XII.
DVĀDASAKANIPĀTO - NHÓM MƯỜI HAI KỆ NGÔN
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 412: |
Trang 413:
|
1650. Khuddānaṃ lahucittānaṃ
akataññūna dūbhinaṃ,
nādevasatto puriso ṭhīnaṃ saddhātumarahati.
|
1650. Đàn bà là những người nhỏ
nhen, có tâm khinh suất, vô ơn, bội bạc, Người đàn ông, nếu
không bị phi nhân xâm nhập, th́ không thể nào tin tưởng những
người đàn bà. |
24. Hèn hạ, đổi thay ấy nữ
nhân,
Chúng c̣n bội nghĩa với vong ân
Nam nhân, ví thử không si ám,
Chẳng hạ cố tin chúng nói năng. |
1651. Na tā pajānanti kataṃ na
kiccaṃ
na mātaraṃ pitaraṃ bhātaraṃ vā,
anariyā samatikkantadhammā
sasseva cittassa vasaṃ vajanti.
|
1651. Các nàng không biết đến ân
nghĩa, không biết đến việc cần phải làm, không biết đến mẹ, cha,
hay anh em trai. Các nàng không thánh thiện, vượt qua nguyên
tắc, và đi theo sự sai khiến của chính tâm ḿnh. |
25. Chúng ít quan tâm bổn phận
ḿnh,
Hoặc lời kêu gọi của ân t́nh,
Vô tâm trước tấm ḷng cha mẹ,
Hoặc mối buộc ràng của đệ huynh.
Chúng đóng vai người không hổ thẹn
Khi vi phạm luật lệ công b́nh,
Mọi hành vi chúng đều tuân phục
Ước vọng trong tâm của chính ḿnh. |
1652. Cirānuvuttampi piyaṃ
manāpaṃ
anukampaṃ pāṇasamampi santaṃ,
āvāsu kiccesu ca naṃ jahanti
tasmāhamitthīnaṃ na vissasāmi.
|
1652. Mặc dầu chàng đă sống chung
thời gian dài, chàng đáng yêu, đáng mến, có ḷng thương xót,
thậm chí chàng c̣n được xem như là sanh mạng, các nàng cũng từ
bỏ chàng trong những lúc rủi ro và trong những lúc hữu sự; v́
thế, trẫm không tin cậy những người đàn bà. |
26. Dù ở với chàng bao tháng
năm,
Dù chàng yêu dấu lại ân cần,
Nồng nàn trong dạ và thân thiết
Như chính đời chàng quả thật chân,
Trong lúc gian lao và khốn khổ,
Chúng đành ḷng bỏ đức phu quân.
Về phần ta chẳng bao giờ nữa
C̣n đặt ḷng tin bọn nữ nhân. |
1653. Thīnañhi cittaṃ yathā
vānarassa
kannappakannaṃ yathā rukkhachāyā,
calācalaṃ hadayaṃ itthiyānaṃ
cakkassa nemi viya parivattati.
|
1653. Bởi v́ tâm của những người
đàn bà giống như tâm của loài khỉ. giống như bóng râm của cây
luôn nhấp nhổm. Trái tim của những người phụ nữ luôn chao đảo,
giống như cái vành của bánh xe quay ṿng ṿng. |
27. Tâm nữ nhân thường thấy
đổi thay
Như là loài vượn khỉ leo cây,
Hoặc như tàn lá cây soi bóng
Trên đỉnh non cao, vực thẳm dày.
Chủ đích ở trong ḷng nữ giới
Sao cũng chập chờn cứ chuyển lay
Như thể bánh xe lăn vút măi
Không hề có lúc nghỉ ngừng quay. |
1654. Yadā tā passanti
samekkhamānā
ādeyyarūpaṃ purisassa vittaṃ,
saṇhāhi vācāhi nayanti menaṃ
kambojakā jalajeneva assaṃ.
|
1654. Vào lúc các nàng, trong lúc
xem xét, nh́n thấy tài sản của người đàn ông có vẻ có thể thâu
tóm, các nàng dụ dỗ người ấy bằng những lời nói mềm mỏng, tựa
như những người dân xứ Kamboja dụ dỗ con ngựa rừng bằng rong rêu
(có bôi mật ong). |
28. Khi đă nghĩ suy thật kỹ
càng,
Chúng nh́n quanh quẩn kiếm t́m đàng
Để đi bắt một người giàu có,
Biến gă thành mồi của chúng săn,
Những bọn dại khờ như vậy đó,
Chúng dùng lời mặt ngọt chiêu hàng,
Như chàng giữ ngựa miền Cam-bốt
Dùng cỏ thơm câu ngựa dă man. |
1655. Yadā na passanti
samekkhamānā
ādeyyarūpaṃ purisassa vittaṃ,
samantato naṃ parivajjayanti
tiṇṇo nadīpāragatova kullaṃ
|
1655. Vào lúc các nàng, trong lúc
xem xét, không nh́n thấy tài sản của người đàn ông có vẻ có thể
thâu tóm, các nàng lánh xa người ấy ở mọi nơi, tựa như người đă
vượt qua, đă đi đến bờ bên kia của ḍng sông, xa lánh chiếc bè. |
29. Song nếu nh́n quanh thật
kỹ càng
Mà không t́m thấy được con đường
Để mong chiếm đoạt phần tài sản
Biến gă thành mồi của chúng săn,
Chúng đuổi gă ngay như một kẻ
Đă lên bờ nọ lúc sang ngang,
Tức th́ bỏ mặc thuyền trôi dạt,
Thuyền ấy từ đây chúng chẳng màng. |
1656. Silesūpamā sikhiriva
sabbabhakkhā
tikkhamāyā nadīriva sīghasotā,
sevanti hetā piyamappiyañca
nāgaṃ yathā orakulaṃ parañca.
|
1656. Phụ nữ giống như chất kết
dính, tựa như ngọn lửa thiêu đốt tất cả. Các nàng có sự lừa
phỉnh mau lẹ, tựa như con sông có ḍng nước chảy xiết. Bởi v́
các nàng ấy hầu hạ người yêu mến lẫn người không yêu mến, giống
như con thuyền ghé vào bến đ̣ ở hạ nguồn và ở thượng nguồn.
|
30. Như ngọn lửa thiêu đốt bạo
hung
Chúng ôm gh́ gă chặt trong ḷng,
Hoặc là đẩy gă như ḍng nước
Lũ lụt chảy cuồn cuộn tứ tung!
Chúng tán tỉnh chàng nào chúng ghét
Cũng nhiều như kẻ chúng tôn sùng,
Như con thuyền vẫn thường kề sát
Cả bến bờ xa lẫn bến gần! |
1657. Na tā ekassa na dvinnaṃ
āpaṇova pasārito,
yo tā mayhanti maññeyya vātaṃ jalena bādhaye.
|
1657. Các nàng ấy không thuộc về
một người, không thuộc về hai người, các nàng ấy tựa như cửa
tiệm đă được trưng bày. Kẻ nào nghĩ rằng: ‘Các nàng ấy là thuộc
về ta,’ kẻ ấy tưởng như có thể tóm gọn làn gió bằng cái lưới.
|
31. Chúng chẳng thuộc về một
hoặc hai,
Chúng như hàng quán mở ra mời;
Người dùng lưới bắt nhanh làn gió,
Như nữ nhân cầm giữ bọn trai. |
Trang 414:
|
Trang 415:
|
|
1658. Yathā nadī ca pantho ca
pānāgāraṃ sabhā papā,
evaṃ lokitthiyo nāma velā tāsaṃ na vijjati.
|
1658. Giống như ḍng sông, con
đường, quán nước, pḥng hội, lều nghỉ chân, những người đàn bà ở
thế gian được gọi là như vậy, giới hạn của các nàng ấy không
được biết đến. |
32. Như quán nước, sông suối, mặt
đường,
Hoặc như nhà trọ, sảnh công đường,
Nữ nhân buông thả cùng tất cả,
Tội chúng làm sao có thể lường! |
1659. Ghatāsanasamāhetā
kaṇhasappasirūpamā,
gāvo bahi tiṇasseva omasanti varaṃ varaṃ.
|
1659. Thật vậy, các nàng ấy như
là ngọn lửa tế thần, tựa như đầu con rắn độc màu đen, ví như bầy
ḅ chỉ gặm những cọng ngon nhất của băi cỏ ở bên ngoài. |
33. Độc hại như đầu rắn hổ đen,
Tham mồi như ngọn lửa vừa nhen,
Như ḅ lựa cỏ ngon lành nhất,
Chúng muốn t́nh lang lắm của tiền! |
1660. Ghatāsanaṃ kuñjariṃ
kaṇhasappaṃ
muddhābhisittaṃ pamadā ca sabbā,
ete naro niccayatto bhajetha
tesaṃ have dubbidu sabbabhāvo.
|
1660. Ngọn lửa tế thần, con voi,
rắn độc màu đen, người được làm lễ phong vương, và tất cả các nữ
nhân, năm hạng này, người nam
có
tánh thận trọng có thể giao
thiệp. Thật vậy, mọi ư định của những hạng ấy khó mà biết được.
|
34. Tránh loài voi, rắn hổ đen
mun,
Ngọn lửa tưới bằng lạc cháy bùng,
Người được phong vương và quán đảnh,
Bọn hồng quần, phải chạy nhanh chân.
Những ai biết sống luôn pḥng hộ
Xem các thứ này tựa địch quân.
Quả thật chính là tâm địa chúng
Làm sao biết rơ, khó vô cùng! |
1661. Nāccantavaṇṇā na bahūnaṃ
kantā
na dakkhiṇā pamadā sevitabbā,
na parassa bhariyā na dhanassa hetu
etitthiyo pañca na sevitabbā ”ti.
1. Cūḷakuṇālajātakaṃ.
|
1661. Không nên thân cận người nữ
có sắc đẹp quá mức, không với người nữ được nhiều người yêu
thương, cũng không với người đàn bà khéo léo, không với người là
vợ của người khác, không với người v́ nguyên nhân tài sản; năm
hạng nữ nhân này không nên thân cận.”
1. Bổn sanh Chim Cu Cu Nhỏ. [464]
|
35. Má hồng tài tŕ thật thông
minh,
Hay có h́nh dung tuyệt đẹp xinh,
Và đám mày râu thường ái mộ,
Bọn này ta phải tránh cho nhanh;
Vợ người hàng xóm, cô nàng kiếm
Một phú ông loan phượng hợp thành,
Năm hạng nữ nhi này tất cả,
Nam nhân không được kết ân t́nh!
Câu chuyện
464 |
1662. Kā tvaṃ suddhehi vatthehi
aghe vehāsayaṃ ṭhitā,
kena tyāssūni vattanti kuto taṃ bhayamāgataṃ.
|
1662. “Ngài là ai mà đứng ở không
trung, trên bầu trời, với y phục tinh khiết? V́ sao các giọt nước
mắt của ngài tuôn rơi? Nỗi sợ hăi ấy từ đâu đến?” |
1. Ngài là ai, đứng giữa không
gian,
Ḿnh khoác xiêm y tựa thánh thần,
Sao nỗi kinh hoàng kia phát khởi,
Mắt ngài sao đẫm lệ tuôn tràn? |
1663. Taveva deva vijite
bhaddasāloti maṃ vidū,
saṭṭhiṃ vassasahassāni tiṭṭhato pūjitassa me.
|
1663. “Tâu bệ hạ, ở trong lănh
thổ của bệ hạ, mọi người đă biết rơ tôi là ‘Bhaddasāla’
(Cây May Mắn). Trong khi tồn tại sáu mươi ngàn năm, tôi đă được
họ tôn vinh. |
2. Ở trong quốc độ, hỡi quân
vương,
Người biết danh cây: Đại Cát Tường,
Đă sáu mươi ngàn năm vẫn đứng,
Toàn dân đều cúng bái ta luôn. |
1664. Kārayantā nagarāni agāre ca
disampati,
vividhe cāpi pāsāde na mante accamaññisuṃ,
yatheva maṃ te pūjesuṃ tatheva tvampi pūjaya.
|
1664. Tâu vị chúa tể các phương,
trong khi cho xây dựng các thành phố, các ngôi nhà, và luôn cả
các ṭa lâu đài đa dạng, họ đă không xúc phạm đến tôi. Họ đă tôn
vinh tôi như thế nào, mong rằng bệ hạ cũng hăy tôn vinh tôi y
như thế.” |
3. Dù chúng dựng xây lắm thị
thành,
Lâu đài vương xá, các cung đ́nh,
Tuy nhiên, chúng chẳng hề phiền nhiễu,
Cũng chẳng gây tai hại thần linh,
V́ chúng tôn sùng ta đến thế,
Xin ngài, Chúa thượng cũng tôn vinh! |
1665. Tava ahaṃ na passāmi
thullaṃ kāyena te dumaṃ,
ārohapariṇāhena abhirūposi jātiyā.
|
1665. “Trẫm chưa nh́n thấy cây
nào như ngài; thân cây của ngài đồ sộ về kích thước, về chiều
cao, và về chu vi. Ngài là tuyệt vời về chủng loại. |
4. Song một thân cây vĩ đại này,
Trẫm chưa hề thấy tự xưa nay,
Chu vi đẹp cả chiều cao nữa,
Hùng mạnh, một cây vững chắc thay. |
1666. Pāsādaṃ kārayissāmi
ekatthambhaṃ manoramaṃ,
tattha taṃ upanessāmi ciraṃ te yakkha jīvitaṃ.
|
1666. Trẫm sẽ cho làm ṭa lâu đài
có một cột trụ, làm thích ư. Trẫm sẽ đưa ngài về nơi ấy. Này vị
Dạ-xoa, cuộc sống của ngài sẽ được lâu dài.” |
5. Trẫm muốn xây nên mỹ lệ cung,
Chỉ cần độc nhất trụ làm chân,
Trẫm muốn đặt ngài vào chỗ đó,
Đời ngài không ngắn ngủi đâu Thần. |
1667. Evaṃ cittaṃ udapādi
sarīrena vinābhāvo,
puthuso maṃ vikantetvā khaṇḍaso avakantatha.
|
1667. “Nếu
tâm của bệ hạ đă sanh khởi như vậy, là việc tách rời tôi với
thân cây, vậy hăy cắt ĺa tôi thành nhiều phần, hăy cắt đứt
thành từng khúc.
|
6. V́ ngài mong muốn đẵn cây thần
Xin hăy chặt ta nhỏ mỗi phần,
Và xẻ thân này từng mảnh một,
Hoặc đừng ǵ cả, tấu Anh quân. |
Trang 416: |
Trang 417:
|
1668. Agge ca chetvā majjhe ca
pacchā mūlañca chindatha,
evaṃ me chijjamānassa na dukkhaṃ maraṇaṃ siyā.
|
1668. Sau khi cắt ở phần ngọn, ở
phần giữa, và sau cùng hăy cắt ở phần gốc. Trong khi tôi bị cắt
đứt như vậy, th́ cái chết có thể là không đau đớn.” |
7. Hăy chặt trước tiên lấy đỉnh
đầu,
Kế là phần giữa, gốc về sau,
Nếu ngài đốn được ta như thế,
Cái chết chẳng c̣n tạo khổ sầu. |
1669. Hatthapādaṃ yathā chinde
kaṇṇanāsañca jīvite,
tato pacchā siro chinde taṃ dukkhaṃ maraṇaṃ siyā.
|
1669. “Giống như chặt đứt bàn tay
và bàn chân, rồi lỗ tai và lỗ mũi ở người c̣n sống, kế đến chặt
đứt cái đầu sau cùng; cái chết ấy có thể là đau đớn. |
8. Trước hết chân tay, kế mũi
tai,
Khi người lâm nạn chửa tàn hơi,
Cuối cùng thủ cấp này rơi xuống,
Cái chết này đau đớn rụng rời. |
1670. Sukhannu khaṇḍaso chinnaṃ
bhaddasālavanaspati,
kiṃ hetu kiṃ upādāya khaṇḍaso chinnam icchasi.
|
1670. Này thần cây may mắn, này
vị chúa tể của khu rừng, phải chăng việc được cắt thành khúc là an
toàn? Điều ǵ là nguyên nhân, liên quan đến điều ǵ mà ngài lại
muốn được cắt thành khúc?” |
9. Cát Tường cổ thụ! Chúa sơn
lâm!
Lạc thú ǵ ngài cảm thấy chăng?
Sao, lư do ǵ ngài ước muốn
Thân cây được xẻ nhỏ từng phần? |
1671. Yañca hetuṃ upādāya hetu
dhammūpasaṃhitaṃ,
khaṇḍaso chinnam3icchāmi mahārāja suṇohi me.
|
1671. “Việc tôi muốn được cắt
thành khúc là có nguyên nhân, liên quan đến nguyên nhân được gắn
liền với thực tế. Tâu đại vương, xin hăy lắng nghe tôi. |
10. V́ lư do nào cao cả thay,
Cớ sao ta muốn xẻ thân này,
Phân ra từng mảnh, tâu Hoàng thượng,
Xin lắng nghe lời ta nói đây. |
1672. Ñātī me sukhasaṃvaddhā mama
passe nivātajā,
tepihaṃ upahiṃseyyaṃ paresaṃ asukhocitaṃ.
|
1672. Các thân quyến của tôi được
phát triển an toàn, được sanh ra yên ổn ở bên cạnh tôi. Tôi lại
có thể gây tổn thương đến họ, là việc đem lại sự không an toàn
cho những người khác (nếu bị đốn ngă nguyên cây).” |
11. Quanh ta phồn thịnh đám thân
bằng,
Sinh trưởng nhờ nơi trú vẹn toàn,
Nếu ta ngă mạnh, đè tan chúng,
Nỗi đớn đau kia sẽ ngập tràn. |
1673. Cetabbarūpaṃ cetesi
bhaddasālavanaspati,
hitakāmosi ñātīnaṃ abhayaṃ samma dadāmi te ”ti.
2. Bhaddasālajātakaṃ.
|
1673. “Này thần cây may mắn, này
vị
chúa tể của khu rừng, ngài suy nghĩ có vẻ thấu đáo. Ngài có sự
mong muốn điều lợi ích cho các thân quyến, thưa ngài, trẫm ban
cho ngài sự không sợ hăi.”
2. Bổn sanh Thần Cây May Mắn. [465]
|
12. Cát tường cổ thụ, Chúa rừng
xanh!
Tư tưởng ngài cao cả thật t́nh,
Ngài muốn giúp thân bằng quyến thuộc,
Vậy trẫm cho ngài thoát hăi kinh!
Câu chuyện
465 |
1674. Kasanti vapanti te janā
manujā kammaphalūpajīvino,
nayimassa dīpakassa bhāgino
jambudīpā idameva no varaṃ.
|
1674. “Các cư dân ấy cày và gieo
hạt. Những người sống nhờ vào kết quả của công việc không phải
là những người có phần chia của ḥn đảo nhỏ này. Chính nơi này
của chúng tôi c̣n quư báu hơn Jambudīpa.”
|
1. Người th́ gieo hạt, kẻ đi
cày,
Sống với mồ hôi ở cuối mày,
Chúng chẳng hưởng vùng ta được sống,
Hơn xa Ấn Độ chính nơi này! |
1675. Tipañcarattūpagamamhi cando
vego mahā hohiti sāgarassa,
uplāpayaṃ dīpamimaṃ uḷāraṃ
mā vo vadhi gacchatha leṇamaññaṃ.
|
1675. “Mặt trăng vào ba hay năm
đêm sắp đến, sẽ có một đợt triều lớn của biển cả tràn ngập ḥn
đảo cao quư này. Cái chết chớ có xảy ra cho quư vị. Quư vị hăy
đi đến chỗ nương náu khác.” |
2. Trong hai tuần nữa thấy
tṛn trăng,
Từ biển này dâng ngọn sóng thần
Tràn ngập đảo to này: Hăy vội
Di cư để khỏi hại người dân. |
1676. Na jātayaṃ sāgaravārivego
uppāṭaye dīpamimaṃ uḷāraṃ,
taṃ me nimittehi bahūhi diṭṭhaṃ
mā bhetha kiṃ socatha modathavho.
|
1676. “Đợt triều của nước biển
được sanh lên này không có thể tràn ngập ḥn đảo cao quư này.
Điều này đă được ta thấy nhờ vào nhiều điềm báo. Quư vị chớ sợ
hăi. Việc ǵ quư vị sầu muộn? Quư vị hăy vui mừng.
|
3. Theo nhiều dấu hiệu đă nêu
rằng
Dân chúng nghe tin đợt sóng thần
Sẽ chẳng hề tràn lên đảo lớn,
Vui lên đừng sợ, chớ đau buồn. |
Trang 418:
|
Trang 419:
|
1677. Pahūtabhakkhaṃ
bahu-annapānaṃ
pattattha āvāsamimaṃ uḷāraṃ,
na vo bhayaṃ paṭipassāmi kiñci
āputtaputtehi pamodathavho.
|
1677. Có nhiều thức ăn, có nhiều
cơm nước, có sự thành tựu về của cải. Chỗ trú ngụ này là cao quư. Ta
không nh́n thấy bất cứ sự sợ hăi nào cho quư vị. Quư vị hăy vui
đùa cùng các con cháu.” |
4. Các ông gặp chốn rộng nơi
đây,
Các thức uống ăn lại đủ thay,
Ta thấy chẳng ǵ nguy, cứ hưởng
Đến đời sau, lạc thú như vầy. |
1678. Yo tvevayaṃ dakkhiṇassaṃ
disāyaṃ
khemanti pakkosati tassa saccaṃ,
na uttaro vedi bhayābhayassa
mā bhetha kiṃ socatha modathavho.
|
1678. “Chính vị thần ở hướng nam
tuyên bố về sự thật của điều ấy là ‘an toàn.’ Vị thần hướng bắc
đă không biết về sự sợ hăi và không sợ hăi. Quư vị chớ sợ hăi.
Việc ǵ quư vị sầu muộn? Quư vị hăy vui mừng.” |
5. Từ hướng Nam, Thần ấy hét
vang,
Chúng ta nghe: "Vạn sự b́nh an",
Từ Thần này nói là thật,
Sợ hăi, hay không phải hoảng hồn,
Vị Bắc thần kia nào có biết,
Vui lên đừng sợ, chớ lo buồn! |
1679. Yathā ime vippavadanti
yakkhā
eko bhayaṃ saṃsati khemameko,
tadiṅgha mayhaṃ vacanaṃ suṇātha
khippaṃ lahuṃ mā vinassimha sabbe.
|
1679. “Giống như các Dạ-xoa này
tranh căi nhau, một bên bảo là sợ hăi, một bên bảo là an toàn.
Vậy th́ quư vị hăy lắng nghe lời nói của tôi. Mong rằng tất cả
quư vị chớ bị tiêu hoại một cách mau chóng và chớp nhoáng.
|
6. Khi nói ngược nhau, nhị hải
Thần,
Một kêu sợ hăi, một an toàn,
Nghe lời ta dặn, e giây lát
Tất cả người đây chết cả đoàn. |
1680. Sabbe samāgamma karoma
nāvaṃ
doṇiṃ daḷhaṃ sabbayantūpapannaṃ,
sace ayaṃ dakkhiṇo saccamāha
moghaṃ paṭikkosati uttaro ayaṃ.
|
1680. Tất cả chúng ta hăy tụ hội
lại và làm chiếc thuyền, chiếc ghe chắc chắn, có đầy đủ tất cả
bộ phận di chuyển (cây chèo, bánh lái, v.v...). Nếu vị thần ở
hướng nam đă nói sự thật, th́ vị thần ở hướng bắc tuyên bố điên
rồ. |
7. Ta cùng xây một đại thương
thuyền,
Thuyền lớn, hành trang cất hết lên,
Nếu vị Nam thần này nói thật,
Thần kia nói nhảm nhí quàng xiêng; |
1681. Sace vano hohiti āpadatthā
imañca dīpaṃ na pariccajema,
sace ca kho uttaro saccamāha
moghaṃ paṭikkosati dakkhiṇo ayaṃ,
tameva nāvaṃ abhiruyha sabbe
evaṃ mayaṃ sotthi tāremu pāraṃ.
|
1681. Con thuyền sẽ thật sự có
lợi ích cho chúng ta sau này khi có tai họa sanh khởi, và chúng
ta sẽ không rời bỏ ḥn đảo này. Và nếu vị thần ở hướng bắc đă
nói sự thật, th́ vị thần ở hướng nam tuyên bố điên rồ. Tất cả
hăy leo lên chính chiếc thuyền ấy, như vậy chúng ta có thể vượt
đến bờ kia một cách an toàn. |
8. Khi cần, thuyền sẽ ích cho
ta,
Ta chẳng rời ngay đảo ấy mà,
Song nếu Bắc thần kia nói đúng,
Thần Nam chỉ nói chuyện điên rồ,
Ta cùng lúc ấy lên thuyền cả,
Nơi có b́nh an, sẽ vội qua, |
1682. Na ve sugaṇhaṃ paṭhamena
seṭṭhaṃ
kaniṭṭhamāpāthagataṃ gahetvā,
yo cīdha majjhaṃ paviceyya gaṇhati
save naro seṭṭhamupeti ṭhānaṃ.
|
1682. Thật vật, trong khi không
nắm lấy theo người thứ nhất là điều đúng đắn, sau khi nắm lấy
việc đi theo quan điểm của người sau, và ở đây, người nào suy
xét điều ở giữa rồi nắm lấy, chính người nam ấy đạt đến vị thế
tốt nhất.” |
9. Đừng xem ưu, liệt, chuyện
vừa nghe,
Ai để lọt tai cả mọi phe,
Xét kỹ, rồi theo phần chính giữa,
Bến b́nh an nhất, kéo neo về. |
1683. Yathāpi te sāgaravārimajjhe
sakammunā sotthiṃ vahiṃsu vāṇijā,
anāgatatthaṃ paṭivijjhiyāna
appampi nāccetisa bhūripañño.
|
1683. “Cũng giống như những người
kia ở giữa ḍng nước của biển cả, những người thương buôn đă đi
đến sự an toàn nhờ vào hành động của bản thân. Sau khi thấu
triệt lợi ích ở tương lai, người nào không bỏ qua dầu là việc có
tính chất nhỏ nhen, người ấy là vị có trí tuệ uyên bác.
|
10. Do nghiệp làm, như giữa
đại dương,
Nên người trí hiểu điều sâu kín,
Chẳng phạm ngày sau lỗi cỏn con. |
Trang 420: |
Trang 421:
|
1684. Bālā ca mohena rasānugiddhā
anāgataṃ appaṭivijjhiyatthaṃ,
paccuppanne sīdanti atthajāte
samuddamajjhe yathā te manussā.
|
1684. Và những kẻ ngu tham đắm
theo hương vị bởi v́ si mê, sau khi không thấu triệt lợi ích trong
tương lai, chúng ngồi yên trong hiện tại khi có sanh lên công
việc, giống như là những người đàn ông ấy (bị mất mạng) ở giữa
biển cả.
|
11. Kẻ ngu, khờ dại nuốt tham
lam,
Chẳng hiểu tương lai hiểm họa tràn,
Ch́m ngập trước nhu cầu hiện tại,
Như người tận số giữa trùng dương. |
1685. Anāgataṃ paṭikayirātha
kiccaṃ
mā maṃ kiccaṃ kiccakāle vyadhesi,
taṃ tādisaṃ paṭigata kiccakāriṃ
na taṃ kiccaṃ kiccakāle vyadhetī ”ti.
3. Samuddavāṇijajātakaṃ.
|
1685. Nên làm trước công việc cần
làm cho thời vị lai (nghĩ rằng): ‘Mong rằng công việc không làm
cho tôi rối loạn vào thời điểm của công việc.’ Vị ấy là người
như thế ấy, có sự thực hiện công việc cần phải làm trước thời
hạn. Công việc không làm cho vị ấy rối loạn vào thời điểm của
công việc.”
3. Bổn sanh Biển Cả Và Thương Buôn.
[466]
|
12. Hăy làm xong việc trước
khi cần,
Đừng để túng cùng phải khổ thân,
Ai đúng thời làm điều thiết yếu,
Chẳng hề lâm cảnh ngộ đau buồn.
Câu chuyện
466 |
1686. Kāmaṃ kāmayamānassa tassa
ce taṃ samijjhati,
addhā pītimano hoti laddhā macco yadicchati.
|
1686. “Đối với người ham muốn về
dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, đương nhiên (người ấy)
có ư vui mừng sau khi đă đạt được điều con người ước muốn.
|
1. Người nào mong muốn việc trong ḷng,
Khi ước nguyện kia được vẹn toàn,
Chắc chắn tâm tràn đầy hỷ lạc,
V́ nay đă đạt được cầu mong. |
1687. Kāmaṃ kāmayamānassa tassa
ce taṃ samijjhati,
tato naṃ aparaṃ kāme ghamme taṇhaṃva vindati.
|
1687. Đối với người ham muốn về
dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, từ đó người ấy có các
dục nhiều thêm, tựa như người có cơn khát vào mùa nóng nực. |
2. Người nào ước vọng việc trong ḷng,
Khi ước vọng kia được vẹn tṛn,
Ước vọng tràn vào tâm trí măi,
Như đang cơn khát gặp oi nồng. |
1688. Gavaṃva siṅgino siṅgaṃ
vaḍḍhamānassa vaḍḍhati,
evaṃ mandassa posassa bālassa avijānato,
bhiyyo taṇhā pipāsā ca vaḍḍhamānassa vaḍḍhati.
|
1688. Tựa như loài ḅ, khi con ḅ
có sừng phát triển (cơ thể) th́ cái sừng của nó cũng phát triển;
tương tự như vậy, đối với kẻ đần độn, ngu dốt, không nhận thức,
tham ái và sự khao khát phát triển nhiều thêm khi kẻ ấy tăng
trưởng (về tuổi tác). |
3. Trong loại ḅ trâu có mọc sừng,
Sừng kia càng lớn, cứ to dần,
Cũng như tâm địa người vô trí
Chẳng biết chút ǵ, chẳng biệt phân,
Trong lúc người kia càng lớn tuổi,
Th́ niềm khát vọng cứ gia tăng. |
1689. Pathavyā sāliyavakaṃ
gavāssaṃ dāsaporisaṃ,
datvāpi nālamekassa iti vidvā samañcare.
|
1689. Thậm chí sau khi đă ban cho
ruộng lúa sāli, ruộng lúa mạch, ḅ, ngựa, nô lệ, và con người ở
trái đất cũng không đủ cho một người, sau khi biết như thế, nên
hành xử công bằng. |
4. Đem hết lúa ngô ở cơi đời,
Ḅ trâu, nô lệ, ngựa, cho người,
Vẫn chưa đầy đủ, này nên biết,
Và giữ đường công chính măi thôi. |
1690. Rājā pasayha paṭhaviṃ
vijetvā
sasāgarantaṃ mahimāvasanto,
oraṃ samuddassa atittarūpo
pāraṃ samuddassapi patthayetha.
|
1690. Vị vua sau khi chiến thắng
trái đất bằng vũ lực,
trong khi cư ngụ ở phần đất liền có đại dương bao quanh,
có vẻ không thỏa măn bờ bên này của biển cả,
luôn bờ bên kia của biển cả cũng mong mỏi. |
5. Một vua chinh phục cả phàm trần,
Trần thế trải ḿnh tận đại dương,
Ở phía bên này chưa thỏa măn,
Vật ngoài khơi vẫn thấy thèm thuồng. |
1691. Yāva anussaraṃ kāme manasā
titti nājjhagā,
tato nivattā paṭikkamma disvā,
te ve tittā ye paññāya tittā.
|
1691. Chừng nào c̣n tưởng nhớ các
dục ở trong tâm, người ấy c̣n chưa đạt đến sự thỏa măn. Sau khi
nh́n thấy điều bất lợi, từ đó quay trở lại, dừng lại; những
người nào đă được thỏa măn về trí tuệ, những người ấy quả thật
đă được thỏa măn.
|
6. Dục tham ấp ủ ở trong tim,
Tri túc chẳng hề phát khởi lên,
Người tránh dục tham t́m đúng thuốc,
Người nào tri túc, trí như nguyền. |
Trang 422:
|
Trang 423: |
1692. Paññāya tittinaṃ seṭṭhaṃ na
so kāmehi tappati,
paññāya tittaṃ purisaṃ taṇhā na kurute vasaṃ.
|
1692. Sự thỏa măn về trí tuệ là
cao quư, người ấy không bị đốt nóng bởi các dục. Với người đă
được thỏa măn về trí tuệ, tham ái không tạo được quyền lực. |
7. Tối ưu là trí tuệ đầy tràn,
Tham dục không hề đốt cháy tan,
Chẳng có bao giờ người trí tuệ
Lại làm nô lệ của ḷng tham. |
1693. Apacinetheva kāmāni
appicchassa alolupo,
samuddamatto puriso na so kāmehi tappati.
|
1693. Thật vậy, nên giảm thiểu
các dục, nên là người có ham muốn ít, không tham lam. Người (có
trí tuệ lớn lao) ước chừng như biển cả, người ấy không bị đốt
nóng bởi các dục. |
8. Thiểu dục, phá tan mọi dục tham,
Chẳng ham chiếm đoạt cả trăm phần,
Người kia cũng giống như ḷng biển,
Chẳng bị đốt thiêu bởi dục tầm,
Như thợ giày luôn bào guốc, dép,
Hợp làn da bọc ở bàn chân. |
1694. Rathakārova cammassa
parikantaṃ upāhanaṃ,
yaṃ yaṃ cajati kāmānaṃ taṃ taṃ sampajjate sukhaṃ,
sabbañce sukhamiccheyya sabbe kāme pariccaje.
|
1694. Tựa như người thợ thuộc da
đang cắt miếng da tạo thành chiếc giày, mỗi khi dứt bỏ được chút
nào của các dục, th́ đạt đến hạnh phúc được chút ấy. Nếu mong
muốn hạnh phúc trọn vẹn, th́ nên ĺa bỏ tất cả các dục.” |
9. Cứ mỗi dục tham đuợc bỏ đi,
Một niềm hạnh phúc đến liền khi,
Người nào muốn hưởng tṛn an lạc,
Phải bỏ mọi tham dục tức th́. |
1695. Aṭṭha te bhāsitā gāthā
sabbā honti sahassiyo,
patigaṇha mahābrahme sādhetaṃ tava bhāsitaṃ.
|
1695. “Tám kệ ngôn đă được ngài
nói, tất cả đều xứng đáng bạc ngàn. Thưa vị Bà-la-môn vĩ đại,
xin ngài hăy thọ nhận. Lành thay lời đă nói ấy của ngài.” |
10. Tám khúc chàng ngâm đáng tám ngàn,
Ngàn vàng mỗi khúc, Đại La-môn,
Xin chàng nhận số vàng, v́ lẽ
Lời nói chàng nay thật dịu dàng. |
1696. Na me attho sahassehi
satehi nahutehi vā,
pacchimaṃ bhāsato gāthaṃ kāme me na rato mano.
|
1696. “Không có lợi ích ǵ cho ta
với một ngàn, với một trăm, hay với mười ngàn. Trong khi ta nói
kệ ngôn cuối cùng, tâm ư của ta không c̣n thích thú ở dục.”
|
11. Dù có ngàn, muôn, triệu, triệu lần
Ngàn vàng, ta cũng chẳng mơ màng,
Như lời kệ cuối vừa ngâm ấy,
Tham dục tâm ta đă lụi tàn. |
1697. Bhaddo vatāyaṃ māṇavako
sabbalokavidū muni,
yo taṇhaṃ dukkhajananiṃ parijānāti paṇḍito ”ti.
4. Kāmajātakaṃ.
|
1697. “Chàng thanh niên thật sự
hiền thiện, là bậc hiền sĩ hiểu biết tất cả thế gian, là bậc
sáng suốt biết toàn diện tham ái, nguồn sanh ra khổ đau.”
4. Bổn sanh Các Dục. [467]
|
12. Quả thiếu sinh này thiện trí nhân,
Am tường mọi kiến thức trần gian,
Dục tham kia chính là sinh mẫu
Của khổ đau, chàng mới vạch trần.
Câu chuyện
467 |
1698. Dasa khalu imāni ṭhānāni
yāni pubbe akāritvā,
sa pacchā manutappati iccāha rājā janasandho.
|
1698. “‘Quả thật, có mười sự việc
này, mà người nào trước đây đă không làm th́ sau này người ấy bị
hối tiếc,’ đức vua Janasandha đă nói như thế. |
1. Chúa tể Ja-na nói thế này,
Có mười điều đúng thật như vầy,
Nếu người quên việc thi hành chúng,
Th́ kẻ đó liền chịu khổ ngay! |
1699. Aladdhā cittaṃ tapati pubbe
asamudānitaṃ,
na pubbe dhanamesissaṃ iti pacchānutappati.
|
1699. Tâm nóng nảy sau khi không
đạt được vật đă không
được tích
lũy trước đây (nghĩ rằng): ‘Trước đây
ta đă không tầm cầu tài sản,’ sau này người ấy bị hối tiếc như
thế. |
2. Không tạo, chẳng tích trữ
đúng thời,
Ḷng kia giày xéo khổ đau hoài,
Về sau hối tiếc v́ suy nghĩ:
"Không kiếm giàu sang thuở trước rồi!" |
1700. Sakyarūpaṃ pure santaṃ mayā
sippaṃ na sikkhitaṃ,
kicchā vutti asippassa iti pacchānutappati.
|
1700. ‘Trong khi có vẻ có khả
năng (để học tập) trước đây, nghề nghiệp đă không được ta học
tập, sự sinh sống của người không có nghề nghiệp là khó khăn,’
sau này người ấy bị hối tiếc như thế. |
3. Với người không học, sống gian
lao!
Suy nghĩ, ăn năn, nó khổ sầu:
Kiến thức mà nay cần sử dụng,
Nó không thèm học trước đi nào! |
1701. Kūṭavedī pure āsiṃ pisuno
piṭṭhimaṃsiko,
caṇḍo ca pharuso cāsiṃ iti pacchānutappati.
|
1701. ‘Trước đây, ta đă là người
biết giả dối, đâm thọc, nói lén sau lưng. Và ta đă là người tàn
nhẫn và thô lỗ,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế. |
4. Hai lưỡi ngày xưa, chẳng thật
thà,
Vọng ngôn, ư ngữ chẳng nhân từ:
Xưa ta độc ác và cay nghiệt,
Nay thấy nhân duyên khổ đó mà. |
1702. Pāṇātipātī pure āsiṃ luddo
cāsiṃ anāriyo,
bhūtānaṃ nāvadāyissaṃ iti pacchānutappati.
|
1702. ‘Trước đây, ta đă có sự
giết hại sanh mạng và đă là người hung dữ, không thánh thiện. Ta
đă không thương xót các sinh linh,’ sau này người ấy bị hối tiếc
như thế. |
5. Xưa ta sát hại thật hung
tàn,
Chẳng một người nào được phát ban,
V́ việc đáng khinh này, (tự nhủ),
Nay ta phải chịu lắm buồn than. |
1703. Bahūsu vata santīsu
anapādāsu itthisu,
paradāraṃ asevissaṃ iti pacchānutappati.
|
1703. ‘Thật vậy, trong khi đang
có nhiều người phụ nữ không cưới hỏi, tôi đă quyến rũ vợ của
người khác,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.
|
6. Nó nghĩ, xưa ta lắm thiếp
thê,
Ta đành mắc nợ đám người kia,
V́ ta bỏ chúng theo nàng khác,
Việc ấy, nay ta hối tiếc ghê! |
Trang 424: |
Trang 425: |
1704. Bahumhi vata santamhi
annapāne upaṭṭhite,
na pubbe adadiṃ dānaṃ iti pacchānutappati.
|
1704. ‘Thật vậy, trước đây ta đă
không ban phát vật thí trong khi có nhiều cơm nước được sẵn
sàng,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế. |
7. Xưa đă chứa đầy thức uống
ăn,
Nay buồn, nó hối tiếc vô ngần,
Nghĩ rằng nó chẳng bao giờ cả
Thuở trước đem ban bố một lần. |
1705. Mātaraṃ pitaraṃ vāpi
jiṇṇake gatayobbane,
pahū santo na posissaṃ iti pacchānutappati.
|
1705. 'Trong khi có khả năng, ta
đă không nuôi dưỡng mẹ hoặc luôn cả cha đă già nua, đă qua thời
tuổi trẻ,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế. |
8. Nó khổ v́ khi có thể làm,
Nó không lo phụng dưỡng chăm nom
Mẹ cha nay đă thành già yếu,
Tuổi trẻ ngày nay đă lụi tàn. |
1706. Ācariyamanusatthāraṃ
sabbakāmarasāharaṃ,
pitaraṃ atimaññissaṃ iti pacchānutappati.
|
1706. ‘Ta đă khi dễ người cha,
người thầy và người cố vấn đang đem lại cho ta sự hưởng thụ mọi
điều ước muốn,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế. |
9. V́ đă khinh thường vị giáo
sư,
Những người khuyên bảo hoặc ông cha
Cố làm nó đạt tṛn tâm nguyện,
Việc ấy gây đau khổ xót xa. |
1707. Samaṇe brāhmaṇe cāpi
sīlavante bahussute,
na pubbe payirupāsissaṃ iti pacchānutappati.
|
1707. ‘Trước đây, ta đă không hộ
độ các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, luôn cả những bậc có giới
hạnh, các vị nghe nhiều hiểu rộng,’ sau này người ấy bị hối tiếc
như thế. |
10. Đối với Sa-môn quá hững
hờ,
Nhiều nhà tu khổ hạnh ngày xưa
Sống đời thánh thiện và thông thái,
Khiến nó ăn năn tự bấy giờ. |
1708. Sādhu hoti tapo ciṇṇo santo
ca payirupāsito,
na ca pubbe tapo ciṇṇo iti pacchānutappati.
|
1708. ‘Lành thay hạnh
khắc
khổ đă
được hành tŕ, và bậc an tịnh đă được hộ độ! Và trước đây hạnh
khắc khổ đă không được ta hành tŕ,’ sau này người ấy bị hối
tiếc như thế. |
11. Khổ hạnh thực thi thật tốt
lành,
Thiện nhân thường vẫn được tôn vinh,
Trước kia nó chẳng làm điều đó,
Nay phải buồn khi kể chuyện ḿnh. |
1709. Yo ca etāni ṭhānāni yoniso
paṭipajjati,
karaṃ purisakiccāni sa pacchā nānutappatī ”ti.
5. Janasandhajātakaṃ.
|
1709. Và người nào thực hành đúng
đường lối các sự việc này trong khi làm các phận sự của con
người, người ấy sau này không bị hối tiếc.”
5. Bổn sanh Đức Vua Janasandha. [468]
|
12. Mười điều nhờ trí tuệ khôn
ngoan,
Người thực hiện cho được vẹn toàn,
Đối với mọi người làm phận sự,
Sẽ không hề phải chịu ăn năn.
Câu chuyện
468 |
1710. Kaṇho kaṇho ca ghoro ca
sukkadāṭho patāpavā,
baddho pañcahi rajjūhi kiṃ dhīra sunakho tava.
|
1710. “Thưa bậc sáng trí, có phải
con chó đen tuyền và ghê rợn, có răng nanh trắng hếu, oai vệ, bị
buộc lại bằng năm sợi dây thừng là của ngài?” |
1.Chó săn đen sẫm buộc năm
dây,
Nanh trắng nhe ra cả miệng này,
Oai vệ gây kinh hoàng dữ dội,
Nó làm ǵ được với người đây? |
1711. Nāyaṃ migānaṃ atthāya
usīnara bhavissati,
manussānaṃ anayo hutvā tadā kaṇho pamokkhati.
|
1711. “Tâu đức vua Usīnara, con
chó này sẽ không v́ mục đích (ăn thịt) các loài thú; khi nào có
sự sai trái của con người, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
|
2. Chó đen chẳng đến để săn
mồi,
Song nó làm công dụng trị người,
Đại đế U-si này, phải biết.
Khi ta thả lỏng nó ra thôi. |
1712. Pattahatthā samaṇakā muṇḍā
saṃghāṭipārutā,
naṅgalehi kasissanti tadā kaṇho pamokkhati.
|
1712. Khi nào các hạng Sa-môn,
cạo đầu, tay cầm b́nh bát, trùm y hai lớp, sẽ cày đất với các
lưỡi cày, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra. |
3. Giả làm Tăng chúng, bát
trong tay,
Ḿnh khoác chiếc y, cạo tóc này,
Lại muốn theo nghề cày ruộng đất,
Th́ ta sẽ thả Chó đen ngay. |
1713. Tapassiniyo pabbajitā muṇḍā
saṃghāṭipārutā,
yadā loke gamissanti tadā kaṇho pamokkhati.
|
1713. Khi nào các nữ đạo sĩ khổ
hạnh, đă được xuất gia, cạo đầu, trùm y hai lớp, sẽ đi đến thế
gian (ngũ dục), khi ấy con chó đen sẽ được thả ra. |
4. Khi nào Ni chúng Giáo đoàn
này,
Đắp một chiếc y, cạo tóc vầy,
Lại thấy đua chen đời thế tục,
Th́ ta sẽ thả Chó đen đây. |
1714. Dīghuttaroṭṭhā jaṭilā
paṅkadantā rajassirā,
iṇaṃ vodāya gacchanti tadā kaṇho pamokkhati.
|
1714. Khi nào các vị đạo sĩ bện
tóc, có râu dài, có răng bị đóng bợn, với đầu lấm bụi, đi đến
việc cho vay lấy lăi, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra. |
5. Khi nhà tu lại muốn cho vay
Nặng lăi, môi trên chẫu thật dài,
Cả miệng răng hôi, đầu tóc bẩn,
Th́ ta sẽ thả Chó đen này. |
1715. Adhicca vede sāvittiṃ
yaññatantrañca brahmaṇā,
bhatikāya yajissanti tadā kaṇho pamokkhati.
|
1715. Khi nào các vị Bà-la-môn,
sau khi học thuộc ḷng kinh Sāvittī thuộc Vệ Đà và tŕnh tự của
lễ tế, sẽ làm lễ tế với tiền công, khi ấy con chó đen sẽ được
thả ra.
|
6. Giáo sĩ không kinh thánh,
lễ đàn,
Lại dùng hết cả mọi tài năng
Tế đàn v́ chí ham tiền của,
Lúc ấy ta liền thả Chó săn. |
Trang 426: |
Trang 427: |
1716. Mātaraṃ pitaraṃ vāpi
jiṇṇake gatayobbane,
pahū santā na bharanti tadā kaṇho pamokkhati.
|
1716. Khi nào những đứa con không
đỡ đần mẹ hoặc luôn cả cha đă già nua, đă qua thời tuổi trẻ,
trong khi
chúng
có khả năng, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra. |
7. Nay đă già nua, nhị lăo
thân
Đến thời tàn tạ hết ngày xuân,
Nó không cấp dưỡng dù dư sức,
Chống nó, ta liền thả Chó săn! |
1717. Mātaraṃ pitaraṃ vāpi1
jiṇṇake gatayobbane,
bālā tumheti vakkhanti tadā kaṇho pamokkhati.
|
1717. Khi nào chúng sẽ nói với mẹ
hoặc luôn cả cha đă già nua, đă qua thời tuổi trẻ, rằng: ‘Các
người là ngu dốt,’ khi ấy con chó đen sẽ được thả ra. |
8. Kẻ nào đối với mẹ cha già
Nay đến lúc tàn, xuân đă qua,
Kêu:"Các người kia, đồ ngốc dại!"
Chống y, ta thả Chó săn ra. |
1718. Ācariyabhariyaṃ
sakhābhariyaṃ mātulāniṃ pitucchayaṃ,
yadā loke gamissanti tadā kaṇho pamokkhati.
|
1718. Khi nào ở thế gian, chúng
sẽ đi đến (quyến rũ) vợ của thầy, vợ của bạn, vợ của cậu, em của
cha (cô, o), khi ấy con chó đen sẽ được thả ra. |
9. Khi đàn ông tán vợ người
ta,
Vợ của thầy hay của bạn nhà,
Em của cha ḿnh hay vợ cậu,
Th́ ta liền thả Chó đen ra. |
1719. Asicammaṃ gahetvāna khaggaṃ
paggayha brāhmaṇā,
panthaghātaṃ karissanti tadā kaṇho pamokkhati.
|
1719. Khi nào các vị Bà-la-môn
cầm lấy gươm với cái khiên rồi giơ gươm lên và sẽ gây ra việc
giết chóc ở đường lộ, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra. |
10. Khi mộc trên vai, kiếm
dưới tay,
Làm quân cường đạo, vũ trang đầy,
Chiến trường giết hại, và ăn cướp,
Ta sẽ thả ra Hắc cẩu này. |
1720. Sukkacchavī vedhaverā
thullabāhu apātubhā,
mithubhedaṃ karissanti tadā kaṇho pamokkhati.
|
1720. Khi nào những đứa con trai
của các góa phụ, có nước da trắng, có cánh tay lớn, không trung
thực, sẽ thực hiện việc chia rẽ bạn bè, khi ấy con chó đen sẽ
được thả ra. |
11. Con trai bà góa dưỡng da
ngà,
Vô dụng không tài giỏi việc nhà,
Lực lưỡng, chỉ gây tṛ đánh lộn,
Th́ ta sẽ thả Chó săn ra. |
1721. Māyāvino nekatikā
asappurisacintakā,
yadā loke bhavissanti tadā kaṇho pamokkhatī ”ti.
6. Mahākaṇhajātakaṃ.
|
1721. Khi nào những kẻ xảo trá,
gian lận, có ư nghĩ gây khổ đau cho người khác sẽ xuất hiện ở
thế gian, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
6. Bổn sanh Con Chó Đen Lớn. [469]
|
12. Khi tâm người chứa rẫy ư
tà,
Những kẻ dối gian, chẳng thật thà,
Quanh quẩn vào ra trong thế giới,
Th́ ta sẽ thả Chó đen mà.
Câu chuyện
469 |
1722. Neva kiṇāmi napi vikkiṇāmi
na cāpi me sannicayo ca atthi,
sukiccharūpaṃ vatidaṃ parittaṃ
patthodano nālamayaṃ duvinnaṃ.
|
1722. “Ta chẳng những không mua,
cũng không bán. Thậm chí, sự tích lũy của ta cũng không có. Thật
vậy, phần có được vô cùng khó khăn này là ít ỏi. Lượng cơm này
không đủ cho hai người.” |
1. Ta không phải kẻ bán buôn
rong,
Không của cho vay hoặc biếu không,
Chút cháo thí này rất khó kiếm,
Chẳng vừa dọn đủ cả ta, ông! |
1723. Appamhā appakaṃ dajjaṃ
anumajjhato majjhakaṃ,
bahumhā bahukaṃ dajjā adānaṃ nūpapajjati.
|
1723. “Có chút ít th́ nên bố thí
chút ít, có vừa phải nên bố thí vừa phải, có nhiều nên bố thí
nhiều, không bố thí là không thích đáng.
|
2. Của ít cũng nên bố thí mà,
Của vừa cũng phải lấy cho vừa,
Của nhiều càng phải cho nhiều nữa,
Không thí, vấn đề chẳng đặt ra. |
1724. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi
dānāni bhuñja ca,
ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ.
|
1724. Này Kosiya, ta nói với ông
về điều ấy. Ông hăy bố thí các vật thí và ông hăy thọ hưởng. Ông
hăy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một ḿnh không thể đạt
được hạnh phúc.”
|
3. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một ḿnh ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cơi trời. |
Trang 428: |
Trang 429: |
1725. Moghañcassa hutaṃ hoti
moghañcāpi samīhitaṃ,
atithismiṃ yo nisinnasmiṃ eko bhuñjati bhojanaṃ.
|
1725. “Người nào một ḿnh hưởng
thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), sự cúng tế của người
này là vô ích, luôn cả việc nỗ lực (về tài sản) cũng là vô ích.
|
4. Nào có ích chi lễ tế thần,
Hoài công ước vọng ở trong tâm,
Nếu ông ăn cháo và không muốn
Cho thực khách đây một ít phần. |
1726. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi
dānāni bhuñja ca,
ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ.
|
1726. Này Kosiya, ta nói với ông
về điều ấy. Ông hăy bố thí các vật thí và ông hăy thọ hưởng. Ông
hăy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một ḿnh không thể đạt
được hạnh phúc.”
|
5. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một ḿnh ăn thực phẩm
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cơi trời. |
1727. Saccaṃ tassa hutaṃ hoti
saccaṃ cāpi samīhitaṃ,
atithismiṃ yo nisinnasmiṃ neko bhuñjati bhojanaṃ.
|
1727. “Người nào không một ḿnh
hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), sự cúng tế của
người ấy là sự thật, luôn cả việc nỗ lực (về tài sản) cũng là sự
thật. |
6. Chân thật ông dâng lễ tế
thần,
Chẳng hoài công ước nguyện trong tâm,
Nếu ông không một ḿnh ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần. |
1728. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi
dānāni bhuñja ca,
ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ.
|
1728. Này Kosiya, ta nói với ông
về điều ấy. Ông hăy bố thí các vật thí và ông hăy thọ hưởng. Ông
hăy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một ḿnh không thể đạt
được hạnh phúc.”
|
7. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một ḿnh ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cơi trời. |
1729. Sarañca juhati poso
bāhukāya gayāya ca,
doṇe timbarutitthasmiṃ sīghasote mahāvahe.
|
1729. “Người cúng tế ở hồ nước,
và ở nhiều nơi, ở Gayā, ở Doṇa, ở bến nước Timbaru, ở ḍng nước
chảy xiết, ở sông lớn. |
8. Hồ, lạch Ga-yà chảy xiết
ḍng,
Ai đem dâng lễ cúng chư thần,
Đến Tim-ba hoặc Do-na ấy
Sóng nước trôi nhanh lớp chập chùng, |
1730. Atra cassa hutaṃ hoti atra
cassa samīhitaṃ,
atithismiṃ yo nisinnasmiṃ neko bhuñjati bhojanaṃ.
|
1730. Sự cúng tế của người này là
ở đây, luôn cả việc nỗ lực (về tài sản) cũng là ở đây. Người này
không một ḿnh hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước). |
Hưởng kết quả do dâng lễ vật,
Đạt thành ước nguyện ở trong ḷng,
Nếu không ngồi một ḿnh ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần. |
1731. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi
dānāni bhuñja ca,
ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ.
|
1731. Này Kosiya, ta nói với ông
về điều ấy. Ông hăy bố thí các vật thí và ông hăy thọ hưởng. Ông
hăy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một ḿnh không thể đạt
được hạnh phúc.”
|
9. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một ḿnh ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cơi trời. |
1732. Baḷisaṃ hi so niggilati
dīghasuttaṃ sabandhanaṃ,
atithismiṃ yo nisinnasmiṃ eko bhuñjati bhojanaṃ.
|
1732. “Người nào một ḿnh hưởng
thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), kẻ ấy nuốt phải lưỡi
câu có sợi cước dài, có sự trói buộc. |
10. Như cá tham ăn vội nuốt
mau
Miếng mồi buộc ở chiếc cần câu,
Người ngồi riêng biệt và ăn cháo
Khi có khách này kế cận sao? |
1733. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi
dānāni bhuñja ca,
ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ.
|
1733. Này Kosiya, ta nói với ông
về điều ấy. Ông hăy bố thí các vật thí và ông hăy thọ hưởng. Ông
hăy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một ḿnh không thể đạt
được hạnh phúc.”
|
11. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một ḿnh ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cơi trời. |
1734. Uḷāravaṇṇā vata brāhmaṇā
ime
ayañca vo sunakho kissa hetu,
uccāvacaṃ vaṇṇanibhaṃ vikubbati
akkhātha no brāhmaṇā ke nu tumhe.
|
1734. “Thật vậy, các vị Bà-la-môn
này có màu sắc cao quư. Và đây là con chó của các ngài, nguyên
nhân là thế nào? Nó biến hóa thành cao, thấp, có màu sắc và ánh
sáng. Thưa các vị Bà-la-môn, xin các ngài hăy nói cho chúng tôi,
các ngài là những người nào vậy?”
|
12. Các ngài Thánh giả
Bà-la-môn
Đang đứng trên cao giữa cơi không,
Con chó các ngài sao lạ vậy
Thay h́nh đổi dạng cả ngàn lần,
Dầu là chỉ một ḿnh con chó,
Các vị là ai, nói thật chân. |
Trang 430: |
Trang 431:
|
1735. Cando ca suriyo ca ubho
idhāgatā
ayaṃ pana mātali devasārathi,
sakkohamasmi tidasānamindo
eso ca kho pañcasikhoti vuccati.
|
1735. “Canda và Suriya, cả hai đă
đi đến nơi này. C̣n đây là Mātali, người điều khiển Thiên xa. Ta
là Sakka, Chúa của cơi Tam Thập. Và vị kia được gọi là
Pañcasikha. |
13. Ḱa! Can-da với Su-ri-ya,
Và nọ, Mà-ta-li quản xa,
Thiên chủ là ta đây, Đế Thích
Ở trên Thiên giới Ba-mươi ba,
Pañ-ca-si chính là Thần nhạc
Ngũ Kế đuổi ngươi chạy đấy mà. |
1736. Pāṇissarā mudiṅgā ca
murajāḷambarāni ca,
suttamenaṃ pabodhenti paṭibuddho ca nandati.
|
1736. Các điệu nhạc, các trống
nhỏ, các trống một mặt, và các trống lớn đánh thức người đang
ngủ ấy. Và người ấy vui mừng khi được thức tỉnh. |
14. Trống to, trống nhỏ thảy
vang lừng
Đánh thức thần dây khỏi giấc nồng,
Khi tỉnh, nhạc hân hoan trổi khúc
Làm tim chàng rộn ră vui mừng. |
1737. Ye kecime maccharino
kadariyā
paribhāsakā samaṇabrāhmaṇānaṃ,
idheva nikkhippa sarīradehaṃ
kāyassa bhedā nirayaṃ vajanti.
|
1737. Những người nào là những
người bỏn xẻn, keo kiệt, những kẻ mắng nhiếc các vị Sa- môn và
Bà-la-môn, th́ ngay ở nơi này, sau khi rời bỏ cơ thể thân xác,
d0 sự hoại ră của thân, chúng di chuyển đến địa ngục. |
15. Sinh ra keo kiệt, kẻ xan
tham
Khinh bỉ Bà-la-môn, đạo nhân,
Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
Phải vào địa ngục trú thân tàn. |
1738. Ye kecime suggatimāsasānā
dhamme ṭhitā saṃyame saṃvibhāge,
idheva nikkhippa sarīradehaṃ
kāyassa bhedā sugatiṃ vajanti.
|
1738. Những người nào là những
người đang mong mỏi cơi Trời, đứng vững ở đạo đức, ở sự tự chế
ngự, và ở sự san sẻ, th́ ngay ở nơi này, sau khi rời bỏ cơ thể
thân xác, d0 sự hoại ră của thân, chúng di chuyển đến chốn an
vui. |
16. Kiên tŕ chánh hạnh, đạt
thiên đàng,
Bố thí, điền thân, tránh lỗi lầm,
Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
Sẽ lên thiên giới sống b́nh an. |
1739. Tvaṃ nosi ñāti purimāsu
jātisu
so maccharī rosako pāpadhammo,
taveva atthāya idhāgatamhā
mā pāpadhammo nirayaṃ apattha.
|
1739. Ông là thân quyến của chúng
tôi ở những kiếp sống trước. Ông đây bỏn xẻn, giận dữ, có bản
chất ác độc. V́ lợi ích cho chính ông mà chúng tôi đă đi đến nơi
này. Mong sao cho kẻ có bản chất ác độc chớ đọa vào địa ngục.” |
17. Dù trong đời trước có thân
t́nh,
Ngươi hận sân, keo kiệt, ác hành,
Nên chính v́ ngươi, ta giáng thế,
Ngăn ngươi khỏi địa ngục lai sinh. |
1740. Addhā hi maṃ vo hitakāmā
yaṃ maṃ samanusāsatha,
sohaṃ tathā karissāmi sabbaṃ vuttaṃ hitesihi.
|
1740. “Các ngài quả thật là những
người mong muốn điều lợi ích cho tôi, nên các ngài mới chỉ dạy
cho tôi. Tôi đây sẽ thực hành đúng theo mọi điều đă được nói ra
bởi các bậc hữu ân. |
18. Như vầy ngài thuyết giảng
cho ta,
Chắc chắn ngài mong lợi lạc mà,
Ta sẽ theo lời ngài khuyến giáo,
Như ta hiểu được ư sâu xa. |
1741. Esāhamajjeva upāramāmi
nacāpahaṃ kiñci kareyya pāpaṃ,
nacāpi me kiñcimadeyyamatthi
nacāpadatvā udakampahaṃ pibe.
|
1741. Ngay từ hôm nay, tôi đây
ngưng hẳn. Tôi cũng không làm bất cứ điều ǵ ác độc, cũng không
có bất cứ cái ǵ mà tôi không thể bố thí, và tôi cũng không thể
uống nước sau khi tôi chưa bố thí. |
19. Từ nay ta bỏ thói xan
tham,
Kiêng kỵ việc hung ác bạo tàn,
Bố thí gia tài, cho tất cả,
Dù là chén nước cũng chia phần. |
1742. Evañca me dadato sabbakālaṃ
bhogā ime vāsava khīyissanti,
tato ahaṃ pabbajissāmi sakka
hitvāna kāmāni yathodhikānī ”ti.
7. Kosiyajātakaṃ.
|
1742. Và trong khi tôi bố thí vào
mọi lúc như vậy, thưa vị chúa của chư Thiên, các của cải này sẽ
cạn kiệt. Kế đó, tôi sẽ xuất gia, thưa Thiên chủ Sakka, sau khi
tôi từ bỏ các dục tùy theo mức giới hạn (của chúng).”
7. Bổn sanh Kẻ Keo Kiệt Kosiya. [470]
|
20. Sak-ka, bố thí măi như
vầy,
Tài sản nhà ta giảm sút ngay,
Ta quyết sẽ tu hành xuất thế,
Tham dục loại nào cũng chạy bay.
Câu chuyện
470 |
Trang 432:
|
Trang 433:
|
1743. Yesaṃ na kadāci bhūtapubbaṃ
sakkhiṃ sattapadampi imasmiṃ loke,
jātā amittā duve sahāyā
paṭisandhāya caranti kissa hetu.
|
1743. “Đối với những kẻ thù trước
đây chưa bao giờ có sự đối diện trong khoảng cách bảy bước chân
ở thế gian này, giờ họ đă trở thành hai người bạn sống liên kết
với nhau; nguyên nhân là thế nào? |
5. Hai kẻ thù theo lẽ tự nhiên,
Chưa từng bảy bước đứng kề bên,
Trở thành bạn thiết không rời nữa,
Duyên cớ là đâu? Các bậc hiền! |
1744. Yadi me ajja pātarāsakāle
paṇhaṃ na sakkuṇeyyātha vattumetaṃ,
raṭṭhā pabbājayissāmi vo sabbe
na hi mattho duppaññajātikehi.
|
1744. Nếu hôm nay, vào bữa ăn
sáng của trẫm, các khanh không có khả năng để trả lời câu hỏi
ấy, trẫm sẽ trục xuất tất cả các khanh ra khỏi xứ sở, bởi v́ với
những kẻ có tuệ tồi th́ không có lợi ích cho trẫm.” |
6. Nếu không giải đáp trước trưa nay,
Trẫm sẽ đuổi luôn hết cả bầy,
Trẫm không cần những người ngu nữa,
Vậy hăy t́m lời giải đáp ngay. |
1745. Mahājanasamāgamamhi ghore
janakolāhalasaṅgamamhi jāte,
vikkhittamanā anekacittā
pañhaṃ na sakkuṇoma vattumetaṃ.
|
1745. “Ở nơi tập trung đông đảo
dân chúng, ở nơi hăi hùng, ở cuộc hội họp ồn ào của loài người, chúng
tôi có ư nghĩ bị rối loạn, có tâm tánh thất thường, không có khả
năng để trả lời câu hỏi ấy. |
7. Giữa đám đông người tụ tập trung,
Thật ồn ào quá, trí mông lung,
Không sao tập hợp tư duy được,
Để giải đáp ngay, tâu Đại vương. |
1746. Ekaggacittā ca ekamekā
rahasigatā atthaṃ nicintayitvā,
paviveke sammasitvāna dhīrā
atha vakkhanti janinda atthametaṃ.
|
1746. Tâu vị chúa của loài người,
các bậc sáng trí với tâm được chuyên nhất và chỉ một ḿnh, đă đi
đến nơi thanh vắng, sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng về ư nghĩa, sau
khi nắm vững được vấn đề ở nơi cô quạnh, các vị sẽ nói về ư
nghĩa ấy.” |
8. Nhưng hễ khi nào được độc cư,
B́nh tâm tĩnh trí để suy tư,
Vấn đề xem xét cho tường tận,
Sẽ giải đáp ngay, hăy đợi chờ. |
1747. Uggaputtarājaputtiyānaṃ
urabbhamaṃsaṃ piyaṃ manāpaṃ,
na te sunakhassa adenti maṃsaṃ
atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.
|
1747. “Đối với các trai trẻ ḍng
quư tộc và các trai trẻ thuộc hoàng gia, thịt cừu là đáng yêu,
đáng chuộng. Những vị ấy không ăn thịt chó. Rồi t́nh thân hữu có
thể xảy ra giữa con cừu và con chó.” |
9. Bọn hành khất trẻ, các ông hoàng,
Rất thích thịt dê đực ngọt ngon,
Thịt chó, họ đều không thọ dụng,
Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng. |
1748. Cammaṃ vihananti eḷakassa
assapiṭṭhattharaṇasukhassa hetu,
na ca te sunakhassa attharanti
atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.
|
1748. Họ lột da của loài cừu v́
nguyên nhân của sự thoải mái trong việc trải lên lưng ngựa. Và
họ không trải lên bằng da của loài chó. Rồi t́nh thân hữu có thể
xảy ra giữa con cừu và con chó.” |
10. Họ lấy da dê phía núi rừng,
Phủ che ngựa quư ở trên lưng,
C̣n da của chó không dùng được,
Nhưng chó dê cùng kết bạn thân. |
1749. Āvellitasiṅgiko hi meṇḍo
na ca sunakhassa visāṇāni atthi,
tiṇabhakkho maṃsabhojano ca
atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.
|
1749. Bởi v́ cừu là loài thú có
sừng cong, và không có các sừng ở loài chó. Cừu có thức nhai là
cỏ và chó có thức ăn là thịt. Rồi t́nh thân hữu có thể xảy ra
giữa con cừu và con chó.” |
11. Cặp sừng cong xoắn, chú dê rừng,
Nhưng chó lại không có cặp sừng,
Một con ăn cỏ, con ăn thịt,
Tuy thế, chó, dê, kết bạn thân. |
1750. Tiṇamāsi palāsamāsi meṇḍo
na ca sunakho tiṇamāsi no palāsaṃ,
gaṇheyya suṇo sasaṃ biḷāraṃ
atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.
|
1750. Cừu là loài ăn cỏ và là
loài ăn lá. C̣n chó không ăn cỏ và không ăn lá. Chó có thể săn
bắt thỏ và mèo. Rồi t́nh thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và
con chó.”
|
12. Cừu dê ăn cỏ, lá cây luôn,
Cỏ, lá th́ con chó chẳng ăn,
Chó thích ăn mèo hay thịt thỏ,
Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng. |
Trang 434:
|
Trang 435:
|
1751. Aḍḍhaṭṭhapādo catuppadassa
meṇḍo aṭṭhanakho adissamāno,
chādiyamāharati ayaṃ imassa
maṃsaṃ āharati ayaṃ amussa.
|
1751. “Là con thú bốn chân thuộc
loài tứ túc, con cừu có tám móng (mỗi chân có hai móng) không bị
phát hiện. Con chó này mang lại vật che đậy (rơm, cỏ) cho con
cừu kia; con cừu kia mang lại thịt cho con chó này. |
13. Con dê cao tám tất dùng chân,
Tám móng, không ai thấy, vội mang,
Món thịt về cho con chó ấy,
Chó đem cỏ đến chú dê rừng. |
1752. Pāsādagato videhaseṭṭho
vitihāraṃ aññamañña bhojanānaṃ,
addakkhi kira sakkhi taṃ janindo
bobhukkhassa ca puṇṇamukhassa cetaṃ.
|
1752. Vị thủ lĩnh xứ sở Videha đi
đến ṭa lâu đài, vị chúa của loài người đă thực sự nh́n thấy tận
mắt việc trao đổi về thức ăn giữa con thú này với con kia. Và
điều ấy xảy ra giữa con chó và con cừu.” |
14.
Vi-đề-ha, chúa toàn dân chúng,
Đứng tại thượng lầu tận mắt trông,
Việc lấy thức ăn trao đổi ấy,
Giữa dê, chó kết mối thân bằng. |
1753. Lābhā vata me anapparūpā
yassa medisā paṇḍitā kulamhi,
pañhassa gambhīragataṃ nipuṇamatthaṃ
paṭivijjhanti subhāsitena dhīrā.
|
1753. “Thật vậy, lợi ích có h́nh
thức không phải là nhỏ đă có cho trẫm, là việc trẫm đây có được
các bậc sáng suốt như thế này ở gia tộc! Bằng lời nói khéo léo,
các bậc sáng trí thấu triệt ư nghĩa vi tế và sâu sắc của câu
hỏi. |
15. Trẫm có các bậc hiền giả tại triều
Thật là ích lợi biết bao nhiêu,
Vấn đề tế nhị và uyên áo,
Họ thấu triệt, lời lẽ tối ưu. |
1754. Assatarīrathañca ekamekaṃ
phītaṃ gāmavarañca ekamekaṃ,
sabbesaṃ vo dammi paṇḍitānaṃ
paramapatītamano subhāsitenā ”ti.
8. Meṇḍakapañhajātakaṃ.
|
1754. Với tâm ư được hài ḷng tột
đỉnh, trẫm sẽ ban cho tất cả các bậc sáng suốt các khanh mỗi vị
một cỗ xe kéo bởi lừa cái, mỗi vị một ngôi làng hạng nhất, giàu
có.”
8. Bổn sanh Câu Hỏi Về Con Cừu. [471]
|
16. Cứ mỗi hiền khanh, trẫm thưởng ban,
Một xe, la cái, một ngôi làng,
Giàu sang thượng hạng cho người trí,
Trẫm thích thú lời lẽ ngọc vàng !
Câu chuyện
471 |
1755. Nādiṭṭhā parato dosaṃ
aṇuṃthūlāni sabbaso,
issaro paṇaye daṇḍaṃ sāmaṃ appaṭivekkhiya.
|
1755. “Sau khi chưa nh́n thấy tội
lỗi của người khác, sau khi chưa tự ḿnh xem xét các tội nhỏ lớn
về mọi khía cạnh, vị chúa tể không nên ra lệnh h́nh phạt. |
1. Vua chẳng nên trừng phạt tội
h́nh
Mà không nghe lư lẽ phân minh,
Cũng không tự xét suy cho kỹ
Mọi mặt, dù to, nhỏ thật t́nh. |
1756. Yo ca appaṭivekkhitvā
daṇḍaṃ kubbati khattiyo,
sakaṇṭakaṃ so gilati jaccandhova samakkhikaṃ.
|
1756. Và vị Sát-đế-lỵ nào không
xem xét mà thực hành h́nh phạt, vị ấy là kẻ nuốt phải xương, tựa
như người mù bẩm sinh ăn phải ruồi. |
2. Tướng quân trừng phạt lỗi lầm
sai
Trước lúc đem ra xử hẳn ḥi,
Giống kẻ sinh ra mù cặp mắt,
Ăn toàn xương xẩu lẫn đàn ruồi. |
1757. Adaṇḍiyaṃ daṇḍayati
daṇḍiyañca adaṇḍiyaṃ,
andhova visamaṃ maggaṃ na jānāti samāsamaṃ.
|
1757. Người gia h́nh kẻ không
đáng bị phạt và không gia h́nh kẻ đáng bị phạt, tựa như người mù
đi ở đường gồ ghề không nhận biết chỗ bằng phẳng và không bằng
phẳng. |
3. Ai phạt kẻ không có tội ǵ,
Để người có tội lọt qua đi,
Khác ǵ hơn một người mù mắt
Bụi trên đường cái quá gồ ghề. |
1758. Yo ca etāni ṭhānāni
aṇuṃthūlāni sabbaso,
sudiṭṭhaṃ cānusāseyya sace voharitum arahati.
|
1758. Và vị nào có thể chỉ dạy
sau khi đă xem xét kỹ lưỡng các sự việc lớn nhỏ ấy về mọi khía
cạnh, vị ấy quả thật xứng đáng để phát biểu. |
4. Người xét xem toàn thể sự t́nh
Trong việc dù to, nhỏ thật rành,
Cai trị nước nhà theo cách ấy
Xứng ngôi chúa tể giữa quần sinh. |
1759. Nekantamudunā sakkā
ekantatikhiṇena vā,
attaṃ mahante ṭhāpetuṃ tasmā ubhayamācare.
|
1759. Không thể thiết lập bản
thân vào địa vị quan trọng theo cách quá nhu nhược hay theo cách
quá khắc nghiệt; v́ thế, nên hành xử cả hai cách.
|
5. Người nào ở địa vị cao sang
Xử sự không nên quá dễ dàng,
Cũng chẳng nên làm khe khắt quá,
Song song thực hiện cả đôi đàng. |
Trang 436:
|
Trang 437:
|
1760. Paribhūto mudu hoti
atitikkho ca veravā,
etañca ubhayaṃ ñatvā anumajjhaṃ samācare.
|
1760. Người nhu nhược th́ bị
khinh miệt, và người quá khắc nghiệt th́ có kẻ thù nghịch. Sau
khi biết cả hai điều ấy, nên thực hành theo lối trung dung. |
6. Quá dễ dàng hay bị miệt khinh,
Khắt khe thường nổi trận lôi đ́nh,
Giữa hai điều ấy cần thông hiểu
Và giữ đường trung chính hợp t́nh. |
1761. Bahumpi ratto bhāseyya
duṭṭhopi bahubhāsati,
na itthikāraṇā rāja puttaṃ ghātetumarahasi.
|
1761. Người bị ái luyến có thể
nói nhiều, người bị sân hận cũng nói nhiều. Tâu bệ hạ, không v́
nguyên nhân phụ nữ, mà ngài có thể giết hại con trai.” |
7. Người đang nổi giận, hỡi Quân
vương,
Cũng nói nhiều như kẻ bất lương,
Và thế là đừng v́ phụ nữ,
Giết vương nhi nối dơi tông đường. |
1762. Sabbo ca loko ekanto itthī
ca ayamekikā,
tenāhaṃ paṭipajjissaṃ gaccha pakkhipatheva naṃ.
|
1762. “Tất cả thế gian là một
phe, và người phụ nữ này chỉ một ḿnh. V́ thế, trẫm sẽ thực hành
theo lời vương hậu. Ngươi hăy đi. Các khanh hăy ném nó xuống
vực.” |
8. Cả nước này đang đứng một bên,
Bên kia ái hậu một ḿnh riêng,
Với nàng, tuy vậy, ta khăng khít,
Thả nó vào hang, hăy cút liền! |
1763. Anekatāle narake gambhīre
ca suduttare,
pātito giriduggasmiṃ kena tvaṃ tattha nāmari.
|
1763. “Con đă bị ném vào khe núi,
ở địa ngục có nhiều cây thốt-nốt, sâu thẳm, và khó vượt qua; v́
sao con đă không chết ở nơi ấy?” |
9. Con bị thả vào miệng vực sâu,
Bên sườn núi dựng, dốc đèo cao,
Chẳng ai cứu giúp, rừng dừa rậm,
Con vẫn b́nh an bởi cách nào? |
1764. Nāgo nāgabalo tattha
thāmavā girisānujo,
paccaggahī maṃ bhogehi tenāhaṃ tattha nāmariṃ.
|
1764. “Ở nơi ấy, có con rắn có
oai lực của loài rắn, có sức mạnh, được sanh ra ở vùng núi đồi,
đă đón nhận con bằng những ṿng thân thể cuộn tṛn; v́ thế, con
đă không chết ở nơi ấy.” |
10. Một mănh xà kia đủ lực hùng
Sinh ra sống dưới đất trong rừng,
Bắt con cuộn lấy trong ḿnh rắn,
Con được b́nh an, thoát tử thần. |
1765. Ehi taṃ paṭinessāmi
rājaputta sakaṃ gharaṃ,
rajjaṃ kāresi bhaddante kiṃ araññe karissasi.
|
1765. “Này hoàng tử, hăy đến,
trẫm sẽ đưa con về lại nhà của ḿnh. Con hăy cai trị xứ sở. Này
người đạo đức, con sẽ làm ǵ ở trong rừng?” |
11.Cha sẽ đưa con, hỡi thiếu nhi,
Quay về cung điện của cha đi,
Con làm ǵ nữa trong rừng núi,
Hạnh phúc con nay sẽ trị v́. |
1766. Yathā gilitvā baḷisaṃ
uddhareyya salohitaṃ,
uddharitvā sukhī assa evaṃ passāmi attanaṃ.
|
1766. “Giống như con cá cắn lưỡi
câu, khi kéo lên th́ có chảy máu. Sau khi đă kéo lên th́ có sự
thoải mái; con nh́n thấy bản thân ḿnh tương tự như vậy.” |
12. Kẻ nào đă nuốt móc mồi câu,
Khi kéo móc ra, máu đỏ trào,
Kéo được móc rồi là hạnh phúc,
Ḷng con hỷ lạc tuyệt thanh cao. |
1767. Kinnu tvaṃ baḷisaṃ brūsi
kiṃ tvaṃ brūsi salohitaṃ,
kinnu tvaṃ ubbhataṃ brūsi tamme akkhāhi pucchito.
|
1767. “Con nói cái ǵ về lưỡi
câu? Con nói cái ǵ về có chảy máu? Con nói cái ǵ về đă được
kéo lên? Được hỏi, con hăy giải thích điều ấy cho trẫm.” |
13. Sao con nói đến móc mồi câu?
Con nói vậy sao đến máu đào?
Con lại nói sao về rút móc?
Cha nay muốn biết việc kia nào? |
1768. Kāmāhaṃ baḷisaṃ brūmi
hatthiassaṃ salohitaṃ,
cattāhaṃ ubbhataṃ brūmi evaṃ jānāhi khattiya.
|
1768. “Con nói sự ham muốn là
lưỡi câu, voi và ngựa là có chảy máu. Con nói đă bị từ bỏ là đă
được kéo lên. Thưa vị Sát- đế- lỵ, ngài hăy nhận biết như thế.”
|
14. Dục tham là chính móc mồi
câu,
Con nói ngựa voi, chính máu đào,
Con rút ra nhờ ĺa thế tục,
Cha cần biết chuyện ấy, muôn tâu. |
1769. Ciñcāmāṇavikā mātā
devadatto ca me pitā,
ānando paṇḍito nāgo sāriputto ca devatā,
ahaṃ tadā rājaputto evaṃ dhāretha jātakan ”ti.
9. Mahāpadumajātakaṃ.
|
1769. “Kiều nữ Ciñcā là vương
hậu, Devadatta là vua cha của
Ta, Ānanda là con rắn sáng suốt,
Sāriputta là vị Thiên nhân, khi ấy
Ta
là vị hoàng tử, các ngươi
hăy ghi nhớ câu chuyện Bổn Sanh là như vậy.”
9. Bổn sanh Hoàng Tử Paduma Vĩ Đại. [472]
|
15. Kế mẫu ta là ả Cin-ca,
Đề-bà-đạt, ấy chính vua cha,
Ta là thái tử Liên Hoa nọ,
C̣n vị thần non thuở ấy là
Xá-lợi-phất giờ đây Trưởng lăo,
Thiện xà chúa nọ A-nan-đà,
Và này Tăng chúng, Ta tuyên bố
Kết thúc Tiền thân ấy của ta.
Câu chuyện
472 |
Trang 438: |
Trang 439:
|
1770. Kāni kammāni kubbānaṃ
kathaṃ viññū parakkame,
amittaṃ jāneyya medhāvī disvā sutvā ca paṇḍito.
|
1770. “Sau khi nh́n thấy và lằng
nghe kẻ đang làm những hành động ǵ mà các bậc sáng suốt có sự
thông minh, có thể nhận biết đây là thù? Người hiểu biết nên nỗ
lực như thế nào (để nhận ra kẻ ấy)?” |
1. Làm sao người trí phải tinh
cần,
Phân biệt làm sao được thực chân,
Những việc làm nào tai mắt thấy
Tỏ rằng kẻ ấy chính cừu nhân? |
1771. Na naṃ umhayate disvā na ca
naṃ paṭinandati,
cakkhūni cassa na dadāti paṭilomaṃ ca vattati.
|
1771. “Gă không tươi cười sau khi
thấy vị kia, không vui mừng với vị kia, không đáp trả những ánh
mắt của vị này, và xử sự theo cách ngược lại. |
2. Khi ngài thăm, nó chẳng
tươi cười,
Nó chẳng tỏ ra muốn đón mời
Nó chẳng quay nh́n theo cách ấy,
Và trả lời không có với ngài. |
1772. Amitte tassa bhajati mitte
tassa na sevati,
vaṇṇakāme nivāreti akkosante pasaṃsati.
|
1772. Gă giao thiệp với những kẻ
thù của vị ấy, không phục vụ các bạn bè của vị ấy, ngăn chận
những người có ư muốn tán dương, khen ngợi những kẻ đang khiển
trách (vị ấy). |
3. Kẻ thù ngài, nó lại tôn
vinh,
Bạn thiết của ngài, nó miệt khinh,
Nó cản người khen ngài tốt đẹp,
Những người phỉ báng, nó hoan nghênh. |
1773. Guyhañca tassa nakkhāti
tassa guyhaṃ na gūhati,
kammaṃ tassa na vaṇṇeti paññassa nappasaṃsati.
|
1773. Gă không nói điều bí mật
cho vị ấy, không che dấu điều bí mật của vị ấy, không tán dương
việc làm của vị ấy, không khen ngợi trí tuệ của vị này. |
4. Nó chẳng hề tâm sự mảy may,
Chuyện ngài tâm sự, nó phơi bày,
Việc ngài làm, chẳng hề khen tốt,
Cũng chẳng hề khen trí tuệ ngài. |
1774. Abhave nandati tassa bhave
tassa na nandati,
acchariyaṃ bhojanaṃ laddhā tassa nuppajjate sati,
tato naṃ nānukampati aho sopi labheyyito.
|
1774. Gă hân hoan ở sự không
thành công của vị ấy, không hân hoan ở sự thành công của vị ấy.
Sau khi nhận được thức ăn tuyệt hảo, không tưởng nhớ đến vị ấy.
Gă không có ḷng trắc ẩn đến vị kia từ phần chia ở nơi ấy, (nói
rằng): ‘Ồ, thậm chí vị ấy cũng có thể nhận phần từ nơi này.’ |
5. Khi ngài hạnh phúc nó không
mừng,
Ô nhục ngài mang, nó thỏa ḷng,
Nếu được món ngon, không nghĩ tới
Tên ngài, trong dạ chẳng buồn thương,
Cũng không kêu lớn: ô này bạn,
Ta ước bạn ta cũng có phần! |
1775. Iccete soḷasākārā
amittasmiṃ patiṭṭhitā,
yehi amittaṃ jāneyya disvā sutvā ca1 paṇḍito.
|
1775. Như thế, mười sáu biểu hiện
này được thiết lập ở kẻ thù; nhờ vào những điều ấy, người sáng
suốt sau khi nh́n thấy và lằng nghe có thể nhận biết đây là
thù.” |
6. Mười sáu điều trên, cớ rơ
ràng
Cho ngài thấy được một cừu nhân,
Nếu người có trí nào nghe thấy,
Sẽ biết kẻ thù để nhận chân. |
1776. Kāni kammāni kubbānaṃ
kathaṃ viññū parakkame,
mittaṃ jāneyya medhāvī disvā sutvā ca1 paṇḍito.
|
1776. “Sau khi nh́n thấy và lằng
nghe người đang làm những hành động ǵ mà các bậc sáng suốt có
sự thông minh có thể nhận biết đây là bạn? Người hiểu biết nên
nỗ lực như thế nào (để nhận ra người ấy)?” |
7. Làm sao người trí phải tinh
cần
Phân biệt làm sao được thực chân,
Các việc làm nào tai mắt thấy
Tỏ ra người ấy chính thân bằng? |
1777. Pavuttaṃ cassa sarati
āgataṃ abhinandati,
tato kelāyito hoti vācāya paṭinandati.
|
1777. “Người ấy ghi nhớ việc đă
đi xa của vị này, vui mừng việc trở lại của vị này. Do việc ấy,
người được yêu thích đáp lại sự hân hoan qua lời nói. |
8. Kẻ ấy nhớ người lúc vắng
xa,
Mừng vui khi bạn trở về nhà,
Trong ḷng hoan hỷ lên cao độ,
Chàng cất tiếng liền đón rước ta. |
1778. Mitte tasseva bhajati
amitte tassa na sevati,
akkosante nivāreti vaṇṇakāme pasaṃsati.
|
1778. Người ấy giao thiệp với
những bạn bè của chính vị ấy, không phục vụ các kẻ thù của vị
ấy, ngăn chận những kẻ đang khiển trách, khen ngợi những người
có ư muốn tán dương (vị ấy). |
9. Chàng chẳng tôn vinh kẻ
chống ngài,
Chỉ ưa phụng sự bạn ngài thôi,
Những ai phỉ báng, chàng ngăn cản,
Ai tán tụng ngài, lại thấy vui. |
1779. Guyhañca tassa akkhāti
tassa guyhañca gūhati,
kammañca tassa vaṇṇati paññaṃ tassa pasaṃsati.
|
1779. Người ấy nói điều bí mật
cho vị ấy, che đậy điều bí mật của vị ấy, tán dương việc làm của
vị ấy, không khen ngợi trí tuệ của vị này.
|
10. Chàng kể nhiều tâm sự với
ngài,
Chuyện ngài tâm sự, chẳng phơi bày,
Đề cao những việc ngài làm được.
Khen ngợi tài năng bạn thật hay. |
Trang 440:
|
Trang 441:
|
1780. Bhave ca nandati tassa
abhave tassa na nandati,
acchariyaṃ bhojanaṃ laddhā tassa uppajjate sati,
tato taṃ anukampati aho sopi labheyyito.
|
1780. Người ấy hân hoan ở sự
thành công của vị ấy, không hân hoan ở sự không thành công của
vị ấy. Sau khi nhận được thức ăn tuyệt hảo, liền tưởng nhớ đến
vị ấy. Người ấy có ḷng trắc ẩn đến vị ấy từ phần chia ở nơi đó,
(nói rằng): ‘Ồ, thậm chí vị ấy cũng có thể nhận phần từ nơi
này.’ |
11. Chàng khổ ḷng khi bạn ố
danh
Chàng vui khi nghe bạn được an lành
Nếu được ǵ cao lương mỹ vị,
Chàng liền nghĩ đến bạn thân ḿnh,
Cảm thương ngài quá, chàng kêu lớn:
Ta ước ao phần bạn được dành! |
1781. Iccete soḷasākārā mittasmiṃ
suppatiṭṭhitā,
yehi mittaṃ ca jāneyya disvā sutvā ca paṇḍito ”ti.
10. Mittāmittajātakaṃ.
|
1781. Như thế, mười sáu biểu hiện
này khéo được thiết lập ở người bạn, nhờ vào những điều ấy,
người sáng suốt sau khi nh́n thấy và lằng nghe có thể nhận biết
đây là bạn.”
10. Bổn sanh Bạn Và Thù. [473]
|
12. Mười sáu điều trên ấy
chứng minh,
Rơ ràng xác định bạn thân t́nh,
Nếu người có trí nào nghe thấy,
Có thể nói ngay bạn chí thành.
Câu chuyện
473 |
TASSUDDĀNAṂ
Lahucitta sāsāla kasanti puna
atha kāma dasakhaluṭṭhāna varo,
atha kaṇha sukosiya meṇḍavaro
padumo puna mittavare dasa.
Dvādasakanipāto niṭṭhito.
--ooOoo-- |
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Có tâm khinh suất, Thần cây May
Mắn, họ cày đất,
rồi chuyện về dục, và quả thật có
mười sự việc,
rồi con chó đen, Kosiya tốt lành,
và chuyện con cừu,
hoàng tử Paduma, rồi chuyện bạn
hữu, là mười.
Nhóm Mười Hai Kệ Ngôn được chấm dứt.
--ooOoo-- |
<Trang trước> |
<Trang Kế> |