XIII.
TERASAKANIPĀTO - NHÓM MƯỜI BA KỆ NGÔN
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 442: |
Trang 443:
|
1782. Ahāsi me ambaphalāni pubbe
aṇūni thūlāni ca brahmacārī,
teheva mantehi nadāni tuyhaṃ
dumapphalā pātubhavanti brahme.
|
1782. “Này người hành Phạm hạnh,
trước đây khanh đã mang lại cho trẫm những trái xoài nhỏ và lớn.
Này Bà-la-môn, giờ đây cũng với các chú thuật ấy của khanh, các
trái cây không còn hiện ra nữa.” |
1. Trước kia, khi trẫm bảo
chàng trai,
Lớn nhỏ, chàng đem đủ loại xoài,
Nay trái trên cây không xuất hiện,
Dù chàng vẫn đọc chú kia hoài. |
1783. Nakkhattayogaṃ paṭimānayāmi
khaṇaṃ muhuttaṃ na maṃ tosayanti,
nakkhattayogañca khaṇañca laddhā
athāharissambaphalaṃ pahūtaṃ.
|
1783. “Thần chờ đợi sự liên kết
giữa các vì tinh tú. Thời điểm và giờ giấc không làm thần ưng ý.
Sau khi đạt được sự liên kết giữa các vì tinh tú và thời điểm,
lúc ấy thần sẽ mang lại trái cây vô số.” |
2. Thời gian không hợp: đợi
khi nào,
Kết hợp hành tinh giữa cõi cao,
Gặp gỡ đúng thời, giây phút đến,
Sẽ dâng xoài chín thật dồi dào! |
1784. Nakkhattayogaṃ na pure
abhāṇi
khaṇaṃ muhuttaṃ na pure asaṃsi,
athāharī ambaphalaṃ pahūtaṃ
vaṇṇena gandhena rasenupetaṃ.
|
1784. “Trước đây, khanh đã không
nói đến sự liên kết giữa các vì tinh tú. Trước đây, khanh đã
không tuyên bố về thời điểm và giờ giấc. Khi ấy, khanh đã mang
lại vô số trái xoài có màu sắc, có mùi thơm, có hương vị. |
3. Bữa trước, chàng không nói
lúc nào,
Hay mùa gặp gỡ các vì sao,
Song xoài thơm ngát, ngon thanh vị,
Màu đẹp, chàng dâng trẫm biết bao! |
1785. Mantābhijappena purassa
tuyhaṃ
dumapphalā pātubhavanti brahme,
svājja na pāresi japampi mante
ayaṃ so ko nāma tavajja dhammo.
|
1785. Này Bà-la-môn, trước đây
với việc khấn vái các chú thuật của khanh đây thì các trái cây
hiện ra. Hôm nay, khanh đây không có thể làm được trong khi lẩm
nhẩm các chú thuật. Cái gọi là bản thể ấy của khanh hôm nay là
sao vậy?” |
4. Buổi nọ, chàng phô diễn
trái cây,
Nhờ câu thần chú, thật tài thay,
Nay không làm được, dù chàng đọc,
Trẫm muốn hỏi chàng ý nghĩa đây. |
1786. Caṇḍālaputto mama sampadāsi
dhammena mante pakatiñca saṃsi,
mā cassu me pucchito nāmagottaṃ
guyhittho mā taṃ vijaheyya manto.
|
1786. “Một người con trai dòng
dõi hạ tiện đã truyền dạy cho thần, đã tuyên bố về các chú thuật
và bản chất tự nhiên của chúng theo nguyên tắc rằng: ‘Khi được
hỏi về danh tánh và dòng họ của ta, ngươi chớ có giấu diếm. Chớ
để chú thuật rời bỏ ngươi.’ |
5. Một người hạ đẳng chính là
thầy,
Dạy đúng chú thần hữu hiệu đây,
Bảo: Ðược hỏi tên thầy, chủng tộc,
Con đừng giấu, kẻo chú thần bay! |
1787. Sohaṃ janindena janamhi
puṭṭho
makkhāhibhūto alikaṃ abhāsiṃ,
mantā ime brāhmaṇassāti micchā
pahīnamanto kapaṇo rudāmi.
|
1787. Bị chất vấn bởi vị chúa của
loài người ở nơi công chúng, thần đây, bị chế ngự bởi sự gian
xảo, đã nói điều không thật một cách sai trái rằng: ‘Các chú
thuật này là của vị Bà-la-môn.’ Với chú thuật đã mất hiệu
nghiệm, bị khốn khổ, thần khóc than.” |
6. Thần được hỏi thăm bởi Ðại
vương,
Dù thần đã biết thật tinh tường,
Vẫn mong lừa phỉnh, thần khai dối:
"Thần chú kia là của đạo nhân".
Thần nói dối, nay đành mất chú,
Ðắng cay, lòng tiếc việc si cuồng. |
1788. Eraṇḍā pucimandā vā athavā
pāḷibhaddakā,
madhuṃ madhutthiko vinde so hi tassa dumuttamo.
|
1788. “Người
có mục đích về mật có thể tìm thấy mật từ cây đu đủ, từ cây
pucimanda, hoặc từ cây
pāḷibhaddaka; đối với người
ấy, chính cây ấy là hạng nhất trong số các loại cây.
|
7. Cây nimb, hồng phượng hoặc
thầu dầu,
Bất cứ loại cây gỗ thế nào,
Nơi đó thấy tầng ong mật ngọt,
Người xem cây ấy tốt hàng đầu. |
Trang 444: |
Trang 445: |
|
1789. Khattiyā brāhmaṇā vessā
suddā caṇḍālapukkusā,
yasmā dhammā vijāneyya so hi tassa naruttamo.
|
1789. Kẻ có thể nhận thức được
các pháp từ người nào, từ vị Sát- đế- lỵ, từ vị Bà-la-môn, từ
người thương buôn, từ kẻ nô lệ, từ kẻ hạ tiện, hay từ người đổ
rác, đối với kẻ ấy, chính người ấy là hạng nhất trong số loài
người. |
8. Dù là Ðạo sĩ, Khat-ti-ya,
Vệ-xá, Chiên-đà-la, Thủ-đà,
Puk-ku-sa, người ta học tập,
Thảy đều tối thượng với đời ta. |
1790. Imassa daṇḍañca vadhañca
datvā
gale gahetvā khalayātha jammaṃ,
yo uttamatthaṃ kasirena laddhaṃ
mānātimānena vināsayittha.
|
1790. Hãy cho hình phạt và án từ
hình đối với gã này. Hãy nắm lấy kẻ đáng khinh ở cổ và đuổi nó
đi; gã là kẻ đã hủy hoại mục đích tối thượng đạt được do sự khó
nhọc, bởi vì quá sức kiêu ngạo." |
9. Trừng phạt oắt con tệ bạc
này,
Hoặc lôi cổ nó giết đi ngay,
Kho tàng đã được bao công khó,
Lại vứt vì tâm ngã mạn đầy! |
1791. Yathā samaṃ maññamāno
pateyya
sobbhaṃ guhaṃ narakaṃ pūtipādaṃ,
rajjūni vā akkame kaṇhasappaṃ
andho yathā jotimadhiṭṭhaheyya,
evampi maṃ tvaṃ khalitaṃ sapañña
pahīnamantassa punappasīda.
|
1791. “Giống như người rơi vào
cái hố, cái hang, vực thẳm, vũng cây thối mà tưởng là bằng
phẳng, hoặc dẫm lên con rắn độc màu đen tưởng là những sợi dây
thừng, giống như người mù bước vào ngọn lữa; cũng tương tự như
thế, thưa bậc có trí tuệ, xin ngài hãy thứ lỗi cho con. Xin ngài
hãy có niềm tin trở lại đối với kẻ đã đánh mất chú thuật.”
|
10. Kẻ nào nghĩ mặt đất san
bằng,
Ðang trải dài ra dưới gót chân,
Liền ngã vào ao, hồ, vực thẳm,
Vấp vào gốc rễ mục, long thân.
11. Vật giống sợi dây, kẻ giẫm lên,
Hóa ra con rắn, sắc đen huyền;
Kẻ kia sa cẳng vào trong lửa,
Vì mắt mù không thể xét xem.
12. Con phạm tội, nên mất chú thần,
Nhưng còn sư phụ, bậc Hiền nhân,
Xin thầy tha thứ cho lần nữa,
Nhìn tận mắt thầy, hưởng đặc ân! |
1792. Dhammena mante tava
sampadāsiṃ
tuvampi dhammena paṭiggahesi,
pakatimpi te attamano asaṃsiṃ
dhamme ṭhitaṃ taṃ na jaheyya manto.
|
1792. “Ta đã truyền dạy cho ngươi
các chú thuật theo nguyên tắc, ngươi cũng đã tiếp thu theo
nguyên tắc. Được hoan hỷ, ta cũng đã tuyên bố với ngươi về bản
chất tự nhiên của chúng rằng: ‘Chú thuật không từ bỏ ngươi, nếu
ngươi
duy trì nguyên tắc.’ |
13. Ðúng cách, ta từng dạy bảo
ngươi,
Chú kia, ngươi học đúng theo thời,
Ta đà giảng đủ phần tinh túy,
Ngươi khéo làm hay, chú chẳng rời. |
1793. So bāla mantaṃ kasirena
laddhaṃ
yaṃ dullabhaṃ ajja manussaloke,
kicchā laddhā jīvikaṃ appapañño
vināsayī alikaṃ bhāsamāno.
|
1793. Này kẻ ngu si, ngươi đây đã
đạt được chú thuật với sự khó nhọc, là điều khó đạt được hiện
nay ở thế giới loài người. Trong khi nói điều không thật, kẻ
thiểu trí đã hủy hoại phương kế sinh nhai sau khi đã đạt được
một cách khó khăn. |
14. Ai đầy cực nhọc, hỡi ngu
nhân,
Học chú thần gian khổ, khó khăn,
Ðối với loài người trên hạ giới,
Rồi khi kẻ ngốc đã làm ăn,
Cuối cùng nó lại đem quăng bỏ,
Cũng chỉ vì mồm nói dối gian. |
1794. Bālassa mūḷhassa aññūkatano
va
musā bhaṇantassa asaññatassa,
mante mayaṃ tādisake na dema
kuto mantā gaccha na mayha ruccasī ”ti.
1. Ambajātakaṃ.
|
1794. Đối với kẻ ngu si, đối với
bị mê muội, đối với kẻ vô ơn, đối với kẻ nói lời dối trá, đối
với kẻ không tự chế ngự, chúng tôi không ban cho các chú thuật
thuộc loại ấy. Các chú thuật là do đâu? Ngươi hãy đi đi, ngươi
không làm ta vui thích.”
1. Bổn Sanh Cây Xoài. [474]
|
15. Với kẻ ngu si muốn dối
gian,
Người không tự chế, kẻ vong ân,
Cút ngay, đừng hỏi gì ta nữa,
Ta chẳng còn cho nó chú thần!
Câu chuyện
474 |
Trang 446: |
Trang 447:
|
1795. Kuṭhārihattho puriso
vanamogayha tiṭṭhasi,
puṭṭho me samma akkhāhi kiṃ dāruṃ chetumicchasi.
|
1795. “Là người đàn ông cầm búa ở
tay, bạn đi sâu vào rừng rồi đứng yên. Này bạn, được ta hỏi, xin
bạn hãy trả lời, bạn muốn chặt cây gì?” |
1. Người đứng cầm rìu ở dưới
tay,
Ði lui, đi tới chốn rừng này,
Mau lên, nói rõ cho ta biết,
Ông muốn cây gì ở chốn đây? |
1796. Isso vanāni carasi samāni
visamāni ca,
puṭṭho me samma akkhāhi kiṃ dāruṃ nemiyā daḷhaṃ.
|
1796. “Là loài gấu, bạn rong ruổi
các khu rừng, các vùng đất bằng và các nơi lồi lõm. Này bạn,
được ta hỏi, xin bạn hãy trả lời, cây gì là chắc chắn để làm
vành bánh xe?” |
2. Trên đồi, dưới vực, khắp
đồng bằng,
Làm chúa, ngài đi khắp núi rừng,
Nói thật cho nghe, ta muốn hỏi,
Cây gì tốt để bánh xe lăn? |
1797. Neva sālo na khadiro
nāssakaṇṇo kuto dhavo,
rukkhova phandano nāma taṃ dāruṃ nemiyā daḷhanti.
|
1797. “Chẳng phải cây
sāla, không phải cây
khadira, không phải cây
assakaṇṇa, còn cây
dhava thì kém xa. Chính loại
cây có tên là phandana, cây ấy
là chắc chắn để làm bánh xe.” |
3. Chẳng keo, tai ngựa, chẳng
chiên-đàn,
Chẳng bụi cây nào tốt gỗ hơn,
Cây ấy, phượng hồng như vẫy gọi
Làm xe gỗ tốt nhất trần gian. |
1798. Kīdisānissa pattāni khandho
vā pana kīdiso,
puṭṭho me samma akkhāhi yathā jānemu phandanaṃ.
|
1798. “Các lá của cây ấy giống
như thế nào? Hoặc thêm nữa, thân của nó giống như thế nào? Này
bạn, được ta hỏi, xin bạn hãy trả lời để cho chúng tôi nhận biết
về cây phandana. |
4. Cành lá cây kia kiểu thế
nào,
Thân cây trông thấy, loại ra sao,
Mong ngài nói thật, ta xin hỏi,
Ðể biết loài cây ấy ở đâu? |
1799. Yassa sākhā palambanti
namanti na ca bhañjare,
so rukkho phandano nāma yassa mūle ahaṃ ṭhito.
|
1799. “Các cành của cây nào rũ
xuống, cong xuống và không gãy, cây ấy gọi là cây
phandana, ta đang đứng ở gốc
cây ấy. |
5. Này cây cành rũ thấy là đà,
Cong xuống, song không gãy trước giờ,
Cây phượng vĩ hồng này đấy bạn,
Gốc cây thường đứng của nhà ta. |
1800. Arānaṃ cakkanābhīnaṃ
īsānemi rathassa ca,
sabbassa te kammaniyo ayaṃ hessati phandano.
|
1800. Cây
phandana này sẽ là phù hợp cho
công việc của bạn về các cây căm, các ổ trục, về càng xe và vành
bánh xe, về mọi bộ phận của chiếc xe.” |
6. Ðể làm vành trục hoặc khung
càn,
Ðôi bánh, hay bất cứ mọi phần,
Cây giống như vầy đều ích lợi,
Cho người khi đóng chiếc xe lăn. |
1801. Iti phandanarukkhopi tāvade
ajjhabhāsatha,
mayhampi vacanaṃ atthi bhāradvāja suṇohi me.
|
1801. Như thế, thần cây
phandana ngay lập tức cũng đã
nói rằng: “Còn có lời nói này của ta, này vị Bhāradvāja, bạn hãy
lắng nghe tôi. |
7. Cây kia lập tức bảo như
vầy,
Ý nguyện ước ao được tỏ bày:
"Ta cũng có điều này muốn nói
Này Bhà-rad hỡi, hãy nghe đây! |
1802. Issassa upakhandhamhā
okkacca caturaṅgulaṃ,
tena nemiṃ pariharesi evaṃ daḷhataraṃ siyā.
|
1802. Từ phần thân trên của con
gấu, bạn hãy cắt dài xuống rộng bốn ngón tay. Bạn hãy bao vòng
quanh vành bánh xe với vật ấy, như vậy có thể chắc chắn hơn.
|
8. Từ bên vai chúa tể khu
rừng,
Anh hãy cắt ra rộng bốn phân,
Bao phủ da quanh vành gỗ ấy,
Rồi xe sẽ mạnh gấp đôi lần. |
1803. Iti phandanarukkhopi veraṃ
appesi tāvade,
jātānañca ajātānaṃ issānaṃ dukkhamāvahi.
|
1803. Như thế, thần cây
phandana liền tức thì cũng đã
kết oan trái và đã mang lại khổ đau cho các con gấu đã sanh ra
và còn chưa sanh ra.” |
9. Cây kia phút chốc nổi lôi
đình,
Trút xuống loài sư tử đã sinh,
Cả với loài chưa xuất hiện nữa,
Gây ra tàn sát khiến hồn kinh. |
1804. Icceva phandano issaṃ isso
ca pana phandanaṃ,
aññamaññaṃ vivādena aññamaññamaghātayuṃ.
|
1804. “Thật như thế, cây
phandana với con gấu, và hơn
nữa, con gấu với cây phandana,
chúng đã giết hại lẫn nhau do sự gây gỗ lẫn nhau. |
10. Cây phượng vĩ tranh đấu chúa
rừng,
Chúa rừng tranh đấu với cây thần,
Mỗi bên tranh chấp nhau như vậy,
Ðem lại bên kia họa tử vong. |
1805. Evameva manussesu vivādo
yattha jāyati,
mayūranaccaṃ naccanti yathā te issaphandanā.
|
1805. Tương tự y như thế, nơi nào
có sự gây gỗ sanh khởi ở giữa loài người, thì chúng nhảy múa
điệu múa của loài công, giống như con gấu và cây
phandana ấy vậy.
|
11. Vậy giữa người, nơi có hận
hiềm,
Hoặc là cãi cọ nổi hăng lên,
Khác nào thú dữ và cây gỗ,
Chúng nhảy như loài Công múa men. |
Trang 448:
|
Trang 449:
|
1806. Taṃ vo vadāmi bhaddaṃ vo
yāvantettha samāgatā,
sammodatha mā vivadittha mā hotha issaphandanā.
|
1806. Ta nói điều ấy cho các
ngươi. Sự tốt lành hãy có đến các ngươi, những người đã tụ hội ở
đây. Các ngươi hãy vui vẻ cùng nhau. Các ngươi chớ gây gỗ. Các
ngươi chớ là con gấu và cây phandana.
|
12. Ðây này Ta bảo, chính điều
lành,
Là lúc các ông thuận ý tình,
Hãy giữ đồng tâm, đừng cãi vã,
Như cây và thú đã thi hành. |
1807. Sāmaggimeva sikkhetha
buddhehetaṃ pasaṃsitaṃ,
sāmaggirato dhammaṭṭho yogakkhemā na dhaṃsatī ”ti.
2. Phandanajātakaṃ.
|
1807. Đúng vậy, các ngươi hãy học
tập sự hợp nhất; điều ấy đã được chư Phật ca ngợi. Người thích
thú sự hợp nhất, đứng vững ở thiện pháp, không làm tiêu hoại sự
an toàn đối với các mối ràng buộc.
2. Bổn Sanh Cây
Phandana. [475]
|
13. Nên tập bình an với mọi
người,
Ðiều này bậc trí tán dương hoài,
Ai mong an ổn và chân chánh,
Tối hậu bình an sẽ đạt thôi.
Câu chuyện
475 |
1808. Idheva haṃsa nipata piyaṃ
me tava dassanaṃ,
issarosi anuppatto yaṃ idhatthi pavedaya.
|
1808. “Thưa chim thiên nga, xin
chim hãy đáp xuống ở ngay đây. Sự xuất hiện của chim được trẫm
yêu thích. Chim là vị chúa tể vừa mới ngự đến. Có điều gì ở đây
(khiến chim lo ngại), xin chim cho biết. |
1. Chúa Thiên nga, đến đậu nơi
đây,
Lòng trẫm thiết tha diện kiến ngài,
Hãy chọn thứ gì ngài thấy được,
Nay ngài là chúa tể nơi này. |
1809. Savaṇena cekassa piyā
bhavanti
disvā panekassa viyeti chando,
disvā ca sutvā ca piyā bhavanti.
kaccinnu me piyyasi dassanena.
|
1809. Do việc nghe tiếng mà hình
thành các sự yêu mến đối với một người. Tuy nhiên, sau khi nhìn
thấy khiến sự mong muốn đối với một người tiêu tan. Các sự yêu
mến hình thành sau khi nhìn thấy và nghe tiếng, phải chăng chim
được trẫm yêu mến do việc nhìn thấy? |
2. Nhờ nghe nói đến người mình
yêu mến,
Mà tình yêu thương được dưỡng nuôi hoài,
Lòng nhớ nhung người vắng bóng dần phai,
Vì nghe, thấy, khiến người sinh lưu luyến,
Xin hãy cho ta đặc ân diện kiến. |
1810. Savaṇena piyo mesi bhiyyo
cāgamma dassanaṃ,
evaṃ piyadassano samāno vasa haṃsa mama santike.
|
1810. Chim được trẫm yêu mến do
việc nghe tiếng, và thêm nữa là việc nhìn thấy sau khi chim đi
đến. Thưa chim thiên nga, xin chim hãy sống gần bên trẫm.”
|
3. Giọng nói ngài thật thân ái
bên ta,
Diện kiến ngài còn thắm thiết hơn xa,
Vì ta thích được cùng ngài diện kiến,
Thiên nga hỡi, ở cùng ta, xin đến! |
1811. Vaseyyāma tavāgāre niccaṃ
sakkatapūjitā,
matto ca ekadā vajjā haṃsarājaṃ pacantu me.
|
1811. “Chúng tôi có thể ngụ ở căn
nhà của bệ hạ, được tôn trọng và được cúng dường thường xuyên.
Và một lúc nào đó, bị say sưa bệ hạ có thể nói rằng: ‘Các khanh
hãy nấu chín chim thiên nga chúa cho trẫm.’” |
4. Ví dù ta ở lại với Quân
vương,
Trong cảnh vinh quang dường ấy được ban,
Song ngày kia, choáng men nồng, Chúa thượng
Có thể truyền: "Ðem chúa chim ra nướng!". |
1812. Dhiratthu taṃ annapānaṃ
yamme piyataraṃ tayā,
na cāpi majjaṃ pāyāmi yāva me vacchasī ghare.
|
1812. “Thật xấu hổ thay nếu cơm
ăn nước uống lại được trẫm yêu mến hơn cả chim. Và trẫm cũng sẽ
không uống chất say chừng nào chim sẽ còn cư ngụ ở ngôi nhà của
trẫm.” |
5. Thức uống, ăn kia thật đáng
rủa nguyền
Nếu trẫm quý yêu hơn cả bạn hiền!
Trẫm không nếm, dầu giọt nào hay ngụm,
Bao lâu ngài ở lại đây cùng trẫm! |
1813. Suvijānaṃ sigālānaṃ
sakuntānañca vassitaṃ,
manussavassitaṃ rāja dubbijānataraṃ tato.
|
1813. “Tiếng kêu của những con
chó rừng và của những con chim còn dễ hiểu, tiếng kêu của con
người, tâu bệ hạ, lại khó hiểu hơn tiếng kêu kia. |
6. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng
chim muông,
Cũng rất dễ dàng được cảm thông,
Tiếng nói người đời, tuy rõ thế,
Vô cùng tối nghĩa, hỡi quân vương! |
1814. Api ce maññatī poso ñāti
mitto sakhāti vā,
yo pubbe sumano hutvā pacchā sampajjate diso.
|
1814. Thậm chí, nếu nghĩ rằng kẻ
nào trước đây đã có thiện ý là: ‘Thân quyến, bạn bè, hoặc thân
hữu,’ rồi về sau kẻ ấy trở thành thù nghịch. |
7. Con người thường nghĩ: "Bạn
thân mình,
Quyến thuộc là đây, bạn chí tình!".
Song tình bằng hữu thường hay mất,
Căm hận, oán thù lại khởi sinh. |
1815. Yasmiṃ mano nivisati
avidūre sahāpi so,
santikepi hi so dūre yasmā vivasate mano.
|
1815. Tâm ý gắn bó với người nào
thì người ấy không xa cách, mà còn là kề cận. Tâm ý xa lìa kẻ
nào, dầu cho kẻ ấy ở gần bên thì cũng sống xa rời.
|
8. Ai được ngài thương, cũng
quý ngài,
Gần ngài, dù ở tận phương trời,
Song người sống cận kề ngài đó,
Lòng ngài hờ hững, cũng xa vời. |
Trang 450: |
Trang 451:
|
1816. Antopi so hoti pasannacitto
pāraṃ samuddassa pasannacitto,
antopi yo hoti paduṭṭhacitto
pāraṃ samuddassa paduṭṭhacitto.
|
1816. Ngay khi sống trong nhà,
người ấy có tâm tốt lành, thì đi đến bên kia bờ đại dương cũng
có tâm tốt lành. Ngay khi sống trong nhà, người nào có tâm tồi
bại, thì đi đến bên kia bờ đại dương cũng có tâm tồi bại. |
9. Ai ở nhà ngài, dạ mến
thương,
Vẫn ân cần, dẫu cách trùng dương,
Nhà ngài ai ở, tâm thù nghịch,
Xa cách trùng dương, vẫn oán hờn! |
1817. Saṃvasantāpi vivasanti ye
disā te rathesabha,
ārā santo saṃvasanti manasā raṭṭhavaḍḍhana.
|
1817. Tâu đấng thủ lãnh xa binh,
những kẻ là thù nghịch, mặc dầu đang sống chung, chúng cũng sống
xa rời. Tâu bậc làm hưng thịnh xứ sở, những người đang ở xa
nhau, họ sống chung bằng tâm ý. |
10. Những người thù nghịch,
Chúa công ôi!
Dù ở gần nhau, vẫn cách vời.
Song hỡi Ðại vương-nuôi-quốc-độ,
Các hiền nhân kết hợp nhau hoài! |
1818. Aticiraṃ nivāsena piyo
bhavati appiyo,
āmanta kho taṃ gacchāma purā te homa appiyā.
|
1818. Do việc trú ngụ quá lâu,
người được yêu mến trở thành không được yêu mến. Thậy vậy, hãy
để chúng tôi thưa gởi với bệ hạ rồi ra đi, trước khi chúng tôi
trở thành những người không được bệ hạ yêu mến.” |
11. Ai ở quá lâu sẽ thấy rằng
Thân bằng có lúc hóa cừu nhân,
Trước khi để mất tình thân hữu,
Ta giã biệt ngài, cất bước chân. |
1819. Evaṃ ce yācamānānaṃ añjaliṃ
nāvabujjhasi,
paricārakānaṃ sattānaṃ vacanaṃ na karosi no,
evaṃ taṃ abhiyācāma puna kayirāsi pariyāyaṃ.
|
1819. “Như vậy, nếu chim không
ghi nhận sự chắp tay của những người đang cầu xin chim, chim
không thực hiện lời nói của chúng tôi, của những chúng sanh hộ
độ chim. Chúng tôi thỉnh cầu chim như vậy, mong chim có thể thực
hiện việc đến thăm lần nữa.” |
12. Dù trẫm chấp tay lại cố
nài,
Ngài không hề chịu để vào tai,
Chẳng dành lời nói cho bằng hữu
Tha thiết cầu mong giúp đỡ hoài.
Trẫm khát khao ngài ban đặc huệ:
Trở về đây viếng trẫm nay mai. |
1820. Evaṃ ce no viharataṃ
antarāyo na hessati,
tuyhaṃ cāpi mahārāja mayhaṃ vā raṭṭhavaḍḍhana,
appevanāma passema ahorattānam accaye ”ti.
3. Javanahaṃsajātakaṃ.
|
1820. “Như vậy, nếu nguy biến sẽ
không xảy đến cho chúng tôi khi đang còn sống, luôn cả cho ngài,
tâu đại vương, hoặc cho tôi, tâu bậc làm hưng thịnh đất nước, có
lẽ chúng ta sẽ còn gặp lại khi các ngày và đêm trôi qua.”
3. Bổn Sanh Chim Thiên Nga Thần Tốc. [476]
|
13. Nếu không gì gián đoạn
dòng đời,
Vì thử ngài, ta, Chúa thượng ôi!
Còn sống, hỡi Người-nuôi-đại-chúng,
Ta bay về lại chốn đây thôi,
Rồi ta còn dịp lành tương kiến,
Trong lúc ngày đêm lờ lững trôi.
Câu chuyện
476 |
1821. Na te kaṭṭhāni bhinnāni na
te udakamāhataṃ,
aggīpi te na hāsito kinnu mandeva jhāyasi.
|
1821. “Các thanh củi không được
con chẻ nhỏ, nước không được con mang lại, thậm chí ngọn lửa
không được con đốt lên; tại sao con lại trầm tư giống như kẻ ngu
khờ?” |
1. Không có củi nào được bổ
ra,
Và không kéo nước tự ao hồ,
Cũng không có lửa nào con nhóm,
Ðờ đẫn nằm sao giống kẻ rồ? |
1822. Na ussahe vane vatthuṃ
kassapāmantayāmi taṃ,
dukkho vāso araññasmiṃ raṭṭhaṃ icchāmi gantave.
|
1822. “Con không thể cố gắng để
sống ở rừng. Thưa Kassapa, con xin trình với cha. Sự cư ngụ ở
rừng là khổ. Con muốn đi đến tỉnh thành. |
2. Con không thể sống ở sơn
lâm,
Cuộc sống trong rừng thật khó khăn,
Con quyết điều này, Ca-diếp hỡi!
Con mong trở lại chốn phàm nhân. |
1823. Yathā ahaṃ ito gantvā
yasmiṃ janapade vasaṃ,
ācāraṃ brahme sikkheyyaṃ taṃ dhammaṃ anusāsa maṃ.
|
1823. Giả sử như con đã từ đây ra
đi, và trong khi sống ở địa phương nào thì con nên học tập phong
tục nơi ấy, thưa vị Bà-la-môn, xin cha hãy chỉ dạy cho con kiến
thức ấy.” |
3. Này Ðại sĩ ơi, hãy dạy con,
Khi con từ giã, bước lên đường,
Thế nào phong tục trong toàn quốc
Con phải biết cho thật tỏ tường. |
1824. Sace araññaṃ hitvāna
vanamūlaphalāni ca,
raṭṭhe rocayase vāsaṃ taṃ dhammaṃ nisāmehi me.
|
1824. “Nếu sau khi từ bỏ khu
rừng, và các rễ cây, trái cây nơi rừng rú, rồi con vui thích sự
cư ngụ ở tỉnh thành, con hãy lắng nghe kiến thức ấy của cha.
|
4. Nếu con đã quyết chí xa rời
Các trái cây rừng với sắn khoai,
Về sống thị thành, nghe dạy bảo
Làm sao phong cách hợp theo đời. |
Trang 452:
|
Trang 453:
|
1825. Visaṃ mā patisevittho
papātaṃ parivajjaya,
paṅke ca mā visīdittho yatto āsīvise care.
|
1825. Con chớ sử dụng chất độc,
hãy lánh xa vực thẳm, và chớ chìm xuống ở bãi lầy, nên bước đi
thận trọng ở nơi có loài rắn độc.” |
5. Tránh nơi vách đá, chốn
hang sâu,
Thuốc độc, rời xa, dẫu loại nào,
Bước thận trọng nơi loài rắn ở,
Ðống bùn nhơ bẩn, chờ sa vào. |
1826. Kinnu visaṃ papāto vā paṅko
vā brahmacārinaṃ,
kaṃ tvaṃ āsīvisaṃ brūhi tamme akkhāhi pucchito.
|
1826. “Chất độc hay vực thẳm, bãi
lầy hay Phạm hạnh là gì? Cha nói ai là loài rắn độc? Được hỏi,
xin cha hãy giải thích điều ấy cho con.” |
6. Cách đá, dốc cao ấy có gì
Liên quan đến Thánh đạo ta đi,
Bùn nhơ, thuốc độc cùng loài rắn?
Xin nói điều này với tiểu nhi. |
1827. Āsavo tāta lokasmiṃ surā
nāma pavuccati,
manuññā surahi vaggu madhukhuddarasūpamā,
visaṃ tadāhu ariyā brahmacariyassa nārada.
|
1827. “Này con, ở thế gian có
loại dịch chất được gọi tên là rượu. Nó làm phấn chấn, có hương
thơm, ngọt ngào, tựa như hương vị mật ong ruồi; này Nārada, các
bậc Thánh đã nói vật ấy là chất độc đối với Phạm hạnh. |
7. Có thuốc uống kia ở cõi
trần,
Mà người ta gọi rượu, con thân,
Thơm tho, như mật ong ngon ngọt,
Giá rẻ, đầy hương vị dịu dàng,
Cái ấy, Na-ra-da, bậc trí
Bảo là thuốc độc đối hiền nhân. |
1828. Itthiyo tāta lokasmiṃ
pamattaṃ pamathenti tā,
haranti yuvino cittaṃ tūlabhaṭṭaṃva māḷuto,
papāto eso akkhāto brahmacariyassa nārada.
|
1828. Này con, ở thế gian có các
người nữ, các cô ấy làm quay cuồng kẻ bị say đắm, cướp đi tâm
trí của những người trẻ tuổi, ví như cơn gió cuốn đi bông cây
gòn đã bị rơi rụng; này Nārada, điều ấy được gọi là vực thẳm đối
với Phạm hạnh. |
8. Và bọn nữ nhân ở cõi trần,
Làm người ngu trí phải điên cuồng,
Chúng lôi đám trẻ người non dạ,
Như bão dưới đường bắt hạt bông,
Ta nói vực sâu là đấy nhé
Ðang nằm ngay trước mặt hiền nhân. |
1829. Lābho siloko sakkāro pūjā
parakulesu ca,
paṅko eso akkhāto brahmacariyassa nārada.
|
1829. Lợi lộc, danh tiếng, sự
kính trọng, và sự cúng dường ở các gia đình của những người
khác; này Nārada, điều ấy được gọi là bãi lầy đối với Phạm hạnh. |
9. Ðược đời trao tặng đại vinh
quang,
Ân sủng, lộc nhiều, tiếng tốt vang,
Này đó, Nà-ra, bùn cấu uế
Có cơ làm bẩn các hiền nhân. |
1830. Sasatthā tāta rājāno
āvasanti mahiṃ imaṃ,
te tādise manussinde mahante tāta nārada.
|
1830. Này con, các vị vua có vũ
khí ngự trị ở quả đất này. Này con Nārada, (không nên cộng sự
với) các đấng chúa tể của dân chúng vĩ đại như thế ấy. |
10. Ðế vương cùng với đám quần
thần
Ðang ngự trong cung chốn thế nhân,
Này đó, Na-ra đều chức trọng,
Mỗi vua là một chúa oai hùng. |
1831. Issarānaṃ adhipatīnaṃ na
tesaṃ pādato care,
āsīviso so akkhāto brahmacariyassa nārada.
|
1831. Không nên bước đi cạnh bàn
chân của các vị chúa tể, của các vị lãnh tụ ấy; này Nārada, vị
ấy được gọi là rắn độc đối với Phạm hạnh. |
11. Trước chân vua chúa, các
quân vương,
Con nhớ đừng nên chọn bước đường
Vì đó, Na-ra là rắn cả,
Những người ta đã nói, con thương. |
1832. Bhattattho bhattakāle yaṃ
yaṃ gehaṃ upasaṅkame,
yadettha kusalaṃ jaññā tattha ghāsesanaṃ care.
|
1832. Với mục đích về thức ăn vào
thời điểm của bữa ăn, con nên đi đến gần từng ngôi nhà một, nơi
nào có thể biết được là tốt lành thì con nên đi kiếm ăn ở nơi
ấy. |
12. Ngôi nhà con đến để xin
ăn,
Khi mọi người an tọa trước bàn,
Nếu thấy tốt lành trong chỗ ấy,
Thì con ăn uống thỏa thuê lòng. |
1833. Pavisitvā parakulaṃ
pānatthaṃ bhojanāya vā,
mitaṃ khāde mitaṃ bhuñje na ca rūpe manaṃ kare.
|
1833. Sau khi đi vào nhà của
người khác vì mục đích nước uống hoặc thức ăn, nên nhai có chừng
mực, nên ăn có chừng mực, và không nên chú ý ở sắc người nữ.
|
13. Khi người kia dọn bữa mời
con,
Thực hiện điều này lúc uống ăn:
Ðừng uống quá chừng, ăn quá độ,
Tranh xa nguồn dục lạc phàm trần. |
1834. Goṭṭhaṃ majjaṃ kirāsañca
sabhāni kiraṇāni ca,
ārakā parivajjehi yānīva visamaṃ pathan ”ti.
4. Cullanāradajātakaṃ.
|
1834. Con nên tránh xa những nơi
như trại bò, quán rượu, kẻ tồi bại, các cuộc hội họp,
và
những chỗ buôn bán vàng bạc, tựa như tránh xa con đường gập ghềnh.”
4. Tiểu Bổn Sanh Ẩn Sĩ Nārada. [477] |
14. Rượu chè, chuyện phiếm,
bạn tà gian,
Các tiệm bán buôn của thợ vàng,
Con hãy tránh xa như những kẻ
Ði trên đường lộ chẳng bình an.
Câu chuyện
477 |
1835. Dūte te brahme pāhesiṃ
gaṅgātīrasmiṃ jhāyato,
tesaṃ puṭṭho na vyākāsi dukkhaṃ guyhaṃ matan nu te.
|
1835. “Này vị Bà-la-môn, trẫm đã
phái các sứ giả đến gặp ngài, lúc ngài đang trầm tư ở bờ sông
Gaṅgā. Được hỏi, ngài đã không trả lời chúng. Có phải nỗi khổ mà
ngài giấu kín đã được thấu hiểu?” |
1. Trầm tư bên bến nước sông
Hằng,
Và tại sao chàng chẳng nói năng,
Ðể trả lời ta truyền nhắn hỏi,
Hay chàng dấu chuyện khổ đau chăng? |
Trang 454: |
Trang 455: |
1836. Sace te dukkhaṃ uppajje
kāsīnaṃ raṭṭhavaḍḍhana,
mā kho no tassa akkhāhi yo taṃ dukkhā na mocaye.
|
1836. “Tâu bậc làm hưng thịnh xứ
sở Kāsi, nếu nỗi khổ của bệ hạ sanh khởi, bệ hạ chớ nói ra điều
ấy đến kẻ không có thể giúp cho bệ hạ thoát khỏi nỗi khổ. |
2. Hỡi Ðại vương
nuôi-xứ-Kà-si!
Số ngài ví thử gặp sầu bi,
Nỗi sầu chớ lộ cho người khác,
Nếu kẻ này không có ích gì. |
1837. Yo tassa dukkhajātassa
ekantaṃ api bhāsato,
vippamoceyya dhammena kāmaṃ tassa pavedaye.
|
1837. Trong số những người đang
nói, người nào có thể tháo gỡ đúng theo pháp dầu chỉ một phần
của nỗi khổ đã được sanh lên ấy, thì bệ hạ nên thổ lộ điều mong
muốn với người ấy. |
3. Song nếu ai san sẻ một phần
Nỗi sầu, nhờ thế lực quyền năng,
Thì con người ấy đang sầu muộn
Nói rõ người kia mọi ước mong. |
1838. Suvijānaṃ sigālānaṃ
sakuntānañca vassitaṃ,
manussavassitaṃ rāja dubbijānataraṃ tato.
|
1838. Tiếng kêu của những con chó
rừng và của những con chim còn dễ hiểu, tiếng kêu của con người,
tâu bệ hạ, lại khó hiểu hơn tiếng kêu kia. |
4. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng
chim muông
Cũng rất dễ dàng được cảm thông,
Tiếng nói người đời, tuy rõ thế
Vô cùng khó hiểu, hỡi Quân vương! |
1839. Api ce maññatī poso ñāti
mitto sakhāti vā,
yo pubbe sumano hutvā pacchā sampajjate diso.
|
1839. Thậm chí, nếu nghĩ rằng kẻ
nào trước đây đã có thiện ý là: ‘Thân quyến, bạn bè, hoặc thân
hữu,’ rồi về sau có sự thù nghịch xảy đến. |
5. Con người thường nghĩ: "Bạn
thân mình,
Quyến thuộc bà con, bạn chí tình",
Song mối tình thân thường biến mất,
Oán thù, căm hận, lại sần sinh! |
1840. Yo attano
dukkhamanānupuṭṭho
pavedaye jantu akālarūpe,
ānandino tassa bhavantamittā
hitesino tassa dukhī bhavanti.
|
1840. Kẻ nào, khi không được gặn
hỏi về nỗi khổ của bản thân, lại thổ lộ cho mọi người vào thời
điểm không phù hợp, những ai vui mừng là những kẻ thù nghịch của
kẻ ấy, những ai có sự sầu khổ của kẻ ấy là những bậc ân nhân.
|
6. Người không được hỏi gặn
nhiều lần,
Nói chẳng đúng thời nỗi khổ tâm,
Chắc chắn làm phiền lòng bạn hữu,
Mong mình an ổn, phải than van. |
1841. Kālañca ñatvāna
tathāvidhassa
medhāvinaṃ ekamanaṃ viditvā,
akkheyya tippāni parassa dhīro
saṇhaṃ giraṃ atthavatiṃ pamuñce.
|
1841. Và sau khi biết về thời
điểm, sau khi biết được bậc thông minh có đồng tâm ý, vị sáng
trí nên tỏ bày những nỗi đớn đau đến kẻ khác thuộc hạng người
như thế ấy, và nên thốt ra giọng nói mềm mỏng, có ý nghĩa.
|
7. Tìm kiếm cơ may để nói
năng,
Biết người hiền trí lại đồng lòng,
Bạn hiền tỏ nỗi ưu cùng bạn,
Ý nghĩa nằm sau tiếng dịu dàng. |
1842. Sace ca jaññā
avisayhamattano
nāyaṃ nīti mayha sukhāgamāya,
ekopi tippāni saheyya dhīro
saccaṃ hirottappamapekkhamāno.
|
1842. Và nếu biết được việc của
bản thân là không thể sửa đổi (nghĩ rằng): ‘Giải pháp này không
đem đến an lạc cho ta,’ vị sáng trí nên chịu đựng các nỗi đớn
đau thậm chí một mình, trong khi xem xét sự thật với sự hổ thẹn
và ghê sợ tội lỗi. |
8. Song, nếu trí nhân thấy rõ
ràng,
Không gì giải được nỗi gian truân,
Ðiều gì đem nói cho người biết,
Cũng chẳng đạt thành quả ước mong,
Bậc trí một mình đành nín lặng,
E dè nhẫn nhục đến sau cùng. |
1843. Ahaṃ raṭṭhāni vicaranto
nigame rājadhāniyo,
bhikkhamāno mahārāja ācariyassa dhanatthiko.
|
1843. Tâu đại vương, trong khi
lang thang đến các xứ sở, các thị trấn, các kinh thành, trong
khi xin ăn, thần có ý định tìm kiếm tài sản để dâng đến vị thầy
dạy học. |
9. Ðại vương! Thần đã phải
lang thang,
Nhiều nước, kinh thành, mỗi quốc vương,
Thị trấn, thôn làng, cầu bố thí
Bởi vì học phí, quyết lòng mang. |
1844. Gahapatī rājapurise
mahāsāle ca brāhmaṇe,
alatthaṃ satta nikkhāni suvaṇṇassa janādhipa,
te me naṭṭhā mahārāja tasmā socāmahaṃ bhusaṃ.
|
1844. Là người gia chủ, tâu quân
vương, thần đã nhận được ở người của hoàng gia, ở người giàu có,
và ở vị Bà-la-môn bảy thỏi tiền vàng. Tâu đại vương, các thỏi
tiền ấy của thần đã bị đánh rơi; vì thế thần sầu muộn vô cùng.
|
10. Ðến trước thềm ai, mọi chủ
nhà,
Triều thần, đạo sĩ hoặc thương gia,
Cầu xin một ít vàng, thần được
Chừng một hay hai lạng ấy mà,
Chúa thượng, số vàng nay đã mất
Nên thần buồn bã thật sâu xa. |
1845. Purisā te mahārāja manasā
anuvicintitā,
nālaṃ dukkhā pamocetuṃ tasmā tesaṃ na vyāhariṃ.
|
1845. Tâu đại vương, những người
sứ giả ấy, khi đã được suy xét bằng tâm, thì họ không đủ khả
năng giúp cho thoát khỏi nỗi khổ; vì thế, thần đã không bày tỏ
với họ. |
11. Các sứ giả không thế lực
gì
Làm thần thoát khỏi nỗi sầu bi,
Thần đà cân nhắc hoài cho kỹ,
Chúa thượng! Thần không giải thích chi. |
1846. Tvaṃ ca kho me mahārāja
manasā anuvicintito,
alaṃ dukkhā pamocetuṃ tasmā tuyhaṃ pavedayiṃ.
|
1846. Tâu đại vương, còn bệ hạ,
quả thật đối với thần, khi đã được suy xét bằng tâm, thì bệ hạ
có đủ khả năng giúp cho thoát khỏi nỗi khổ; vì thế, thần đã thổ
lộ với bệ hạ.” |
12. Song ngài, uy lực đủ, Anh
quân!
Giải thoát cho thần nỗi khổ thân.
Vì xét kỹ ngài nhiều đức độ,
Thần cho ngài biết thật tinh tường. |
1847. Tassādāsi pasannatto
kāsīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano,
jātarūpamaye nikkhe suvaṇṇassa catuddasā ”ti.
5. Dūtajātakaṃ.
|
1847. “Với bản ngã được hoan hỷ,
vị làm hưng thịnh xứ sở Kāsi đã ban cho người ấy mười bốn thỏi
tiền vàng làm bằng vàng ròng.”
5. Bổn Sanh Các Vị Sứ Giả. [478]
|
13. Ðại vương nuôi
dưỡng-cả-giang-san,
Hoàn lại người kia một số vàng,
Tròn vẹn với lòng tin tưởng nhất,
Trước chàng đã có, gấp đôi lần.
Câu chuyện
478 |
Trang 456: |
Trang 457: |
1848. Rājā kāliṅgo cakkavattī
dhammena paṭhavim anusāsaṃ,
agamā bodhisamīpaṃ
nāgena mahānubhāvena.
|
1848. “Đức Chuyển Luân Vương
Kāliṅga,
trong lúc trị vì trái đất đúng theo pháp,
đã đi đến khu vực lân cận cội Bồ Đề
bằng con voi có đại oai lực. |
1. Kha-linh Thánh đế, Chuyển
luân vương,
Chân chánh, ngài cai trị cõi trần,
Một thuở đến Bồ-đề đại thọ,
Trên mình Voi báu đại oai thần. |
1849. Kāliṅgo bhāradvājo
rājānaṃ kāliṅgaṃ samaṇakolaññaṃ,
cakkaṃ vattayato pariggahetvā
pañjalī idamavoca.
|
1849. Vị quan tế tự Kāliṅga
Bhāradvāja sau khi xem xét, đã chắp tay lại và đã nói với đức
vua Kāliṅga, con trai của hai vị đạo sĩ khổ hạnh, vị Chuyển Luân
Vương điều này: |
2. Vị Tế sư tâu với Thánh
vương,
Là con nhà khổ hạnh hiền nhơn,
Khi ngài chuyển vận xa luân báu,
Ðảnh lễ ngài xong, hướng dẫn đường: |
1850. Paccoroha mahārāja
bhūmibhāgo yathā samanugīto,
idha anadhivarā buddhā
abhisambuddhā virocanti.
|
1850. ‘Tâu đại vương, xin bệ hạ
hãy bước xuống. Mảnh đất này theo như đã được lưu truyền thì Chư
Phật Chánh Đẳng Giác, các bậc không có người nào cao quý hơn,
chói sáng ở nơi này. |
3. "Ðây các thi nhân vẫn tán
dương,
Xin ngài ngự xuống, tấu Hùng vương,
Nơi đây chư Phật - đà vô thượng
Chánh Giác viên thành tỏa ánh quang. |
1851. Padakkhiṇato āvaṭṭā
tiṇalatā asmiṃ bhūmibhāgasmiṃ,
puthuviyā ayaṃ maṇḍo
iti no sutaṃ mahārāja.
|
1851. Các cây cỏ và dây leo ở
mảnh đất này đã xoay mình theo phía bên phải (để tỏ sự cung
kính). Đây là nơi thiêng liêng của trái đất. Chúng thần đã được
nghe như thế, tâu đại vương. |
4. Tương truyền rằng ở chốn
phàm trần,
Ðây chính là linh địa thánh thần,
Thảo mộc, cát đằng, cùng đại thọ
Ðứng quanh trong dáng điệu tôn sùng. |
1852. Sāgarapariyantāya
mediniyā sabbabhūtadharaṇiyā,
puthuviyā ayaṃ maṇḍo
orohitvā namo karohi.
|
1852. Ở mặt đất được bao quanh
bởi biển cả, ở nơi nâng đỡ tất cả các sinh linh, đây là nơi
thiêng liêng của trái đất. Xin bệ hạ hãy bước xuống và thực hiện
sự lễ bái. |
5. Xuống đây, xin đảnh lễ
trang nghiêm,
Vì đến miền xa tận hải biên,
Trên đại địa cầu nuôi vạn vật,
Nơi này là đất thánh thiêng liêng. |
1853. Ye te bhavanti nāgā
abhijātā mātito ca pitito ca,
ettāvatā padesaṃ te
nāgā nevamupayanti.
|
1853. Các con voi dầu đã được
sanh ra cao quý từ bên dòng voi mẹ và từ bên dòng voi cha, các
con voi ấy không bao giờ tiếp cận được khu vực, cho đến giới hạn
này. |
6. Ðại vương đầy đủ mọi loài
voi
Thuần chủng nhờ cha mẹ tốt đôi,
Ngự giá đến đây, Voi vẫn muốn,
Song không thể tiến bước gần nơi. |
1854. Abhijāto te nāgo
kāmaṃ pesehi kuñjaraṃ dantiṃ,
ettāvatā padeso
sakkā nāgena mupagantuṃ.
|
1854. Con voi của bệ hạ đã được
sanh ra cao quý, bệ hạ hãy truyền lệnh cho con vật cao cả, có sự
thuần phục, theo như ý thích, và cho đến giới hạn này là khu vực
có thể tiếp cận được bởi con voi ấy.’ |
7. Ngự trên mình Bảo tượng
thuần nòi,
Thánh ý tuy nghi, cứ thúc Voi,
Song chẳng cách nào Voi bước nữa,
Ðến đây, Voi phải đứng yên thôi". |
Trang 458: |
Trang 459: |
1855. Taṃ sutvā rājā kāliṅgo
veyyañjanikavaco nisāmetvā,
saṃpesesi nāgaṃ
ñassāma mayaṃ yathā idaṃ vacanaṃ.
|
1855. Sau khi nghe điều ấy, đức
vua Kāliṅga đã suy nghĩ về lời nói của vị tiên tri rồi đã thúc
con voi tiến tới (nghĩ rằng): ‘Như thế này chúng ta sẽ biết được
lời nói này (đúng hay sai).’ |
8. Vua nghe lời nói vị tiên
tri,
Vừa phán truyền cho Bảo tượng đi,
Vừa thúc gậy sâu vào Bảo tượng:
"Nếu vầy, ta sẽ thấy liền khi".
|
1856. Saṃpesito ca raññā
nāgo koñco va abhinaditvāna,
paṭisakkitvā nisīdi
garubhāraṃ asahamāno.
|
1856. Và bị thúc tiến tới bởi đức
vua,
con voi đã kêu lớn tựa như loài cò,
rồi đã bước lui, và ngồi xuống,
trong khi không chịu đựng nỗi gánh nặng. |
9. Bị thúc, Voi kêu thét tựa
kèn,
Như còi lanh lảnh, hạc vang rền,
Chuyển rung, liền ngã vì hùng lực
Ðè nặng sườn, không thể đứng lên. |
1857. Kāliṅgo bhāradvājo
nāgaṃ khīṇāyukaṃ viditvāna,
rājānaṃ kāliṅgaṃ
taramāno ajjhabhāsittha,
aññaṃ saṅkama nāgaṃ
nāgo khīṇāyuko mahārāja.
|
1857. Viên quan tế tự Kāliṅga
Bhāradvāja, sau khi biết được con voi có tuổi thọ đã cạn kiệt,
đã vội vã tâu với đức vua Kāliṅga rằng: “Tâu đại vương, xin bệ
hạ hãy bước qua con voi khác. Con voi có tuổi thọ đã cạn kiệt.’
|
10. Quốc sư lo sợ lúc nhìn Voi
Ðã chết, lòng kinh động thốt lời:
"Xin tìm voi khác, tâu Hoàng thượng,
Bảo tượng ngài nay bỏ mạng rồi". |
1858. Taṃ sutvā kāliṅgo taramāno
saṅkami nāgaṃ saṅkante ca rañño,
nāgo tattheva pati bhumyā
veyyañjanikavaco yathā tathā ahu nāgo.
|
1858. Sau khi nghe điều ấy, đức
vua Kāliṅga đã vội vã bước sang con voi khác. Và trong khi đức
vua đang bước qua, con voi đã ngã xuống ở trên mặt đất, ngay tại
chỗ ấy. Lời nói của vị tiên tri như thế nào, thì con voi đã là
như thế ấy. |
11. Vua hãi kinh nghe tấu việc
này,
Ngự lên Voi khác, bỗng liền ngay,
Thi hài Bảo tượng kia nhào xuống,
Lời thật tiên tri đã hiển bày. |
1859. Kāliṅgabhāradvājaṃ kāliṅgo
brāhmaṇaṃ idamavoca,
tvamevāsi sambuddho
sabbaññū sabbadassāvī.
|
1859. Đức vua Kāliṅga đã nói với
vị Bà-la-môn Kāliṅga Bhāradvāja điều này: ‘Khanh chính là vị
hoàn toàn giác ngộ, bậc toàn tri, vị thấy tất cả.’ |
12. Thế này, với vị Tế sư
mình,
Ðại đế Kha-linh bảo: "Thực tình
Mọi việc khanh am tường thấu suốt,
Hiền khanh thấy tất cả duyên sinh". |
1860. Taṃ vacanaṃ anadhivāsento
kāliṅgo brāhmaṇo idamavoca,
veyyañjanikā hi mayaṃ
buddhā sabbaññunova mahārāja.
|
1860. Không đồng ý lời nói ấy, vị
Bà-la-môn Kāliṅga đã nói điều này: ‘Tâu đại vương, chúng thần
chỉ là những nhà tiên tri. Chư Phật mới đúng là các bậc Toàn
Tri. |
13. Quốc sư từ chối sự tuyên
dương
Và tấu như vầy với Thánh vương:
" Thần chỉ biết điềm vùng tướng triệu,
Còn chư Phật giác ngộ hoàn toàn.
|
1861. Sabbaññū sabbavidū ca
buddhā na lakkhaṇe jānanti,
āgamabalasāhi mayaṃ
buddhā sabbaṃ pajānanti.
|
1861. Chư Phật là các bậc Toàn
Tri và là các bậc hiểu biết tất cả, các ngài không biết các điềm
báo hiệu. Chúng tôi tùy thuộc vào năng lực của sự truyền thừa,
trái lại chư Phật nhận biết tất cả.’ |
14. Phật-đà tri kiến đạt toàn
chân,
Ðiềm triệu, các Ngài chẳng chú tâm,
Chư Phật toàn tri nhờ tuệ quán,
Thần là học giả chẳng uyên thâm. |
Trang 460: |
Trang 461:
|
1862. Mahāyitvāna sambodhiṃ
nānā turiyehi vajjamānehi,
mālāgandhavilepanaṃ āharitvā
pākāraparikkhepaṃ kāresi.
|
1862. Sau khi tế lễ trọng thể đến
cội Bồ Đề với nhiều loại nhạc cụ đang được tấu lên, sau khi mang
lại tràng hoa, vật thơm, và dầu thoa, đức vua đã cho xây dựng
tường rào vòng quanh. |
15. Thánh thọ Bồ-đề, chúa cúng
dường,
Với bao âm nhạc thật du dương,
Các vòng hoa đẹp thơm ngào ngạt,
Ngài lại xây quanh một bức tường. |
1863. Saṭṭhivāhasahassānaṃ
pupphānaṃ sannipātayi,
pūjesi rājā kāliṅgo bodhimaṇḍavaruttame ”ti.
6. Kāliṅgabodhijātakaṃ.
|
1863. Sau khi đã cho mang lại sáu
mươi ngàn cỗ xe bông hoa, đức vua Kāliṅga đã cúng dường ở cội Bồ
Đề cao quý tối thượng.”
6. Bổn Sanh Vua Kāliṅga và Cội Bồ Đề. [479]
|
16. Thế rồi Thánh đế ngự ra
về,
Mang đến hoa đầy sáu vạn xe,
Làm lễ cúng dường, vì Ðại đế
Kha-linh sùng Thánh địa Bồ-đề.
Câu chuyện
479 |
1864. Akittiṃ disvāna sammantaṃ
sakko bhūtapati bravi,
kimatthiyaṃ mahābrahme eko sammasi ghammani.
|
1864. Sau khi nhìn thấy Akitti
đang ngồi tĩnh tâm, Thiên Chủ Sakka, vị Chúa của các sinh linh,
đã nói rằng: “Này vị Bà-la-môn vĩ đại, với mục đích gì mà ông
một mình ngồi tĩnh tâm vào lúc nóng nực?” |
1. Sak-ka, Chúa tể của quần
sinh,
Trông thấy A-ki đáng kính danh,
Liền hỏi: "Tại sao, này Ðại sĩ,
Trú đây trời hực nắng vàng hanh?" |
1865. Dukkho punabbhavo sakka
sarīrassa ca bhedanaṃ,
sammohamararaṇaṃ dukkhaṃ tasmā sammāmi vāsava.
|
1865. “Thưa Sakka, việc hiện hữu
lần nữa và sự hoại rã của thân thể là khổ, cái chết với sự mê mờ
là khổ; vì thế, tôi ngồi tĩnh tâm, thưa Thiên Chủ.” |
2. Thân hoại, tái sinh, tử
biệt trần,
Mê lầm, tất cả chính đau buồn,
Sak-ka Thiên chủ, nay vì vậy
Ta vẫn trú đây được vạn an. |
1866. Etasmiṃ te sulapite
patirūpe subhāsite,
varaṃ kassapa te dammi yaṃ kiñci manasicchasi.
|
1866. “Do điều ấy đã được ông
khéo nói, đã được ông khéo thuyết, là điều thích đáng, này
Kassapa, ta sẽ ban cho ông một ân huệ về bất cứ điều gì ông mong
muốn ở trong tâm.” |
3. Kas-sa-pa, khéo diễn chân
ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn giờ đây lời ước nguyện
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn. |
1867. Varaṃ ce me ado sakka
sabbabhūtānamissara,
yena putte ca dāre ca dhanadhaññaṃ piyāni ca,
laddhā narā na tappanti so lobho na mayi vase.
|
1867. “Thưa Sakka, thưa vị chúa
tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho tôi điều ân huệ,
thì do tham ái nào khiến những người nam sau khi đã đạt được các
con cái, các người vợ, tài sản, thóc lúa, và những vật yêu quý,
vẫn không thỏa mãn, xin cho tham ái ấy không ngụ ở nơi tôi.”
|
4. Thiên chủ Sakka của chúng
sinh,
Ban cho ta hưởng một ân lành;
Vợ con, vàng bạc, cùng kho lúa,
Dù có dư, ta vẫn bất bình;
Ta ước những điều tham dục ấy
Chẳng còn trú ẩn ở tâm mình. |
1868. Etasmiṃ te sulapite
patirūpe subhāsite,
varaṃ kassapa te dammi yaṃ kiñci manasicchasi.
|
1868. “Do điều ấy đã được ông
khéo nói, đã được ông khéo thuyết, là điều thích đáng, này
Kassapa, ta sẽ ban cho ông một ân huệ về bất cứ điều gì ông mong
muốn ở trong tâm.” |
5. Kas-sa-pa, khéo diễn chân
ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn. |
1869. Varaṃ ce me ado sakka
sabbabhūtānamissara,
khettaṃ vatthuṃ hiraññañca gavāssaṃ dāsaporisaṃ,
yena jātena jīyanti so doso na mayi vase.
|
1869. “Thưa Sakka, thưa vị chúa
tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho tôi điều ân huệ,
thì do sân hận nào sanh lên khiến ruộng, vườn, vàng, bò, ngựa,
nô lệ, và con người bị tiêu hoại, xin cho sân hận ấy không ngụ ở
nơi tôi.” |
6. Chúa tể muôn loài chính là
Sak-ka,
Ân lành, ngài muốn tặng cho ta:
Ruộng, vàng, của cải, tôi đòi, ngựa,
Trâu, chó, ngay sau phải chết già.
Ta ước sẽ không còn giống chúng.
Ta mong nhược điểm ấy rời ta. |
1870. Etasmiṃ te sulapite
patirūpe subhāsite,
varaṃ kassapa te dammi yaṃ kiñci manasicchasi.
|
1870. “Do điều ấy đã được ông
khéo nói, đã được ông khéo thuyết, là điều thích đáng, này
Kassapa, ta sẽ ban cho ông một ân huệ về bất cứ điều gì ông mong
muốn ở trong tâm.” |
7. Kas-sa-pa, khéo diễn chân
ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn. |
1871. Varaṃ ce me ado sakka
sabbabhūtānamissara,
bālaṃ na passe na suṇe na ca bālena saṃvase,
bālena allāpa sallāpaṃ na kare na ca rocaye.
|
1871. “Thưa Sakka, thưa vị chúa
tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho tôi điều ân huệ,
xin cho tôi không nhìn thấy kẻ ngu, không nghe tiếng, không sống
chung với kẻ ngu, không thực hiện và không vui thích việc trao
đổi và trò chuyện với kẻ ngu.”
|
8. Sak-ka, Thiên chủ ngự trên
trần,
Ban tặng cho ta một đặc ân:
Ước chẳng nghe, nhìn người độn trí,
Kẻ kia chẳng sống với ta cùng,
Chẳng ham trò chuyện người vô trí,
Chẳng kết bạn cùng kẻ độn căn! |
Trang 462:
|
Trang 463:
|
1872. Kinnu te akaraṃ bālo vada
kassapa kāraṇaṃ,
kena kassapa bālassa dassanaṃ nābhikaṅkhasi.
|
1872. “Vậy kẻ ngu đã làm gì đến
ông? Này Kassapa, ông hãy nói lý do. Này Kassapa, vì sao ông
không mong muốn việc nhìn thấy kẻ ngu?” |
9. Kẻ ấy làm gì, Kas-sa-pa,
Cho ngài, xin hãy nói ngay ra,
Tại sao bầu bạn người vô trí
Ngài chẳng ưa, này, hãy bảo ta. |
1873. Anayaṃ nayati dummedho
adhurāyaṃ niyuñjati,
dunnayo seyyaso hoti sammā vutto pakuppati,
vinayaṃ so na jānāti sādhu tassa adassanaṃ.
|
1873. “Kẻ ngu muội hướng dẫn điều
không đúng phương pháp; kẻ ấy gắn bó vào việc không phải là
trách nhiệm; sự hướng dẫn tồi thì kẻ ấy làm tốt hơn; khi được
nói điều đúng đắn kẻ ấy lại nổi giận; kẻ ấy không biết nguyên
tắc; tốt lành thay việc không nhìn thấy kẻ ấy!” |
10. Hành động người ngu thật
bạo tàn,
Buộc ràng gánh nặng chẳng ai mang,
Thực hành ác nghiệp: đích mong muốn,
Nổi giận khi nghe nói thật chân,
Nó chẳng biết gì là chánh hạnh,
Nên ta không muốn kẻ ngu gần. |
1874. Etasmiṃ te sulapite
patirūpe subhāsite,
varaṃ kassapa te dammi yaṃ kiñca manasicchasi.
|
1874. “Do điều ấy đã được ông
khéo nói, đã được ông khéo thuyết, là điều thích đáng, này
Kassapa, ta sẽ ban cho ông một ân huệ về bất cứ điều gì ông mong
muốn ở trong tâm.” |
11. Kas-sa-pa, khéo diễn chân
ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn. |
1875. Varaṃ ce me ado sakka
sabbabhūtānamissara,
dhīraṃ passe suṇe dhīraṃ dhīrena saha saṃvase,
dhīrena allāpa sallāpaṃ taṃ kare taṃ ca rocaye.
|
1875. “Thưa Sakka, thưa vị chúa
tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho tôi điều ân huệ,
xin cho tôi nhìn thấy bậc sáng trí, nghe tiếng, sống chung với
bậc sáng trí, thực hiện và vui thích việc trao đổi và trò chuyện
với bậc sáng trí.” |
12. Sak-ka, Thiên chủ của quần
sinh,
Ban tặng cho ta một phước lành:
Ta ước nghe nhìn người có trí,
Ước mong vị ấy ở cùng mình.
Ta mong đàm luận cùng người trí,
Ðược kết giao cùng bậc trí minh. |
1876. Kinnu te akaraṃ dhīro vada
kassapa kāraṇaṃ,
kena kassapa dhīrassa dassanaṃ abhikaṅkhasi.
|
1876. “Vậy bậc sáng trí đã làm gì
cho ông? Này Kassapa, ông hãy nói lý do. Này Kassapa, vì sao ông
mong muốn việc nhìn thấy bậc sáng trí?” |
13. Bậc trí làm gì, Kas-sa-pa,
Cho ngài, xin hãy nói ngay ra,
Sao ngài ao ước nơi ngài ở,
Người trí cùng chung sống một nhà? |
1877. Nayaṃ nayati medhāvī
adhurāyaṃ na yuñjati,
sunayo seyyaso hoti sammā vutto na kuppati,
vinayaṃ so pajānāti sādhu tena samāgamo.
|
1877. “Bậc thông minh hướng dẫn
điều đúng phương pháp; vị ấy không gắn bó vào việc không phải là
trách nhiệm; sự hướng dẫn khéo léo thì vị ấy làm tốt hơn; khi
được nói điều đúng đắn vị ấy không giận dữ; vị ấy biết nguyên
tắc; tốt lành thay việc gặp gỡ với vị ấy!” |
14. Hành động tốt lành, bậc
trí nhân
Chẳng ràng buộc gánh khổ vào thân,
Chuyên tâm, bậc trí làm ân phước,
Chẳng giận khi nghe nói thật chân,
Thông hiểu chánh hành, và bởi vậy,
Lành thay bậc trí sống chung cùng. |
1878. Etasmiṃ te sulapite
patirūpe subhāsite,
varaṃ kassapa te dammi yaṃ kiñca manasicchasi.
|
1878. “Do điều ấy đã được ông
khéo nói, đã được ông khéo thuyết, là điều thích đáng, này
Kassapa, ta sẽ ban cho ông một ân huệ về bất cứ điều gì ông mong
muốn ở trong tâm.” |
15. Kas-sa-pa, khéo diễn chân
ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn. |
1879. Varaṃ ce me ado sakka
sabbabhūtānamissara,
tato ratyā vivasane suriyassuggamanaṃ pati,
dibbā bhakkhā pātubhaveyyuṃ sīlavanto ca yācakā.
|
1879. “Thưa Sakka, thưa vị chúa
tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho tôi điều ân huệ,
kế đó, vào lúc tàn đêm, sự mọc lên của mặt trời đã đến, có các
thức ăn thuộc cõi trời hiện ra, và những vị khất thực là có giới
hạnh. |
16. Sak-ka, Thiên chủ của quần
sinh,
Ban tặng cho ta một phước lành:
Mong giải thoát ngoài vòng ái dục,
Và khi vầng nhật chiếu bình minh,
Mong chư Thánh giả du hành đến,
Ðem thực phẩm thiên giới tặng mình. |
1880. Dadato ca me na khīyetha
datvā nānutapeyyahaṃ,
dadaṃ cittaṃ pasādeyyaṃ etaṃ sakka varaṃ vare.
|
1880. Trong khi tôi đang bố thí
thì không bị cạn kiệt, và sau khi bố thí tôi không hối tiếc.
Trong khi bố thí, tôi có thể khiến cho tâm được tịnh tín. Thưa
Sakka, tôi xin chọn điều ân huệ ấy.” |
17. Mong tặng nó không giảm
sút dần,
Ta không hối tiếc việc ta làm,
Mong lòng hoan hỷ lúc phân phát,
Ta chọn ước kia để hưởng phần. |
1881. Etasmiṃ te sulapite
patirūpe subhāsite,
varaṃ kassapa te dammi yaṃ kiñci manasicchasi.
|
1881. “Do điều ấy đã được ông
khéo nói, đã được ông khéo thuyết, là điều thích đáng, này
Kassapa, ta sẽ ban cho ông một ân huệ về bất cứ điều gì ông mong
muốn ở trong tâm.” |
18. Kas-sa-pa, khéo diễn chân
ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn. |
1882. Varaṃ ce me ado sakka
sabbabhūtānamissara,
na maṃ puna upeyyāsi etaṃ sakka varaṃ vare.
|
1882. “Thưa Sakka, thưa vị chúa
tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho tôi điều ân huệ,
xin ngài không đến thăm tôi nữa. Thưa Sakka, tôi xin chọn điều
ân huệ ấy.” |
19. Sak-ka, Thiên chủ của quần
sinh,
Ngài đã ban ta một phước lành:
Thiên chủ, xin đừng thăm viếng nữa,
Ðiều này khao khát tự tim mình. |
Trang 464:
|
Trang 465:
|
1883. Bahūhi vattacariyāhi narā
ca atha nāriyo,
dassanaṃ abhikaṅkhanti kinnu me dassane bhayaṃ.
|
1883. “Thông qua nhiều phận sự và
hạnh lành, các người nam và nữ mong mỏi việc nhìn thấy ta, vậy
có nguy hiểm gì trong việc nhìn thấy ta?”
|
20. Song các nam nhân, các nữ
nhân,
Những người đang sống thật hiền lương,
Ðều ước ao cùng ta diện kiến,
Việc này có tác hại gì chăng? |
1884. Taṃ tādisaṃ devavaṇṇaṃ
sabbakāmasamiddhinaṃ,
disvā tapo pamajjeyyaṃ etaṃ te dassane bhayan ”ti.
7. Akittijātakaṃ.
|
1884. “Sau khi nhìn thấy ngài với
vẻ đẹp Thiên thần, với sự thành tựu mọi điều mong muốn như thế
ấy, tôi có thể xao lãng hạnh khắc khổ; điều ấy là sự nguy hiểm
trong việc nhìn thấy ngài.”
7. Bổn Sanh Ẩn Sĩ Akitti. [480] |
21. Dung mạo ngài muôn vẻ
thiện toàn,
Vô cùng hoan hỷ, đại vinh quang,
Thấy ngài, xao lãng điều tâm nguyện,
Nguy hại là trông thấy Ngọc hoàng!
Câu chuyện
480 |
1885. Ahameva dubbhāsitaṃ bhāsi
bālo
bheko va araññe ahimavhayāno,
takkāriye sobbhamimaṃ patāmi
na kireva sādhu ativelabhāṇī.
|
1885. “Chính ta là kẻ ngu đã nói
lời được nói vụng về, tựa như con nhái ở trong rừng đang gọi con
rắn. Này Takkāriya, ta rơi vào cái hố này. Thật vậy, việc nói
quá nhiều không bao giờ tốt lành! |
1. Ta nói điên cuồng tựa ễnh
ương
Trong rừng gọi rắn: ngã nhào luôn
Vào trong hố, thật, Tak-ka hỡi,
Lời nói phi thời phải tiếc thương! |
1886. Pappoti macco ativelabhāṇī
bandhaṃ vadhaṃ sokapariddavañca,
attānaṃ yeva garahāsi etto
ācera yaṃ taṃ nikhaṇanti sobbhe.
|
1886. “Người nói quá nhiều nhận
lãnh sự giam cầm, sự tử hình, sự sầu muộn và sự than khóc. Về
việc này, thầy hãy chê trách chính bản thân. Thưa thầy, vì việc
ấy, chúng chôn vùi thầy ở cái hố.” |
2. Người nói phi thời phải
diệt vong
Như vầy, than khóc với đau buồn,
Xin thầy tự trách mình nay phải
Nhận lỗ đào này, ấy hố chôn. |
1887. Kimevāhaṃ
tuṇḍilamanupucchiṃ
kareyya saṃ bhātaraṃ kāḷikāyaṃ,
naggovahaṃ vatthayugañca jīno
ayampi attho bahutādisova.
|
1887. “Thật vậy, ta đã gặn hỏi
Tuṇḍila điều gì về việc nàng Kāḷikā có thể làm với anh trai của
nàng? Và ta bị cướp mất hai mảnh vải, ta hoàn toàn lõa lồ. Ý
nghĩa này cũng y như vậy với nhiều sự việc.” |
3. Tại sao lại hỏi chuyện
Kà-li
Cư xử thế nào với Tuấn-di?
Gặp phải tay em chàng, hãy ngắm,
Áo quần ta đã biến bay đi,
Ta đành trần trụi, như tai vạ
Xảy với thầy, sao thật quái kỳ! |
1888. Yo yujjhamānānaṃ
ayujjhamāno
meṇḍantaraṃ accupatī kuliṅgo,
so piṃsito meṇḍasirehi tattha
ayampi attho bahutādisova.
|
1888. “Là kẻ không tham gia đánh
nhau giữa hai kẻ đang đánh nhau, con chim sẻ đã lao vào giữa hai
con cừu. Trong trường hợp ấy, nó đã bị đầu của hai con cừu ép
chết. Ý nghĩa này cũng y như vậy với nhiều sự việc.” |
4. Chim đuôi chĩa vội đến bên
sườn
Hai chú dê rừng lúc đả thương,
Dù chẳng dự phần trong trận đấu,
Hai đầu dê nghiến nát như tương
Ngay liền tại chỗ, như thầy vậy,
Số phận chim kỳ quái lạ thường! |
1889. Caturo janā potthakaṃ
aggahesuṃ
ekañca posaṃ anurakkhamānā,
sabbeva te bhinnasirā sayiṃsu
ayampi attho bahutādisova.
|
1889. “Bốn người đã giữ lấy tấm
vải bố, và trong lúc đang bảo vệ một người, tất cả bọn họ đã nằm
dài, các cái đầu bị vỡ tan. Ý nghĩa này cũng y như vậy với nhiều
sự việc.” |
5. Bốn người muốn cứu mạng anh
chàng,
Bốn góc cầm chung một tấm màn,
Bọn chúng vỡ đầu ra chết tiệt,
Như thầy, thật quái lạ kinh hoàng! |
1890. Ajā yathā veḷugumbasmiṃ
baddhā
avekkhipantī asimajjhagañchi,
teneva tassā galakāvakantaṃ
ayampi attho bahutādisova.
|
1890. Giống như con dê cái bị
trói ở lùm tre, trong lúc nhảy cỡn đã có được cây dao. Với chính
cây dao ấy, cổ của con dê cái đã bị cắt lìa. Ý nghĩa này cũng y
như vậy với nhiều sự việc.” |
6. Dê cái cột trong bụi trúc
dày
Nhảy quanh, tìm thấy một dao phay,
Cổ dê, chúng cắt bằng dao ấy,
Kỳ quái, dê kia giống hệt thầy! |
Trang 466:
|
Trang 467:
|
1891. Nayime devā napi
gandhabbaputtā
migā ime atthavasābhatā ime,
ekañca naṃ sāyamāse pacantu
ekañca puna pātarāse pacantu.
|
1891. “Những kẻ này không phải là
Thiên thần, cũng không phải là con cái của các nhạc sĩ Thiên
đình, những kẻ này là loài thú, những kẻ này được đem lại để
trẫm sử dụng. Vậy hãy bảo bọn họ nấu một đứa cho bữa ăn buổi
tối, và hãy bảo bọn họ nấu một đứa nữa cho bữa ăn buổi sáng.”
|
7. Bọn này đây chẳng phải là
tiên,
Cũng chẳng nhạc thần của cõi Thiên,
Là thú do người kia dẫn đến
Vì mong kiếm một túi đầy tiền
Vậy bây hãy nấu, ta dùng tối
Một đứa, rồi mai một đứa liền! |
1892. Sataṃ sahassānaṃ
dubbhāsitānaṃ
kalampi nāgghanti subhāsitassa,
dubbhāsitaṃ saṅkamāno kileso
tasmā tuṇhī kimpuriso na bālyā.
|
1892. “Một trăm ngàn lời vụng nói
không giá trị bằng một phần của lời được khéo nói. Trong khi
phân vân về lời vụng nói là ô nhiễm; vì thế, loài nhân điểu giữ
im lặng, không phải vì ngu dốt.” |
8. Mười vạn khúc ca biểu diễn
lầm
Chẳng bằng một mảy khúc kỳ âm,
Hát tồi có tội, nên tiên chúng
Chẳng dám làm, không bởi hận tâm. |
1893. Yā mesā vyākāsi
pamuñcathetaṃ
giriñca naṃ himavantaṃ nayantu,
imañca kho dentu mahānasāya
pātova naṃ pātarāse pacantu.
|
1893. “Nàng này đã giải thích cho
trẫm. Các khanh hãy thả nàng ấy. Và hãy bảo bọn họ đưa nàng ấy
đến ngọn núi có tuyết phủ. Còn hãy giao kẻ này cho nhà bếp. Sáng
sớm mai, hãy bảo bọn họ nấu kẻ ấy cho bữa ăn buổi sáng.” |
9. Hãy để nàng đi, bởi nói
rồi,
Cho nàng thấy lại Tuyết Sơn thôi,
Song bây hãy bắt chàng kia giết,
Bảo nấu, ta dùng bữa sáng mai! |
1894. Pajjunnanāthā pasavo
pasunāthā ayaṃ pajā,
tvaṃ nāthosmi mahārāja amhanāthā mama bhariyā,
cinnamaññataraṃ ñatvā mutto gaccheyya pabbataṃ.
|
1894. “Các con thú có sự phụ
thuộc vào cơn mưa. Loài người này có sự phụ thuộc vào các con
thú. Tâu đại vương, thần có sự phụ thuộc vào bệ hạ. Người vợ của
thần có sự phụ thuộc vào thần. Sau khi biết được một người nào
đó trong hai người (đã chết), người được thả ra mới có thể đi
đến ngọn núi. |
10. Trâu bò trông cậy đám mây
trời,
Trông cậy bò trâu, ấy mọi người,
Còn phận tôi nương nhờ Chúa thượng,
Hiền thê này lại dựa vào tôi,
Xin ngài đoán số phần chàng nọ
Trước lúc chàng quay lại núi đồi! |
1895. Na ve nindā
suparivajjayetha
nānā janā sevitabbā janinda,
yeneva eko labhate pasaṃsaṃ
teneva añño labhate ninditāraṃ.
|
1895. Thật vậy, không dễ gì tránh
khỏi sự chê bai. Loài người có sở thích khác nhau nên cần được
phục vụ khác nhau, tâu vị chúa của loài người. Vì một điều nào
đó, người này nhận được sự khen ngợi, do chính điều đó, người
khác nhận được sự chê bai. |
11. Khác người, khác cách, tấu
Minh quân,
Tránh lỗi cho mình thật khó khăn,
Ðiều được kẻ này khen tốt đẹp,
Kẻ kia lại thấy đó sai lầm. |
1896. Sabbo loko paracittena
acitto
sabbo loko cittavāsamhi citte,
paccekacittā puthusabbasattā
kassīdha cittassa vasena vattati.
|
1896. Tất cả thế gian là không có
sự nhận biết với tâm của người khác. Tất cả thế gian có sự nhận
biết về tâm của mình. Tất cả chúng sanh có tâm riêng biệt theo
từng cá nhân. Công việc được vận hành ở đây do năng lực tâm của
người nào? |
12. Có người cho tất cả điên
cuồng
Tưởng tượng mỗi người vẫn khác luôn,
Thật khác, nhiều người nên lắm ý,
Ý người chẳng có luật thông thường. |
1897. Tuṇhī ahū kimpuriso
sabhariyo
yodāni vyākāsi bhayassa bhīto,
sodāni mutto sukhito arogo
vācā kirevatthavatī narānan ”ti.
8. Takkāriyajātakaṃ.
|
1897. “Gã nhân điểu cùng với
người vợ đã im lặng, là kẻ, giờ đây, bị sợ hãi bởi sự nguy hiểm,
nên đã giải thích. Kẻ ấy, giờ đây, đã được thả ra, được sung
sướng, không tật bệnh. Thật vậy, chính lời nói là có sự lợi ích
cho những con người.”
8. Bổn Sanh Thanh Niên Takkāriya. [481]
|
13. Ðôi vợ chồng tiên giữ lặng
thinh,
Nay chàng cất tiếng bởi hồn kinh,
Bình an, hạnh phúc, tha chàng bước,
Vẫn biết lời hay tạo phước
lành.
Câu chuyện
481 |
Trang 468: |
Trang 469:
|
1898. Kassa gāmavaraṃ dammi
nāriyo ca alaṅkatā,
ko me taṃ migamakkhāti migānaṃ migamuttamaṃ.
|
1898. “Trẫm sẽ ban ngôi làng cao
quý và những người phụ nữ đã được trang điểm cho ai? Ai thông
báo cho trẫm về con nai ấy, con nai tối thượng trong số các con
nai?” |
1. Ai mang tin báo trẫm về
Nai,
Tối thượng Lộc vương của cả loài?
Ai được trẫm ban phần thưởng quý:
Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi? |
1899. Mayhaṃ gāmavaraṃ dehi
nāriyo ca alaṅkatā,
ahaṃ te migamakkhissaṃ migānaṃ migamuttamaṃ.
|
1899. “Bệ hạ hãy ban ngôi làng
cao quý và những người phụ nữ đã được trang điểm cho thần. Thần
sẽ thông báo cho bệ hạ về con nai, con nai tối thượng trong số
các con nai. |
2. Thần tâu Hoàng thượng biết
tin Nai,
Tối thượng Lộc vương của cả loài,
Xin Ðại vương ban phần thưởng quí:
Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi! |
1900. Etasmiṃ vanasaṇḍasmiṃ ambā
sālā ca pupphitā,
indagopakakasaṃchannā ettheso tiṭṭhatī migo.
|
1900. Ở khu rừng rậm này, có các
cây xoài và các cây sālā nở rộ hoa, mặt đất được phủ màu cánh
kiến, con nai ấy cư ngụ ở đây.” |
3. Bụi cây xoài ở phía đàng
xa,
Cùng đám Sà-la nở rộ hoa,
Ðất tựa yên chi màu đỏ thắm,
Nai này có thể được tìm ra. |
1901. Dhanuṃ adejjhaṃ katvāna
usuṃ sandhāyupāgami,
migo ca disvā rājānaṃ dūrato ajjhabhāsatha.
|
1901. Sau khi đặt mũi tên vào cây
cung, đức vua đã kéo căng mũi tên rồi tiến lại gần. Và con nai,
sau khi nhìn thấy đức vua từ đàng xa, đã thưa rằng: |
4. Nai tiến lên: cung đã được
giương,
Mũi tên nằm ở sợi dây trương
Ðằng xa, vì vậy Nai kêu lớn
Ngay lúc Nai nhìn thấy Ðại vương: |
1902. Āgamehi mahārāja mā maṃ
vijjhi rathesabha,
ko nu te idamakkhāsi ettheso tiṭṭhatī migo.
|
1902. “Tâu đại vương, xin bệ hạ
hãy chờ đợi. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, xin chớ bắn tôi. Ai đã
thông báo cho bệ hạ điều này: ‘Con nai ấy cư ngụ ở đây’?” |
5. Ðại vương, Chúa tể của
vương xa,
Xin đứng yên và chớ bắn ta,
Ai đã mang tin Hoàng thượng biết
Nơi này, Nai sẽ được tìm ra? |
1903. Esa pāpacaro poso samma
tiṭṭhati ārakā,
so hi me idamakkhāsi8 ettheso tiṭṭhatī migo.
|
1903. “Này nai mến, gã đàn ông có
sở hành xấu xa ấy đứng ở đàng xa. Chính gã ấy đã thông báo cho
trẫm điều này: ‘Con nai ấy cư ngụ ở đây.’” |
6. Kẻ ác kia, bằng hữu của ta,
Con người đang đứng ở đằng xa,
Mang tin, nó đã cho ta biết
Rằng ở đây Nai được thấy mà. |
1904. Saccaṃ kireva māhaṃsu narā
ekacciyā idha,
kaṭṭhaṃ viplāvitaṃ seyyo natvevekacciyo naro.
|
1904. “Nghe rằng người đời đã nói
sự thật như vầy: Có một số người loại ấy ở đời này. Thanh gỗ
trôi sông được vớt lên còn tốt hơn, chứ gã đàn ông loại ấy thì
không bao giờ.” |
7. Nhiều người ở cõi thế gian
này,
Tục ngữ thường hay nói đúng thay:
"Thà vớt gỗ trôi sông còn tốt,
Hơn là cứu một kẻ như mầy!". |
1905. Kinnu rurū garahasī migānaṃ
kiṃ pakkhīnaṃ kiṃ pana mānusānaṃ,
bhayaṃ hi maṃ vindati napparūpaṃ
sutvānaṃ taṃ mānusiṃ bhāsamānaṃ.
|
1905. “Này nai, vậy ngươi chê
trách điều gì ở loài thú, điều gì ở loài chim, hay là điều gì ở
loài người? Bởi vì nỗi sợ hãi tìm thấy ở trẫm không phải là ít,
sau khi nghe ngươi đang nói tiếng người.” |
8. Muốn trách người có thể hỏi
Nai?
Là chim, là thú hoặc là ai?
Lòng ta đầy nỗi lo vô hạn
Khi tiếng Nai nghe giống tiếng người! |
1906. Yamuddhariṃ vahane
vuyhamānaṃ
mahodake salile sīghasote,
tato nidānaṃ bhayamāgataṃ mama
dukkho have rāja asabbhi saṅgamo.
|
1906. “Tôi đã vớt lên kẻ đang bị
cuốn trôi ở dòng lũ nước lớn, ở dòng nước chảy xiết. Do nguyên
nhân ấy, có sự nguy hiểm xảy đến cho tôi. Thật vậy, tâu bệ hạ,
sự kết giao với kẻ xấu là khổ đau.” |
9. Ta cứu gã kia, đã một lần
Khi gần như gã phải chìm dần
Trên dòng chảy xiết dìm thân gã,
Vì đó, nay đành phải khổ thân;
Ngài cứ đi cùng phường độc ác,
Ngày sau chắc chắn sẽ ăn năn. |
1907. Sohaṃ catuppattamidaṃ
vihaṅgamaṃ
tanucchidaṃ hadaye ossajāmi,
hanāmi mittaddumakiccakāriṃ
yo tādisaṃ kammakataṃ na jāne.
|
1907. “Với mũi tên có bốn cọng
lông đuôi, có sự di chuyển ở khoảng không, có sự đâm thủng thân
thể, trẫm đây sẽ bắn vào gã này ở trái tim. Trẫm sẽ giết chết kẻ
hãm hại bạn bè, kẻ đã làm việc không nên làm, kẻ không biết đến
hành động đã tạo ra như thế ấy.” |
10. Ta sẽ đâm tên bốn cánh này
Xuyên vào tim nó, bỏ thân ngay!
Ác nhân này đã đầy tâm phản
Chẳng đội ơn sâu cứu giúp vầy! |
Trang 470:
|
Trang 471:
|
1908. Dhīrassa bālassa have
janinda
santo vadhaṃ nappasaṃsanti jātu,
kāmaṃ gharaṃ gacchatu pāpadhammo
yañcassa bhaṭṭhaṃ tadetassa dehi
ahañca te kāmakaro bhavāmi.
|
1908. “Thật vậy, xấu hổ thay cho
kẻ ngu dốt này, tâu vị chúa của loài người! Những người tốt chắc
chắn không ca ngợi việc giết chóc. Hãy để cho kẻ có bản tánh xấu
xa đi về nhà như ý muốn. Và xin bệ hạ hãy ban cho gã này phần
thưởng dành cho gã. Còn tôi sẽ là người làm theo điều mong muốn
của bệ hạ.” |
11. Người ngu đáng thẹn, tấu
Minh quân,
Song việc giết người, bậc thiện nhân,
Chẳng tán thành, xin tha kẻ khốn,
Và ban cho gã thưởng toàn phần
Những gì ngài hứa, còn ta sẽ
Phục vụ Quân vương những lúc cần. |
1909. Addhā rurū aññataro sataṃ
se
yo dubbhato mānusassa na dubbhi,
kāmaṃ gharaṃ gacchatu pāpadhammo
yañcassa bhaṭṭhaṃ tadetassa dammi
ahañca te kāmacāraṃ dadāmi.
|
1909. “Này nai, ngươi đây là một
người trong số những người tốt, là người đã không làm hại kẻ
đang làm hại mình. Hãy để cho kẻ có bản tánh xấu xa đi về nhà
như ý muốn. Và trẫm sẽ ban cho gã này phần thưởng dành cho gã.
Trẫm còn ban cho ngươi việc đi lại theo như ý muốn.” |
12. Nai này quả thật có lòng
nhân,
Không trả hận sân với hận sân,
Tống gã hèn ngay! Ta thưởng nó
Làm tròn lời hứa đã từng ban
Còn Nai đi đến nơi tùy ý,
Xin chúc ngài luôn được vạn an! |
1910. Suvijānaṃ sigālānaṃ
sakuntānañca vassitaṃ,
manussavassitaṃ rāja dubbijānataraṃ tato.
|
1910. “Tiếng kêu của những con
chó rừng và của những con chim còn dễ hiểu, tiếng kêu của con
người, tâu bệ hạ, lại khó hiểu hơn tiếng kêu kia. |
13. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng
chim muông,
Thường cũng dễ dàng được cảm thông,
Còn tiếng người đời, tuy rõ thế,
Vô cùng khó hiểu, tấu Quân vương! |
1911. Api ce maññatī poso ñāti
mitto sakhāti vā,
yo pubbe sumano hutvā pacchā sampajjate diso.
|
1911. Thậm chí, nếu nghĩ rằng:
‘Người nào dầu là thân quyến, bạn bè, hoặc thân hữu, là kẻ trước
đây đã có thiện ý, về sau sự thù nghịch vẫn có thể xảy ra.”
|
14. Con người thường nghĩ:
"Bạn thân mình,
Quyến thuộc là đây, bạn chí tình".
Tuy thế, tình thân thường biến mất,
Oán thù, căm hận lại dần sinh. |
1912. Samāgatā jānapadā negamā ca
samāgatā,
migā dhaññāni khādanti taṃ devo paṭisedhatu.
|
1912. Các dân chúng đã tụ tập lại
và các thị dân đã tụ tập lại (tâu rằng): “Các con nai nhai nát
các hoa màu, xin bệ hạ hãy cấm đoán điều ấy.” |
15. Dân thành thị theo với
tiện dân,
Ðều đi thẳng đến tấu vương quân:
"Ðàn nai ăn hết mùa màng cả,
Chúa thượng, việc này phải cản ngăn". |
1913. Kāmaṃ janapado māsi
raṭṭhaṃvāpi vinassatu,
na tvevāhaṃ ruruṃ dubbhe datvā abhayadakkhiṇaṃ.
|
1913. “Dầu cho xứ sở không muốn,
hoặc thậm chí vương quốc bị tiêu diệt, nhưng trẫm không bao giờ
bội bạc nai chúa Ruru sau khi đã ban cho tặng phẩm không sợ hãi. |
16. Dân chúng dù mong muốn
hoặc không,
Ví dù đất nước trẫm tiêu vong,
Trẫm không thể hại đàn nai được,
Trẫm hứa cho nai sống vẹn toàn. |
1914. Mā me janapado āsi
raṭṭhañcāpi vinassatu,
na tveva migarājassa varaṃ datvā musā bhaṇe ”ti.
9. Rurumigajātakaṃ.
|
1914. Dầu cho trẫm bị mất xứ sở,
và thậm chí vương quốc bị tiêu diệt, nhưng trẫm không bao giờ có
thể nói lời dối trá sau khi đã ban cho ân huệ đến con nai chúa.”
9. Bổn Sanh Nai Chúa Ruru. [482]
|
17. Thần dân có thể bỏ rơi ta,
Hủy bỏ vương quyền của thế gia,
Lời ước ta đà ban Lộc chúa
Ta không hề chối bỏ đâu mà.
Câu chuyện
482 |
1915. Āsiṃsetheva puriso na
nibbindeyya paṇḍito,
passāmi vohaṃ attānaṃ yathā icchiṃ tathā ahu.
|
1915. “Con người cần phải hy
vọng, bậc sáng suốt không nên chán nản. Ta thật sự nhìn thấy
được bản thân; ta đã ước muốn như thế nào thì đã thành tựu như
thế ấy. |
1. Cứ hy vọng, người ơi, là
bậc trí,
Xin hãy đừng nản chí hoặc sờn lòng,
Chính ta nay thành đạt đích hằng mong. |
1916. Āsiṃsetheva puriso na
nibbindeyya paṇḍito,
passāmi vohaṃ attānaṃ udakā thalamubbhataṃ.
|
1916. Con người cần phải hy vọng,
bậc sáng suốt không nên chán nản. Ta thật sự nhìn thấy bản thân
đã được đưa lên mặt đất từ hố nước sâu. |
2. Ta thấy rõ, người ơi, là
bậc trí,
Cứ hy vọng, dù buồn, đừng nản chí,
Chính ta đây chiến đấu tiến vào bờ. |
1917. Vāyametheva puriso na
nibbindeyya paṇḍito,
passāmi vohaṃ attānaṃ yathā icchiṃ tathā ahu.
|
1917. Con người cần phải tinh
tấn, bậc sáng suốt không nên chán nản. Ta thật sự nhìn thấy được
bản thân; ta đã ước muốn như thế nào thì đã thành tựu như thế
ấy.
|
3. Vượt trùng dương, ta thấy
rõ, bây giờ,
Cố gắng mãi, người ơi, là bậc trí,
Xin hãy chớ nản lòng hay nhụt chí,
Chính ta nay thành đạt đích ước nguyền. |
Trang 472:
|
Trang 473:
|
1918. Vāyametheva puriso na
nibbindeyya paṇḍito,
passāmi vohaṃ attānaṃ udakā thalamubbhataṃ.
|
1918. Con người cần phải tinh
tấn, bậc sáng suốt không nên chán nản. Ta thật sự nhìn thấy bản
thân đã được đưa lên mặt đất từ hố nước sâu. |
4. Ta thấy nay, người hỡi,
gắng sức lên,
Nếu người trí, dù buồn phiền đau khổ,
Ðừng chán nản, chính ta đây nhìn rõ,
Ta đã từng chiến đấu vượt trùng dương. |
1919. Dukkhūpanītopi naro sapañño
āsaṃ na chindeyya sukhāgamāya,
bahū hi phassā ahitā hitā ca
avitakkitā maccumupabbajanti.
|
1919. Con người có trí tuệ dầu bị
rơi vào khổ đau cũng không nên cắt đứt niềm hy vọng về việc
thành tựu hạnh phúc; bởi vì có nhiều ý tưởng không có lợi ích và
có lợi ích. Những việc làm không suy nghĩ dẫn đến cái chết.
|
5. Bậc trí nhân dù tràn ngập
đau thương,
Niềm hy vọng an vui không hề tắt,
Nhiều tình cảm, khổ đau cùng an lạc:
Các ngài không nghĩ đến chúng làm chi,
Song lên đường cho đến lúc chết đi. |
1920. Acintitampi bhavati
cintitampi vinassati,
na hi cintāmayā bhogā itthiyā purisassa vā.
|
1920. Việc không nghĩ đến lại xảy
ra, việc được nghĩ đến lại tiêu hoại. Bởi vì không phải do ý
tưởng mà người nữ hay người nam có được của cải.” |
6. Việc xảy ra, ta đều không
ngờ tới,
Việc ta tính lại thường hay thất bại,
Vì chỉ riêng phần ý tưởng mà thôi
Chẳng lợi cho niềm hạnh phúc người đời. |
1921. Sarabhaṃ giriduggasmiṃ yaṃ
tvaṃ anusarī pure,
alīnacittassa tuvaṃ vikkantamanujīvasi.
|
1921. “Trước đó, bệ hạ đã đuổi
theo con nai sarabha ở lối đi hiểm trở của ngọn núi. Bệ hạ sống
sót nhờ vào sự dũng cảm của con nai có tâm không lui sụt. |
7. Bên sườn non nọ có con Nai,
Trước đó là con thịt của ngài,
Dũng cảm Nai ban ngài cuộc sống,
Vì ly tham hận hết trong đời. |
1922. Yo taṃ viduggā narakā
samuddhari
silāya yoggaṃ sarabho karitvā,
dukkhūpanītaṃ maccumukhā pamocayi
alīnacittaṃ tamigaṃ vadesi.
|
1922. Sau khi thực hiện sự bám
chặt vào tảng đá, con nai đã đưa bệ hạ ra khỏi địa ngục, nơi có
sự di chuyển khó khăn. Nó đã giúp cho kẻ đã bị rơi vào khổ đau
thoát khỏi cửa miệng của Thần Chết. Bệ hạ nói về con nai có tâm
không lui sụt ấy.” |
8. Khỏi hố đáng kinh, vuốt tử
thần,
Dựa vào tảng đá bạn-khi-cần,
Chúa Nai cứu mạng nên ngài bảo:
Trí tuệ Nai vàng vượt hận sân. |
1923. Tuvaṃ nu tattheva tadā
ahosi
udāhu te koci naṃ etadakkhā,
vivattacchaddo nusi sabbadassī
ñāṇannu te brāhmaṇa bhiṃsarūpaṃ.
|
1923. “Vậy có phải lúc đó khanh
đã có mặt ngay tại chỗ ấy? Hay là có ai đó đã tường thuật lại
việc ấy cho khanh? Khanh đã bóc trần sự che giấu, phải chăng
khanh là người có sự nhìn thấy tất cả? Này Bà-la- môn, trí tuệ
của khanh quả thật khủng khiếp!” |
9. Ðạo sĩ, hôm kia có mặt chăng?
Hoặc nghe từ một kẻ bàng nhân?
Tấm màn tham dục ngài đã vén,
Trí tuệ ngài làm trẫm hãi hùng! |
1924. Na cevahaṃ tattha tadā
ahosiṃ
na cāpi me koci naṃ etadakkhā,
gāthāpadānañca subhāsitānaṃ
atthaṃ tadā nenti janinda dhīrā.
|
1924. “Lúc đó, thần quả đã không
có mặt ngay tại chỗ ấy. Và cũng không có bất cứ ai đã tường
thuật lại việc ấy cho thần. Tâu vị chúa của loài người, đối với
những đoạn kệ ngôn đã được khéo thuyết, khi ấy, các bậc sáng trí
lần tìm ra ý nghĩa.” |
10. Tâu Chúa công! Việc ấy, thần
chẳng nghe,
Không vào rừng để chứng kiến ngày kia,
Song từ khúc kệ ngài ca êm dịu,
Việc ra sao, trí nhân đà thấu hiểu. |
1925. Ādāya pattiṃ
paraviriyaghātiṃ
cāpe saraṃ kiṃ vicikicchase tuvaṃ,
nuṇṇo saro sarabhaṃ hantu khippaṃ
annaṃ hi etaṃ varapañña rañño.
|
1925. “Sau khi cầm lấy mũi tên có
cọng lông đuôi, vật ra sức giết chết kẻ khác, đặt vào cây cung,
bệ hạ còn ngần ngại điều gì? Tâu bậc có trí tuệ cao quý, xin bệ
hạ hãy để cho mũi tên được bắn ra mau chóng giết chết con nai
sarabha, bởi vì nó là thức ăn của đức vua.” |
11. Tên ngài giết lắm vật oai
hùng,
Sao lại cầm tên lặng giữa cung?
Hãy bắn tên bay vào lộc ấy,
Ðó là ngự thiện, tấu Minh vương! |
1926. Addhā pajānāmi ahampi etaṃ
annaṃ migo brāhmaṇa khattiyassa,
pubbe katañca apacāyamāno
tasmā migaṃ sarabhaṃ no hanāmi.
|
1926. “Đương nhiên, trẫm cũng
nhận biết điều ấy, này Bà-la- môn, con nai là thức ăn của vị
Sát-đế-lỵ. Và trong lúc trân trọng việc ân nghĩa trước đây, vì
thế, trẫm không giết chết con nai sarabha.”
|
12. Tế sư, trẫm thấu suốt hơn
ngài:
Trẫm biết dâng vua chính thịt nai,
Song trẫm nhớ ơn đà cứu giúp,
Trẫm dừng tay chẳng hại đời ai. |
Trang 474:
|
Trang 475:
|
1927. Neso migo mahārāja asureso
disampati,
etaṃ hantvā manussinda bhavassu amarādhipo.
|
1927. “Tâu đại vương, đó không
phải là con nai. Tâu vị chúa tể một phương, đó là loài A-tu-la.
Tâu vị chúa của nhân loại, bệ hạ hãy giết chết nó và trở thành
vị chúa của chư Thiên. |
13. Chẳng phải là Nai, tấu Ðại
vương,
Mà đây là một Tu-la-thần,
Ngài là chúa tể nơi trần thế,
Giết nó, ngài lên đấng Ngọc hoàng! |
1928. Saceva rāja vicikicchase
tuvaṃ
hantuṃ migaṃ sarabhaṃ sahāyakaṃ me,
saputtadāro naraviriyaseṭṭha
gantā tuvaṃ vetaraṇiṃ yamassa.
|
1928. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ thật
sự còn ngần ngại để giết chết con nai
sarabha, người bạn của ta, tâu
bậc tinh
tấn hạng nhất ở loài người, bệ hạ là người đi đến dòng sông Vetaraṇī của Thần
Chết cùng với vợ con.” |
14. Nếu ngài do dự, tấu Anh
quân,
Khi giết Nai vì chính bạn thân,
Sẽ vào sông lạnh Diêm vương phủ,
Cùng vợ con ngài xuống cõi âm. |
1929. Kāmaṃ ahaṃ jānapadā ca
sabbe
puttā ca dārā ca sahāyasaṅghā,
gacchemu naṃ vetaraṇiṃ yamassa
na tveva hañño yo mama pāṇadassa.
|
1929. “Trẫm cùng tất cả dân
chúng, và các con trai, các người vợ, và tập thể bạn bè, chúng
ta hãy tự nguyện đi đến dòng sông Vetaraṇī ấy của Thần Chết,
nhưng người nào là người ban mạng sống cho trẫm thì sẽ không bao
giờ bị giết chết. |
15. Cứ vậy Diêm vương với tử
hà,
Ðưa ta đến đủ cả toàn gia,
Cùng thân bằng nữa, ta không thể
Tự giết Nai bằng tay của ta. |
1930. Ayaṃ migo kicchagatassa
mayhaṃ
ekassa kattā vivanasmiṃ ghore,
taṃ tādisaṃ pubbakiccaṃ saranto
jānaṃ mahābrahme kathaṃ haneyyaṃ.
|
1930. Khi trẫm một mình bị lâm
vào cảnh khốn khổ ở trong khu rừng ghê rợn, con nai này là người
đã cứu giúp. Trong khi nhớ lại việc làm ấy trước đây là như thế,
trong khi biết về đức hạnh ấy, này vị Bà-la-môn vĩ đại, làm thế
nào trẫm có thể giết chết con nai?” |
16. Ðầy rẫy rừng sâu nỗi hãi
hùng,
Chính Nai đã cứu khỏi tai ương,
Sao ta muốn vị ban ân chết,
Sau việc thi ân ấy đã mang? |
1931. Mittābhirādhī cirameva jīva
rajjaṃ imaṃ dhammaguṇe pasāsa,
nārīgaṇehi parivārayanto
modassu raṭṭhe tidiveva vāsavo.
|
1931. “Là người tạo sự hạnh phúc
cho bạn hữu, bệ hạ hãy sống thật thọ. Hãy giáo huấn vương quốc
này các đức tính chân chánh. Trong khi được hầu cận bởi những
toán nữ nhân, bệ hạ hãy vui thích ở vương quốc, tựa như Thiên
Chủ Vāsava vui thích ở tại cõi Trời. |
17. Thiện hữu muôn năm ở cõi
trần!
Dạy đời lương thiện, lý toàn chân,
Rồi Thiên nữ sẽ theo hầu hạ
Ngài chính In-dra giữa các thần. |
1932. Akkodhano niccapasannacitto
sabbātithīyācayogo bhavitvā,
datvā ca bhutvā ca yathānubhāvaṃ
anindito saggamupehi ṭhānan ”ti.
10. Sarabhamigajātakaṃ.
|
1932. Là người không có sự giận
dữ, thường xuyên có tâm tịnh tín, sau khi trở thành người đáp
ứng yêu cầu của mọi người khách lạ, sau khi bố thí và hưởng thụ
tùy theo khả năng, là người không bị chê trách, bệ hạ sẽ đạt đến
vị thế cõi Trời.”
10. Bổn Sanh Nai
Sarabha. [483]
|
18. Thoát dục, tâm mình mãi
trú an,
Khi nhiều người lạ đến kêu van,
Hãy cho chúng những gì cần thiết,
Vì Ðại vương đầy đủ khả năng,
Hãy sống phân minh không phạm lỗi,
Ngày sau Thiên giới sẽ dành phần.
Câu chuyện
483 |
TASSUDDĀNAṂ
Varakambakuṭṭhārisahaṃsavaro
atharaññasmiṃ dūtakapañcako,
atha bodhi akittisutakkarinā
atha rūrumigena parosarabho ”ti.
Terasakanipāto niṭṭhito.
--ooOoo--
|
TÓM LƯỢC PHẦN NÀY
Chuyện những trái xoài cao quý, cây búa, với chuyện chim thiên
nga,
rồi ở trong rừng, chuyện liên
quan đến các sứ giả là thứ năm,
rồi cội cây Bồ Đề, vị ẩn sĩ
Akitti, thanh niên Takkāriya tốt lành,
rồi với con nai ruru, con nai
sarabha là chuyện khác.
Nhóm Mười Ba Kệ Ngôn được chấm dứt.
--ooOoo--
|
<Trang trước> |
<Trang Kế> |