaṃ ahaṃ
vande rathesabhaṃ,
pabbajissaṃ mahārāja taṃ devo anumaññatu.
|
1602. “Con xin đảnh lễ đấng quân
vương được tháp tùng bởi các thân hữu và các quan đại thần. Tâu
đại vương, con sẽ xuất gia, xin bệ hạ chấp thuận điều ấy.” |
1. Con xin đảnh lễ đấng quân
vương,
Giữa ngự quan, bằng hữu, đại thần,
Hoàng thượng, con mong rời thế tục,
Xin hoàng thượng chẳng chối từ con. |
1603. Sace te ūnaṃ kāmehi ahaṃ
paripūrayāmi te,
yo taṃ hiṃsati vāremi mā pabbaji yudhañjaya.
|
1603. “Nếu có sự thiếu thốn cho
con về các dục, trẫm bổ sung đầy đủ cho con. Người nào hăm hại
con, trẫm ngăn chặn. Này Yudhañjaya, con chớ xuất gia.” |
2. Con có mơ ǵ, hỡi Dũ-vân,
Cha ban tṛn vẹn mọi cầu mong,
Nếu ai làm hại, cha che chở,
Con chớ làm tu sĩ ẩn thân. |
1604. Na catthi ūnaṃ kāmehi
hiṃsitā me na vijjati,
dīpañca kātum icchāmi yaṃ jarā nābhikīrati.
|
1604. “Không có việc thiếu thốn
về các dục đối với con, người hăm hại con không có. Nhưng con
muốn tạo ra ḥn đảo để tuổi già không hoảng loạn.” |
3. Chẳng có ai làm hại đến
con,
Ước mơ con đạt được vuông tṛn,
Song con muốn kiếm nơi an trú,
Mà tuổi già không phá mỏi ṃn. |
1605. Putto vā pitaraṃ yāce pitā
vā puttamorasaṃ,
negamo yācate tāta mā pabbaji yudhañjaya.
|
1605. Người con trai cầu xin
người cha, rồi người cha yêu cầu người con trai ruột rằng: “Con
thương, cư dân trong thành phố cầu xin con rằng: ‘Thưa
Yudhañjaya, xin ngài chớ xuất gia.” |
4. Thái tử tâu vầy với phụ
vương,
Vua cha liền phán bảo cùng con:
"Đừng rời thế tục, này vương tử,
Dân chúng kinh thành thảy khóc thương". |
1606. Mā maṃ tāta nivāresi
pabbajantaṃ rathesabha,
māhaṃ kāmehi sammatto jarāya vasamanvagu.
|
1606. “Cha thương, xin cha chớ
ngăn cản con xuất gia. Tâu quân vương, xin chớ để con bị đắm say
các dục và rơi vào quyền lực của sự già.” |
5. Đại đế, đừng làm trẻ phải
xa,
Cuộc đời không tục lụy phù hoa,
Con e say đắm nhiều tham dục
Sẽ hóa mồi ngon của tuổi già. |
1607. Ahaṃ taṃ tāta yācāmi ahaṃ
putta nivāraye,
cirantaṃ daṭṭhumicchāmi mā pabbaji yudhañjaya.
|
1607. “Con thương, mẹ cầu xin
con. Này con trai, mẹ cản ngăn con. Mẹ muốn nh́n thấy con măi
măi. Này Yudhañjaya, con chớ xuất gia.” |
6. Mẹ van con đó, hỡi con
thân,
Và mẹ mong con phải ở gần,
Mẹ muốn gặp con hoài, thái tử,
Con đừng rời bỏ chốn phàm trần. |
1608. Ussāvova tiṇaggamhi
suriyassuggamanaṃ pati,
evamāyu manussānaṃ mā maṃ amma nivāraye.
|
1608. “Ví như hạt sương ở đầu
cọng cỏ rơi xuống khi mặt trời mọc lên, tuổi thọ của loài người
là tương tự. Thưa mẹ, xin mẹ chớ ngăn cản con.
|
7. Như đầu ngọn cỏ đọng hơi
sương,
Khi mặt trời lên rực ánh dương,
Cũng vậy là đời người thế tục,
Xin đừng cản bước, mẹ hiền thương. |
Trang 404:
|
Trang 405:
|
1609. Taramāno imaṃ yānaṃ āropetu
rathesabha,
mā me mātā tarantassa antarāyakarā ahu.
|
1609. Trong khi con ra đi, tâu
quân vương, xin cha hăy cho người nâng chiếc kiệu của mẹ lên.
Xin chớ để mẹ là người tạo ra sự chướng ngại cho con trong khi
con ra đi.” |
8. Bảo người khiêng kiệu, hăy
cùng nâng!
Đừng để mẹ già cứ cản ngăn
Con trẻ muốn đi vào Thánh đạo,
Xa đời sinh diệt, tấu Minh quân! |
1610. Abhidhāvatha bhaddante
suññaṃ hessati rammakaṃ,
yudhañjayo anuññāto sabbadattena rājinā.
|
1610. “Các ngươi hăy đi nhanh.
Chúc con may mắn! Thành Rammaka sẽ trở nên trống vắng.
Yudhañjaya đă được đức vua Sabbadatta cho phép. |
9. Nhanh lên, cầu hạnh phúc,
con ôi!
Ta chắc Ram-ma trống vắng thôi,
Đại đế Sab-ba vừa chấp thuận,
Dũ-vân thái tử xuất gia rồi. |
1611. Yohu seṭṭho sahassassa yuvā
kañcanasannibho,
soyaṃ kumāro pabbajito kāsāyavasano balī.
|
1611. Người nào, đă là chàng trai
trẻ đứng đầu trong số một ngàn người, tương tự như là vàng,
người ấy, vị hoàng tử dũng mănh này, đă xuất gia, khoác y phục
màu ca-sa.” |
10. Thái tử, đại huynh giữa cả
ngàn,
Hoàng nhi trông dáng thật như vàng,
Từ đây vương tử oai hùng đă
Đắp chiếc y vàng bỏ thế gian. |
1612. Ubho kumārā pabbajitā
yudhañjayo yudhiṭṭhilo,
pahāya mātāpitaro saṅkaṃ chetvāna maccuno ”ti.
6. Yudhañjayajātakaṃ.
|
1612. “Cả hai vị hoàng tử
Yudhañjaya và Yudhiṭṭhila đă xuất gia, sau khi ĺa bỏ mẹ cha,
sau khi đă cắt đứt sợi dây xích của Thần Chết.”
6. Bổn sanh Thái Tử Yudhañjaya.
|
11. Vương tử Dũ-thi với
Dũ-vân,
Sống đời thanh tịnh của hiền nhân,
Giă từ vương phụ và vương mẫu,
Chặt đứt làm đôi xích tử thần.
Câu chuyện
460 |
1613. Etha lakkhaṇa sītā ca ubho
otarathodakaṃ,
evāyaṃ bharato āha rājā dasaratho mato.
|
1613. “Này Lakkhaṇa và Sītā, hai
em hăy đến. Cả hai hăy lội xuống nước. Bharata này đă nói như
vầy: ‘Phụ vương Dasaratha đă băng hà.’” |
1. Lak-kha hiền đệ, lẫn Si-tà,
Bước xuống ao kia cả đấy mà.
Vương tử Bha-ra vừa nói rơ
Da-sa đại đế đă băng hà. |
1614. Kena rāmappabhāvena
socitabbaṃ na socasi,
pitaraṃ kālakataṃ sutvā na taṃ pasahate dukhaṃ.
|
1614. “Thưa anh Rāma, do năng lực
ǵ mà anh không sầu muộn về việc đáng bị sầu muộn? Sau khi nghe
tin cha mất, khổ đau không
chế
ngự được anh.” |
2. Cho biết, Rà-ma, bởi lực
ǵ,
Gặp buồn, huynh lại chẳng sầu bi?
Ḷng huynh sầu muộn không tràn ngập,
Dù được tin vương phụ mất đi! |
1615. Yaṃ na sakkā pāletuṃ posena
lapatā bahu,
sa kissa viññū medhāvī attānamupatāpaye.
|
1615. “Vật mà con người, trong
khi khóc lóc thật nhiều,
mà vẫn
không thể bảo tồn được, vậy th́ vị có
sự hiểu biết, thông minh, tại sao lại bực bội bản thân? |
3. Khi chẳng làm sao giữ vật
nào,
Dù cho người ấy có kêu gào,
Vậy nên người trí đầy thông tuệ
Phải tự hành ḿnh bởi cớ sao? |
1616. Daharā ca hi ye vuddhā ye
bālā ye ca paṇḍitā,
aḍḍhā ceva daḷiddā ca sabbe maccuparāyaṇā.
|
1616. Bởi v́ những đứa trẻ con và
những người lớn tuổi, những kẻ ngu si và những vị sáng suốt,
những người giàu sang luôn cả những người nghèo khó, tất cả đều
có sự chết là nơi cuối cùng. |
4. Các đám thanh niên, kẻ
trưởng thành,
Người ngu cùng với bậc thông minh,
Giàu, nghèo, kết cuộc đều cầm chắc,
Phải chết từng người giữa chúng sinh. |
1617. Phalānamiva pakkānaṃ niccaṃ
papatanā bhayaṃ,
evaṃ jātāna maccānaṃ niccaṃ maraṇato bhayaṃ.
|
1617. Giống như đối với những
trái cây đă chín, hiểm họa do việc rơi rụng là thường xuyên,
tương tự như vậy, đối với những con người đă được sanh ra, hiểm
họa về cái chết là thường xuyên. |
5. Như ta đứng trước quả cây
muồi,
Hay phát sinh niềm sợ quả rơi,
Cũng vậy phát sinh ḷng sợ chết,
Với phàm nhân ở khắp muôn người. |
1618. Sāyameke na dissanti pāto
diṭṭhā bahujjanā,
pāto eke na dissanti sāyaṃ diṭṭhā bahujjanā.
|
1618. Nhiều người được nh́n thấy
vào buổi sáng, th́ một số không c̣n được nh́n thấy vào buổi tối.
Nhiều người được nh́n thấy vào
buổi tối, th́ một số không c̣n được
nh́n thấy vào sáng (hôm sau). |
6. Nhiều kẻ vừa trông thấy
buổi mai,
Có khi chiều tối đă ĺa đời,
Và người được thấy khi chiều xuống,
Vừa mới sáng mai đă mất rồi. |
1619. Paridevayamāno ce
kañcidatthaṃ udabbahe,
sammūḷho hiṃsamattānaṃ kayirā cetaṃ vicakkhaṇo.
|
1619. Nếu trong khi than văn,
trong khi hành hạ bản thân, kẻ bị mê muội có thể tạo ra việc lợi
ích nào đó, th́ người khôn khéo cũng nên làm điều ấy. |
7. Nếu người ngu dại hoặc
cuồng điên,
Phúc lạc đổ dồn đến tự nhiên
Khi nó tự hành bằng nước mắt,
Bậc hiền làm giống kẻ kia liền. |
1620. Kiso vivaṇṇo bhavati
hiṃsamattānamattanā,
na tena petā pālenti niratthā paridevanā.
|
1620. Trong khi tự ḿnh hăm hại
ḿnh, (người này) trở nên gầy ốm, xuống sắc, những người đă quá
văng không được trợ giúp do việc làm ấy; sự than văn là không có
lợi ích.
|
8. Cách này đây nó tự hành
ḿnh,
Kẻ ấy gầy ṃn lại tái xanh,
Nước mắt chẳng làm ǵ ích lợi,
Chẳng làm người chết được hồi sinh. |
Trang 406:
|
Trang 407:
|
1621. Yathāsaraṇamādittaṃ vārinā
parinibbaye,
evampi dhīro sutavā medhāvī paṇḍito naro,
khippamuppatitaṃ sokaṃ vāto tūlaṃva dhaṃsaye.
|
1621. Giống như người có thể dùng
nước dập tắt chỗ trú ngụ bị đốt cháy, cũng tương tự như thế,
người sáng trí, có kiến thức, thông minh, sáng suốt, có thể mau
chóng xua tan sự sầu muộn đă được sanh khởi, tựa như làn gió
thổi bay sợi bông g̣n. |
9. Như nhà cháy rực lửa đang
hồng,
Được dập tắt liền với nước sông,
Người mạnh, người hiền, người có trí,
Những người hiểu giáo lư tinh thông,
Nỗi buồn đem rắc như bông vải,
Khi có cuồng phong thổi băo bùng. |
1622. Ekova macco acceti ekova
jāyate kule,
saññoga paramātveva sambhogā sabbapāṇinaṃ.
|
1622. Khi một người chết đi, liền
có một người khác sanh ra trong gia tộc. Theo ư nghĩa tuyệt đối
của sự liên kết với nhau, có sự thọ hưởng chung giữa các chúng
sanh với nhau. |
10. Một khi sinh vật phải ĺa
trần,
Một kẻ khác liền được thọ thân,
Kết hợp với nhiều dây trói buộc,
Có cùng đặc tính một nguồn căn,
Phước phần mỗi kẻ đều tùy thuộc
Vào những dây liên hệ buộc ràng. |
1623. Tasmā hi dhīrassa
bahussutassa
sampassato lokamimaṃ parañca,
aññāya dhammaṃ hadayaṃ manañca
sokā mahantāpi na tāpayanti.
|
1623. Chính v́ thế, đối với vị
thông minh, có nhiều kiến thức, trong khi xem xét một cách đúng
đắn về đời này và đời sau, sau khi hiểu thông quy luật, th́ các
nỗi sầu muộn mặc dầu lớn lao, cũng không làm cho tâm và ư của vị
ấy bị bực bội. |
11. Người mạnh, tinh thông lư
nhiệm mầu,
Quán sát đời này lẫn kiếp sau,
Hiểu bản chất này chung của chúng,
Cho nên chẳng bị nỗi buồn rầu,
Khiến cho ḷng trí ḿnh dao động,
Dù có khổ đau đến độ nào. |
1624. Sohaṃ dassañca bhokkhañca
bharissāmi ca ñātake,
sesaṃ sampālayissāmi kiccametaṃ vijānato.
|
1624. Ta đây sẽ ban phát, sẽ nuôi
dưỡng, và sẽ bảo bọc các thân quyến, ta sẽ bảo vệ số c̣n lại;
việc này là phận sự của người có nhận thức.” |
12. Vậy ta nên cống hiến song
thân,
Phụng dưỡng các ngài phẩm vật dâng,
Ta sẽ bảo tồn di tích cũ,
Ấy là hành động của hiền nhân. |
1625. Dasa vassasahassāni
saṭṭhivassasatāni ca,
kambugīvo mahābāhu rāmo rajjamakārayī ”ti.
7. Dasarathajātakaṃ.
|
1625. Đức vua Rāma, với cổ có ba
ngấn (tướng
may mắn) và cánh tay to lớn, đă trị v́ vương quốc mười sáu
ngàn năm.”
7. Bổn sanh Đại Vương Dasaratha.
|
Trăm năm nhân với sáu mươi
lần,
Một vạn năm thêm, chuyện kể rằng
Dũng sĩ Rà-ma lên ngự trị,
Cổ ngài ba ngấn, hạnh phúc tràn
Câu chuyện
461 |
1626. Jānanto no mahārāja tava
sīlaṃ janādhipo,
ime kumāre pūjento na taṃ kenaci maññatha.
|
1626. “Tâu đại vương, phải chăng
vua cha biết về giới hạnh của đại vương, (bởi v́) trong khi tôn
vinh các vị hoàng tử này, vua cha đă không nghĩ đến đại vương
với bất cứ món quà ǵ? |
1. Quả xưa thánh thượng đă
tinh tường,
Bản chất tính t́nh của đại vương,
Ân đă ban nhiều vương tử khác,
Đại vương lại chẳng được ban phần. |
1627. Tiṭṭhante no mahārāje ādu
deve divaṃgate,
ñātī naṃ samanumaññiṃsu sampassaṃ atthamattano.
|
1627. Tâu đại vương, phải chăng
trong khi vua cha đang c̣n tại tiền hay khi đă quy tiên, trong
khi xem xét lợi ích của bản thân, (vua cha biết rằng) các thân
quyến đă chấp thuận đại vương? |
2. Chính là vương phụ lúc sinh
thời,
Hay lúc thành tiên, đến cơi trời,
V́ thấy lợi nhiều cho quốc độ,
Nên vương tộc đă thuận theo lời. |
1628. Kena saṃvaravattena sañjāte
adhitiṭṭhasi,
kena taṃ nātivattanti ñātisaṅghā samāgatā.
|
1628. Này Saṃvara, với giới hạnh
ǵ mà đại vương được đứng trên các hoàng tử sanh cùng gia tộc?
V́ sao toàn thể thân quyến đă tụ hội lại mà không phản đối đại
vương?” |
3. Hăy nói lực ǵ, Sam-va-ra,
Đại vương vượt hẳn cả hoàng gia,
Sao vương huynh lại không đoàn kết,
Để chiếm ngôi cao của đệ à? |
1629. Na rājaputta usuyyāmi
samaṇānaṃ mahesinaṃ,
sakkaccaṃ te namassāmi pāde vandāmi tādinaṃ.
|
1629. “Thưa hoàng huynh, trẫm
không ganh tỵ với các Sa-môn, với các bậc đại ẩn sĩ. Trẫm trân
trọng cúi chào các vị ấy. Trẫm đảnh lễ hai bàn chân của các bậc
có đức hạnh như thế ấy. |
4. Ta chẳng bao giờ miễn cưỡng
dâng
Những ǵ xứng với đại hiền nhân,
Sẵn sàng ban tặng đầy trân trọng,
Đảnh lễ, ta quỳ xuống dưới chân. |
1630. Te maṃ dhammaguṇe yuttaṃ
sussūsamanusuyyakaṃ,
samaṇā samanusāsanti isī dhammaguṇe ratā.
|
1630. (Sau khi biết) trẫm là
người gắn liền với công lư và đạo đức, có sự mong muốn lắng nghe
và là người không ganh tỵ, các vị Sa-môn ấy chỉ dạy cho trẫm;
các bậc ẩn sĩ ưa chuộng công lư và đạo đức. |
5. Ta chẳng tỵ hiềm, muốn học
luôn
Mọi điều đức hạnh hợp công bằng,
Các hiền nhân dạy điều lương thiện
Trong ấy các ngài thấy lạc hoan. |
1631. Tesāhaṃ vacanaṃ sutvā
samaṇānaṃ mahesinaṃ,
na kiñci atimaññāmi dhamme me nirato mano.
|
1631. Sau khi lắng nghe lời nói
của các vị Sa-môn và các bậc đại ẩn sĩ, trẫm không
xem
thường bất cứ
điều ǵ; tâm ư của trẫm thích thú ở lời giảng dạy. |
6. Ta vẫn thường nghe sự bảo
ban
Của nhiều bậc trí, đại hiền nhân,
Tâm hồn ta hướng về lương thiện,
Ta chẳng coi thường lời dạy răn. |
1632. Hatthāruhā aṇīkaṭṭhā
rathikā pattikārikā,
tesaṃ nappaṭibandhāmi nibaddhaṃ bhattavetanaṃ.
|
1632. Các viên quản tượng, các
ngự lâm quân, các dũng sĩ chiến xa, và các bộ binh, trẫm không
bạc đăi họ; thực phẩm và lương bổng được
cấp đều đặn.
|
7. Voi chiến cùng nhiều đạo mă
xa,
Bộ binh và vệ sĩ vương gia,
Ta không hề bớt phần công nhật,
Mà trả tiền lương đủ mọi nhà. |
Trang 408: |
Trang 409:
|
1633. Mahāmattā ca me atthi
mantino paricārakā,
bārāṇasiṃ voharanti bahumaṃsa surodakaṃ.
|
1633. Và trẫm có các quan đại
thần, các vị cố vấn, và các người hầu cận. Người ta đồn rằng
thành Bārāṇasī là có nhiều thịt, rượu, và nước.
|
8. Quư tộc danh gia vẫn đến
hầu,
Quân sư tài trí thật là cao,
Họ thường khen ngợi rằng lương thực,
Quả thật Ba-la-nại rất giàu. |
1634. Athopi vāṇijā phītā nānā
raṭṭhehi āgatā,
tesu me vihitā rakkhā evaṃ jānāhuposatha.
|
1634. Rồi các thương buôn giàu có
từ nhiều quốc độ khác nhau cũng đă đi đến. Các sự bảo vệ đă được
trẫm bố trí cho họ. Này hoàng huynh Uposatha, xin hoàng huynh
hăy nhận biết như thế.” |
9. Thịnh vượng như vậy, các
lái buôn,
Từ nhiều quốc độ tới lui luôn,
Ta che chở chúng - Này vương tử,
Sự thật, hiền huynh đă tỏ tường. |
1635. Dhammena kira ñātīnaṃ
rajjaṃ kārehi saṃvara,
medhāvī paṇḍito cāpi athopi ñātīnaṃ hito.
|
1635. “Này Saṃvara, nói theo sự
công bằng đối với các thân quyến, th́ phải để em cai trị vương
quốc. Em thông minh, sáng suốt, và c̣n là người có lợi ích cho
các thân quyến nữa. |
10. Đạo đức vượt hơn gia tộc
ḿnh,
Và em cai trị thật công b́nh,
Sam-va tài trí càng cao trọng,
Phục lạc ban đều các đại huynh. |
1636. Taṃ taṃ ñāti paribbūḷhaṃ
nānāratanamocitaṃ,
amittā nappasahanti indaṃva asurādhipo ”ti.
8. Saṃvarajātakaṃ.
|
1636. Với các đức tánh ấy, em
được tùy tùng bởi các thân quyến, được tích lũy nhiều loại châu
báu, các kẻ thủ không chế ngự được em, tựa như chúa tể của loài
A-tu-la không chế ngự được vị thần Inda.”
8. Bổn sanh Đức Vua Saṃvara.
|
11. Vương huynh rày bảo vệ kho
tàng,
Vương đệ sau này sẽ vạn an,
Tránh khỏi quân thù như Đế Thích
Ḿnh vàng tránh các La-hầu-vương.
Câu chuyện
462 |
1637. Ummujjanti nimujjanti
manussā khuranāsikā,
suppārakaṃ taṃ pucchāma samuddo katamo ayaṃ.
|
1637. “Những con người có mũi như
dao cạo nổi lên, lặn xuống. Chúng tôi hỏi Suppāraka về điều ấy
rằng: ‘Biển này là biển nào?’” |
1. Đám người kia mũi nhọn như
dao,
Vừa nhảy lên cao, lại lộn nhào,
Hăy nói, Sup-pà, cho chúng bạn,
Biển này được biết với tên nào? |
1638. Bharukacchā payātānaṃ
vāṇijānaṃ dhanesinaṃ,
nāvāya vippanaṭṭhāya khuramālīti vuccati.
|
1638. “Con tàu của các thương
buôn tầm cầu tài sản xuất phát từ bến Bharukaccha đă bị lạc
hướng, và đi đến vùng biển gọi là Khuramālī (Biển Dao Cạo).”
|
2. Này các thương nhân cảng
Bhar-ka,
Đi t́m vàng bạc bán đường xa,
Đây là biển cá Khu-ra đó,
Thuyền của các người đă lạc qua. |
1639. Yathā aggiva suriyo va
samuddo patidissati,
suppārakaṃ taṃ pucchāma samuddo katamo ayaṃ.
|
1639. “Biển cả được thấy giống
như là ngọn lửa, tương tự như mặt trời. Chúng tôi hỏi Suppāraka
về điều ấy rằng: ‘Biển này là biển nào?’” |
3. Ḱa đại dương như ngọn lửa
hồng,
Như vầng nhật chiếu, bạn cùng trông,
Sup-pa, xin nói cho bè bạn,
Tên gọi là ǵ chốn đại dương? |
1640. Bharukacchā payātānaṃ
vāṇijānaṃ dhanesinaṃ,
nāvāya vippanaṭṭhāya aggimālīti vuccati.
|
1640. “Con tàu của các thương
buôn tầm cầu tài sản xuất phát từ bến Bharukaccha đă bị lạc
hướng, và đi đến vùng biển gọi là Aggimālī (Biển Lửa).” |
4. Này các thương nhân ở
Bhar-ka,
Đi t́m vàng bạc bán đường xa,
Đây là biển cả Ag-gi đó,
Thuyền của các người đă lạc qua. |
1641. Yathā dadhiṃva khīraṃva
samuddo patidissati,
suppārakaṃ taṃ pucchāma samuddo katamo ayaṃ.
|
1641. “Biển cả được thấy giống
như là sữa chua, tương tự như sữa tươi. Chúng tôi hỏi Suppāraka
về điều ấy rằng: ‘Biển này là biển nào?’” |
5. Ḱa biển trắng phau giống
sữa tươi,
Trắng như nh́n vũng sữa đông rồi,
Sup-pà, xin nói cùng bè bạn,
Tên gọi là ǵ của biển khơi? |
1642. Bharukacchā payātānaṃ
vāṇijānaṃ dhanesinaṃ,
nāvāya vippanaṭṭhāya dadhimālīti vuccati.
|
1642. “Con tàu của các thương
buôn tầm cầu tài sản xuất phát từ bến Bharukaccha đă bị lạc
hướng, và đi đến vùng biển gọi là Dadhimālī (Biển Sữa Chua).” |
6. Này các thương nhân ở
Bhar-ka,
Đi t́m vàng bạc bán đường xa,
Đây là biển cả Da-dhi đó,
Thuyền của các người đă lạc qua. |
1643. Yathā kusova sassova
samuddo patidissati,
suppārakaṃ taṃ pucchāma samuddo katamo ayaṃ.
|
1643. “Biển cả được thấy giống
như là trảng cỏ kusa, tương tự như băi ngô. Chúng tôi hỏi
Suppāraka về điều ấy rằng: ‘Biển này là biển nào?’” |
7. Ḱa, biển xanh như cỏ cát
tường,
Tưởng như nh́n đám lúa nàng hương,
Sup-pà, hăy nói cho bè bạn,
Tên gọi là ǵ của đại dương? |
1644. Bharukacchā payātānaṃ
vāṇijānaṃ dhanesinaṃ,
nāvāya vippanaṭṭhāya kusamālīti vuccati.
|
1644. “Con tàu của các thương
buôn tầm cầu tài sản xuất phát từ bến Bharukaccha đă bị lạc
hướng, và đi đến vùng biển gọi là Kusamālī (Biển Cỏ Kusa).”
|
8. Này các thương nhân xứ
Bhar-ka,
Đi t́m vàng bạc bán đường xa,
Đại dương đây chính Ku-sa đó,
Thuyền của các người đă lạc qua. |
Trang 410:
|
Trang 411:
|
1645. Yathā naḷova velūva samuddo
patidissati,
suppārakaṃ taṃ pucchāma samuddo katamo ayaṃ.
|
1645. “Biển cả được thấy giống
như là băi sậy, tương tự như rừng tre. Chúng tôi hỏi Suppāraka
về điều ấy rằng: ‘Biển này là biển nào?’” |
9. Ḱa đại dương như một khóm
lau,
Khác nào ta thấy rặng tre đâu,
Sup-pà, hăy nói cho bè bạn,
Biển cả này tên gọi thế nào? |
1646. Bharukacchā payātānaṃ
vāṇijānaṃ dhanesinaṃ,
nāvāya vippanaṭṭhāya naḷamālīti vuccati.
|
1646. “Con tàu của các thương
buôn tầm cầu tài sản xuất phát từ bến Bharukaccha đă bị lạc
hướng, và đi đến vùng biển gọi là Naḷamālī (Biển Cây Sậy).” |
10. Này các thương nhân xứ
Bhar-ka,
Đi t́m vàng bạc bán đường xa,
Biển này tên gọi Na-la đó,
Thuyền của các người đă lạc qua. |
1647. Mahābhayo bhiṃsanako
samuddo suyyatamānuso,
yathā sobbho papātova samuddo patidissati,
suppārakaṃ taṃ pucchāma samuddo katamo ayaṃ.
|
1647. “Có âm thanh với sự sợ hăi
khủng khiếp, làm cho kinh hoàng, được nghe như là của phi nhân.
Biển cả được thấy giống như là cái hố nước, tương tự như vực
thẳm. Chúng tôi hỏi Suppāraka về điều ấy rằng: ‘Biển này là biển
nào?’” |
11. Này nghe tiếng thét thật
kinh hoàng,
Từ biển cả kia thật dị thường!
Hố thẳm, hăy nh́n nhiều đợt sóng
Dâng lên dốc đứng tựa sườn non,
Sup-pà, hăy nói cho bè bạn,
Đây gọi tên ǵ của đại dương? |
1648. Bharukacchā payātānaṃ
vāṇijānaṃ dhanesinaṃ,
nāvāya vippanaṭṭhāya vaḷavāmukhīti vuccati.
|
1648. “Con tàu của các thương
buôn tầm cầu tài sản xuất phát từ bến Bharukaccha đă bị lạc
hướng, và đi đến vùng biển gọi là Vaḷavāmukhī (Biển Mỏm Ngựa
Cái).” |
12. Này các thương nhân xứ
Bhar-ka,
Đi t́m vàng bạc bán đường xa,
Va-la-bhà đại dương này đó,
Thuyền của các người đă lạc qua. |
1649. Yato sarāmi attānaṃ yato
pattosmi viññutaṃ,
nābhijānāmi sañcicca ekapāṇampi hiṃsitaṃ,
etena saccavajjena sotthiṃ nāvā nivattatū ”ti.
9. Suppārakajātakaṃ.
|
1649. Từ khi tôi nhớ về bản thân,
từ khi tôi đạt được sự hiểu biết, tôi biết chắc rằng không một
sinh mạng nào đă bị tôi hăm hại một cách cố t́nh; do lời nói
chân thật này, mong rằng chiếc tàu hăy quay trở về một cách an
toàn.”
9. Bổn sanh Vị Suppāraka.
|
13. Từ khi ta nhớ rơ về thân,
Trí tuệ đầu tiên phát khởi dần,
Không một người nào ta sát hại,
Là điều ta đă biết tinh tường,
Nều lời cầu nguyện này chân chánh,
Mong ước thuyền về chốn vạn an.
Câu chuyện
463 |
TASSUDDĀNAṂ
Siri mātusuposaka nāgavaro
puna juṇha adhammamudayavaro,
atha pāṇīyudhañjayako ca dasa
ratha saṃvara pāragatena navā ”ti.
Ekādasakanipāto niṭṭhito.
--ooOoo-- |
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Chuyện con voi vinh quang là người phụng dưỡng mẹ,
thêm chuyện hoàng tử Juṇha, kẻ Adhamma (Phi Pháp), đức vua
Udaya,
rồi nước uống được, thái tử Yudhañjaya, và đại vương Dasaratha,
đức vua Saṃvara, với vị đă đi đến bờ kia, là chín.
Nhóm Mười Một Kệ Ngôn được chấm dứt.
--ooOoo-- |
<Trang trước> |
<Trang Kế> |