XIV.
PAKIṆṆAKANIPĀTO - NHÓM LINH TINH
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 476: |
Trang 477:
|
1933. Sampannaṃ sālikedāraṃ suvā
bhuñjanti kosiya,
paṭivedemi te brahme na naṃ vāretumussahe.
|
1933. “Thưa ông Kosiya, các con
chim két ăn ruộng lúa đă được chín tới. Thưa vị Bà-la-môn, tôi
báo cho ngài biết. Tôi không có thể ngăn cản chúng. |
1. Mùa lúa chiêm vàng thật đẹp
thay,
Song tôi xin nói để ngài hay
Đàn Anh vũ phá tan đồng lúa,
Tôi chẳng làm sao đuổi chúng bay. |
1934. Eko ca tattha sakuṇo so
tesaṃ sabbasundaro,
bhutvā sāliṃ yathākāmaṃ tuṇḍenādāya gacchati.
|
1934. Và ở nơi đó có một con
chim. Nó có vẻ đẹp toàn diện trong số những con chim ấy. Sau khi
ăn lúa sāli theo như ư thích, nó c̣n dùng mỏ gắp lấy lúa
rồi ra đi.” |
2. Có một chim kia đẹp nhất
đàn,
Trước tiên t́m lúa chín mà ăn,
Rồi mang một nắm vào trong mỏ,
Để sẵn mai sau những lúc cần. |
1935. Oḍḍentu vāḷapāsāni yathā
bajjhetha so dijo,
jīvañca naṃ gahetvāna ānayetha mamantike.
|
1935. “Hăy giăng các bẫy lông
đuôi ngựa để cho con chim ấy có thể bị vướng vào. Và ngươi hăy
bắt sống nó, rồi mang đến chỗ của ta.” |
3. Đặt bẫy lông đuôi ngựa thế
này,
Chim kia rồi cũng bị sa ngay,
Bắt cho cẩn thận, chim c̣n sống,
Rồi lấy chim về gặp lăo đây. |
1936. Ete bhutvā pivitvā ca
pakkamanti vihaṃgamā,
eko baddhosmi pāsena kiṃ pāpaṃ pakatammayā.
|
1936. “Các con chim này sau khi
ăn uống rồi bay đi. Một ḿnh ta bị cột vào bẫy. Tội ác nào đă
được tạo ra bởi ta?” |
4. Bầy chim ăn uống thật no
say,
Rồi chúng liền tung cánh vút bay,
Bị bắt ḿnh ta vào chiếc bẫy,
Ta đà gây tội lỗi ǵ đây? |
1937. Udaraṃ nūna aññesaṃ suva
accodaraṃ tava,
bhutvā sāliṃ yathākāmaṃ tuṇḍenādāya gacchasi.
|
1937. “Này chim két, ta nghĩ rằng
những con chim khác có bao tử b́nh thường, c̣n ngươi có bao tử
vượt trội. Sau khi ăn lúa sāli theo như ư thích, ngươi
c̣n dùng mỏ gắp lấy lúa rồi ra đi. |
5. Bụng chim lớn vượt các chim
kia:
Trước hết chim ăn bữa thỏa thuê,
Sau đó ngậm thêm đầy mỏ nữa,
Trước khi giương cánh rộng bay về. |
1938. Koṭṭhannu tattha pūresi
suva verannu te mayā,
puṭṭho me samma akkhāhi kuhiṃ sāliṃ nidhīyasi.
|
1938. Có phải ngươi làm cho đầy
kho thóc ở nơi kia? Này chim két, phải chăng ngươi có thù hận
với ta? Này chim, được ta hỏi, ngươi hăy trả lời, ngươi cất giấu
lúa sāli ở đâu?” |
6. Chim có một kho phải đổ
vào?
Và chim ghét lăo đắng cay sao?
Lăo đ̣i chim phải tŕnh cho đúng:
Chim để kho kia ở chốn nào? |
1939. Na me veraṃ tayā saddhiṃ
koṭṭho mayhaṃ na vijjati,
iṇaṃ muñcāmiṇaṃ dammi sampatto koṭisimbaliṃ,
nidhimpi tattha nidahāmi evaṃ jānāhi kosiya.
|
1939. “Tôi không có thù hận với
ông, kho thóc của tôi không có. Tôi trả nợ và tôi cho vay nợ.
Tôi đi đến chóp đỉnh của rừng cây bông vải, tôi cũng có cất giữ
của chôn giấu tại nơi ấy. Này ông Kosiya, ông hăy biết như vậy.”
|
7. Ta chẳng ghét ngài,
Ko-si-ya,
Ta không hề có vựa kho nhà,
Khi vào rừng ở, ta hoàn nợ,
Và cũng cho vay mượn nữa mà,
Nơi đó ta dồn kho báu măi,
Đây là câu giải đáp phần ta. |
1940. Kīdisaṃ te iṇadānaṃ
iṇamokkho ca kīdiso,
nidhiṃ nidhānaṃ akkhāhi atha pāsā pamokkhasi.
|
1940. “Việc cho vay nợ của ngươi
là như thế nào? Và việc trả nợ là như thế nào? Ngươi hăy giải
thích việc cất giữ của chôn giấu, rồi ngươi sẽ được thoát khỏi
cái bẫy.” |
8. Món nào chim lại muốn cho
vay?
Ǵ đó là công phải trả đây?
Cho biết kho nào đang tích trữ,
Rồi ta sẽ thả tự do bay. |
1941. Ajātapakkhā taruṇā puttakā
mayha kosiya,
te maṃ bhatā bharissanti tasmā tesaṃ iṇaṃ dade.
|
1941. “Này ông Kosiya, những chim
con của tôi c̣n nhỏ, cánh c̣n chưa mọc. Được tôi nuôi dưỡng,
chúng sẽ phụng dưỡng tôi; bằng cách đó, tôi cho chúng vay nợ.
|
9. Lũ chim non nớt ở nhà ta,
Đôi cánh c̣n chưa mọc đủ ra,
Chúng sẽ nuôi ta mai mốt nọ,
Nay ta cho chúng mượn vay mà. |
1942. Mātā pitā ca me vuddhā
jiṇṇakā gatayobbanā,
tesaṃ tuṇḍena hātūna muñce pubbe kataṃ iṇaṃ.
|
1942. Mẹ và cha của tôi đă lớn
tuổi, đă già nua, đă qua thời tuổi trẻ. Sau khi mang lại lúa cho
họ bằng cái mỏ, tôi có thể trả nợ đă vay trước đây. |
10. Mẹ cha già yếu cả song
thân,
Hai vị xa dần hạn tuổi xuân,
Với lúa ta mang trong chiếc mỏ
Đem vê dâng trả các ân nhân. |
1943. Aññepi tattha sakuṇā
khīṇapakkhā sudubbalā,
tesaṃ puññatthiko dammi taṃ nidhiṃ āhu paṇḍitā.
|
1943. Ở nơi ấy, c̣n có những con
chim khác có cặp cánh bị liệt, vô cùng yếu ớt. Là người mong mỏi
phước báu, tôi cho lúa đến chúng; các bậc sáng suốt đă gọi việc
ấy là của chôn giấu.
|
11. C̣n lắm chim đang sống lẻ
đơn,
Bầy chim yếu đuối lại nhiều hơn,
Ta cho bọn chúng v́ từ mẫn:
Đây chỗ hiền nhân gọi trữ tồn. |
Trang 478:
|
Trang 479:
|
1944. Edisaṃ me iṇadānaṃ
iṇamokkho me ediso,
nidhiṃ nidhānaṃ akkhātaṃ evaṃ jānāhi kosiya.
|
1944. Việc cho vay nợ của tôi là
như thế ấy. Việc trả nợ của tôi là như thế ấy. Việc cất giữ của
chôn giấu đă được giải thích. Này ông Kosiya, ông hăy biết như
vậy.” |
12. Đây là phần nợ muốn cho
vay,
Đấy lại là công phải trả đầy,
Nơi nọ là kho đang tích trữ,
Giờ ta phân giải hết lời này. |
1945. Bhaddako vatayaṃ pakkhī
dvijo paramadhammiko,
ekaccesu manussesu ayaṃ dhammo na vijjati.
|
1945. “Con chim này quả thật là
hiền thiện, là loài lưỡng sanh có đạo đức tuyệt vời! Đạo đức này
ở một số người không t́m thấy. |
13. Đạo lư cuộc đời tối thượng
thay!
Làm bao công đức chính chim này!
Từ mồm nhiều kẻ trên trần thế
Chẳng có hề nghe luật lệ vầy. |
1946. Bhuñja sāliṃ yathākāmaṃ
saha sabbehi ñātihi,
punāpi suva passemu piyaṃ me tava dassanaṃ.
|
1946. Ngươi hăy ăn lúa sāli
theo như ư thích cùng với tất cả thân quyến. Này chim két, chúng
ta hăy gặp lại nhau. Sự xuất hiện của ngươi được ta yêu thích.”
|
14. Ăn cho vừa ư thật no nê,
Và mọi chim thân cũng thỏa thuê,
Anh vũ, rồi ta c̣n gặp lại,
Ta yêu h́nh bóng bạn quay về. |
1947. Bhuttañca pītañca
tavassamamhi
ratī ca no kosiya te sakāse,
nikkhittadaṇḍesu dadāhi dānaṃ,
jiṇṇe ca mātāpitaro bharassu.
|
1947. “Này ông Kosiya, chúng tôi
đă được ăn và đă được uống ở chỗ trú ngụ của ông, và chúng tôi
có sự vui thích ở bên ông. Ông hăy ban phát vật thí nơi những
người đă buông bỏ gậy gộc, và ông hăy phụng dưỡng mẹ cha già
yếu.” |
15. Trong nhà ngài đấy,
Ko-si-ya,
Ta uống ăn, t́nh bạn thiết tha,
Xin hăy cúng dường cho những vị
Trong đời gánh nặng đă quăng xa,
Và xin phụng dưỡng song thân đủ,
Khi các ngài kia đă xế tà. |
1948. Lakkhī vata me udapādi ajja
yo addasāsiṃ pavaraṃ dijānaṃ,
suvassa sutvāna subhāsitāni
kāhāmi puññāni anappakāni.
|
1948. “Quả thật, Nữ thần May Mắn
đă đến với ta ngày hôm nay! Ta đây đă gặp được con chim cao quư
của loài chim. Sau khi lắng nghe những lời khéo nói của chim
két, ta sẽ làm các việc phước thiện không phải là ít.” |
16. Thần nữ Cát Tường hẳn đến
đây
Khi ta nh́n thấy chúa chim này,
Ta nguyền thực hiện nhiều công đức,
Chẳng có bao giờ muốn nghỉ tay,
V́ giọng chim thần nay lảnh lót,
Ta vừa nghe thật tuyệt vời thay! |
1949. So kosiyo attamano udaggo
annañca pānañcabhisaṅkharitvā,
annena pānena pasannacitto
santappayi samaṇe brāhmaṇe cā ”ti.
1. Sālikedārajātakaṃ.
|
1949. “Ông Kosiya ấy có ư hài
ḷng, phấn chấn, đă cho chuẩn bị cơm ăn và nước uống, rồi với
tâm tịnh tính, đă làm thỏa măn các vị Sa- môn và Bà-la- môn với
cơm ăn và nước uống.”
1. Bổn sanh Ruộng Lúa Sāli. [484]
|
17. Ko-si này với đại hân hoan
Thực phẩm làm phong phú ngập tràn
Đăi uống ăn La-môn, Thánh giá,
Bản thân vị ấy thật hiền lương.
Câu chuyện
484 |
1950. Upanīyatidaṃ maññe
cande lohitamadena majjāmi,
vijahāmi jīvitaṃ pāṇā
me cande nirujjhanti.
|
1950. “Hỡi nàng Candā, ta nghĩ
rằng mạng sống này bị dẫn đi. Ta bị xây xẩm bởi sự sôi sục của
máu. Hỡi nàng Candā, ta đang ĺa bỏ sự sống, các hơi thở của ta
bị ngưng lại. |
1. Chắc hẳn đời ta sắp sửa
tàn,
Máu ta đang chảy xiết, tuôn tràn,
Ta gần mất hết nguồn sinh lực,
Hơi thở đang thoi thóp, hỡi nàng! |
1951. Osadhi me dukkhaṃ me
hadayaṃ me dayhate nitammāmi,
tava candiyā socantiyā
na naṃ aññehi sokehi.
|
1951. Mạng sống của ta ch́m
xuống, ta có sự đau đớn. Trái tim ta bị đốt nóng, ta mệt nhọc vô
cùng. Nỗi khổ ấy của ta bởi v́ nàng đang sầu muộn, không phải do
các nỗi sầu muộn khác.
|
2. Ta đang ch́m ngập với đau
thương,
Ḷng dạ ta đang đốt cháy bừng,
Song bởi chính nàng sầu, Nguyệt hỡi,
Mà tim ta cảm xúc khôn lường. |
Trang 480: |
Trang 481:
|
1952. Tiṇamiva vanamiva miyyāmi
nadī aparipuṇṇiyāva sussāmi,
tava candiyā socantiyā
na naṃ aññehi sokehi.
|
1952. Ta bị héo tàn, tựa như cọng
cỏ (bị phơi ở tảng đá bị đốt nóng), tựa như khu rừng (bị chặt
cây tận gốc). Ta bị khô cạn, tựa như ḍng sông không không c̣n
đầy nước. Nỗi khổ ấy của ta bởi v́ nàng đang sầu muộn, không
phải do các nỗi sầu muộn khác. |
3. Như cỏ cây, ta cứ lụi tàn,
Héo hon như suối cạn khô dần,
Ḷng đầy xúc cảm, Can-dà hỡi,
V́ nỗi buồn đau của chính nàng.
|
1953. Vassaṃva sare pāde
imāni massūni vattare mayhaṃ,
tava candiyā socantiyā
na naṃ aññehi sokehi.
|
1953. Những giọt nước mắt này của
ta tuôn chảy tựa như nước mưa rơi xuống chảy thành ḍng ở chân
núi. Nỗi khổ ấy của ta bởi v́ nàng đang sầu muộn, không phải do
các nỗi sầu muộn khác.” |
4. Ḍng lệ tuôn từ cặp mắt ta,
Như mưa chân núi chảy vào hồ,
Bởi v́ ḷng dạ đầy thương cảm,
Cho nỗi sầu nàng, hỡi Nguyệt Nga! |
1954. Pāposi kho rājaputta
yo me icchitapatiṃ varākiyā,
vijjhi vanamūlasmiṃ
soyaṃ viddho chamā seti.
|
1954. “Thưa hoàng tử, ngài quả là
độc ác! Ngài đă bắn trúng người chồng yêu dấu của thiếp, người
phụ nữ khốn khổ. Chồng thiếp đây đă bị trúng tên, nằm dài trên
mặt đất, dưới gốc cây trong rừng. |
5. Ôi khổ thân ta, chúa bạo
tàn!
Nhà ngươi đă bắn trọng thương chàng,
Nay chàng nằm đó, trên đất lạnh,
Dưới một gốc cây, giữa núi ngàn. |
1955. Imaṃ mayhaṃ hadayasokaṃ
paṭimuñcatu rājaputta tava mātā,
yo mayhaṃ hadayasoko
kimpurisaṃ avekkhamānāya.
|
1955. Thưa hoàng tử, nỗi sầu muộn
ở trái tim của thiếp trong khi thiếp nh́n thấy người chồng nhân
điểu, hăy để cho người mẹ của ngài nhận lấy nỗi sầu muộn ở trái
tim này của thiếp. |
6. Vương tử! Sầu đau xét ruột
này,
Ta mong thái hậu phải đền thay!
Mối sầu đang bóp tim tan nát,
Khi thấy chàng yêu đă chết đây. |
1956. Imaṃ mayhaṃ hadayasokaṃ
paṭimuñcatu rājaputta tava jāyā,
yo mayhaṃ hadayasoko
kimpurisaṃ avekkhamānāya.
|
1956. Thưa hoàng tử, nỗi sầu muộn
ở trái tim của thiếp trong khi thiếp nh́n thấy người chồng nhân
điểu, hăy để cho người vợ của ngài nhận lấy nỗi sầu muộn ở trái
tim này của thiếp. |
7. Vương tử! Sầu đau xét ruột
này,
Ta mong vương hậu phải đền thay!
Mối sầu đang bóp tim tan nát,
Khi thấy chàng yêu đă chết
đây. |
1957. Mā ca putte mā ca patiṃ
addakkhi rājaputta tava mātā,
yo kimpurisaṃ avadhi
adūsakaṃ mayhakāmāhi.
|
1957. Thưa hoàng tử, chớ để cho
người mẹ của ngài nh́n thấy những người con và người chồng của
bà là kẻ đă giết hại loài nhân điểu vô tội bởi v́ ḷng ham muốn
có được thiếp. |
8. Mong thái hậu nay khóc phụ
hoàng,
Và sau lại phải khóc hoàng nam,
Kẻ v́ tham dục đang làm ác
Cho chính chồng ta thật uổng oan. |
1958. Mā ca putte mā ca patiṃ
addakkhi rājaputta tava jāyā,
yo kimpurisaṃ avadhi
adūsakaṃ mayhakāmāhi.
|
1958. Thưa hoàng tử, chớ để cho
người vợ của ngài nh́n thấy những người con và người chồng của
bà là kẻ đă giết hại loài nhân điểu vô tội bởi v́ ḷng ham muốn
có được thiếp.” |
9. Ước mong vương hậu phải chờ
trông
T́nh cảnh mất con lẫn mất chồng,
Là kẻ v́ tham, làm việc ác
Cho chàng vô tội, chính phu quân. |
1959. Mā tuvaṃ cande rujji
mā soci vanatimiramattakkhi,
mama tvaṃ hohisi bhariyā
rājakule pūjitā nārī.
|
1959. “Này nàng Candā, nàng chớ
khóc lóc. Hỡi nàng có con mắt như bông hoa
vanatimira, nàng chớ sầu muộn.
Nàng sẽ trở thành người vợ của ta, nàng sẽ là người phụ nữ được
tôn vinh ở hoàng cung.”
|
10. Thôi đừng than khóc, chớ
sầu thương,
Ta chắc rừng đêm quáng mắt nàng:
Cung điện vua ban nàng diễm phúc,
Nàng làm hoàng hậu của quân vương! |
Trang 482:
|
Trang 483:
|
1960. Api nūnahaṃ marissaṃ
nacapanāhaṃ rājaputta tava hessaṃ,
yo kimpurisaṃ avadhi
adūsakaṃ mayhakāmāhi.
|
1960. “Thưa hoàng tử, chắc chắn
rằng thiếp sẽ chết, chứ thiếp sẽ không bao giờ thuộc về ngài, là
kẻ đă giết hại loài nhân điểu vô tội bởi v́ ḷng ham muốn có
được thiếp.” |
11. Không, ta đành kết liễu
cuộc đời!
Ta chẳng bao giờ muốn lấy ngươi,
Ngươi giết chồng ta nào có tội,
Tất cả v́ tham ái ta thôi! |
1961. Api bhīruke api
jīvitukāmike
kimpurisi gaccha himavantaṃ,
tālissatagarabhojane
araññe taṃ migā ramissanti.
|
1961. “Này cô nàng nhút nhát, này
cô nàng ước muốn được sống, này nàng nhân điểu, nàng hăy đi về
núi Hi-mă-lạp. Này cô nàng có thức ăn là các lá cây
tālissa và
tagara, các con thú ở trong
rừng sẽ vui đùa với nàng.” |
12. Sống cho thỏa nguyện, hỡi
tiên nương,
Thôi hăy quay về đỉnh Tuyết Sơn,
Ta biết có nhiều loài thú vật
Ăn toàn cỏ hoa, mến rừng hoang. |
1962. Te pabbatā tā ca kandarā
tā ca giriguhāyo,
tattha taṃ apassantī
kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.
|
1962. “Những ngọn núi ấy, các
động núi ấy, và các hang núi ấy, trong khi không nh́n thấy chàng
ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào? |
13. Đây giữa vùng đồi núi,
đỉnh cao,
Trong nhiều thung lũng, dưới hang sâu,
Thiếp làm ǵ nữa, chàng tiên hỡi,
V́ bóng chàng nay thiếp thấy đâu? |
1963. Te paṇṇasanthatā ramaṇiyā
vāḷamigehi anuciṇṇā,
tattha8 taṃ apassantī
kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.
|
1963. Những tấm thảm lá đáng yêu
ấy, nơi được lai văng bởi các loài thú dữ, trong khi không nh́n
thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế
nào? |
14. Thú rừng lang bạt khắp nơi
nơi,
Lá trải trên nhiều chốn đẹp tươi,
Thiếp phải làm ǵ, chàng Nguyệt hỡi,
V́ nay chàng vắng bóng trên đời? |
1964. Te pupphasanthā ramaṇiyā
vāḷamigehi anuciṇṇā,
tattha taṃ apassantī
kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.
|
1964. Những tấm thảm hoa đáng yêu
ấy, nơi được lai văng bởi các loài thú dữ, trong khi không nh́n
thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế
nào? |
15. Dă thú tung hoành, hoa
ngát hương
Lan tràn bao chốn đẹp hoang đường,
Thiếp làm ǵ nữa, chàng tiên hỡi,
V́ chẳng c̣n đâu thấy bóng chàng? |
1965. Acchā savanti
girivaranadiyo
kusumābhikiṇṇasotāyo,
tattha taṃ apassantī
kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.
|
1965. Những ḍng sông quư báu từ
ngọn núi chảy tràn có nước trong vắt, những con suối được rải
rắc với những bông hoa, trong khi không nh́n thấy chàng ở nơi
ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào? |
16. Trong veo, nhiều suối chảy
ven đồi,
Hoa dại muôn ngàn, phủ khắp nơi,
Thiếp phải làm ǵ, chàng Nguyệt hỡi,
V́ nay chàng bỏ thiếp đơn côi? |
1966. Nīlāni himavato
pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni,
tattha taṃ apassantī
kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.
|
1966. Những đỉnh núi ngọc lục của
dăy Hi-mă-lạp sơn đáng ngắm nh́n, trong khi không nh́n thấy
chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
|
17. Xanh thẳm là đối núi Tuyết
San,
Khi nh́n, đồi núi đẹp vô vàn,
Thiếp làm ǵ nữa, chàng tiên hỡi,
V́ chẳng c̣n đâu thấy bóng chàng? |
1967. Pītāni himavato
pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni,
tattha taṃ apassantī
kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.
|
1967. Những đỉnh núi vàng ṛng
của dăy Hi-mă-lạp sơn đáng ngắm nh́n, trong khi không nh́n thấy
chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
|
18. Bao đỉnh Tuyết Sơn nhuộm
ánh vàng,
Nh́n xem đồi núi đẹp huy hoàng,
Thiếp làm ǵ nữa, chàng tiên hỡi,
V́ thiếp c̣n đâu thấy bóng chàng? |
Trang 484: |
Trang 485: |
1968. Tambāni himavato
pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni,
tattha taṃ apassantī
kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.
|
1968. Những đỉnh núi đồng đỏ của
dăy Hi-mă-lạp sơn đáng ngắm nh́n, trong khi không nh́n thấy
chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
|
19. Đồi núi Tuyết Sơn đỏ rực
lên,
Núi đồi tuyệt diệu lúc nh́n xem!
Thiếp làm ǵ nữa, chàng tiên hỡi,
V́ thiếp c̣n đâu thấy bóng tiên? |
1969. Tuṅgāni himavato
pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni,
tattha taṃ apassantī
kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.
|
1969. Những đỉnh núi cao vút của
dăy Hi-mă-lạp sơn đáng ngắm nh́n, trong khi không nh́n thấy
chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
|
20. Tuyết Sơn đỉnh nhọn vút
trời cao,
Đồi núi nh́n xem đẹp biết bao!
Thiếp sẽ làm ǵ, chàng Nguyệt hỡi,
V́ nay thiếp chẳng thấy chàng đâu? |
1970. Setāni himavato
pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni,
tattha taṃ apassantī
kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.
|
1970. Những đỉnh núi bạc trắng
ngần của dăy Hi-mă-lạp sơn đáng ngắm nh́n, trong khi không nh́n
thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế
nào? |
21. Lấp lánh, Tuyết Sơn đỉnh
trắng ngần,
Nh́n xem đồi núi đẹp muôn phần!
Thiếp làm ǵ nữa, chàng tiên hỡi,
V́ chẳng c̣n trông thấy Nguyệt quân? |
1971. Citrāni himavato
pabbatassa kūṭāni dassaneyyāni,
tattha taṃ apassantī
kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.
|
1971. Những đỉnh núi đủ màu sắc
của dăy Hi-mă-lạp sơn đáng ngắm nh́n, trong khi không nh́n thấy
chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
|
22. Tuyết Sơn lại đổi sắc cầu
vồng,
Tuyệt diệu là khi đứng ngắm trông!
Thiếp phải làm ǵ, chàng Nguyệt hỡi,
V́ không c̣n được thấy lang quân? |
1972. Yakkhagaṇasevite
gandhamādane osadhehi sañchanne,
tattha taṃ apassantī
kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.
|
1972. Ở ngọn núi Gandhamādana
được bao phủ bởi các loại thảo dược, được thân cận bởi tập thể
Dạ-xoa, trong khi không nh́n thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân
điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào? |
23. Đồi Hương thân thiết với
yêu ma,
Khắp chốn phủ đầy vạn cỏ hoa,
Thiếp phải làm ǵ, chàng nguyệt hỡi,
V́ đâu c̣n thấy bóng Can-da? |
1973. Kimpurisasevite
gandhamādane osadhehi sañchanne,
tattha taṃ apassantī
kiṃpurisa kathaṃ ahaṃ kāsaṃ.
|
1973. Ở ngọn núi Gandhamādana
được bao phủ bởi các loại thảo dược, được thân cận bởi tập thể
nhân điểu, trong khi không nh́n thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng
nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?” |
24. Thần tiên yêu mến ngọn đồi
Hương,
Cây cỏ bao quanh khắp nẻo đường,
Thiếp sẽ làm ǵ, chàng Nguyệt hỡi,
V́ đâu c̣n thấy bóng chàng thương? |
1974. Vande te pāde ayirabrahme
yo me icchitapatiṃ varākiyā,
amatena abhisiñci
samāgatasmiṃ piyatamena.
|
1974. Thưa đấng Phạm Thiên cao
cả, thiếp xin đảnh lễ hai bàn chân của ngài, vị đă rưới nước bất
tử lên người chồng yêu dấu của thiếp, người phụ nữ khốn khổ, để
thiếp được đoàn tụ với người yêu dấu nhất. |
25. La-môn, Thánh giả đáng tôn
vinh!
Cho phận thiếp đây kém phước lành
Được thấy phu quân đầy ái kính,
Rảy lên chàng thánh dược hồi sinh! |
1975. Vicarāma dāni
girivaranadiyo
kusumābhikiṇṇasotāyo,
nānādumavasanāyo
piyaṃvadā aññamaññassā ”ti.
2. Candakinnarajātakaṃ.
|
1975. Giờ đây, hai ta hăy du
ngoạn những ḍng sông quư báu ở ngọn núi, những con suối được
rải rắc với những bông hoa, những nơi trú ngụ của nhiều loại cây
khác biệt, với những lời nói yêu thương trao đổi giữa hai
người.”
2. Bổn sanh Nhân Điểu Canda.
[485]
|
26. Ta hăy lui về đỉnh Nguyệt
San,
Nơi khe suối diễm lệ tuôn tràn,
Suối khe phủ ngập đầy hoa lá,
Măi măi chốn kia, gió nhẹ nhàng
Thầm th́ len qua ngàn cổ thụ,
Mải mê tṛ chuyện, phút b́nh an.
Câu chuyện
485 |
Trang 486: |
Trang 487: |
1976. Ukkā milācā bandhanti dīpe
pajā mamaṃ khādituṃ patthayanti,
mittaṃ sahāyañca vadehi senaka
ācikkha ñātivyasanaṃ dijānaṃ.
|
1976. “Những người nhà quê thắt
những cây đuốc ở trên ḥn đảo. Chúng mong muốn ăn thịt những đứa
con của thiếp. Thưa chàng diều hâu, chàng hăy nói với bạn bè và
thân hữu, chàng hăy báo tin cho các con chim về sự bất hạnh của
quyến thuộc.” |
1. Dân chúng đang nhen lửa đảo
này,
Để ăn bầy trẻ chốc liền đây,
Hỡi chàng! Mau bảo cùng bè bạn
Nguy hiểm con ta cấp báo ngay. |
1977. Dijo dijānaṃ pavarosi
pakkhi
ukkusarāja saraṇaṃ taṃ upemi,
pajā mama khādituṃ patthayanti
luddā milācā bhava me sukhāya.
|
1977. “Hỡi bạn chim, bạn là con
chim hàng đầu của loài chim. Hỡi chim ưng chúa, tôi đi đến nương
tựa bạn. Những người nhà quê tàn bạo mong muốn ăn thịt những đứa
con của tôi. Xin bạn hăy đem lại sự an lành cho tôi.” |
2. Chim chúa là ngài, hỡi chúa
công!
Nay ta t́m chốn chúa an thân,
Dân làng săn muốn bắt bầy trẻ,
Xin chúa ban cho bạn nỗi mừng! |
1978. Mittaṃ sahāyañca karonti
paṇḍitā
kāle akāle sukhamesamānā,
karomi te senaka etamatthaṃ
ariyo hi ariyassa karoti kiccaṃ.
|
1978. “Các bậc sáng suốt kết
thành bạn bè và thân hữu trong lúc tầm cầu sự an lành vào ban
ngày và ban đêm. Này chim diều hâu, ta sẽ thực hành nghĩa cử ấy
đối với ngươi, bởi v́ người cao thượng thực hiện việc cần phải
làm đối với người cao thượng.” |
3. Đúng lúc hay không, bậc trí
nhân
Kết giao cùng bảo vệ thân bằng,
V́ chim Ưng hỡi, ta hành động,
Bạn thiện giúp nhau những lúc cần. |
1979. Yaṃ hoti kiccaṃ
anukampakena
ariyassa ariyena kataṃ tavayidaṃ,
attānurakkhī bhava mā aḍayha
lacchāma putte tayi jīvamāne.
|
1979. “Việc nào là việc cần phải
làm v́ ḷng thương tưởng bởi người cao thượng đối với người cao
thượng, việc này đă được bạn thực hiện. Bạn hăy có sự bảo vệ bảo
thân, chớ để bị cháy bỏng. Chúng
tôi sẽ giữ được các con lúc bạn đang c̣n sống.” |
4. Bạn thiện giúp nhau: ấy việc
cần,
Ngài làm v́ xót bạn gian nan,
B́nh an con trẻ, ngài c̣n sống,
Cẩn thận, đừng cho thể lực tàn. |
1980. Taveva rakkhāvaraṇaṃ
karonto
sarīrabhedāpi na santasāmi,
karonti heke sakhinaṃ sakhāro
pāṇaṃ cajanti satamesa dhammo.
|
1980. “Trong khi làm công việc
bảo vệ che chở cho chính ngươi, ngay cả những sự tiêu tan thân
xác, ta cũng không sợ sệt. Bởi v́ một số bạn bè làm cho những
người bạn bè, họ từ bỏ mạng sống; đó là bản thể của những người
tốt.” |
5. Khi ta canh giữ ở cây này
Ta chẳng lo rằng nếu chẳng may
Ta mất mạng ḿnh v́ chúng bạn,
Thiện nhân hành động vẫn như vầy!
Thế nên, bạn hăy làm v́ bạn
Dù chính đời ḿnh kết liễu ngay. |
1981. Sudukkaraṃ kammamakā
aṇḍajāyaṃ vihaṅgamo,
atthāya kuraro putte aḍḍharatte anāgate.
|
1981. “Con chim thuộc loài noăn
sanh này đă làm công việc vô cùng khó làm. V́ lợi ích, con chim
ưng đă bảo vệ các con chim con trước lúc nửa đêm.” |
6. Vương điễu noăn sinh lượn cơi
không
Đă làm một việc khổ vô cùng,
Chúa Ưng, trước lúc màn đêm xuống,
Canh giữ bầy chim nhỏ vạn an. |
1982. Cutāpi eke khalitā
sakammunā
mittānukampāya patiṭṭhahanti,
puttā mamaṭṭā gatimāgatosmi
atthaṃ caretha mama vārichanna.
|
1982. “Một số người bị lỗi lầm,
thậm chí bị tử vong bởi v́ việc làm của ḿnh, cũng vẫn tương trợ
v́ ḷng thương tưởng bạn bè. Hỡi người bạn ẩn ḿnh ở trong nước,
các con của tôi bị khổ sở, tôi đă đi đến giang sơn của bạn, xin
bạn hăy làm điều lợi ích giúp tôi.” |
7. Cho dầu những kẻ bị sa chân
Qua lắm việc làm ác, bất nhân,
Cũng có cơ vươn ḿnh tiến được,
Nếu xin nhờ giúp đỡ khi cần.
Các con ta gặp khi nguy khốn,
Ta chẳng bay ngay đến bạn vàng,
Hỡi bạn ngâm ḿnh trong đáy nước,
Giúp nhà tôi, hăy vội lên đàng! |
1983. Dhanena dhaññena ca
attanāva
mittaṃ sahāyañca karonti paṇḍitā,
karomi te senaka etamatthaṃ
ariyo hi ariyassa karoti kiccaṃ.
|
1983. “Các bậc sáng suốt kết
thành bạn bè và thân hữu v́ tài sản, v́ thóc lúa, và c̣n v́ bản
thân nữa. Này chim diều hâu, ta sẽ thực hành nghĩa cử ấy đối với
ngươi, bởi v́ người cao thượng thực hiện việc cần phải làm đối
với người cao thượng.”
|
8. Thiện nhân đối với một thân
bằng
Cho cả đồ dùng lẫn bản thân,
V́ bạn, hỡi Ưng! Ta hoạt động,
Thiện nhân giúp đỡ bạn khi cần. |
Trang 488: |
Trang 489: |
1984. Appossukko tāta tuvaṃ
nisīda
putto pitu carati atthacariyaṃ,
ahaṃ carissāmi tavetamatthaṃ
senassa putte paritāyamāno.
|
1984. “Cha thương, cha hăy ngồi
yên, không phải nhọc công. Con trai làm công việc lợi ích thay
cha. Con sẽ thực hiện nghĩa cử ấy cho cha, trong khi bảo vệ
những người con của chim diều hâu.” |
9. Xin cha an dưỡng, hỡi cha
thân,
Việc của cha, con sẽ lănh phần.
Con phụng sự cha là tốt nhất,
Con đi cứu cả tổ chim bằng.
|
1985. Addhā hi tāta satamesa
dhammo
putto pitu yaṃ caretha atthacariyaṃ,
appeva maṃ disvā pavaḍḍhakāyaṃ
senassa putte na viheṭhayeyyuṃ.
|
1985. “Quả đúng vậy, con thương!
Đó là bản thể của những người tốt! Là việc con trai nên làm công
việc lợi ích thay cha. Tuy nhiên, sau khi nh́n thấy cha có thân
h́nh vạm vỡ, chúng sẽ không quấy nhiễu những người con của chim
diều hâu.” |
10. Cứ làm việc thiện, hỡi Rùa
con,
Con phải giúp cha, thật chánh chơn,
Song chúng chỉ tha bầy trẻ nhỏ,
V́ cha, người thầy lớn khôn ngoan. |
1986. Pasū manussā
migaviriyaseṭṭha
bhayadditā seṭṭhamupabbajanti,
puttā mamaṭṭā gatimāgatosmi
tvaṃ nosi rājā bhava me sukhāya.
|
1986. “Hỡi vị tinh tấn hạng nhất
ở loài thú, khi bị áp lực bởi nỗi sợ hăi, loài vật và loài người
nhờ cậy đến vị tối cao. Các con của tôi bị khổ sở, tôi đă đi đến
giang sơn của bạn. Bạn là vị vua của chúng tôi, xin bạn hăy đem
lại sự an lành cho tôi.” |
11. Oai hùng bậc nhất của muôn
loài,
Loài thú vật kia lẫn mọi người,
Chạy đến anh hùng lúc hoảng sợ:
Chin non gặp nạn, giúp nhà tôi,
Ngài là chúa tể muôn loài đó,
V́ thế nên tôi phải đến nơi. |
1987. Karomi te senaka etamatthaṃ
āyāma te taṃ disataṃ vadhāya,
kathaṃ hi viññū pahu sampajāno
na vāyame attajanassa guttiyā.
|
1987. “Này chim diều hâu, ta sẽ
thực hành nghĩa cử ấy đối với ngươi. Chúng ta hăy đi đến để giết
chết đám thù địch ấy của ngươi. Tại làm sao mà một người có sự
hiểu biết, có khả năng, trong khi biết rơ mà lại không ra sức
bảo vệ cho người của ḿnh?” |
12. Ta giúp chim ngay, hỡi bạn
Ưng!
Mau, ta đi giết bọn cừu nhân,
Hiển nhiên, bậc trí nhiều thông hiểu
Cần gắng công che chở bạn thân. |
1988. Mittañca kayirātha
suhaddayañca
ayirañca kayirātha sukhehi ayiro,
nivatthakojo va sarebhihantvā
modāma puttehi samaṅgibhūtā.
|
1988. “Nên kết thành bạn bè với
người có tâm tốt. Và người cao thượng nên làm việc cao thượng v́
những điều hạnh phúc. Tựa như người có mặc áo giáp chặn đứng các
mũi tên, chúng ta được ân sủng, hăy vui sướng với các con.
|
13. Rơ ràng kết bạn hữu đầy nhà,
Gặp bạn hiền: hoan lạc hiện ra,
Tên bắn trên quân bào bất lợi,
Ta mừng, an ổn các con ta. |
1989. Sakamittassa kammena
sahāyassāpalāyino,
kūjantamupakūjanti lomasā hadayaṅgamaṃ.
|
1989. Nhờ vào hành động nỗ lực
của bạn bè thân thuộc, của con sư tử không bỏ rơi bạn hữu, các
con chim hót líu lo tiếng hót đi vào trái tim. |
14. Nhờ công giúp của bạn chân
t́nh,
Chim bạn đến mong góp sức ḿnh,
Đối đáp, chim non kêu ríu rít
Làm say ḷng mẹ với âm thanh. |
1990. Mittaṃ sahāyaṃ adhigamma
paṇḍito
so bhuñjati puttapasuṃ dhanaṃ vā,
ahañca puttā ca patī ca mayhaṃ
mittānukampāya samaṅgibhūtā.
|
1990. Sau khi t́m đến bạn bè thân
hữu, bậc sáng suốt ấy thụ hưởng con cái và thú vật, hay tài sản.
Nhờ vào ḷng thương tưởng của bạn bè, tôi cùng các con và người
chồng của tôi được toàn vẹn. |
15. Người khôn nhờ bạn giúp bàn
tay,
Sống với đàn con hạnh phuc đầy,
Ta với chồng con cùng đứng vững
V́ thân bằng hữu mến thương lây. |
1991. Rājāvatā sūravatā ca attho
sampannasakkhissa bhavanti hete,
so mittavā yasavā uggatatto
asmiñca loke modati kāmakāmī.
|
1991. Mục đích là có thể đạt được
bởi người kết bạn với vua và bởi người kết bạn với dũng sĩ, bởi
v́ người có bạn bè đạt được những điều này. Người có sự đeo đuổi
ước muốn ấy có bạn, có danh tiếng, có vị thế đă được nâng lên,
và vui sướng ở thế gian này.
|
16. Dân cần bảo vệ bởi vua quan,
Những vị t́nh thân hữu vẹn toàn,
Hạnh phúc chàng mong: uy lực đủ
Là người hưng thịnh, lắm thân bằng. |
Trang 490: |
Trang 491:
|
1992. Karaṇīyāni mittāni
daḷiddenāpi senaka,
passa mittānukampāya samaggamhā sañātake.
|
1992. Thưa chàng diều hâu, dầu là
người nghèo khó cũng vẫn nên kết giao bạn bè. Chàng hăy nh́n
xem, nhờ vào ḷng thương tưởng của bạn bè, chúng ta được đoàn tụ
cùng với các thân quyến. |
17. Này Ưng, cần phải kiếm
thân bằng
Dù bạn nghèo hèn hoặc yếu non,
Nay hăy xem: nhờ t́nh thắm thiết
Ta và gia quyến thảy b́nh an. |
1993. Sūrena balavantena yo
mettiṃ kurute dijo,
evaṃ so sukhito hoti yathāhaṃ tvañca senakā ”ti.
3. Mahā-ukkusajātakaṃ.
|
1993. Thưa chàng diều hâu, con chim nào kết giao t́nh thân hữu
với bậc dũng sĩ, với người có sức mạnh, con chim ấy được hạnh
phúc như vậy, giống như là thiếp và chàng vậy.”
3. Bổn sanh Chim Ưng Vĩ Đại. [486]
|
18. Chim Ưng t́m được bậc anh
hùng
Để đóng vai chim bạn thiết thân,
Ưng hỡi, như đôi ta hạnh phúc,
Chim kia cũng hạnh phúc trong ḷng.
Câu chuyện
486 |
1994. Kharājinā jaṭilā paṅkadantā
dummukharūpā ye me japanti,
kaccinnu te mānusake payoge
idaṃ vidū parimuttā apāyā.
|
1994. “Có y da dê thô cứng, tóc
bện, có răng bị đóng bợn, có bộ dạng lấm lem dơ bẩn, các vị này
lẩm nhẩm. Phải chăng các vị ấy, trong sự rèn luyện thuộc về nhân
gian, là những vị hiểu biết thế gian này, và đă được hoàn toàn
thoát khỏi các đọa xứ? |
1. Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện,
Miệng th́ thầm lời thánh đạo b́nh an,
Chẳng từ nan nhiều phương tiện hiền nhân,
Chắc đă đạt Chân như và Giải thoát. |
1995. Pāpāni kammāni karotha rāja
bahussuto ce na careyya dhammaṃ,
sahassavedāpi na taṃ paṭicca
dukkhā pamucce caraṇaṃ apatvā.
|
1995. Tâu bệ hạ, nếu người có
nhiều kiến thức làm các hành động xấu xa, và không thực hành
thiện pháp, người đă không đạt được sự thực hành, dầu có một
ngàn sự hiểu biết, không v́ điều ấy mà có thể thoát khỏi khổ
đau.” |
2. Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn. |
1996. Sahassavedopi na taṃ
paṭicca
dukkhā pamucce caraṇaṃ apatvā,
maññāmi vedā aphalā bhavanti
sasaṃyamaṃ caraṇaññeva saccaṃ.
|
1996. “Người đă không đạt được sự
thực hành, dầu có một ngàn sự hiểu biết, không v́ điều ấy mà có
thể thoát khỏi khổ đau. Ta nghĩ rằng các sự hiểu biết là không
có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là chân lư.” |
3. Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
Khi việc hỏng, hoặc cứu người nguy khốn:
Kinh Vệ-đà hẳn là đồ vô dụng,
Chánh đạo là: làm chánh, tự điều thân. |
1997. Na heva vedā aphalā
bhavanti
sasaṃyamaṃ caraṇaññeva saccaṃ,
kittiṃ hi pappoti adhicca vede
santiṃ puṇoti caraṇena danto.
|
1997. “Các sự hiểu biết không hẳn
là không có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là
chân lư. Bởi v́ người sau khi học tập các sự hiểu biết th́ đạt
được danh tiếng, c̣n với sự thực hành, người đă được huấn luyện
đạt đến sự an tịnh.” |
4. Không phải thế, Vệ-đà không vô dụng,
Dù tự điều thân là đạo chánh chân,
Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
Song ta đạt tối an nhờ chánh hạnh. |
1998. Bhaccā mātā pitā bandhū
yena jāto sayeva so,
uddālako ahaṃ bhoto sotthiyākulavaṃsako.
|
1998. “Người mẹ, người cha, các
quyến thuộc là những người cưu mang. Kẻ đă được sanh ra từ người
nào th́ đương nhiên thuộc về người ấy. Con là Uddālaka, là người
thuộc ḍng dơi gia tộc Sotthiya của ngài.” |
5. Cha mẹ và thân quyến họ hàng
Đ̣i ta chăm sóc với yêu thương,
Mẹ cha là bản thân con đó,
Con Ud-da-la chính búp non
Từ gốc rễ nhà ngài quư tộc,
Thưa ngài, Tôn giả Bà-la-môn. |
1999. Kathaṃ bho brāhmaṇo hoti
kathaṃ bhavati kevalī,
kathañca parinibbānaṃ dhammaṭṭho kinti vuccati.
|
1999. “Này con, thế nào là vị
Bà-la-môn? Thế nào là người có sự toàn hảo? Và thế nào là sự
hoàn toàn diệt tắt? Như thế nào được gọi là vị đứng vững ở thiện
pháp?” |
6. Điều ǵ thành tựu một La-môn,
Vị ấy làm sao được thiện toàn?
Hăy nói thế nào người chánh hạnh,
Làm sao đạt hạnh phúc Niết-bàn? |
2000. Niraṃ katvā aggimādāya
brāhmaṇo
āposijaṃ yajamusseti yūpaṃ,
evaṃ karo brāhmaṇo hoti khemi
dhamme ṭhitaṃ tena amāpayiṃsu.
|
2000. “Sau khi khước từ (thế
gian) và thờ phượng thần lửa, trong khi hành lễ rưới nước, trong
khi dâng hiến, vị Bà-la-môn nâng cao cây gậy tế thần. Với sự
thực hành như vậy, là vị Bà-la-môn, là người có sự an ổn. Do
việc ấy, người đời đă công nhận là vị đứng vững ở thiện pháp.”
|
7. Bỏ đời, sùng bái lửa thiêng hồng,
Vung gậy tế đàn, rảy nước trong,
Phận sự làm xong, người tán tụng,
La-môn như vậy được an ḷng. |
Trang 492:
|
Trang 493:
|
2001. Na suddhi secanenatthi napi
kevalī brāhmaṇo,
na khanti napi soraccaṃ napi so parinibbuto.
|
2001. “Không có sự trong sạch với
việc hành lễ rưới nước, vị Bà-la-môn cũng không có sự toàn hảo,
không có sự nhẫn nại, cũng không có sự hiền ḥa; vị ấy cũng
không được hoàn toàn diệt tắt.” |
8. Rảy nước không làm sạch Đạo nhân,
Thiện toàn chẳng phải việc đăng đàn,
Cũng không an ổn và thân ái,
Chẳng đạt tối cao, lạc Niết-bàn. |
2002. Kathaṃ so brāhmaṇo hoti
kathaṃ bhavati kevalī,
kathañca parinibbānaṃ dhammaṭṭho kinti vuccati.
|
2002. “Vị Bà-la-môn ấy là thế
nào? Người có sự toàn hảo là thế nào? Và thế nào là sự hoàn toàn
diệt tắt? Như thế nào được gọi là vị đứng vững ở thiện pháp?”
|
9. Điều ǵ thành tựu hạnh La-môn
Vị ấy làm sao được thiện toàn,
Xin bảo thế nào người chánh hạnh,
Làm sao thành tựu lạc Niết-bàn? |
2003. Akkhettabandhu amamo nirāso
nillobhapāpo bhavalobhakhīṇo,
evaṃ karo brāhmano hoti khemi
dhamme ṭhitaṃ tena amāpayiṃsu.
|
2003. “Là người không ruộng vườn,
không bà con, không ích kỷ, không mong cầu, không tham lam xấu
xa, đă được cạn kiệt tham ái trong các hữu. Với sự thực hành như
vậy, là vị Bà-la-môn, là người có sự an ổn. Do việc ấy, người
đời đă công nhận là vị đứng vững ở thiện pháp.” |
10. Người không của cải, chẳng nương đồng,
Không có họ hàng, chẳng ước mong,
Chẳng thiết cuộc đời, không ái dục,
Hoặc không ác hạnh, thảy đều không.
Đạo nhân vậy đạt tâm thanh tịnh,
Giữ phận chánh chân, được tán đồng. |
2004. Khattiyā brāhmaṇā vessā
suddā caṇḍālapukkusā,
sabbeva soratā dantā sabbeva parinibbutā,
sabbesaṃ sītibhūtānaṃ atthi seyyova pāpiyo.
|
2004. “Các Sát-đế-lỵ, các
Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, các
người hốt rác, tất cả đều hiền ḥa, đều đă được huấn luyện, tất
cả đều được hoàn toàn diệt tắt. Trong số tất cả các vị đă có
trạng thái mát mẻ, phải chăng có vị tốt hơn, có vị kém thua?” |
11. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
Tất cả những người đầy trắc ẩn,
Đều thành tựu cực lạc Niết-bàn.
Vậy ai cao trọng, ai hèn kém
Giữa các Thánh hiền tối thượng chăng? |
2005. Khattiyā brāhmaṇā vessā
suddā caṇḍāla pukkusā,
sabbeva soratā dantā sabbeva parinibbutā,
sabbesaṃ sītibhūtānaṃ natthi seyyova6 pāpiyo.
|
2005. “Các Sát-đế-lỵ, các
Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, các
người hốt rác, tất cả đều hiền ḥa, đều đă được huấn luyện, tất
cả đều được hoàn toàn diệt tắt. Trong số tất cả các vị đă có
trạng thái mát mẻ, không có vị tốt hơn hay vị kém thua.” |
12. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
Tất cả những người đầy trắc ẩn,
Đều thành tựu cực lạc Niết-bàn,
Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém
Giữa các bậc hiền Thánh đại nhân. |
2006. Khattiyā brāhmaṇā vessā
suddā caṇḍālapukkusā,
sabbeva soratā dantā sabbeva parinibbutā.
|
2006. “Các Sát-đế-lỵ, các
Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, các
người hốt rác, tất cả đều hiền ḥa, đều đă được huấn luyện, tất
cả đều được hoàn toàn diệt tắt. |
13. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
Tất cả những người này đức hạnh
Đều thành tựu cực lạc Niết-bàn, |
2007. Sabbesaṃ sītibhūtānaṃ
natthi seyyova pāpiyo,
panaṭṭhaṃ carasi brahmaññaṃ sotthiyākulavaṃsataṃ.
|
2007. Trong số tất cả các vị đă
có trạng thái mát mẻ, không có vị tốt hơn hay vị kém thua, vậy
Bà-la-môn hạnh, tính chất ḍng dơi gia tộc Sotthiya, mà ngài
thực hành đều bị mất đi.” |
Chẳng ai cao trọng,
ai hèn kém,
Giữa các bậc hiền Thánh đại nhân;
Giáo sĩ, vậy ngài vô tích sự,
Hư danh địa vị, hẳn rồi chăng? |
2008. Nānārattehi vatthehi
vimānaṃ bhavati chāditaṃ,
na tesaṃ chāyāvatthānaṃ so rāgo apanujjatha.
|
2008. “Đền đài, cung điện trở nên
bị che khuất bởi những tấm vải nhuộm nhiều màu. Bóng che không
phải là của những tấm vải ấy, mà màu sắc ấy làm nḥa đi. |
14. Với tấm vải thô nhuộm đủ màu,
Ngôi đ́nh được dựng, mái đ́nh cao,
Đỉnh tṛn, rực rỡ đầy màu sắc,
Bóng đổ một màu vẫn giống nhau. |
2009. Evameva manussesu yadā
sujjhanti mānavā,
na tesaṃ jātiṃ pucchanti dhammamaññāya subbatā ”ti.
4. Uddālakajātakaṃ.
|
2009. Tương tự như vậy ở loài
người, khi những người trẻ tuổi được trong sạch sau khi hiểu
thông Giáo Pháp và trở thành những vị có sự hành tŕ tốt đẹp,
người ta không hỏi về xuất thân của các vị ấy.”
4. Bổn sanh Đạo Sĩ Uddālaka.
[487]
|
15. Vậy khi nhiều kẻ đạt thanh tâm
Tại chính nơi đây, giữa cơi trần,
Người thiện thấy toàn là bậc Thánh,
Chẳng hề hỏi huyết thống nguồn căn.
Câu chuyện
487 |
Trang 494:
|
Trang 495:
|
2010. Assaṃ gavaṃ rajataṃ
jātarūpaṃ
bhariyañca so idha labhataṃ manāpaṃ,
puttehi dārehi samaṅgi hotu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
|
2010. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào
đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy ở đời này hăy đạt
được ngựa, voi, bạc, vàng, và người vợ hợp ư; cầu cho gă hăy có
nhiều con, có nhiều vợ.” |
1. Mong nhiều trâu ngựa, lắm kim ngân,
Vợ quư, nó giữ ǵn luyến thương,
Mong nó sinh nhiều trai gái đủ,
Kẻ ăn phần trộm của La-môn! |
2011. Mālañca so kāsikacandanañca
dhāretu puttassa bahū bhavantu,
kāmesu tibbaṃ kurutaṃ apekkhaṃ
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
|
2011. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào
đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hăy mang tràng hoa,
mặc vải Kāsi, và thoa bột trầm
hương; cầu cho kẻ này hăy có nhiều con; cầu cho gă hăy thể hiện
sự ham muốn tột độ ở các dục.” |
2. Mong nó nhiều con, lắm áo quần,
Ṿng hoa tay khoác, ngát chiên-đàn,
Tâm tư sôi sục đầy tham dục,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi Đạo nhân! |
2012. Pahūtadhañño kasimā yasassī
putte gihī dhanimā sabbakāme,
vayaṃ apassaṃ gharamāvasātu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
|
2012. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào
đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hăy là người nông
dân có nhiều thóc lúa, có danh tiếng; hăy là người tại gia có
nhiều con cái, có tài sản, đạt được tất cả các dục; cầu cho gă
hăy trú ngụ ở nhà, không nhận biết tuổi tác của bản thân.”
|
3. Mong nó nhiều danh vọng, ruộng vườn,
Nhà kho, con cái, sẵn sàng dâng,
Nó không hiểu tháng năm dần mất,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi Đạo nhân! |
2013. So khattiyo hotu
pasayhakārī
rājābhirājā balavā yasassī,
sacāturantaṃ mahimāvasātu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
|
2013. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào
đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hăy là vị Sát-đế-lỵ
có hành động bạo lực, là vị vua trên các vị vua, có sức mạnh, có
danh tiếng; cầu cho gă trú ngụ ở trái đất bao gồm cả bốn
phương.” |
4. Mong nó lừng danh đại tướng quân,
Đế vương tối thượng ngự huy hoàng,
Thế gian bốn cơi đều phần nó,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi Đạo nhân! |
2014. So brāhmaṇo hotu avītarāgo
muhuttanakkhattapathesu yutto,
pūjetu naṃ raṭṭhapatī yasassī
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
|
2014. Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào
đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hăy là vị Bà-la-môn
chưa xa ĺa luyến ái, chuyên chú vào thời khắc và đường đi của
các v́ sao; cầu cho vị chúa của vương quốc có danh tiếng hăy tôn
vinh kẻ ấy.” |
5. Mong nó trở thành một Đạo nhân,
Mà không chế ngự được tham sân,
Chỉ tin tinh tú, ngày lành tốt,
Được hiển vinh nhờ các đế vương
Ân thưởng, kẻ ăn phần trộm đó,
Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn! |
2015. Ajjhāyakaṃ
sabbasamattavedaṃ
tapassinaṃ maññatu sabbaloko,
pūjentu taṃ jānapadā samecca
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
|
2015. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào
đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho tất cả thế gian hăy quư
trọng kẻ có sự khắc khổ, chuyên học tập trọn vẹn đầy đủ bộ Kinh
Vệ Đà; cầu cho dân chúng sau khi hiểu rơ hăy tôn vinh kẻ ấy.” |
6. Vệ-đà, mong nó học uyên thâm,
Người quư trọng đức độ Thánh nhân,
Mong nó được muôn người bái phục,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn! |
2016. Catussadaṃ gāmavaraṃ
samiddhaṃ
dinnaṃ hi bhuñjatu vāsavena,
avītarāgo maraṇaṃ upetu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
|
2016. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào
đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hăy hưởng thụ ngôi
làng cao quư, thịnh vượng, có bốn sự dư thừa (về nhân lực, thóc
lúa, củi, nước), bởi v́ đă được ban tặng bởi vị Chúa của chư
Thiên; cầu cho gă hăy chạm trán Thần Chết lúc vẫn chưa xa ĺa
luyến ái. |
7. Ơn trời cho nó được ngôi làng,
Có đủ giàu sang, bốn loại hàng,
Khi chết, dục tham không chế ngự,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn! |
2017. So gāmaṇī hotu sahāyamajjhe
naccehi gītehi pamodamāno,
mā rājato vyasanamalatthakiñci
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
|
2017. Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào
đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hăy là người trưởng
làng đang vui sướng với các điệu vũ, với các lời ca ở giữa bạn
bè; cầu cho gă chớ gánh chịu bất cứ sự bất hạnh nào từ phía đức
vua.”
|
8. Nó làm lư trưởng, bạn quây quần,
Vũ khúc, hoan ca, nhạc đắm hồn,
Mong nó đầy tràn ơn lộc chúa,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn! |
Trang 496:
|
Trang 497:
|
2018. Yaṃ ekarājā paṭhaviṃ
vijetvā
itthī sahassassa ṭhapetu aggaṃ,
sīmantinīnaṃ pavarā bhavātu
bhisāni te brāhmaṇa yā ahāsi.
|
2018. “Thưa vị Bà-la- môn, cô
nàng nào đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho vị vua độc nhất
đă chinh phục trái đất hăy thiết lập cô nàng vào ngôi vị chánh
hậu trong số một ngàn nữ nhân; cầu cho cô nàng hăy là người quư
phái trong số các phụ nữ.” |
9. Mong nàng làm tuyệt thế giai nhân,
Chúa tể thế gian chọn má hồng,
Chánh hậu giữa muôn người toại ư,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn! |
2019. Isīnaṃ hi sā
sabbasamāgatānaṃ
bhuñjeyya sāduṃ avikampamānā,
carātu lābhena vikatthamānā
bhisāni te brāhmaṇa yā ahāsi.
|
2019. “Thưa vị Bà-la- môn, cô
nàng nào đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho cô nàng ấy có
thể thọ dụng thức ăn ngon ngọt một cách thản nhiên ở giữa tất cả
các nữ tỳ đă tụ hội lại; cầu cho cô nàng hăy sống phô trương về
lợi lộc.” |
10. Khi mọi nữ tỳ tập họp xong,
Mong nàng oai vệ ngự ngai vàng,
Cao lương mỹ vị đầy ngon ngọt,
Kiêu hănh v́ ân phước của nàng,
Người đă lấy phần ăn trộm đó,
Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn! |
2020. Āvāsiko hotu mahāvihāre
navakammiko hotu kajaṅgalāyaṃ,
ālokasandhiṃ divasā karotu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
|
2020. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào
đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho gă hăy là vị thường trú ở
ngôi tự viện lớn; cầu cho gă hăy là người làm công việc xây dựng
tại thành phố Kajaṅgalā (rộng một do-tuần); cầu cho gă hăy kiến
thiết cửa sổ nội trong một ngày.” |
11. Mong nó bảo tồn viện Ka-jan,
Trùng tu quang cảnh đă tiêu tàn,
Hàng ngày làm cửa song nhà mới,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi Đại nhân! |
2021. So bajjhataṃ pāsasatehi
chamhi
rammā vanā nīyatu rājadhāniṃ,
tuttehi so haññatu pācanehi
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
|
2021. “Thưa vị Bà-la- môn, con
voi nào đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho nó hăy bị trói
buộc bởi một trăm sợi xích ở sáu chỗ (bốn chân, cổ, và hông);
cầu cho nó hăy bị dẫn đi từ khu rừng đáng yêu đến kinh thành;
cầu cho nó hăy bị hành hạ bởi những cây giáo nhọn, bởi những gậy
móc câu.” |
12. Mong nó bị người bắt lấy thân,
Sáu trăm dây trói tự rừng hoang
Mang về thành, bị người vây đánh
Bằng gậy, giáo, gươm, phải phát cuồng!
Kẻ đă lấy phần ăn trộm đó,
Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn! |
2022. Alakkamālī tipukaṇṇaviddho
laṭṭhihato sappamukhaṃ upetu,
sakkaccabaddho visikhaṃ carātu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.
|
2022. “Thưa vị Bà-la- môn, con
khỉ nào đă lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho nó có đeo ṿng
hoa bạch tiền, bị ch́ xuyên thủng lỗ tai, bị hành hạ bởi roi
vọt; cầu cho nó hăy đi đến gần miệng rắn (ở tṛ biểu diễn khỉ và
rắn); cầu cho nó hăy đi lang thang ở đường phố, bị cột trói cẩn
thận.” |
13. Ṿng hoa trên cổ, thiếc đeo tai,
Mong nó đi đường, khiếp sợ oai
Chiếc gậy luyện chơi gần lũ rắn,
Kẻ ăn phần trộm ấy, thưa ngài! |
2023. Yo ve anaṭṭhaṃ naṭṭhanti
cāha
kāmeva so labhataṃ bhuñjatañca,
agāramajjhe maraṇaṃ upetu
yo cā bhonto saṅkati kañcideva.
|
2023. “Thật vậy, kẻ nào đối với
vật không bị mất mà đă nói là: ‘Bị mất,’ cầu cho kẻ ấy hăy nhận
được và hưởng thụ các dục; cầu cho gă hăy chạm trán Thần Chết ở
giữa ngôi nhà (v́ đă không được xuất gia). Và thưa các ngài, kẻ
nào trong số các vị nghi ngờ về bất cứ ai (th́ cũng gánh chịu
như vậy). |
14. Ai thề thực phẩm biến đi rồi,
Mà nếu không mất mát, vậy thời
Mong nó hưởng tràn đầy dục lạc,
Và mang kết quả việc kia hoài,
Ước mong cái chết đầy phàm tục
Số phận dành cho nó cuối đời,
Điều ấy cũng dành cho quí vị,
Nếu bây giờ quí vị nghi tôi! |
2024. Yadesamānā vicaranti loke
iṭṭhañca kantañca bahunnametaṃ,
piyaṃ manuññaṃ idha jīvaloke
kasmā isayo nappasaṃsanti kāme.
|
2024. “Chúng lang thang ở trên
đời, trong khi tầm cầu vật ưa thích và vật mong muốn, là vật
được yêu quư, vật làm vừa ḷng đối với số đông ở tại nơi này, ở
thế gian của cuộc sống. V́ sao các vị ẩn sĩ không ca ngợi các
dục?”
|
15. Người kiếm t́m luôn ở cơi trần
Cái điều vui đẹp, thiết thân ḷng
Được nhiều kẻ ước mong mê mẩn.
Như vậy, v́ sao các Thánh nhân
Lại chẳng tán dương nhiều sự việc
Vẫn thường ham muốn bởi phàm nhân? |
Trang 498: |
Trang 499:
|
2025. Kāmesu ce haññare bajjhare
ca
kāmesu dukkhañca bhayañca jātaṃ,
kāmesu bhūtādhipatī pamattā
pāpāni kammāni karonti mohā.
|
2025. “Thật vậy, chúng bị hành hạ
và bị trói buộc ở các dục; khổ đau và nguy hiểm được sanh ra ở
các dục; các vị quân vương bị say đắm ở các dục; v́ si mê, chúng
làm các hành động xấu xa. |
16. Tham dục là tai họa chết người,
Là dây xiềng xích trói trên đời,
Ở trong ác dục, ta t́m thấy
Đau khổ và kinh hăi cả thôi.
Khi bị dục tham nào cám dỗ,
Vua thường phạm tội, đắm say hoài! |
2026. Te pāpadhammā pasavetvā
pāpaṃ
kāyassa bhedā nirayaṃ vajanti,
ādīnavaṃ kāmaguṇesu disvā
tasmā isayo nappasaṃsanti kāme.
|
2026. Sau khi tạo ra tội ác do
bản chất xấu xa, d0 sự hoại ră của thân, chúng di chuyển đến địa
ngục. Sau khi nh́n thấy điều bất lợi ở các loại dục, v́ thế, các
vị ẩn sĩ không ca ngợi các dục.” |
17. Phải vào địa ngục, các phàm nhân
Gây tội, khi tan ră nhục thân,
V́ biết khổ đau trong ác dục,
Bậc hiền chê trách, chẳng đồng ḷng. |
2027. Vīmaṃsamāno isino bhisāni
tīre gahetvāna thale nidhesiṃ,
suddhā apāpā isayo vasanti
etāni te brāhmacārī bhisāni.
|
2027. “Trong khi xem xét các củ
sen của vị ẩn sĩ, ta đă cầm lấy
chúng
ở bờ hồ và đă cất giấu ở
trong đất. Các vị ẩn sĩ sống trong sạch, không xấu xa. Thưa vị
thực hành Phạm hạnh, các củ sen này là của ngài.” |
18. Chính ta trộm, thử các hiền nhân,
Ta đặt bên hồ các thức ăn,
Bậc trí thật hiền lương thánh thiện,
Hỡi người Phạm hạnh, hăy nh́n phần! |
2028. Na te naṭā no pana
kīḷaneyyā
na bandhavā no pana te sahāyā,
kismiṃ paratthambha sahassanetta
isīhi tvaṃ kīḷasi devarāja.
|
2028. “Chúng tôi không phải là
các vũ công của ngài, hơn nữa không là những người có thể đùa
giỡn. Chúng tôi không là bà con, hơn nữa không là bạn bè của
ông. Thưa vị nâng đỡ kẻ khác, thưa bậc có ngàn mắt, thưa đấng
Thiên Vương, liên quan đến việc ǵ mà ông đùa giỡn với các bậc
ẩn sĩ?” |
19. Chúng ta không múa rối vui chơi,
Làm các tṛ tiêu khiển với ngài,
Chẳng quyến thuộc ngài, hay bạn hữu,
Tại sao vậy thế, hỡi vua trời?
Thưa ngài Ngàn mắt, sao ngài nghĩ
Bậc trí bày tṛ giải trí thôi? |
2029. Ācariyo mesi pitā ca mayhaṃ
esā patiṭṭhā khalitassa brahme,
ekāparādhaṃ khama bhūripañña
na paṇḍitā kodhabalā bhavanti.
|
2029. “Ngài là vị thầy của ta, và
là người cha của ta. Thưa vị Bà-la- môn, nơi nương tựa này là
dành cho người bị phạm lỗi lầm. Thưa vị có trí tuệ uyên bác, xin
ngài hăy tha thứ cho một sự sai trái. Các bậc sáng suốt không có
năng lực của sự giận dữ.” |
20. Ngài chính là Sư trưởng đại nhân,
Chính ngài là một vị cha thân,
Chở che cho trẫm đà sai phạm,
Xin hăy thứ tha trót lỗi lầm;
Chẳng có bao giờ, thưa Thánh giá,
Bậc hiền lại phát khởi ḷng sân! |
2030. Suvositaṃ isinaṃ ekarattaṃ
yaṃ vāsavaṃ bhūtapatiṃ addasāma,
sabbeva bhonto sumanā bhavantu
yaṃ brāhmaṇo paccapādī bhisāni.
|
2030. “Một đêm của các vị ẩn sĩ
đă được trải qua tốt đẹp! Là việc chúng ta đă gặp được đấng
Thiên Chủ, chúa của các Thiên thần. Thưa các vị, xin tất cả các
vị hăy hoan hỷ, bởi v́ vị Bà-la- môn đă nhận lại các củ sen.” |
21. An lạc một đêm với Thánh nhân,
Chúng ta hội kiến đấng Thiên vương,
Chư Hiền, hăy đẹp ḷng khi thấy
Thực phẩm mất, nay được phục hoàn. |
2031. Ahañca sāriputto ca
moggallāno ca kassapo,
anuruddho puṇṇo ānando tadāsuṃ satta bhātaro.
|
2031. “Khi ấy, Ta cùng với
Sāriputta, Moggallāna, Kassapa, Anuruddha, Puṇṇa, và Ānanda đă
là bảy anh em. |
22. Mục-liên, Xá-lợi-phất và Ta,
Ca diếp, A-na-luật, Phú-na, (1),
Cùng với A-nan-đà thuở ấy
Thất Hiền Huynh Đệ chốn kia mà. |
2032. Bhaginī uppalavaṇṇā dāsī
khujjuttarā tadā,
citto gahapati dāso yakkho sātāgiro tadā.
|
2032. Khi ấy, Uppalavaṇṇā đă là
cô em gái, Khujjuttarā đă là người tớ gái. Khi ấy, gia chủ
Citta đă là người tôi trai, Sātāgira đă là Dạ-xoa. |
23. Liên Hoa Sắc, tiểu muội ngày xưa,
Tỳ nữ, Khuj-ju (2), thuở bấy giờ,
Cổ thụ Thần kia, Sà-tá (3) đó,
Cit-ta Gia chủ, chính gia nô. |
2033. Pārileyyo tadā nāgo madhudo
seṭṭhavānaro,
kāḷudāyī tadā sakko evaṃ dhāretha jātakan ”ti.
5. Bhisajātakaṃ.
|
2033. Khi ấy, voi Pārileyya đă là
con voi, Madhuda đă là con khỉ thủ lănh. Khi ấy, Kāḷudāyī đă là
Thiên Chủ Sakka. Các ngươi hăy ghi nhớ chuyện Bổn Sanh như vậy.”
5. Bổn sanh Các Củ Sen. [488]
|
24. Con Voi ngày trước chính Par-ley (4)
Con Khỉ là Ma-dhu-sét đây, (5)
Đế Thích là Ka-lu (6) thuở ấy,
Chúng Tăng giờ hiểu Tiền thân này.
---------------
Chú thích: (1) Punna; (2) Khujjutarà; (3) Satàgira; (4)
Pàrileyya; (5) Madhuvasettha; (6) Kàludàyi
Câu chuyện
488 |
Trang 500:
|
Trang 501:
|
2034. Mahesī rucino bhariyā ānītā
paṭhamaṃ ahaṃ,
dasavassasahassāni yaṃ maṃ surucimānayi.
|
2034. “Thiếp là chánh hậu của đức
vua Ruci, người vợ đă được cưới về đầu tiên; đức vua Suruci đă
cưới thiếp về được mười ngàn năm. |
1. Thiếp là chành hậu chúa Ru-ci,
Vương hậu đầu tiên chúa cưới về,
Với chúa Su-ru-ci vạn tuế,
Thiếp đă sống trọn đạo hiền thê. |
2035. Sāhaṃ brāhmaṇa rājānaṃ
vedehaṃ mithilaggahaṃ,
nābhijānāmi kāyena vācāya udacetasā,
suruciṃ atimaññittho āvivā yadivā raho.
|
2035. Thưa vị Bà-la-môn, thiếp
đây không
biết
rơ đức vua, người chủ quản kinh thành Mithilā, xứ
Videha. Thiếp đă không khi dễ đức vua Suruci bằng thân, bằng
lời, hay bằng ư, công khai hay kín đáo. |
2. Huy Hoàng chúa tể ở My-la,
Là chính kinh thành của quốc gia,
Thiếp chẳng hề xem thường thánh ư,
Chẳng chê ngài thấp kém, sai ngoa,
Dù sau lưng chúa, hay ngoài mặt,
Về khẩu, ư, thân, đủ cả ba. |
2036. Etena saccavajjena putto
uppajjataṃ ise,
musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.
|
2036. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói
chân thật này, xin cho đứa con trai hăy được sanh ra. Nếu thiếp
đang nói lời dối trá, th́ cái đầu hăy vỡ tan thành bảy mảnh.
|
3. Thánh giả, điều này nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
C̣n khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan. |
2037. Bhattumanāpassa pitā mātā
cāpi suvāmino,
te maṃ brāhme vinetāro yāva aṭṭhaṃsu jīvite.
|
2037. Thưa vị Bà-la-môn, cha, mẹ,
và luôn cả thầy của người chồng hợp ư, họ đă là những người
hướng dẫn cho thiếp trong khi họ c̣n sống. |
4. Phụ hoàng, mẫu hậu của vương quân,
Hai đấng sinh thành ngự trị dân,
Trong lúc các ngài c̣n tại thế,
Vẫn thường dạy thiếp Đạo hiền nhân. |
2038. Sāhaṃ ahiṃsāratinī kāmaso
dhammacāriṇī,
sakkaccaṃ te upaṭṭhāsiṃ rattindivamatanditā.
|
2038. Thiếp đây có sự ưa thích
việc không hăm hại, có sự thực hành thiện pháp một cách tự
nguyện. Thiếp đă hầu hạ cha mẹ chồng một cách nghiêm chỉnh, đêm
ngày không biếng nhác. |
5. Thiếp ước không làm hại mạng ai,
Quyết ḷng hành động chánh chân hoài,
Ân cần tận tụy hầu hai vị,
Không mệt mỏi cho dẫu tối ngày. |
2039. Etena saccavajjena putto
uppajjataṃ ise,
musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.
|
2039. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói
chân thật này, xin cho đứa con trai hăy được sanh ra. Nếu thiếp
đang nói lời dối trá, th́ cái đầu hăy vỡ tan thành bảy mảnh. |
6. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
C̣n khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan. |
2040. Soḷasitthisahassāni
sahabhariyāni brāhmaṇa,
tāsu issā vā kodho vā nāhu mayhaṃ kudācanaṃ.
|
2040. Thưa vị Bà-la-môn, có mười
sáu ngàn vương phi. Thiếp đă không bao giờ có sự ganh tỵ hay
giận dữ đối với các nàng ấy. |
7. Thứ phi sau thiếp cứ tăng dần,
Mời sáu ngàn không thiếu một nàng,
Tuy thế, chẳng hề, thưa Thánh giả,
Xảy hờn ghen giữa đám hồng quân. |
2041. Hitena tāsaṃ nandāmi na ca
me kāci appiyā,
attānaṃ vānukampāmi sadā sabbā sapattiyo.
|
2041. Thiếp vui mừng với việc các
nàng ấy có được điều tốt đẹp, và không nàng nào là không được
thiếp yêu thương. Thiếp luôn luôn cảm thông với tất cả các cô vợ
chung chồng tựa như với chính bản thân ḿnh. |
8. Thiếp mừng khi chúng được an lành,
Với mọi cung phi, thắm thiết t́nh,
Ḷng thiếp nhân từ cùng tất cả,
Khác nào đối với bản thân ḿnh. |
2042. Etena saccavajjena putto
uppajjataṃ ise,
musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.
|
2042. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói
chân thật này, xin cho đứa con trai hăy được sanh ra. Nếu thiếp
đang nói lời dối trá, th́ cái đầu hăy vỡ tan thành bảy mảnh. |
9. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
C̣n khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan. |
2043. Dāse kammakare pesse ye
caññe anujīvino,
posemi sahadhammena sadā pamuditindriyā.
|
2043. Đối với các nô bộc, các
người làm công, các người hầu, và những người khác có cuộc sống
phụ thuộc, thiếp chu cấp cho họ một cách hợp lư, luôn luôn có
thần thái vui vẻ. |
10. Nô tỳ, thị giả, mọi gia nhân,
Tất cả nơi đây ở hợp quần,
Thiếp đối ân cần, ban thực phẩm,
Tươi cười nét mặt tạo hân hoan. |
2044. Etena saccavajjena putto
uppajjataṃ ise,
musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.
|
2044. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói
chân thật này, xin cho đứa con trai hăy được sanh ra. Nếu thiếp
đang nói lời dối trá, th́ cái đầu hăy vỡ tan thành bảy mảnh. |
11. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
C̣n khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan. |
2045. Samaṇe brāhmaṇe cāpi aññe
vāpi vaṇibbake,
tappemi annapānena sadā payatapāṇinī.
|
2045. Đối với các vị Sa-môn, các
vị Bà-la-môn, hoặc luôn cả những người nghèo khổ, thiếp làm cho
họ toại ư với cơm ăn và nước uống, luôn luôn là người có bàn tay
mở ra.
|
12. Các nhà ẩn sĩ, Bà-la-môn,
Hễ thấy người nào đến khẩn van,
Thiếp đăi uống ăn đều khắp cả,
Đôi bàn tay rửa sạch hoàn toàn. |
Trang 502:
|
Trang 503:
|
2046. Etena saccavajjena putto
uppajjataṃ ise,
musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.
|
2046. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói
chân thật này, xin cho đứa con trai hăy được sanh ra. Nếu thiếp
đang nói lời dối trá, th́ cái đầu hăy vỡ tan thành bảy mảnh. |
13. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cấu mong vương tử được ngài ban,
C̣n khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan. |
2047. Cātuddasi paṇṇarasi yāva
pakkhassa aṭṭhami,
pāṭihāriyapakkhañca aṭṭhaṅgasusamāhitaṃ,
uposathaṃ upavasāmi sadā sīlesu saṃvutā.
|
2047. Vào ngày mười bốn, ngày
mười lăm, với cả ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày
phụ trội của nửa tháng, thiếp hành tŕ ngày trai giới được tốt
đẹp trọn vẹn tám điều, luôn luôn thu thúc trong các giới. |
14. Vào ngày mống tám, nửa tuần trăng,
Mười bốn, mười lăm, các buổi rằm,
Thiếp vẫn chuyên tâm tŕ giới luật,
Bước theo Thánh đạo của hiền nhân. |
2048. Etena saccavajjena putto
uppajjataṃ ise,
musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.
|
2048. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói
chân thật này, xin cho đứa con trai hăy được sanh ra. Nếu thiếp
đang nói lời dối trá, th́ cái đầu hăy vỡ tan thành bảy mảnh.” |
15. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
C̣n khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan. |
2049. Sabbeva te dhammaguṇā
rājaputti yasassini,
saṃvijjanti tayi bhadde ye tvaṃ kittesi attani.
|
2049. “Này nàng công chúa có danh
tiếng, toàn bộ tất cả các đức hạnh mà nàng tán dương về bản
thân, này người nữ hiền thục, các đức hạnh ấy được t́m thấy ở
nàng. |
16. Nương nương hỡi, Chánh hậu Huy Hoàng,
Công đức này cao trọng thập toàn
Đều thấy trong nàng, này Chánh hậu,
Chính nàng ca ngợi đại danh nàng. |
2050. Khattiyo jātisampanno
abhijāto yasassimā,
dhammarājā videhānaṃ putto uppajjate tavaṃ.
|
2050. Một vị Sát-đế-lỵ thành tựu
về ḍng dơi, được sanh ra tốt đẹp, có danh tiếng, vị vua công
chính của xứ sở Videha, sẽ là người con trai được sanh lên cho
nàng.” |
17. Một hoàng nam chính thống cao sang,
Muôn vẻ vinh quang, trí vẹn toàn,
Đại đế Vi-đề-ha chánh trực,
Sắp ra đời đó chính con nàng. |
2051. Rummi rajojalladharo aghe
vehāsayaṃ ṭhito,
manuññaṃ bhāsasi vācaṃ yaṃ mayhaṃ hadayaṅgamaṃ.
|
2051. “Dơ bẩn, mang theo bụi bặm
và cáu ghét, đứng ở không trung trên bầu trời, ngài nói lời nói
làm thích ư, có sự chạm đến trái tim của thiếp. |
18. Bụi bẩn, lấm lem tóc rối bồng,
H́nh ngài lơ lửng ở trên không,
Nói bằng một giọng đầy thân ái,
Lám thiếp cảm rung tận cơi ḷng. |
2052. Devatānusi saggamhā isivāsi
mahiddhiko,
kovāsi tvaṃ anuppatto attānaṃ me pavedaya.
|
2052. Phải chăng ngài là vị Thiên
nhân từ cơi Trời, hay là vị ẩn sĩ có đại thần lực? Ngài là ai mà
đă ngự đến đây? Xin ngài hăy cho thiếp biết về bản thân ngài.”
|
19. Có phải ngài
Thiên đế đại hùng,
Trên trời ngài ngự, hỡi hiền nhân?
Xin cho thiếp biết từ đâu đến,
Cho biết là ai đó giáng trần? |
2053. Yaṃ devasaṅghā vandanti
sudhammāyaṃ samāgatā,
sohaṃ sakko sahassakkho āgatosmi tavantike.
|
2053. “Hội chúng chư Thiên hội tụ
ở giảng đường Sudhammā đảnh lễ vị nào, th́ vị ấy chính là ta,
Thiên Chủ Sakkha, vị có ngàn mắt, ta đă đi đến gặp nàng. |
20. "Thiên nhăn
Sak-ka" nàng thấy đây,
V́ Thiên chúng vẫn gọi như vầy.
Những khi Thiên chúng đều đoàn tụ
Trong Thiện pháp đường mỹ diệu thay. |
2054. Itthiyo jīvalokasmiṃ yā
honti samacārinī,
medhāvinī sīlavatī sassudevā patibbatā.
|
2054. Các người nữ ở thế gian của
cuộc sống là những người sống yên tịnh, có trí tuệ, có giữ giới,
kính mẹ chồng như Thiên thần, chung thủy. |
21. Khi nữ nhân hiền
đức vẹn toàn,
Tại đây được thấy giữa trần gian,
Chánh chân nội tướng đầy nhân ái
Với mẹ chồng, như phận sự nàng. |
2055. Tādisāya sumedhāya
sucikammāya nāriyā,
devā dassanamāyanti mānusiyā amānusā.
|
2055. Với người nữ thông minh, có
việc làm trong sạch như thế ấy, chư Thiên, hạng không phải là
người, đi đến gặp nàng, thuộc hạng người. |
22. Khi chư Thiên
biết một hồng nhan,
Ḷng trí cao minh, nghiệp thiện toàn,
Dù nữ nhi, mà từ thượng giới,
Thiên chúng đích thân đến với nàng. |
2056. Tvañca bhadde suciṇṇena
pubbe sucaritena ca,
idha rājakule jātā sabbakāmasamiddhinī.
|
2056. Này người nữ hiền thục, với
thiện hạnh đă khéo được thực hành trước đây, nàng đă được sanh
vào gia tộc vua chúa ở nơi này, là người nữ có sự thành tựu mọi
ước muốn. |
23. Giữ đời đức hạnh,
hỡi Nương nương,
Nhờ tích trữ toàn việc thiện lương,
Công chúa xuất thân, đà đạt được
Trọn niềm hạnh phúc vẫn cầu mong. |
2057. Ayañca te rājaputti
ubhayattha kaṭaggaho,
devalokūpapatti ca kitti ca idha jīvite.
|
2057. Hỡi nàng công chúa, đây là
vận mệnh tốt đẹp của nàng ở cả hai nơi: sự sanh lên thế giới chư
Thiên và danh tiếng ở cuộc sống tại nơi này. |
24. Vậy nàng gặt hái
nghiệp duyên nàng
Bằng cảnh huy hoàng ở thế gian,
Công chúa, về sau trên thượng giới
Tái sinh nàng được hóa Thiên thần. |
2058. Ciraṃ sumedhe sukhinī
dhammaṃ pālayamattani,
esāhaṃ tidivaṃ yāmi piyamme tava dassanan ”ti.
6. Surucijātakaṃ.
|
2058. Này người nữ thông minh,
này người nữ có hạnh phúc, nàng hăy ǵn giữ thiện pháp lâu dài ở
bản thân. Ta đây đi về cơi Trời. Việc gặp gỡ nàng là đáng quư
đối với ta.”
6. Bổn sanh Vua Suruci. [489]
|
25. Nữ nhi hiền đức, hưởng hồng ân!
Cứ sống giữ ǵn hạnh chánh chân,
Nay lúc ta cần về thượng giới,
Vui mừng v́ diện kiến tôn nhan.
Câu chuyện
489 |
Trang 504:
|
Trang 505:
|
2059. Appossukkodāni tuvaṃ kapota
vihaṅgama na tava bhojanattho,
khudaṃ pipāsaṃ adhivāsayanto
kasmā bhavaṃ posathiko kapoto.
|
2059. “Này chim bồ câu, giờ đây
ngươi ít ham muốn. Này chim, phải chăng đối với ngươi không có
nhu cầu về vật thực? Này bạn, v́ sao chim bồ câu lại chịu đựng
đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?” |
1. Ta chắc giờ chim thiểu dục
rồi,
Nay Bồ câu chẳng muốn t́m mồi,
Tại sao đành chịu nằm thèm khát,
Sao nguyện theo Trai giới hỡi ngài? |
2060. Ahaṃ pure giddhigato
kapotiyā
asmiṃ padesasmiṃ ubho ramāma,
athaggahī sākuṇiko kapotiṃ
akāmako tāya vinā ahosiṃ.
|
2060. “Trước đây, tôi đă đi đến
sự say đắm với chim bồ câu mái. Cả hai chúng tôi vui thú ở khu
vực này. Rồi con diều hâu đă bắt đi chim bồ câu mái. Không có
chim mái, tôi đă trở thành kẻ không c̣n ham muốn. |
2. Xin đầy tham đắm, cặp uyên
ương
Đùa giỡn quanh đây tựa phượng loan,
Ưng ác chụp nàng, bay biến mất,
Chia ĺa duyên kiếp đă tan hoang! |
2061. Nānābhavā vippayogena tassā
manomayaṃ vedanaṃ vediyāmi,
tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi
rāgo mamaṃ mā punarāgamāsi.
|
2061. Do trạng thái xa cách bởi
sự tách rời của chim mái, tôi cảm nhận rằng cảm thọ được tạo
thành bởi ư. V́ thế, tôi ǵn giữ ngày trai giới, mong rằng sự
luyến ái chớ quay lại với tôi.” |
3. Con biết niềm mất mát phủ
phàng,
Bạo tàn, khốc liệt biết bao đường,
Con nh́n mọi vật, ḷng đau đớn;
V́ thế con t́m đến náu nương
Nhờ giới hạnh, thề nguyền ái dục
Chẳng bao giờ trở lại ḷng con. |
2062. Anujjugāmi uraga dvijivha
dāṭhāvudho ghoravisosi sappa,
khudaṃ pipāsaṃ adhivāsayanto
kasmā bhavaṃ posathiko nu dīgho.
|
2062. “Này con vật có sự di
chuyển ngoằn ngoèo, này con vật di chuyển bằng ngực, này con vật
có hai lưỡi, này rắn, ngươi có răng nanh là vũ khí, có nọc độc
dữ dội. Này bạn, v́ sao rắn lại chịu đựng đói, khát và trở thành
vị thực hành trai giới?” |
4. Vật ở cây, ḅ sát cuộn
ḿnh,
Đầy răng nhọn hoắc, nọc truyền nhanh,
Rắn sao muốn giữ truyền Trai giới,
Sao đói khát cam chịu cố t́nh? |
2063. Usabho ahū balavā gāmikassa
calakkakū vaṇṇabalūpapanno,
maṃ akkami taṃ kupito aḍaṃsiṃ
dukkhābhituṇṇo maraṇaṃ upāgami.
|
2063. “Con ḅ mộng của chủ làng
có sức mạnh, có cục bướu rung rinh, đă đạt được tướng mạo và sức
vóc. Nó đă đạp lên tôi. Bị tức giận, tôi đă cắn nó. Bị giày ṿ
bởi nỗi đau đớn, nó đă đi đến sự chết. |
5. Con ḅ thôn trưởng thật oai
hùng,
Dáng đẹp, lưng gù cứ chuyển rung,
Ḅ gầm lên, con hờn cắn nó,
Đau đớn, ḅ chết ngă lăn đùng! |
2064. Tato janā nikkhamitvāna
gāmā
kanditvā roditva apakkamiṃsu,
tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi
kodho mamaṃ mā punarāgamāsi.
|
2064. Do đó, dân chúng đă đi ra
khỏi ngôi làng, than van, khóc lóc, rồi đă bỏ đi. V́ thế, tôi
ǵn giữ ngày trai giới, mong rằng sự giận dữ chớ quay lại với
tôi.” |
6. Dân làng mọi kẻ đổ ra
đường,
Than khóc v́ trông thấy tận tường,
V́ vậy con nương nhờ giới hạnh,
Thề sân hận chẳng trở về con. |
2065. Matāna maṃsāni bahū susāne
manuññarūpaṃ tava bhojanetaṃ,
khudaṃ pipāsaṃ adhivāsayanto
kasmā bhavaṃ posathiko sigālo.
|
2065. “Có nhiều thịt của những
xác chết ở băi tha ma. Thức ăn này có vẻ hợp ư đối với ngươi.
Này bạn, v́ sao chó rừng lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị
thực hành trai giới?”
|
7. Xác chết, thức ăn quư sẵn
đầy,
Nằm trong nghĩa địa ră tan thây,
Chó rừng, sao chịu đành thèm khát,
Sao lại thề tuân giới hạnh này? |
Trang 506:
|
Trang 507:
|
2066. Pavissa kucchiṃ mahato
gajassa
kuṇape rato hatthamaṃse pagiddho,
uṇho ca vāto tikhiṇā ca rasmiyo
te sosayuṃ tassa karīsamaggaṃ.
|
2066. “Vui thích với xác chết, bị
khởi tham đắm với thịt voi, tôi đă đi vào bụng của một con voi
to lớn. Sức nóng, gió, và ánh nắng gay gắt, chúng đă làm khô héo
hậu môn của con voi. |
8. T́m được voi và thích thịt
ngon,
Con vào bụng nó ở lỳ luôn
Song nhiều gió mạnh, trời gay gắt
Làm héo khô khe hở chó chun! |
2067. Kiso ca paṇḍū ca ahaṃ
bhadante
na me ahū nikkhamanāya maggo,
mahā ca megho sahasā pavassi
so temayī tassa karīsamaggaṃ.
|
2067. Thưa bậc đáng kính, tôi trở
nên gầy ốm và vàng vọt. Con đường trở ra của tôi đă không c̣n.
Và có đám mây lớn đă đổ mưa dữ dội; nó đă làm ẩm ướt hậu môn của
con voi. |
9. Tôn giả, con vàng vơ, ốm
gầy,
V́ không lối thoát, phải nằm đây,
Rồi cơn băo nọ bùng vang dội
Làm ướt, mềm đi ngă hậu này. |
2068. Tato ahaṃ nikkhamissaṃ
bhadante
cando yathā rāhumukhā pamutto,
tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi
lobho mamaṃ mā punarāgamāsi.
|
2068. Thưa bậc đáng kính, do đó,
tôi đă đi ra khỏi, giống như mặt trăng đă được thoát khỏi miệng
của Rāhu (nguyệt thực). V́ thế, tôi ǵn giữ ngày trai giới, mong
rằng sự tham lam chớ quay lại với tôi.” |
10. Để thoát ra, con chẳng
chậm đâu
Như trăng thoát khỏi vuốt la-hầu,
Nên con chạy đến nhờ Trai giới,
Con nguyện tham tâm tránh chạy mau. |
2069. Vammika thūpasmiṃ
kipillikāni
nippothayanto tuvaṃ pure carāsi,
khudaṃ pipāsaṃ adhivāsayanto
kasmā bhavaṃ posathiko nu accho.
|
2069. “Trước đây, ngươi sống
trong khi ăn các con mối ở g̣ mối. Này bạn, v́ sao gấu lại chịu
đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?” |
11. Ngài có thói xưa vẫn kiếm
mồi
Nằm trên tổ kiến, Gấu Ông ơi,
Sao nay lại chịu nằm thèm khát,
Sao muốn thề nguyền Trai giới thôi? |
2070. Sakaṃ niketaṃ atihīlayāno
atricchatāya malataṃ agañchiṃ,
tato janā nikkhamitvāna gāmā
kodaṇḍakena paripothayiṃsu maṃ.
|
2070. “Trong khi nguyền rủa thậm
tệ chỗ ở của ḿnh, tôi đă đi đến Malatā v́ cơn đói dữ dội. Do
đó, dân chúng đă đi ra khỏi ngôi làng và đă đánh tôi tới tấp
bằng gậy gộc, đùi cui. |
12. Bỏ nhà v́ quá đói trong
ḷng,
Con đến Mal-la, chạy vội vàng
Dân chúng trong làng đều đổ đến,
Dùng cung, gậy, chúng đánh hung tàn. |
2071. So bhinnasīso
ruhiramakkhitaṅgo
paccāgamāsiṃ sakaṃ niketaṃ,
tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi
atricchatā mā punarāgamāsi.
|
2071. Với đầu bị vỡ, với thân thể
bị lem luốc máu me, tôi đă đi về lại chỗ ở của ḿnh. V́ thế, tôi
ǵn giữ ngày trai giới, mong rằng cơn đói dữ dội chớ quay lại
với tôi.” |
13. Ḿnh con vấy máu, vỡ tan
đầu,
Con chạy về nơi trú ẩn mau,
V́ vậy con nguyền theo giới hạnh,
Dục tham chẳng kéo đến ngày sau. |
2072. Yaṃ no apucchittha tuvaṃ
bhadante
sabbeva vyākarimha yathāpajānaṃ,
mayampi pucchāma tavaṃ bhadante
kasmā bhavaṃ posathiko nu brahme.
|
2072. “Thưa bậc đáng kính, việc
mà ngài đă hỏi chúng tôi, tất cả chúng tôi đă trả lời theo sự
hiểu biết. Thưa bậc đáng kính, chúng tôi cũng xin hỏi ngài. Thưa
vị Bà-la-môn, v́ sao ngài lại chịu đựng đói, khát và trở thành
vị thực hành trai giới?” |
14. Điều ấy, ngài mong muốn
giải bày,
Mọi điều con biết, đă thưa thầy,
Song nay đến lượt ḿnh, xin hỏi:
Tôn giả sao theo hạnh nguyện này? |
2073. Anūpalitto mama assamamhi
paccekabuddho muhuttaṃ nisīdi,
so maṃ avedi gatimāgatiñca
nāmañca gottaṃ caraṇañca sabbaṃ.
|
2073. “Một vị Độc Giác Phật, bậc
không bị ô nhiễm, đă ngồi chốc lát ở khu ẩn cư của ta. Vị ấy đă
cho ta biết về nơi đi và nơi đến, danh tánh, ḍng họ, và tất cả
tánh hạnh (của ta trong tương lai).
|
15. Một v́ Độc Giác Phật qua
đây
Chốc lát trong am, đă giải bày
Mọi việc văng lai, danh tiếng, hiệu,
Gia đ́nh và đạo lộ sau này. |
Trang 508:
|
Trang 509:
|
2074. Evampahaṃ naggahe tassa
pāde
na cāpi naṃ mānagatena pucchiṃ,
tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi
māno mamaṃ mā punarāgamāsī ”ti.
7. Pañcuposathajātakaṃ.
|
2074. Dầu là như vậy, ta đă không
sờ vào bàn chân của vị ấy, và ta cũng đă không hỏi ngài, bởi v́
đă bị ngă mạn chế ngự. V́ thế, ta ǵn giữ ngày trai giới, mong
rằng ngă mạn chớ quay lại với ta.”
7. Bổn sanh Năm Vị Hành Trai Giới. [490]
|
16. Ta không quỳ, bởi quá kiêu
căng
Ở trước chân Ngài, chẳng hỏi han,
V́ thế, ta nương vào giới hạnh,
Để kiêu căng ấy chẳng đeo gần.
Câu chuyện 490 |
2075. Sace hi tyāhaṃ dhanahetu
gahito
mā maṃ vadhi jīvagāhaṃ gahetvā,
rañño ca maṃ samma upenti nehi
maññe dhanaṃ lacchasi napparūpaṃ.
|
2075. “Quả thật, nếu ta đă bị ông
bắt v́ nguyên nhân tài sản, th́ chớ gây thương tích cho ta sau
khi đă bắt sống. Này ông bạn, ông hăy đưa ta về gặp đức vua. Ta
nghĩ ông sẽ nhận được tài sản không phải là ít.” |
1. Bắt ta, bạn sẽ được ngàn
vàng,
Bắt sống, xin đừng bắn bị thương,
Van bạn đem ta về chúa thượng,
Chắc ngài sẽ thưởng thật giàu sang. |
2076. Na me ayaṃ tumhe vadhāya
ajja
samāhito cāpavare khurappo,
pāsañca tyāhaṃ adhipātayissaṃ
yathā sukhaṃ gacchatu morarājā.
|
2076. “Mũi tên này của tôi đă
được đặt vào cây cung cao quư không phải để giết chết Công ngày
hôm nay. Tôi sẽ phá vỡ cái bẫy ở chân Công. Này vua của loài
công, Công hăy ra đi một cách thoải mái.” |
2. Trên cung, ta chẳng ráp tên
này
Để bắn chim, Công chúa, ở đây
Ta muốn cắt dây tḥng lọng ấy
Để chim tùy ư, hăy xa bay! |
2077. Yaṃ satta vassāni
mamānubandhi
rattindivaṃ khuppipāsaṃ sahanto,
atha kissa maṃ pāsavasūpanītaṃ
pamuttave icchasi bandhanasmā.
|
2077. “Ông đă theo đuổi ta bảy
năm, chịu đựng đói khát đêm ngày. Giờ ta đă bị rơi vào sự khống
chế của cái bẫy th́ ông lại muốn giải thoát khỏi sự trói buộc
cho ta? |
3. Bảy năm theo đuổi, thợ săn
này,
Đói khát, bạn cam chịu tháng ngày,
Bạn muốn ǵ, nay ta mắc bẫy,
V́ sao muốn thả để ta bay? |
2078. Pāṇātipātā virato nusajja
abhayaṃ nu te sabbabhūtesu dinnaṃ,
yaṃ maṃ tuvaṃ pāsavasūpanītaṃ
pamuttave icchāsi bandhanasmā.
|
2078. Khi ta đă bị rơi vào sự
khống chế của cái bẫy th́ ông lại muốn giải thoát khỏi sự
trói buộc cho ta. Phải chăng hôm nay ông kiêng cữ việc giết hại
mạng sống? Phải chăng pháp không sợ hăi được ông ban phát cho
tất cả chúng sanh?” |
4. Hiển nhiên mọi vật được an
lành,
Bạn nguyện từ đây bỏ sát sinh,
Mắc bẫy thân ta, tuy thế bạn
Muốn ta được thả để bay nhanh! |
2079. Pāṇātipātā viratassa brūhi
abhayañca yo sabbabhūtesu deti,
pucchāmi taṃ morarājetamatthaṃ
ito cuto kiṃ labhate sukhaṃ so.
|
2079. “Xin Công hăy nói về người
kiêng cữ việc giết hại mạng sống, là người ban phát pháp không
sợ hăi cho tất cả chúng sanh. Này vua của loài công, tôi hỏi
Công ư nghĩa này: Sau khi từ đây chết đi, người ấy đạt được sự
an vui ǵ? |
5. Khi người từ bỏ sát quần
sinh,
Nhờ nó, muôn loài thoát hăi kinh,
Phước đức nào đời sau sẽ đến,
Việc này, Khổng tước đáp cho ḿnh. |
2080. Pāṇātipātā viratassa brūmi
abhayañca yo sabbabhūtesu deti,
diṭṭheva dhamme labhate pasaṃsaṃ
saggañca so yāti sarīrabhedā.
|
2080. “Ta nói về người kiêng cữ
việc giết hại mạng sống, là người ban phát pháp không sợ hăi cho
tất cả chúng sanh. Ngay trong kiếp hiện tại này, nhận được sự
khen ngợi, và người ấy đi đến cơi trời khi cơ thể ră tan.”
|
6. Nhờ nó muôn loài thoát hăi
kinh
Khi người thề chẳng sát quần sinh,
Đời này nó được nhiều ca ngợi,
Thiên giới, đời sau hưởng phước lành. |
2081. Na santi devā iccāhu eke
idheva jīvo vibhavaṃ upeti,
tathā phalaṃ sukatadukkatānaṃ
dattupaññattañca vadanti dānaṃ,
tesaṃ vaco arahataṃ saddahāno
tasmā ahaṃ sakuṇe bādhayāmi.
|
2081. “Một số vị (Sa-môn và
Bà-la-môn) đă nói rằng: ‘Chư Thiên không hiện hữu. Cuộc sống ở
tại nơi này đi đến sự tiêu tan. Tương tự, quả báo của việc làm
tốt và việc làm quấy cũng đi đến sự tiêu tan.’ Họ nói sự bố thí
là trạng thái trí tuệ của người ngu si. Có sự tin tưởng vào lời
nói của các bậc A-la-hán ấy, v́ thế, tôi đánh bắt các con chim.”
|
7. Nhiều người nói chẳng có
Thiên thần,
Cực lạc, đời này có thể mang;
Sinh quả dữ lành ngay hiện tại;
V́ nhiều bậc Thánh đă cho rằng:
Thi ân là việc đầy ngu xuẩn,
V́ thế tôi thường đánh bẫy săn
Chim thú, giờ đây tôi muốn hỏi:
Lời kia xứng đáng để tin chăng? |
Trang 510:
|
Trang 511:
|
2082. Cando ca suriyo ca ubho
sudassanā
gacchanti obhāsayamantalikkhe,
imassa lokassa parassa vā te
kathannu te āhu manussaloke.
|
2082. “Mặt trăng và mặt trời, cả
hai đều dễ dàng nh́n thấy. Trong khi chiếu sáng, chúng di chuyển
ở không trung. Chúng thuộc về thế giới này hay thế giới khác?
Vậy ở thế giới nhân loại, người ta đă nói về chúng như thế nào?” |
8. Đôi vầng nhật nguyệt rơ
ràng ràng
Đi khắp trời cao tỏa sáng quang;
Người gọi là ǵ nơi hạ giới,
Thuộc về cơi khác hoặc trần gian? |
2083. Cando ca suriyo ca ubho
sudassanā
gacchanti obhāsayamantalikkhe,
parassa lokassa na te imassa
devāti te āhu manussaloke.
|
2083. “Mặt trăng và mặt trời, cả
hai đều dễ dàng nh́n thấy. Trong khi chiếu sáng, chúng di chuyển
ở không trung. Chúng thuộc về thế giới khác, không thuộc về thế
giới này. Ở thế giới nhân loại, người ta đă nói về chúng là:
‘Chư Thiên.’” |
9. Rơ ràng nhật nguyệt thấy
đôi vầng
Đi khắp trời cao, tỏa ánh quang;
Chúng chẳng thuộc về nơi hạ giới,
Mà về cơi khác: miệng người trần. |
2084. Ettheva te nihatā hīnavādā
ahetukā ye na vadanti kammaṃ,
tathā phalaṃ sukatadukkatānaṃ
dattupaññattaṃ ye ca vadanti dānaṃ.
|
2084. “Ngay ở nơi này, những vị
(Sa-môn và Bà-la-môn) ấy là có học thuyết hạ liệt, bị đánh giá
thấp. Những kẻ chủ trương vô nhân không nói về nghiệp. Tương tự,
quả báo của việc làm tốt và việc làm quấy là không có.’ Và họ
nói sự bố thí là trạng thái trí tuệ của người ngu si.” |
10. Vậy chúng đều sai lạc cả
bầy,
Những người gian dối nói như vầy!
Chẳng v́ duyên cớ ǵ đi nữa
Lại bảo chỉ riêng thế giới này
Mang nghiệp quả lành hay quả dữ,
C̣n xem bố thí việc ngu thay! |
2085. Addhā hi saccaṃ vacanaṃ
tavetaṃ
kathaṃ hi dānaṃ aphalaṃ vadeyya,
tathā phalaṃ sukatadukkatānaṃ
dattupaññattañca kathaṃ bhaveyya.
|
2085. “Quả đúng vậy, lời nói ấy
của ngài là sự thật. Bởi v́, làm sao có thể nói bố thí là không
có quả báo? Tương tự, quả báo của việc làm tốt và việc làm quấy
(làm sao lại không có). Và tại sao sự bố thí lại có thể là trạng
thái trí tuệ của người ngu si? |
11. Điều này ngài nói quả là
chân,
Sao có người kia lại bảo rằng:
"Bố thí không mang về kết quả?
Rằng đây, ngay ở cơi phàm trần.
Người ta gặt quả lành hay dữ,
Bố thí là công việc độn đần?" |
2086. Kathaṃ karo kintikaro
kimācaraṃ
kiṃ sevamāno kena tapoguṇena,
akkhāhi me morarājetamatthaṃ
yathā ahaṃ no nirayaṃ pateyyaṃ.
|
2086. Làm như thế nào? Làm việc
ǵ? Thực hành điều ǵ? Trong khi thân cận cái ǵ? Với loại khắc
khổ ǵ? Này vua của loài công, xin Công hăy giải thích cho tôi
để tôi không phải đọa vào địa ngục.” |
12. Cách nào nên sống, phải
làm ǵ?
Thánh đạo là đâu, phải bước đi?
Công chúa, xin ngài cho lăo biết,
Pháp môn khổ hạnh phải hành tŕ,
Cầu mong lăo được chim Công chúa
Cứu khỏi chim vào địa ngục kia! |
2087. Ye keci atthi samaṇā
pathavyā
kāsāvavatthā anagāriyā te,
pātova piṇḍāya caranti kāle
vikālacariyā viratā hi santo.
|
2087. “Có những vị Sa- môn ở trái
đất, các vị ấy mặc vải màu ca-sa, sống không nhà, đi khất thực
đúng thời vào lúc sáng sớm, bởi v́ các bậc an tịnh kiêng cử việc
khất thực phi thời. |
13. Người truyền khổ hạnh ở
trần gian,
Chằng ở nhà đâu, đắp áo vàng,
Sáng sớm đi ra đường khất thực,
Không đi chiều tối: chính hiền nhân. |
2088. Te tattha
kālenupasaṅkamitvā
pucchasi yante manaso piyaṃ siyā,
te te pavakkhanti yathā pajānaṃ
imassa lokassa parassa catthaṃ.
|
2088. Ông hăy đi đến gặp các vị
ấy ở nơi ấy vào lúc hợp thời và hăy hỏi điều ông yêu thích ở
trong tâm. Các vị ấy sẽ giải thích các điều ấy và ư nghĩa của
thế gian này và thế gian khác theo sự hiểu biết.” |
14. Đúng thời thăm các thiện
nhân vầy,
Bạn sẽ vui ḷng, dẫu hỏi ai
Giải vấn đề, v́ chư vị biết
Cơi trên kia với cơi đời náy. |
2089. Tacaṃva jiṇṇaṃ urago
purāṇaṃ
paṇḍūpalāsaṃ harito dumova,
esappahīno mama luddabhāvo
pajahāmahaṃ luddakabhāvamajja.
|
2089. “Tựa như con rắn (lột bỏ)
lớp da cũ đă bị già cỗi, ví như cây c̣n xanh (giũ bỏ) chiếc lá
úa vàng, cuộc đời thợ săn này của tôi đă được dứt bỏ. Hôm nay,
tôi dứt bỏ cuộc đời thợ săn.
|
15. Như rắn lột quăng lớp vỏ
tàn,
Lá khô cây trút lúc xanh dần,
Hôm nay ta bỏ nghề săn bắn,
Măi măi xa ĺa nghiệp thợ săn. |
Trang 512:
|
Trang 513:
|
2090. Ye cāpi me sakuṇā atthi
baddhā
satāni nekāni nivesanasmiṃ,
tesaṃpahaṃ jīvitaṃ ajja dammi
mokkhañca te patto sakaṃ niketaṃ.
|
2090. Và luôn cả những con chim
đă bị tôi giam giữ là có đến hàng trăm ở chỗ trú ngụ của tôi.
Hôm nay, tôi ban tặng cuộc sống cho chúng, và tôi đă đạt được sự
giải thoát, c̣n chúng bay về chỗ ở của ḿnh.” |
16. Tất cả chim nào ta đă giam
Trong nhà, ta có đến hàng trăm,
Nay ta trả cuộc đời cho chúng
Về tổ, bầy chim được thoát nạn. |
2091. Luddo carī pāsahattho
araññe
bādhetuṃ morādhipatiṃ yasassiṃ,
bandhitva morādhipatiṃ yasassiṃ
dukkhā pamucci yathāhaṃ pamutto ”ti.
8. Mahāmorajātakaṃ.
|
2091. “Người thợ săn đă đi lại ở
trong khu rừng, tay cầm bẫy thú để bắt con chim công chúa có
danh tiếng. Sau khi bắt được con chim công chúa có danh tiếng,
người ấy đă được thoát khỏi khổ, giống như Ta đă được giải
thoát.”
8. Bổn sanh Con Chim Công Vĩ Đại. [491]
|
17. Thợ săn xuyên suốt khắp
rừng cây
T́m kiếm chúa Công, bẫy dưới tay,
Đă giải thoát đau cho Khổng tước
Khi vừa bị bắt, giống Ta đây.
Câu chuyện 491
|
2092. Yadesamānā vicarimha
pabbatāni vanāni ca,
anvesaṃ vicariṃ ñātī teme adhigatā mayā.
|
2092. “Chúng tôi đă đi lang thang
t́m kiếm ở các ngọn núi và các khu rừng, tôi đă đi lang thang
t́m kiếm các thân quyến, những vị này đây đă đi đến với tôi.
|
1. Lang thang t́m kiếm khắp xa
gần
Đồi núi chung quanh, các khóm rừng,
Thơ thẩn ta đi t́m quyến thuộc,
Ḱa! Ta t́m thấy đám thân bằng! |
2093. Bahuṃ idaṃ mūlaphalaṃ
bhakkho cāyaṃ anappako,
rammā cimā giri nadiyo phāsu vāso bhavissati.
|
2093. Rễ và trái cây này có
nhiều, thức ăn này không phải là ít, ngọn núi và các con sông
này là đáng yêu; việc cư ngụ sẽ là thoải mái. |
2. Đây, củ quả rừng phong phú
sao
Với kho thực phẩm thật đồi dào!
Núi đồi khe suối xinh tươi quá,
Sống ở đây đời đẹp biết bao! |
2094. Idhevāhaṃ vasissāmi saha
sabbehi ñātihi,
appossukko nirāsaṅkī asoko akutobhayo.
|
2094. Tôi sẽ trú ngụ ở tại nơi
này với tất cả thân quyến. Tôi không năng nỗ, không ngờ vực,
không sầu muộn, không có sự sợ hăi từ bất cứ đâu.” |
3. Ta sống đây toàn quyến
thuộc thân,
Hưởng thư nhàn, chẳng phải băn khoăn,
Cũng không lo lắng và kinh hăi,
Dù chuyện ǵ do phía địch quân. |
2095. Aññaṃ hi lenaṃ pariyesa
sattu no idha vijjati,
so taccha sūkare hanti idhāgantvā varaṃ varaṃ.
|
2095. “Bạn nên t́m kiếm chỗ trú
khác đi. Kẻ thù của chúng ta có mặt ở nơi này. Này heo Taccha,
gă ấy đi đến nơi này và giết chết những con heo rừng mập nhất,
ngon nhất.” |
4. Cừu địch là đây! Ở chốn
nào,
Xin t́m đường lối ẩn thân vào,
Nó thường giết hại, này Thợ mộc,
Lợn đẹp nhất đàn, loại tối cao! |
2096. Ko namhākaṃ idha sattu ko
ñātī susamāgate,
appadhaṃse padhaṃseti tamme akkhātha pucchitā.
|
2096. “Vậy ai là kẻ thù của chúng
ta ở nơi này? Kẻ nào quấy nhiễu các thân quyến đă khéo tụ tập
lại, c̣n chưa bị quấy nhiễu? Được hỏi, xin các vị hăy giải thích
điều ấy cho tôi.” |
5. Kẻ thù các bạn ấy đâu đây?
Nói thật cho ta, hạnh ngộ thay!
Kẻ giết họ hàng, ai đó vậy?
Dù là chưa giết trọn luôn bầy. |
2097. Uddhaggarājī migarājā balī
dāṭhāvudho migo,
so taccha sūkare hanti idhāgantvā varaṃ varaṃ.
|
2097. “Là con thú có các đường
sọc đứng ở thân, chúa của loài thú, có sức mạnh, có răng nanh là
vũ khí. Này heo Taccha, kẻ ấy đi đến nơi này và giết chết những
con heo rừng mập nhất, ngon nhất.” |
6. Đó chính là vua của thú
rừng!
Với răng để cắn, sọc đen vằn,
Ấy là mănh thú oai hùng quá,
Thường giết lợn uu tú nhất đàn! |
2098. Na no dāṭhā na vijjanti
balaṃ kāye samūhataṃ,
sabbe samaggā hutvāna vasaṃ kāhāma ekakaṃ.
|
2098. “Không phải các răng nanh
của chúng ta không có, không phải sức mạnh của chúng ta ở cơ thể
bị tiêu hoại. Tất cả chúng ta, sau khi hợp nhất lại, sẽ tạo
thành một sức mạnh duy nhất. |
7. Thân thể ta tàn hết lực
chăng?
Thế sao ta lại chẳng nhe răng?
Nếu ta chung sức th́ nhờ vậy
Ta sẽ thắng ngay chú Cọp vằn! |
2099. Hadayaṅgamaṃ kaṇṇasukhaṃ
vācaṃ bhāsasi tacchaka,
yopi yuddhe palāyetha tampi pacchā hanāmase.
|
2099. “Này heo Taccha, ông nói
lời nói thấm vào trái tim, thoải mái lỗ tai. Thậm chí kẻ nào
trốn chạy ở chiến trận, sau này chúng ta sẽ giết chết kẻ ấy.”
|
8. Lời nói này nghe tuyệt diệu
thay!
Tượng công, ta thích nói như vầy,
Đừng cho chú lợn nào đi trốn,
Hoặc bị giết sau trận đấu này. |
Trang 514:
|
Trang 515:
|
2100. Pāṇātipātā virato nu ajja
abhayaṃ nu te sabbabhūtesu dinnaṃ,
dāṭhā nu te miga viriyaṃ na santi
yo saṅghapatto kapaṇova jhāyasi.
|
2100. “Phải chăng hôm nay ngươi
kiêng cữ việc giết hại mạng sống? Phải chăng pháp không sợ hăi
được ngươi ban phát cho tất cả chúng sanh? Này con thú, phải
chăng các răng nanh của ngươi không có sự nỗ lực? Là kẻ đă đạt
được bầy heo mà ngươi lại trầm tư như là kẻ ăn mày?” |
9. Cọp thề bỏ giết mọi loài
chăng?
Cọp đă cho muôn vật vạn toàn,
Chắc hẳn hàm răng không bén nữa,
Đàn heo đă gặp, lại xin ăn? |
2101. Na me dāṭhā na vijjanti
balaṃ kāye samūhataṃ,
ñātī ca disvāna samaṅgi ekato
tasmā jhāyāmi vanamhi ekato.
|
2101. “Không phải các răng nanh
của tôi không có, không phải sức mạnh của tôi ở cơ thể bị tiêu
hoại. Nhưng sau khi nh́n thấy các thân quyến có sự chiếm cứ phía
bên kia, v́ thế, tôi trầm tư ở khu rừng, phía bên này. |
10. Răng của ta không cắn được
rồi,
Sức ta đà kiệt quệ mà thôi,
Cùng nhau, chúng đứng toàn huynh đệ,
V́ thế ta phiêu bạt lẻ loi. |
2102. Imassudaṃ yanti disodisaṃ
pure
bhayadditā lenagavesino puthū,
tedāni saṅgamma vasanti ekako
yatthaṭṭhitā duppasahajja te mayā.
|
2102. Trước đây, những con heo
này chạy tứ tán. Bị khốn khổ v́ sợ hăi, chúng t́m kiếm nơi nương
náu một cách riêng rẽ. Giờ đây, chúng kết hợp lại, sống thành
một khối. Hôm nay, tôi khó áp chế được chúng ở nơi chúng sinh
sống. |
11. Xưa, chúng ngược xuôi, bại
tẩu nhanh,
T́m hang tháo chạy, phách hồn kinh,
Nhưng nay chúng rống, ṿng vây chặt,
Vô địch, đấu tranh giáp mặt ḿnh! |
2103. Pariṇāyakasampannā sahitā
ekavādino,
te maṃ samaggā hiṃseyyuṃ tasmā tesaṃ na patthaye.
|
2103. Đă đạt được người lănh đạo,
đă kết hợp lại, chung một lập trường, có sự hợp nhất, chúng có
thể hăm hại tôi; v́ thế, đối với chúng, tôi không màng.” |
12. Bây giờ chúng thỏa thuận
đồng tâm,
Chúng đă bầu lên một tướng quân,
Chúng hại thân này khi hiệp lực,
Nên ta thấy chúng, cũng không cần! |
2104. Ekova indo asure jināti
ekova seno hanti dije pasayha,
ekova vyaggho migasaṅghapatto
varaṃ varaṃ hanti balaṃ hi tādisaṃ.
|
2104. “Chỉ một vị thần Inda chiến
thắng các A-tu-la. Chỉ một chim điều hâu giết chết các con chim
bằng vơ lực. Chỉ một con cọp đạt được bầy thú rồi giết chết con
mập nhất, ngon nhất, bởi v́ sức mạnh của nó là như thế ấy.”
|
13. Diều hâu đơn độc giết đàn
chim,
Chiến thắng La thần bởi Đế thiên,
Khi mănh hổ nh́n bầy dă thú,
Lựa con đẹp nhất, giết êm liền! |
2105. Na heva indo na seno napi
vyaggho migādhipo,
samagge sahite ñātī vyagghe ca kurute vase.
|
2105. “Tuy nhiên, không phải vị
thần Inda, không phải chim điều hâu, cũng không phải con cọp
chúa tể loài thú, mà là các thân quyến, khi có sự hợp nhất, khi
đă kết hợp lại, có thể tạo ra quyền lực đối với con cọp.” |
14. Chẳng diều, chẳng hổ, chúa
sơn lâm,
Thiên chủ, làm sao đủ lực thần
Khống chế cả bầy heo đánh Hổ,
Họ hàng hiệp lực để tranh hùng! |
2106. Kumbhilakā sakuṇikā
saṅghino gaṇacārino,
sammodamānā ekajjhaṃ uppatanti ḍayanti ca.
|
2106. “Những con chim nhỏ
kumbhilaka sống theo bầy, di chuyển theo nhóm, vui vẻ cùng
nhau nhảy nhót và bay lượn. |
15. Con chim bé bỏng phủ đầy
lông,
Bay nhảy từng đàn lũ thật đông,
Tụ tập trên cao thành đám lớn,
Cùng nhau lướt nhẹ khoảng trời không. |
2107. Tesañca ḍayamānānaṃ ekettha
apavattati,
tañca seno nitāḷeti veyyagghiyeva sā gati.
|
2107. Và trong khi chúng đang bay
lượn, một con nào trong số đó tách khỏi bầy, chim diều hâu chộp
lấy con chim ấy; đường lối ấy phù hợp với cọp.” |
16. Một ḿnh đáp xuống, chú
diều hâu,
Trong lúc cả bầy chúng giỡn nhau,
Tàn sát chúng ngay như ư muốn,
Đó là cách Hổ phải theo mau! |
2108. Ussāhito jaṭilena
luddenāmisacakkhunā,
dāṭhī dāṭhīsu pakkhandi maññamāno yathā pure.
|
2108. “Được khích lệ bởi gă đạo
sĩ bện tóc hung bạo, quan tâm vật chất, con thú có răng nanh đă
nhảy bổ vào những con thú có răng nanh, nghĩ rằng giống như
trước đây.” |
17. Với con mắt ác độc thèm
ăn,
Cọp tưởng lời này quả thật chân,
Can đảm mồm nhe răng nhọn hoắc,
Nhảy vào đám lợn cũng đầy răng! |
2109. Sādhu sambahulā ñātī api
rukkhā araññajā,
sūkarehi samaggehi vyaggho ekāyane hato.
|
2109. “Thật là tốt đẹp có nhiều
thân quyến, luôn cả các cây cối mọc trong rừng! Con cọp đă bị
giết chết ở cái hố bởi những con heo rừng có sự hợp nhất.”
|
18. Bạn bè hiệp lực tựa cây
rừng
Đó thật là quang cảnh đáng mừng,
Bầy lợn hợp quần, làm nhiệm vụ
Giết ngay Cọp chúa trọn thành công. |
Trang 516:
|
Trang 517:
|
2110. Brāhmaṇañceva vyagghañca
ubho hantvāna sūkarā,
ānandino pamuditā mahānādañca nādisuṃ.
|
2110. “Sau khi giết chết cả hai
là người Bà-la-môn và con cọp, các con heo rừng trở nên hoan hỷ,
vui mừng, và chúng đă rống lên tiếng rống lớn. |
19. Bầy lợn thế là đă diệt tan
Bà-la-môn với Cọp đen vằn,
Rồi gầm thét, chúng la vang dội
Trong nỗi ḷng vui sướng ngập tràn. |
2111. Te su udumbaramūlasmiṃ
sūkarā susamāgatā,
tacchakaṃ abhisiñciṃsu tvaṃ no rājāsi issaro ”ti.
9. Tacchasūkarajātakaṃ.
|
2111. Rồi ở nơi gốc cây sung, các
con heo rừng ấy đă làm lễ rưới nước đăng quang cho con heo rừng
Taccha: ‘Ngài là đức vua, là chúa tể của chúng tôi.’”
9. Bổn sanh Heo Rừng Taccha. [492]
|
20. Bầy heo ở dưới gốc sung
rừng
Đổ nước thánh đầy để tấn phong
Chú Lợn rừng con người Thợ mộc,
Đồng hô: "Chúa tể của thần dân!"
Câu chuyện 492 |
2112. Vāṇijā samitiṃ katvā
nānāraṭṭhato āgatā,
dhanāhārā pakkamiṃsu ekaṃ katvāna gāmaṇiṃ.
|
2112. “Các thương buôn đi đến từ
nhiều quốc độ khác nhau, sau khi lập thành đoàn và bầu lên một
người thủ lănh, họ đă khởi hành mang theo tài sản và lương thực.
|
1. Từ nhiều quốc độ, các
thương nhân
Đến họp cùng nhau cả một đoàn,
Bầu chọn trưởng đoàn và thẳng tiến
Lên đường t́m kiếm một kho tàng. |
2113. Te taṃ kantāramāgamma
appabhakkhaṃ anodakaṃ,
mahānigrodhamaddakkhuṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ.
|
2113. Sau khi đi đến khu rừng
hoang vu ấy, bị thiếu thức ăn, không c̣n nước, họ đă nh́n thấy
cây đa to lớn, có bóng mát, làm thích ư. |
2. Đoàn lữ hành kia thiếu thức
ăn
Đến rừng khô cháy nắng oi nồng,
Chợt nh́n thấy gốc đa hùng vĩ,
Với bóng cây che mát dịu ḷng. |
2114. Te ca tattha nisīditvā
tassa rukkhassa chādiyā,
vāṇijā samacintesu bālā mohena pārutā.
|
2114. Và họ đă ngồi xuống tại đó,
ở bóng mát của cây đa ấy. Các thương buôn là những kẻ ngu dốt,
bị bao trùm bởi si mê, đă suy nghĩ rằng: |
3. Thế rồi dưới tán là cây
che,
Cả bọn thương nhân thảy dựa kề,
Lư luận như vầy v́ ám độn,
Nghèo nàn trí tuệ, hóa u mê: |
2115. Addāyate ayaṃ rukkho api
vāri ca sandati,
iṅghassa purimaṃ sākhaṃ mayaṃ chindāma vāṇijā.
|
2115. ‘Cây này bị ẩm ướt, và cũng
có nước chảy. Nào, các vị thương buôn, chúng ta hăy chặt cành
phía đông của cây này.’ |
4. "Cây này đầy ẩm ướt bên
trong
Từ đó h́nh như nước có ḍng,
Ta hăy chặt từ cây một nhánh,
Cành nào đă mọc hướng về Đông". |
2116. Sā ca chinnāva pagghari
acchaṃ vāriṃ anāvilaṃ,
te tattha nahātvā ca pivitvā ca yāvaticchiṃsu vāṇijā.
|
2116. Và ngay khi được chặt đứt,
cành cây ấy đă rỉ ra nước trong sạch, không bị vẩn đục. Các
thương buôn ấy, tại đó, đă tắm rửa, đă uống nước cho đến khi đă
thỏa ước muốn. |
5. Cành kia được chặt, nước
tuôn ḍng,
Từng giọt tinh nguyên, thật sáng trong,
Cả bọn thương nhân cùng tắm rửa,
Uống cho đến lúc thỏa thuê ḷng. |
2117. Dutiyaṃ samacintesuṃ bālā
mohena pārutā,
iṅghassa dakkhiṇaṃ sākhaṃ mayaṃ chindāma vāṇijā.
|
2117. Những kẻ ngu dốt, bị bao
trùm bởi si mê, đă suy nghĩ lần thứ nh́ rằng: ‘Nào, các vị
thương buôn, chúng ta hăy chặt cành phía nam của cây này.’ |
6. Lại v́ trí tuệ chúng nghèo
nàn
V́ sự ngu si đă cản ngăn,
Chúng bảo: "Phía Nam c̣n một nhánh,
Chúng ta hăy đến cắt nhanh chân". |
2118. Sā ca chinnāva pagghari
sālimaṃsodanaṃ bahuṃ,
appodavaṇṇe kummāse siṅgiṃ bidalasūpiyo.
|
2118. Và ngay khi được chặt đứt,
cành cây ấy đă rỉ ra nhiều lúa sāli,
thịt, cơm, cháo chua kiểu ít nước, mứt gừng, các loại xúp đậu. |
7. Cành này vừa chặt xuống
liền mang
Lúa gạo, thức ăn cứ chảy tràn,
Cháo đặc, nghệ gừng, cùng xúp đậu
Và nhiều thức ăn khác thật vô vàn. |
2119. Te tattha bhutvā khāditvā
yāvaticchiṃsu vāṇijā,
tatiyaṃ samacintesuṃ bālā mohena pārutā.
|
2119. Các thương buôn ấy, tại đó,
đă ăn, đă nhai cho đến khi đă thỏa ước muốn. Những kẻ ngu dốt,
bị bao trùm bởi si mê, đă suy nghĩ lần thứ ba rằng: |
8. Bọn thương nhân uống uống
ăn ăn,
Chúng nhét vào đầy bụng thật căng,
Rồi bảo với ḷng đầy ám độn
Và v́ trí tuệ quá nghèo nàn: |
2120. Iṅghassa pacchimaṃ sākhaṃ
mayaṃ chindāma vāṇijā,
sā ca chinnāva paggari nāriyo samalaṅkatā.
|
2120. ‘Nào, các vị thương buôn,
chúng ta hăy chặt cành phía tây của cây này.’ Và ngay khi được
chặt đứt, cành cây ấy đă rỉ ra những nữ nhân đă được trang điểm.
|
9. "Mau lên các bạn phú thương
này,
Ta hăy cắt cành lá phía Tây",
Mỹ nữ cả bầy ùa tứ phía,
Xiêm y lộng lẫy diễm kiều thay! |
2121. Vicitra vatthābharaṇā
āmuttamaṇikuṇḍalā,
apisu vāṇijā ekā nāriyo paṇṇavīsati.
|
2121. Các nàng có vải vóc và đồ
trang sức đủ màu sắc rực rỡ, có các bông tai bằng ngọc trai và
ngọc ma-ni. Mỗi thương buôn được một nữ nhân, và hai mươi lăm nữ
nhân (thuộc về người thủ lănh). |
10. Ḱa! Xiêm y có đủ muôn
màu,
Lủng lẳng ṿng vàng với bảo châu,
Trong số cả trăm người mỗi một,
Mỗi chàng chiếm một gái xinh sao! |
2122. Samantā parikariṃsu tassa
rukkhassa chādiyā,
te tāhi paricāresuṃ yāvaticchiṃsu vāṇijā.
|
2122. Họ đă quây quần xung quanh,
ở bóng râm của cây ấy. Các thương buôn ấy đă tiêu khiển với các
nàng ấy cho đến khi đă thỏa ước muốn.
|
11. Cùng đứng bên nhau cả bọn
này
Quây quần dưới bóng mát tàn cây,
Đám thương nhân thảy đều vào giữa,
Đùa giỡn bày tṛ thích thú thay! |
Trang 518:
|
Trang 519:
|
2123. Catutthaṃ samacintesuṃ bālā
mohena pārutā,
iṅghassa uttaraṃ sākhaṃ chindāma vāṇijā.
|
2123. Những kẻ ngu dốt, bị bao
trùm bởi si mê, đă suy nghĩ lần thứ tư rằng: ‘Nào, các vị thương
buôn, chúng ta hăy chặt cành phía bắc của cây này.’ |
12. Lại v́ trí tuệ chúng nghèo
nàn,
V́ sự ngu si đă cản ngăn
Chúng bảo: "Bắc phương c̣n một nhánh
Chúng ta hăy chặt xuống ĺa thân". |
2124. Sā ca chinnāva paggari
muttā veḷuriye bahū,
rajataṃ jātarūpañca kuttiyo paṭiyāni ca.
|
2124. Và ngay khi được chặt đứt,
cành cây ấy đă rỉ ra nhiều ngọc trai, ngọc bích, bạc, và vàng,
các thảm lót và các tấm trải bằng sợi len. |
13. Khi cành hướng Bắc chặt
vừa xong,
Vàng bỗng tuôn ra cả một ḍng,
Bạc chảy đầy tay và thảm quư,
Bào ngọc, trân châu nói chẳng cùng. |
2125. Kāsikāni ca vatthāni
uddiyāne ca kambale,
te tattha bhāre bandhitvā yāvaticchiṃsu vāṇijā.
|
2125. Các thương buôn ấy, tại đó,
đă buộc các tấm vải xứ Kāsi và các tấm mền xứ Uddiya thành các
kiện hàng cho đến khi đă thỏa ước muốn. |
14. Trang phục Ba-la-nại mượt
mà,
Chăn màn dày mỏng thực xa hoa,
Thương nhân lúc ấy liền hành sự
Cuộn hết thành bao lớp lụa là. |
2126. Pañcamaṃ samacintesuṃ bālā
mohena pārutā,
iṅgassa mūlaṃ chindāma api bhiyyo labhāmase.
|
2126. Những kẻ ngu dốt, bị bao
trùm bởi si mê, đă suy nghĩ lần thứ năm rằng: ‘Nào, các vị
thương buôn, chúng ta hăy chặt gốc của cây này. Thậm chí chúng
ta có thể nhận được nhiều hơn.’ |
15. Cũng v́ ngu muội với si
mê,
Chúng lại bảo nhau, như trước kia:
"Ta hăy chặt cây từ gốc rễ,
Chắc càng thâu của cải tràn trề". |
2127. Athuṭṭhahi satthavāho
yācamāno katañjalī,
nigrodhe kiṃ aparajjhatha vāṇijā bhaddamatthu te.
|
2127. Khi ấy, vị trưởng đoàn đă
đứng dậy, chắp tay yêu cầu rằng: ‘Các vị xúc phạm điều ǵ đến
cây đa? Này các vị thương buôn, cầu mong có sự tốt lành cho quư
vị. |
16. Ḱa vội đứng lên, vị
trưởng đoàn
Cúi đầu cung kính, lại thưa rằng:
"Cây đa làm hại ǵ chư vị,
Mong ước trời cho hưởng phước phần! |
2128. Vāridā purimā sākhā
annapānaṃ ca dakkhiṇā,
nāridā pacchimā sākhā sabbakāme ca uttarā
nigrodhe kiṃ aparajjhatha4 vāṇijā bhaddamatthu te.
|
2128. Cành cây phía đông cho
nước, phía nam cho cơm nước, cành phía tây cho phụ nữ, và phía
bắc cho tất cả các dục. Các vị xúc phạm điều ǵ đến cây đa? Này
các vị thương buôn, cầu mong có sự tốt lành cho quư vị.’ |
17. Cành hướng Đông cho nước
chảy tràn,
Cành Nam cho thực phẩm ta ăn
Cành Tây cho các nàng kiều nữ,
Cành Bắc cho tơ lụa bạc vàng,
Cây đó hại ǵ cho quư vị,
Cầu chư vị hưởng phước trời ban! |
2129. Yassa rukkhassa chāyāya
nisīdeyya sayeyya vā,
na tassa sākhaṃ bhañjeyya mittadubbho hi pāpako.
|
2129. Người ngồi hoặc nằm ở bóng
râm của cây nào th́ không nên bẻ găy cành lá của cây ấy, bởi v́
kẻ hăm hại bạn bè là kẻ ác xấu.’ |
18. Cây này cho bóng mát an
nhàn,
Nằm nghỉ, ngồi chơi, những lúc cần,
Không được phá tan cành đổ hết,
Hành vi bừa băi thực hung tàn!" |
2130. Te ca tassa anāditvā ekassa
vacanaṃ bahū,
nisitāhi kuṭhārīhi mūlato taṃ upakkamuṃ.
|
2130. Và chúng với số đông đă
không nghe theo lời nói của vị ấy có một ḿnh. Chúng đă khởi sự
chặt cây đa ấy ở gốc bằng những cái ŕu sắc bén. |
19. Song ngài chỉ một, chúng
từng bầy,
Tiếng nói ngài sao cản chúng đây:
Chúng nện những dao ŕu sắc bén
Vào phần gốc để đốn thân cây. |
2131. Tato nāgā nikkhamiṃsu
sannaddhā paṇṇavīsati,
dhanuggahānaṃ tisatā chasahassā ca vammino.
|
2131. Sau đó, các con rồng đă
tiến ra, hai mươi lăm con được vũ trang, ba trăm con cầm cung,
và sáu ngàn con cầm tấm chắn. |
20. Rắn mặc giáp bào đủ bách
quân,
Đứng lên cùng giữ vững sa trường,
Ba trăm xạ thủ, sáu ngàn nữa
Trang bị mộc khiên với kiếm thần. |
2132. Ete hanatha bandhatha mā vo
muñcittha jīvitaṃ,
ṭhapetvā satthavāhaṃ sabbe bhasmīkarotha te.
|
2132. ‘Các ngươi hăy giết chết,
hăy trói những kẻ này lại. Các ngươi chớ tha cho kẻ nào sống,
ngoại trừ vị trưởng đoàn. Các người hăy làm cho tất cả bọn chúng
biến thành tro.’ |
21. Bắn hạ bọn kia, trói chặt
mau,
Chẳng tha mạng sống một tên nào,
Đốt thành tro bụi trừ đoàn trưởng,
Như thế hoàn thành việc đă giao. |
2133. Tasmā hi paṇḍito poso
sampassaṃ atthamattano,
lobhassa na vasaṃ gacche haneyya disataṃ manaṃ.
|
2133. Chính v́ thế, con người
sáng suốt, trong khi nh́n thấy lợi ích cho bản thân, không nên
rơi vào quyền lực của tham, nên tiêu diệt ư nghĩ thù ngịch.
|
22. Vậy trí nhân nên thấy
thiện hành,
Chẳng bao giờ để bản tâm thành
Tôi đ̣i nô lệ ḷng tham dục,
Phá vỡ mục tiêu đối thủ ḿnh. |
2134. Etamādīnavaṃ ñatvā taṇhā
dukkhassa sambhavaṃ,
vītataṇho anādāno sato bhikkhu paribbaje ”ti.
10. Mahāvāṇijajātakaṃ.
|
2134. Sau khi biết được điều ấy
là bất lợi, (biết được) tham ái là nguồn sanh khởi của khổ, vị
tỳ khưu có tham ái đă được xa ĺa, không có nắm giữ, có niệm,
nên sống hạnh du sĩ.”
10. Bổn sanh Người Thương Buôn Vĩ Đại. [493] |
23. Bậc trí khi xem việc ác
làm
Khổ đau bắt rễ tự ḷng tham,
Đoạn trừ tham dục và dây trói,
Phát nguyện sống đời thanh tịnh tâm.
Câu chuyện 493 |
Trang 520:
|
Trang 521:
|
2135. Abbhuto vata lokasmiṃ
uppajji lomahaṃsano,
dibbo ratho pāturahū vedehassa yasassino.
|
2135. “Thật là phi thường ở thế
gian, việc dựng đứng lông đă sanh khởi; Thiên xa đă hiện ra cho
vị vua danh tiếng của xứ Videha!” |
1. Việc lạ trên trần
đă được xem
Làm cho dựng đứng tóc người lên:
V́ mời Đại đế Vi-đề quốc,
Phái xuống thiên xa tự cơi thiên. |
2136. Devaputto mahiddhiko mātali
devasārathi,
nimantayittha rājānaṃ vedehaṃ mithilaggahaṃ.
|
2136. Vị Thiên tử có đại thần lực
Mātali, người điều khiển Thiên xa, đă thỉnh mời đức vua trị v́
kinh thành Mithilā, xứ Videha. |
2. Thiên sứ Mà-ta-li
đại cường,
Vị thần điều ngự ấy vừa mang
Lời truyền đến tận Vi-đề quốc
Ngay tại kinh thành triệu quốc vương: |
2137. Ehimaṃ rathamāruyha
rājaseṭṭha disampati,
deva dassanakāmā te tāvatiṃsā sa-indakā.
saramānā hi te devā sudhammāyaṃ samacchare.
|
2137. “Tâu vị vua hạng nhất, tâu
vị chúa tể một phương, xin bệ hạ hăy đến, hăy bước lên cỗ xe
này. Tâu bệ hạ, chư Thiên ở cơi Trời Tam Thập với cả Thiên Chủ
Inda có ư muốn nh́n thấy bệ hạ. Bởi v́ trong khi tưởng nhớ đến
bệ hạ, chư Thiên ngồi chung ở giảng đường Sudhammā.” |
3. "Xin tấu Đại
vương, bậc Thánh quân,
Ngự trên xa giá để theo thần,
In-dra Thiên chủ cùng Thiên chúng
Tam thập tam thiên giới lẫy lừng,
Chư vị giờ này đang hội họp
Và đồng mơ tưởng đến hiền nhân". |
2138. Tato ca rājā sādhīno
pamukho rathamāruhi,
sahassayuttaṃ abhiruyha agā devāna santike,
taṃ devā paṭinandiṃsu disvā rājānamāgataṃ.
|
2138. Và sau đó, đức vua Sādhīna,
vị lănh tụ, đă bước lên cỗ xe. Sau khi ngự lên cỗ xe thắng một
ngàn ngựa, đức vua đă đi đến chỗ ngụ của chư Thiên. Sau khi nh́n
thấy đức vua đang tiến đến, chư Thiên đă đón mừng ngài. |
4. Đại đế Sà-dh́
ngước mắt lên,
Và liền ngự giá chiếc xe tiên,
Thần xa được cả ngàn thiên mă
Đồng kéo ngài lên đến cơi thiên.
5. Chư Thiên chiêm ngưỡng đấng anh quân,
Thượng khách lên chơi, vội đón mừng: |
2139. Svāgataṃ te mahārāja atho
te adurāgataṃ,
nisīdadāni rājisi devarājassa santike.
|
2139. “Tâu đại vương, chào mừng
bệ hạ, và việc ngự đến không khó nhọc của bệ hạ. Tâu vị ẩn sĩ
vương, giờ đây xin thỉnh bệ hạ ngồi xuống kề bên vị Thiên
Vương.” |
"Đại đế!" đồng hô lời
chúc tụng,
"Thật là hạnh ngộ cuộc tao phùng!
Trên ngai vàng cạnh ngai Thiên chủ
An tọa xin mời đấng thánh nhân!" |
2140. Sakkopi paṭinandittha
vedehaṃ mithilaggahaṃ,
nimantayī ca kāmehi āsanena ca vāsavo.
|
2140. Thiên Chủ Sakka cũng đă đón
mừng vị vua trị v́ kinh thành Mithilā, xứ Videha, và Thiên Chủ
Vāsava đă thỉnh mời với các dục và chỗ ngồi. |
6. Sak-ka chào đón
chúa Vi-đề
Ngự trị kinh thành tại Mỹ-thi,
Thiên chủ ban ngài ngàn lạc thú,
Thỉnh ngài an tọa thật uy nghi: |
2141. Sādhu khosi anuppatto
āvāsaṃ vasavattinaṃ,
vasa devesu rājisi sabbakāmasamiddhisu,
tāvatiṃsesu devesu bhuñja kāme amānuse.
|
2141. “Thật tốt đẹp thay bệ hạ đă
ngự đến chỗ trú ngụ của những vị có quyền lực. Tâu vị ẩn sĩ
vương, bệ hạ hăy sống giữa chư Thiên có sự thành đạt tất cả các
dục. Bệ hạ hăy hưởng thụ các dục không thuộc về nhân loại giữa
chư Thiên cơi Tam Thập.” |
7. "Giữa các đế vương
ở cơi trần
Chào mừng Thánh thượng đến thiên cung,
Đại vương an trú cùng Thiên chúng,
Được phỉ ước nguyền đúng lệnh ban,
Xin hưởng lạc thiên đường bất tận
Trên trời Đao lợi, cảnh thiên đàng!" |
2142. Ahaṃ pure saggagato ramāmi
naccehi gītehi ca vāditehi,
sodāni ajja na ramāmi sagge
āyuṃ nu khīṇo maraṇaṃ nu santike
udāhu mūḷhosmi janindaseṭṭha.
|
2142. “Trước đây, trẫm đă đi đến
cơi Trời, vui thích với các điệu vũ, với các lời ca, và với các
điệu nhạc. Giờ đây, hôm nay, trẫm đây không vui thích ở cơi
Trời. Thưa vị chúa tối thượng của loài người. Phải chăng tuổi
thọ của trẫm đă cạn kiệt, cái chết đă gần kề, hay là trẫm bị mê
mờ?” |
8. Ta hưởng, từ khi
đến ngọc đường,
Đàn ca, vũ khúc, nhạc du dương.
Nay ta chẳng thấy niềm hoan lạc,
Lâm mạng chung thời đến phải chăng?
Hay chính là v́ ḷng ám độn,
Làm ta sợ hăi, tấu Thiên hoàng? |
2143. Nacāyu khīṇaṃ maraṇaṃ te
dūre
nacāpi mūḷho naraviriya seṭṭha,
tavañca puññāni parittakāni
yesaṃ vipākaṃ idha vedayittho.
|
2143. “Tâu vị tinh tấn tối thượng
của loài người, không phải tuổi thọ của bệ hạ đă cạn kiệt, cái
chết của bệ hạ hăy c̣n xa, và cũng không phải bệ hạ bị mê mờ.
Các phước báu của bệ hạ là ít ỏi, và bệ hạ đă thọ hưởng quả
thành tựu của chúng ở nơi này. |
9. Đời ngài chưa hết,
chẳng lâm chung,
Ngài chẳng cuồng si, hỡi Đại nhân,
Song thiện nghiệp ngài nay đă tận,
Giờ công đức trước hưởng xong phần. |
2144. Vasa devānubhāvena
rājaseṭṭha disampati,
tāvatiṃsesu devesu bhuñja kāme amānuse.
|
2144. Tâu vị vua hạng nhất, tâu
vị chúa tể một phương, bệ hạ hăy sống với năng lực của chư
Thiên, hăy hưởng thụ các dục không thuộc về nhân loại giữa chư
Thiên cơi Tam Thập.” |
10. Song cứ ở đây,
hỡi Đại vương!
Bởi quyền tối thượng của ta ban:
Hưởng đi thiên lạc cùng Thiên chúng
Tam thập tam thiên giới trú an. |
Trang 522:
|
Trang 523:
|
2145. Yathā yācitakaṃ yānaṃ yathā
yācitakaṃ dhanaṃ,
evaṃ sampadamevetaṃ yaṃ parato dānapaccayā.
|
2145. “Cỗ xe giống như vật vay
mượn, tài sản giống như vật vay mượn, tương tự như vậy, chính
việc thành đạt này là do duyên ban phát từ người khác. |
11. Như lúc thiên xa
đă giáng trần,
Hoặc khi phước lộc được dành phần,
Chính là thọ hưởng niềm thiên lạc
Do bởi bàn tay khác thưởng ân. |
2146. Nacāhametaṃ icchāmi yaṃ
parato dānapaccayā,
sayaṃ katāni puññāni tamme āveṇikaṃ dhanaṃ.
|
2146. Và trẫm không thích điều
ấy, là việc do duyên ban phát từ người khác. Các phước báu đă
được tự ḿnh tạo ra, tài sản ấy là dành riêng cho trẫm. |
12. Ta chẳng cầu mong
nhận phước phần
Do bàn tay kẻ khác thi ân,
Chính nhờ thiện nghiệp phần ta tạo,
Thiện sự riêng ta đứng vững chân. |
2147. Sohaṃ gantvā manussesu
kāhāmi kusalaṃ bahuṃ,
dānena samacariyāya saṃyamena damena ca,
yaṃ katvā sukhito hoti na ca pacchānutappati.
|
2147. Trẫm đây, sau khi đi đến
cơi người, sẽ làm nhiều việc thiện với việc bố thí, với việc
thực hành b́nh đẳng, với việc tự chế ngự, và với việc rèn luyện.
Sau khi làm điều ấy, trẫm được an lạc và sau này không bị ân
hận.” |
13. Ta sẽ ra đi tạo
việc lành,
Phát ban cả nước, khắp quần sinh,
Tuân theo giới hạnh và tu tập,
Điều phục thân tâm, quyết thực hành,
Người biết làm vầy là hạnh phúc,
Chẳng ăn năn hối tiếc phần ḿnh. |
2148. Imāni tāni khettāni imaṃ
nikkhaṃ sukuṇḍalaṃ,
imā tā haritā nūpā imā najjo savantiyo.
|
2148. “Những ruộng đồng này đây,
con kênh đào khéo uốn quanh này, những đầm cỏ xanh mướt này đây,
những con sông, những ḍng suối này. |
14. Lănh thổ là đây,
tổ quốc ta
Máng tṛn dẫn nước suối băng qua
Cỏ xanh bao phủ đầy nơi chốn
Khe nhỏ, lạch ng̣i vẫn chảy ra |
2149. Imā tā pokkharaṇiyo rammā
cakkavākūpakūjitā,
mandālakehi sañchannā padumuppalakehi ca,
yassimāni mamāyiṃsu kinnu te disataṃ gatā.
|
2149. Những hồ sen đáng yêu này
đây với những con ngỗng đỏ kêu ríu rít, được bao phủ bởi những
loài thủy thảo và bởi những hoa sen hồng sen xanh. Những người
đă yêu mến những nơi này của trẫm, vậy họ đă đi đến phương trời
nào? |
15. Các hồ diễm lệ
lắng nghe vang
Khi đám hồng nga réo gọi đàn
Bao đóa sen xanh chen lẫn trắng,
Cây h́nh đá biến mọc lan tràn
Song người yêu cánh cùng ta trước,
Nay ở đâu, ḷng ta muốn hỏi han? |
2150. Tānīdha khettāni so
bhūmibhāgo
te ārāmā te vana me pacārā,
tameva mayhaṃ janataṃ apassato
suññāva me nārada khāyate disā.
|
2150. Ở đây, những đồng ruộng ấy,
khoảnh đất kia, những khu vườn nọ, các khu rừng ấy, những vùng
phụ cận này, trẫm không nh́n thấy chính những người dân ấy của
trẫm. Này Nārada, hướng này đối với trẫm h́nh như hoàn toàn rỗng
không. |
16. Đây là điền thổ
ruộng cùng nương,
Đồng lúa lạc viên , chính cố hương,
Song chẳng thấy đâu người quyến thuộc,
Tưởng chừng sa mạc quá thê lương! |
2151. Diṭṭhā mayā vimānāni
obhāsentā catuddisā,
sammukhā devarājassa tidasānañca sammukhā.
|
2151. Trẫm đă nh́n thấy các cung
điện chiếu sáng bốn phương, đă diện kiến vị Thiên Vương, và đă
diện kiến chư Thiên ở cơi Tam Thập. |
17. Ta đă nh́n cung
điện cơi trời
Huy hoàng chiếu sáng khắp muôn nơi,
Chư Thiên ở cơi trời Đao Lợi
Thiên chủ cùng ta diện kiến rồi. |
2152. Vutthaṃ me bhavanaṃ dibbaṃ
yuttā kāmā amānusā,
tāvatiṃsesu devesu tibbakāma samiddhisu.
|
2152. Trẫm đă sống ở cung Trời,
đă được cung phụng các dục không thuộc về nhân loại, ở giữa chư
Thiên cơi Tam Thập có sự thành đạt các dục tuyệt trần. |
18. Ta hưởng bao hoan
lạc tuyệt trần,
Ngôi nhà thiên giới để riêng phần
Tràn đầy tất cả điều tâm nguyện
Tam thập tam thiên của Ngọc Hoàng. |
2153. Sohaṃ etādisiṃ disvā
puññāyamhi idhāgato,
dhammameva carissāmi nāhaṃ rajjena atthiko.
|
2153. Trẫm đây, sau khi đă nh́n
thấy như thế, đă đi đến nơi này v́ việc phước thiện. Trẫm sẽ
thực hành mỗi thiện pháp, trẫm không có ham muốn với vương
quyền. |
19. Ta ngắm xong
và đă tái hồi
Để thi hành thiện sự mà thôi
Và ta sẽ sống đời thanh tịnh,
Ta chẳng màng ǵ đến chiếc ngôi. |
2154. Adaṇḍāvacaraṃ maggaṃ
sammāsambuddhadesitaṃ,
taṃ maggaṃ paṭipajjissaṃ yena gacchanti subbatā ”ti.
11. Sādhinajātakaṃ.
|
2154. Trẫm sẽ thực hành đạo lộ
đưa đến sự b́nh an, đạo lộ ấy đă được các bậc Chánh Đẳng Giác
thuyết giảng, đạo lộ mà những vị có sự hành tŕ tốt đẹp đang
đi.”
11. Bổn sanh Đức Vua Sādhīna. [494]
|
20. Đạo này không dẫn đến đau buồn,
Chánh Đạo mà chư Phật chỉ đường;
Đường đó giờ đây ta tiến bước
Là đường bậc Thánh vẫn theo luôn.
Câu chuyện 494 |
Trang 524:
|
Trang 52:
|
2155. Rājā avoca vidhuraṃ
dhammakāmo yudhiṭṭhilo,
brāhmaṇe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.
|
2155. Đức vua yêu thích thiện
pháp Yudhiṭṭhila đă nói với Vidhura rằng: “Này Vidhura, hăy t́m
kiếm các vị Bà-la-môn có giới hạnh, có kiến thức, – |
1- Chúa thượng Yu-dhi
thật chánh chân
Một hôm hỏi ư bậc hiền nhân:
"Vi-dhù, t́m các La môn thiện
Những bậc hiền nhân trí tuệ tràn. |
2156. Virate methunā dhammā ye me
bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ,
dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
|
2156. –đă kiêng cử pháp đôi lứa,
là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng
ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đă được bố thí là có
quả báo lớn.” |
2- Những người đoạn
ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng như vầy, thiện hữu,
Để ngày sau hái qủa an toàn. |
2157. Dullabhā brāhmaṇā deva
sīlavanto bahussutā,
viratā methunā dhammā ye te bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ.
|
2157. “Tâu bệ hạ, khó có được
những vị Bà-la-môn có giới hạnh, có kiến thức, đă kiêng cử pháp
đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của bệ hạ. |
3- Thật khó t́m Hiền
thánh thế này
La-môn trí đức đủ như vầy,
Những người giữ trọn tâm ly dục
Để thọ hưởng phần phẩm thực đầy. |
2158. Dasa khalu mahārāja yā tā
brāhmaṇajātiyo,
tesaṃ vibhaṅgaṃ vicayaṃ vitthārena suṇohi me.
|
2158. Tâu đại vương, thật vậy, có
mười hạng là ḍng dơi Bà-la-môn. Xin bệ hạ hăy lắng nghe sự phân
tích và xếp loại về họ một cách chi tiết của thần. |
4- Giữa đời mười loại
Bà la môn,
Xin hăy lắng nghe, tấu Đại Vương,
Trong lúc hạ thần phân biệt họ,
Thần xin nói rơ họ hoàn toàn: |
2159. Pasibbake gahetvāna puṇṇe
mūlassa saṃvute,
osadhiyo ganthenti nahāyanti japanti ca.
|
2159. Các vị mang các túi xách
chứa đầy rễ cây được buộc lại, tổng hợp các phương thuốc, làm
công việc tắm rửa, và lẩm nhẩm chú thuật. |
5- Vài người mang túi
xách trên lưng,
Củ, rễ chất đầy buộc thật căng,
Những kẻ góp gom cây cỏ thuốc
Tắm ḿnh, tụng chú thuật, bùa thần. |
2160. Tikicchakasamā rāja tepi
vuccanti brāhmaṇā,
akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
|
2160. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống
như các thầy thuốc, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương,
những vị ấy đă được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế
ấy?” |
6-Bọn họ như thầy
thuốc, Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà la môn
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên t́m hạng ấy chăng? |
2161. Apetā te brahmaññā (iti
rājā koravyo )
na te vuccanti brāhmaṇā,
aññepi vidhura pariyesa
sīlavante bahussute.
|
2161. (Đức vua Koravya đă nói
rằng): “Những kẻ ấy đă xa ĺa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không
được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hăy t́m kiếm các vị khác
cũng có giới hạnh, có kiến thức, – |
7- Họ không chân
chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hăy kiếm, Vidhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương. |
2162. Virate methunā dhammā ye me
bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ,
dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
|
2162. –đă kiêng cử pháp đôi lứa,
là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng
ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đă được bố thí là có
quả báo lớn.” |
8- Những người đoạn
ác nghiệp, ly tham
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính ḿnh sau hái quả an toàn. |
2163. Kiṃkiṇikāyo gahetvāna
ghosenti puratopi te,
pesanānipi gacchanti rathacariyāsu sikkhare.
|
2163. Các vị ấy cầm lấy cái cồng
và đi phía trước khua vang. Các vị c̣n chuyển tin nhắn, học tập
về các cách điều khiển cỗ xe. |
9- Bọn người đi trước
lại mang chuông,
Trong lúc vừa đi họ réo vang,
Họ biết lái xe đầy khéo léo,
Thư từ thông điệp họ đều mang
|
2164. Paricārakasamā rāja tepi
vuccanti brāhmaṇā,
akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
|
2164. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống
như những người hầu, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương,
những vị ấy đă được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế
ấy?” |
10-Họ chẳng khác nào
đám dịch nhân,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên t́m hạng ấy chăng? |
2165. Apetā te brahmaññā (iti
rājā koravyo)
na te vuccanti brāhmaṇā,
aññe vidhura pariyesa
sīlavante bahussute.
|
2165. (Đức vua Koravya đă nói
rằng): “Những kẻ ấy đă xa ĺa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không
được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hăy t́m kiếm các vị khác có
giới hạnh, có kiến thức, – |
11- Họ không chân
chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hăy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương. |
Trang 526:
|
Trang 52:
|
2166. Virate methunā dhammā ye me
bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ,
dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
|
2166. –đă kiêng cử pháp đôi lứa,
là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng
ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đă được bố thí là có
quả báo lớn.” |
12- Những người đoạn
ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính ḿnh sau hái quả an toàn. |
2167. Kamaṇḍaluṃ gahetvāna
vaṃkadaṇḍañca brāhmaṇā,
paccupessanti rājāno gāmesu nigamesu ca,
nādinne vuṭṭhahissāma gāmamhi ca vanamhi ca.
|
2167. Các vị Bà-la-môn cầm lấy
bầu nước uống và cây gậy cong, rồi tiếp cận các vị vua ở các
thôn làng và các thị trấn (nói rằng): ‘Ở trong làng và ở trong
rừng, khi chưa được bố thí, chúng tôi sẽ không đứng lên.’ |
13- Với b́nh nước
uống gậy cong cong,
Họ chạy theo kịp quốc vương,
Qua các thôn làng cùng thị trấn,
Trong khi theo đuổi lại ca rằng:
" Ta không đi nữa, dù rừng, phố,
Cho đến khi Hoàng thượng cúng dường". |
2168. Niggāhakasamā rāja tepi
vuccanti brāhmaṇā,
akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
|
2168. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống
như những người thâu thuế, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại
vương, những vị ấy đă được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị
như thế ấy?” |
14- Họ quấy rầy các
thuế nhân,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên t́m hạng ấy chăng? |
2169. Apetā te brahmaññā (iti
rājā koravyo)
na te vuccanti brāhmaṇā,
aññepi vidhura pariyesa
sīlavante bahussute.
|
2169. (Đức vua Koravya đă nói
rằng): “Những kẻ ấy đă xa ĺa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không
được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hăy t́m kiếm các vị khác có
giới hạnh, có kiến thức, – |
15- Họ không chân
chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hăy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương. |
2170. Virate methunā dhammā ye me
bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ,
dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
|
2170. –đă kiêng cử pháp đôi lứa,
là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng
ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đă được bố thí là có
quả báo lớn.” |
16- Những người đoạn
ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính ḿnh sau hái quả an toàn. |
2171. Parūḷhakacchanakhalomā
paṅkadantā rajassirā,
okiṇṇā rajareṇūhi yācakā vicaranti te.
|
2171. Những vị có móng tay chân
và lông nách mọc dài, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi, được
phủ đầy những bụi bặm, các vị ấy là những hành khất đi lang
thang. |
17- Móng dài, lông
rậm cả tay chân,
Tóc bện và hôi thối miệng răng,
Bụi bặm bám đầy người bẩn thỉu,
Họ đi đường tựa bọn xin ăn. |
2172. Khāṇughātasamā rāja tepi
vuccanti brāhmaṇā,
akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
|
2172. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống
như những người đào bứng gốc cây, cũng được gọi là Bà-la-môn.
Tâu đại vương, những vị ấy đă được kể ra; có phải chúng ta chọn
các vị như thế ấy?” |
18- Là bọn tiều phu!
Tấu Đại vương!
Cũng đều được gọi Bà la môn
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên t́m hạng ấy chăng? |
2173. Apetā te brahmaññā (iti
rājā koravyo)
na te vuccanti brāhmaṇā,
aññepi vidhura pariyesa
sīlavante bahussute.
|
2173. (Đức vua Koravya đă nói
rằng): “Những kẻ ấy đă xa ĺa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không
được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hăy t́m kiếm các vị khác có
giới hạnh, có kiến thức, – |
19- Họ không chân
chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hăy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương. |
2174. Virate methunā dhammā ye me
bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ,
dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
|
2174. –đă kiêng cử pháp đôi lứa,
là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng
ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đă được bố thí là có
quả báo lớn.” |
20- Những người đoạn
ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính ḿnh sau hái quả an toàn. |
2175. Harīṭakaṃ āmalakaṃ ambaṃ
jambuvibhīṭakaṃ,
labujaṃ dantapoṇāni beluvā badarāni ca.
|
2175. 2176. “Tâu quân vương, các
vị bán các loại loại hàng hóa có giá trị cao thấp khác nhau như
là: trái harīṭaka, trái āmalaka, trái xoài, trái mận đỏ, trái
vibhīṭaka, trái sa-kê, các cây chà răng, trái beluva, các trái
táo, trái rājāyatana, mía và mật đường, ống xông khói, mật ong
và thuốc nhỏ mắt. |
21- Am-lạc, Vil-va,
đào đỏ hồng,
La-buj, xoài chín, vật chùi răng,
|
2176. Rājāyatanaṃ ucchupuṭaṃ
dhūmanettaṃ madhu-añjanaṃ,
uccāvacāni paṇiyāni vipaṇenti janādhipa.
|
Thuốc cao, ván, điếu, đường, ong mật,
Nhiều thứ c̣n kia, họ bán hàng. |
2177. Vāṇijakasamā rāja tepi
vuccanti brāhmaṇā,
akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
|
2177. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống
như các thương buôn, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương,
những vị ấy đă được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế
ấy?” |
22- Chúa thượng, khác
nào bọn lái buôn,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên t́m hạng ấy chăng? |
2178. Apetā te brahmaññā (iti
rājā koravyo)
na te vuccanti brāhmaṇā,
aññe vidhura pariyesa
sīlavante bahussute.
|
2178. (Đức vua Koravya đă nói
rằng): “Những kẻ ấy đă xa ĺa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không
được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hăy t́m kiếm các vị khác có
giới hạnh, có kiến thức, –
|
23- Họ không chân
chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hăy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương. |
Trang 528:
|
Trang 529:
|
2179. Virate methunā dhammā ye me
bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ,
dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
|
2179. –đă kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có
thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự
cúng dường ở nơi nào vật đă được bố thí là có quả báo lớn.” |
24- Những người đoạn
ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính ḿnh sau hái quả an toàn. |
247. Kasi-vāṇijjaṃ kārenti,
posayanti ajeḷake;
Kumāriyo pavecchanti, vivāhantāvahanti ca. |
Ở các văn bản Pāḷi của Miến Điện,
Thái Lan, và PTS của Anh Quốc c̣n có thêm một hạng Bà-la-môn nữa
ở chỗ này; như thế th́ số lượng các hạng Bà-la-môn sẽ là 11,
thay v́ 10 như ở Tạng của Sri Lanka. Phần Pāli ở bên cạnh được
thêm vào từ Tạng Miến Điện (Tạng Thái và Tạng của PTS cũng tương
tự như thế). |
25- Những người làm
ruộng hoặc đi buôn
Nuôi lắm đàn dê ở trại chuồng,
Trao đổi cưới xin làm sính lễ,
Bán bầy con gái, để mua vàng. |
248. Samā ambaṭṭhavessehi, tepi
vuccanti brāhmaṇā;
Akkhātā te mahārāja, tādise nipatāmase. |
|
26- Giống bọn con lai
đám tiện dân,
Cũng đều được gọi Bà La Môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên t́m loại ấy chăng? |
249. Apetā te ca brahmaññā,
(Iti rājā korabyo)
Na te vuccanti brāhmaṇā;
Aññe vidhura pariyesa, sīlavante bahussute. |
|
27- Họ không chân
chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hăy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương. |
250. Virate methunā dhammā, ye me
bhuñjeyyu bhojanaṃ;
Dakkhiṇaṃ samma dassāma, yattha dinnaṃ mahapphalaṃ. |
|
28- Những người đoạn
ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính ḿnh sau hái quả an toàn. |
2180. Nikkhantabhikkhaṃ bhuñjanti
gāmesveke purohitā,
bahū te paṭipucchanti aṇḍacchedā nilañchakā,
pasūpi tattha haññanti mahisā sūkarā ajā.
|
2180. Một số viên quan tế tự thọ
dụng bữa ăn ngoại lệ ở các ngôi làng, Nhiều người hỏi các vị ấy
(về chiêm tinh, bói toán). Các vị là những người thiến và đóng
dấu các con thú. Tại nơi ấy, thậm chí các con thú như trâu, heo
rừng, dê bị giết chết. |
29- Bọn thầy cúng tế,
đoán điềm hên,
Thiến, lựa ḅ, dê để lấy tiền,
Dân chúng mời về, thường ở lại,
Có đầy thực phẩm được dâng lên,
Nơi kia ḅ cái, bê, ḅ thiến,
Dê, lợn đều đem giết lắm phen. |
2181. Goghātakasamācārā tepi
vuccanti brāhmaṇā,
akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
|
2181. Tâu bệ hạ, các vị ấy, có
hành vi giống như các đồ tể, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại
vương, những vị ấy đă được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị
như thế ấy?” |
30- Bọn họ như hàng
thịt hạ tầng,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên t́m loại ấy chăng? |
2182. Apetā te brahmaññā (iti
rājā koravyo)
na te vuccanti brahmaṇā,
aññe vidhura pariyesa
sīlavante bahussute.
|
2182. (Đức vua Koravya đă nói
rằng): “Những kẻ ấy đă xa ĺa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không
được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hăy t́m kiếm các vị khác có
giới hạnh, có kiến thức, – |
31- Họ không chân
chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hăy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương. |
2183. Virate methunā dhammā ye me
bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ,
dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
|
2183. –đă kiêng cử pháp đôi lứa,
là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng
ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đă được bố thí là có
quả báo lớn.” |
32- Những người đoạn
ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính ḿnh sau hái quả an toàn. |
2184. Asicammaṃ gahetvāna khaggaṃ
paggayha brāhmaṇā,
vessapathesu tiṭṭhanti satthaṃ abbāhayantipi.
|
2184. Sau khi cầm lấy thanh gươm
và mộc che, các vị Bà-la-môn đă giơ cao thanh kiếm, đứng ở các
con đường của thương buôn, rồi c̣n hộ tống đoàn xe nữa. |
33- Bọn mang gươm,
giáo, mộc che ḿnh,
Tay lại cầm ŕu tựa chiến binh,
Họ đứng trước đoàn thương khách nọ,
Sẵn sàng hướng dẫn đám du hành. |
2185. Samā gopanisādehi tepi
vuccanti brāhmaṇā,
akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
|
2185. Tâu bệ hạ, các vị ấy, tương
đương với những kẻ giữ ḅ hay những người man rợ, cũng được gọi
là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đă được kể ra; có phải
chúng ta chọn các vị như thế ấy?” |
34- Như mục phu, quân
cướp bạo gan,
Cũng đều được gọi Bà la môn ,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên t́m loại ấy chăng? |
2186. Apetā te brahmaññā (iti
rājā koravyo)
na te vuccanti brahmaṇā,
aññe vidhura pariyesa
sīlavante bahussute.
|
2186. (Đức vua Koravya đă nói
rằng): “Những kẻ ấy đă xa ĺa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không
được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hăy t́m kiếm các vị khác có
giới hạnh, có kiến thức, – |
35- Họ không chân
chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hăy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương. |
2187. Virate methunā dhammā ye me
bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ,
dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
|
2187. –đă kiêng cử pháp đôi lứa,
là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng
ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đă được bố thí là có
quả báo lớn.” |
36- Những người đoạn
ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính ḿnh sau hái quả an toàn. |
2188. Araññe kuṭikaṃ katvā kūṭāni
kārayanti te,
sasabiḷāre bādhenti āgodhā macchakacchapaṃ.
|
2188. “Sau khi làm căn cḥi nhỏ ở
trong rừng, họ cho làm những cái bẫy và đánh bắt các con thỏ,
mèo rừng, kỳ đà, cá, và rùa.
|
37- Có bọn xây lều
đặt bẫy giăng,
Bất kỳ nơi chốn ở trong rừng,
Bắt loại tôm, cá, cùng rùa, trạnh,
Mèo, thỏ, cắc kè, mọi thú hoang. |
Trang 530:
|
Trang 531:
|
2189. Luddakā te mahārāja tepi
vuccanti brāhmaṇā,
akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
|
2189. Tâu bệ hạ, họ là những
người thợ săn, các vị ấy cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại
vương, những vị ấy đă được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị
như thế ấy?” |
38- Tâu Đại vương,
đây chính thợ săn,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên t́m loại ấy chăng? |
2190. Apetā te brahmaññā (iti
rājā koravyo)
na te vuccanti brahmaṇā,
aññe vidhura pariyesa
sīlavante bahussute.
|
2190. (Đức vua Koravya đă nói
rằng): “Những kẻ ấy đă xa ĺa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không
được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hăy t́m kiếm các vị khác có
giới hạnh, có kiến thức, – |
39- Họ không chân
chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hăy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương. |
2191. Virate methunā dhammā ye me
bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ,
dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
|
2191. –đă kiêng cử pháp đôi lứa,
là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng
ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đă được bố thí là có
quả báo lớn.” |
40-Chư vị đoạn tham
dục, ác hạnh,
Để dùng thực phẩm của triều đ́nh,
Trẫm nguyện dâng cúng chư hiền giả,
Để chính ḿnh sau gặt quả lành. |
2192. Aññe dhanassa kāmāhi
heṭṭhāmañce pasakkhitā,
rājāno upari nahāyanti somayāge upaṭṭhite.
|
2192. Những vị khác với sự mong
muốn về tài sản, đă nằm dài bên dưới gầm giường, và các vị vua
tắm ở bên trên vào lúc lễ tế Soma được chuẩn bị. |
41- Lại có bọn ham
chuộng bạc vàng,
Chịu nằm xuống dưới chiếu vương sang,
Để vua tắm rửa trên đầu họ,
Trong lễ So-ma rảy tế đàn. |
2193. Malamajjakasamā rāja tepi
vuccanti brāhmaṇā,
akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
|
2193. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống
như các người thợ cạo, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại
vương, những vị ấy đă được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị
như thế ấy?” |
42- Thợ cạo khác ǵ? Tấu Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên t́m loại ấy chăng? |
2194. Apetā te brahmaññā (iti
rājā koravyo)
na te vuccanti brahmaṇā,
aññe vidhura pariyesa
sīlavante bahussute.
|
2194. (Đức vua Koravya đă nói
rằng): “Những kẻ ấy đă xa ĺa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không
được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hăy t́m kiếm các vị khác có
giới hạnh, có kiến thức, – |
43-Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hăy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương. |
2195. Virate methunā dhammā ye me
bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ,
dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
|
2195. –đă kiêng cử pháp đôi lứa,
là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng
ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đă được bố thí là có
quả báo lớn.” |
44- Chư vị đoạn tham dục, ác hành,
Để dùng thực phẩm của triều đ́nh,
Trẫm nguyện dâng cúng người như vậy,
Để chính ḿnh sau gặt quả lành. |
2196. Atthi brāhmaṇā deva
sīlavanto bahussutā,
viratā methunā dhammā ye te bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ.
|
2196. “Tâu bệ hạ, có những vị
Bà-la-môn có giới hạnh, có kiến thức, đă kiêng cử pháp đôi lứa,
những vị ấy có thể thọ dụng vật thực của bệ hạ. |
45-Song các La môn ,
Tấu Đại vương,
Những người đại trí tuệ, hiền lương,
Đoạn trừ mọi ác hạnh, tham dục,
Để thọ thức ăn được cúng dường. |
2197. Ekañca bhattaṃ bhuñjanti na
ca majjaṃ pivanti te,
akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
|
2197. Các vị ấy ăn một bữa và
không uống chất say. Tâu đại vương, những vị ấy đă được kể ra;
có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?” |
46- Chư vị chỉ dùng
một bữa ăn,
Chẳng bao giờ đụng rượu men nồng,
Đại vương biết rơ người như vậy,
Ta có nên t́m các vị không? |
2198. Ete kho brāhmaṇā vidhura sīlavanto bahussutā,
ete vidhura pariyesa khippañca te nimantayā ”ti.
12. Dasabrāhmaṇajātakaṃ.
|
2198. “Này Vidhura, các vị
Bà-la-môn này chắc chắn là có giới hạnh, có kiến thức. Này
Vidhura, hăy tức tốc t́m kiếm các vị này và hăy thỉnh mời các vị
ấy.”
12. Bổn sanh Mười Hạng Bà-La-Môn. [495]
|
47- Quốc sư đem hết các La môn,
Thanh tịnh tràn đầy, trí chánh chơn,
Mời các Ngài, ngay Hiền sĩ hỡi,
Chần chờ ǵ nữa? Hăy lên đường!
Câu chuyện 495 |
Trang 532:
|
Trang 53:
|
2199. Sukhumālarūpaṃ disvāna
raṭṭhā vivanamāgataṃ,
kūṭāgāravarūpetaṃ mahāsayanamupāsitaṃ.
|
2199. “Tôi đă nh́n thấy vị có vóc
dáng thanh tao, từ vương quốc đă đi đến vùng đất khô cằn, là
người được sở hữu ngôi nhà mái nhọn cao quư, được cung phụng
giường nằm cao sang. |
1- Ta trông ngài xứng
đáng ngôi cao,
Ngài đến từ cung điện xứ nào,
Sa mạc vùng này hoang vắng quá,
Dáng h́nh ngài quá thật thanh tao. |
2200. Tassa te pemakenāhaṃ adāsiṃ
baddhamodanaṃ,
sālīnaṃ vicitaṃ bhattaṃ suciṃ maṃsūpasecanaṃ.
|
2200. V́ ḷng yêu mến bệ hạ đây,
thần đă dâng bệ hạ bữa cơm thượng hạng, được nấu với gạo
sālī đă đăi sạch, tinh khiết,
có trộn lẫn thịt. |
2- V́ mến thương
ngài, ta đă dâng,
Cao lương khéo chọn lựa vừa ăn:
Món cơm kia được tài người khéo
Nấu đổ lên trên món thịt hầm. |
2201. Taṃ tvaṃ bhattaṃ paṭiggayha
brāhmaṇassa apāpayi,
attānaṃ anasitvāna koyaṃ dhammo namatthu te.
|
2201. Sau khi tiếp nhận bữa ăn
ấy, bệ hạ đă bảo trao đến vị Bà-la-môn. Bệ hạ đă không ăn cho
ḿnh. Đây là pháp ǵ mà có được sự tôn kính của bệ hạ?” |
3- Thực phẩm ngài cầm
lại chẳng ăn,
Ngài đem tặng vị Bà la môn,
Ḷng đầy cung kính, nay xin hỏi:
Việc mới làm mang ư nghĩa chăng? |
2202. Ācariyo brāhmaṇo mayhaṃ
kiccākiccesu vyāvaṭo,
garu ca āmantanīyo dātumarahāmi bhojanaṃ.
|
2202. “Vị Bà-la-môn là thầy dạy
học của trẫm, quán xuyến các công việc lớn nhỏ. Và vị thầy là
nên được mời thỉnh; trẫm nên dâng bữa ăn (đến vị thầy).” |
4- Sư trưởng ta đây
thật nhiệt thành,
Việc dù lớn nhỏ vẫn thi hành,
Nên ta phải tặng phần cơm cúng,
Xứng đáng Quốc sư, quá thật t́nh. |
2203. Brāhmaṇaṃdāni pucchāmi
gotamaṃ rājapūjitaṃ,
rājā te bhattaṃ pādāsi suciṃ maṃsūpasecanaṃ.
|
2203. “Giờ đây, tôi xin hỏi
Bà-la-môn Gotama, vị được đức vua tôn vinh. Đức vua đă ban đến
ngài bữa ăn tinh khiết, có trộn lẫn thịt. |
5- Dù vua cũng trọng
Bà la môn
Xin nói, sao ngài lại chẳng ăn,
Một đĩa cao lương tài nấu khéo,
Người đổ đầy trên món thịt ngon? |
2204. Taṃ tvaṃ bhattaṃ paṭiggayha
isissa bhojanaṃ adā,
akhettaññūsi dānassa koyaṃ dhammo namatthu te.
|
2204. Sau khi tiếp nhận bữa ăn
ấy, ngài đă dâng bữa ăn đến vị ẩn sĩ. Ngài là người nhận biết
bản thân không phải là thửa ruộng cho sự bố thí. Đây là pháp ǵ
mà có được sự tôn kính của ngài?” |
6- Ngài chẳng hiểu
thông nghĩa cúng dường,
Song ngài đem tặng vị hiền nhân,
Với ḷng kính trọng, nay xin hỏi,
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng? |
2205. Bharāmi putte dāre ca
gharesu gathito ahaṃ,
bhuñje mānusake kāme anusāsāmi rājino.
|
2205. “Ta cưu mang các con và các
người vợ. Ta bị trói buộc vào các căn nhà. Ta có thể hưởng thụ
các dục của con người. Ta chỉ dạy cho các vị vua. |
7- Ta có gia đ́nh với
vợ con,
Ta thường cư trú tại gia môn,
Dục tham vua chúa ta điều phục,
Tham dục riêng ta vẫn đám hồn. |
2206. Āraññakassa isino
cirarattaṃ tapassino,
vaddhassa bhāvitattassa dātumarahāmi bhojanaṃ.
|
2206. Ta nên dâng bữa ăn đến bậc
ẩn sĩ sống ở rừng, vị có sự khắc khổ thời gian dài, bậc trưởng
thượng, có bản thân đă được tu tập.” |
8- Vói người khổ
hạnh, bậc hiền nhân,
Xưa ở trong rừng vẫn trú thân,
Già cả, thực hành theo giáo lư,
Nên ta cầm thực phẩm đem dâng. |
2207. Isiñcadāni pucchāmi kisaṃ
dhamanisanthataṃ,
parūḷhakacchanakhalomaṃ paṅkadantaṃ rajassiraṃ.
|
2207. “Và giờ đây, tôi xin hỏi
bậc ẩn sĩ gầy ốm, nổi đầy gân, có móng tay chân và lông nách mọc
dài, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi. |
9- Nay ta xin hỏi bậc
hiền nhân,
Ở dưới da ngài lộ rơ gân,
Vói móng mọc dài, đầu tóc rối,
Cái đầu dơ bẩn lẫn hàm răng. |
2208. Eko araññe viharasi
nāvakaṅkhasi jīvitaṃ,
bhikkhu kena tayā seyyo yassa tvaṃ bhojanaṃ adā.
|
2208. Ngài sống một ḿnh trong
rừng, không mong mỏi về cuộc sống. Vị tỳ khưu là tốt hơn ngài về
điều ǵ mà ngài đă dâng bữa ăn đến vị ấy?” |
10- Ngài chẳng màng
đời sống thế gian,
Hỡi người đơn độc trú rừng hoang,
Tôn sư nay có ǵ ưu thắng,
Mà phải đem lương thực cúng dâng? |
2209. Khaṇantālukalambāni
biḷālītakkaḷāni ca,
dhunaṃ sāmākanīvāraṃ saṅghāriyaṃ pasāriyaṃ.
|
2209. “Ta đào
các khoai mỡ và củ cải, các củ biḷālī
và củ takkaḷa. Ta đập giũ các
hạt kê, lúa dại, gom lại rồi trải ra phơi khô.
|
11- Ta đào củ cải,
tỏi, hành hoang,
Cỏ, lá, bạc hà, vẫn kiếm luôn,
Nhặt hạt cải đen, rung lúa dại,
Trải ra phơi nắng thật khô ḍn. |
Trang 534:
|
Trang 535:
|
2210. Sākaṃ bhisaṃ madhuṃ maṃsaṃ
padarāmalakāni ca,
tāni āhatva bhuñjāmi atthi me so pariggaho.
|
2210. Về rau cải, củ sen, mật
ong, thịt thừa của thú rừng, táo rừng, và trái
āmalaka, ta mang về các thứ ấy
và thọ dụng. Đối với ta, có sự bám víu ấy. |
12- Ngó sen, dược
thảo, táo, chà là,
Am-lạc, mật ong, miếng thịt thừa,
Là của ta dành phần kiếm được,
Rồi làm thành món hợp cho ta. |
2211. Pacanto apacantassa
amamassa akiñcano,
anādānassa sādāno dātumarahāmi bhojanaṃ.
|
2211. Là người nấu thức ăn, có
vật sở hữu, c̣n chấp thủ, ta nên dâng bữa ăn đến vị không nấu,
không có trạng thái chấp là của ta, không c̣n chấp thủ.” |
13- Ngài không, lăo
nấu, lăo nhiều hàng,
Ngài chẳng có chi, lăo buộc ràng,
Thế sự bao điều, ngài giải thoát,
Món cơm ngài hưởng đúng công bằng. |
2212. Bhikkhuñcadāni pucchāmi
tuṇhīmāsīna subbataṃ,
isi te bhattaṃ pādāsi suciṃ maṃsūpasecanaṃ.
|
2212. “Và giờ đây, tôi xin hỏi vị
tỳ khưu đang ngồi im lặng, là bậc có sự hành tŕ tốt đẹp. Vị ẩn
sĩ đă dâng đến ngài bữa ăn tinh khiết, có trộn lẫn thịt. |
14- Xin hỏi, ngồi kia
bậc Trí hiền,
Mọi nguồn dục vọng thảy nằm yên,
Món cơm nấu khéo đầy ngon ngọt,
Có kẻ đem phần thịt đổ lên. |
2213. Taṃ tvaṃ bhattaṃ paṭiggayha
tuṇhī bhuñjasi ekako,
nāññaṃ kañci nimantesi koyaṃ dhammo namatthu te.
|
2213. Sau khi tiếp nhận bữa ăn
ấy, ngài im lặng thọ dụng một ḿnh. Ngài không mời mọc bất cứ
người nào khác. Đây là pháp ǵ mà có được sự tôn kính của ngài?” |
15- Ngài nhận và ngon
miệng uống ăn,
Chẳng mời ai đến để chia phần,
Đầy ḷng kính trọng, nay xin hỏi:
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng? |
2214. Na pacāmi na pācemi na
chindāmi na chedaye,
taṃ maṃ akiñcanaṃ ñatvā sabbapāpehi ārataṃ.
|
2214. “Ta không nấu, không bảo
người khác nấu, ta không cắt gọt, không bảo người khác cắt gọt;
ta đă nhận biết ta đây không c̣n bất cứ ô nhiễm nào, đă được
lánh xa tất cả các điều ác xấu. |
16- Không nấu, cũng
không bảo nấu dùm,
Nay không làm hại, trước không làm,
Vị kia biết rơ ta không của,
Ta quyết đoạn trừ mọi dục tham. |
2215. Vāmena bhikkhamādāya
dakkhiṇena kamaṇḍaluṃ,
isi me bhattaṃ pādāsi suciṃ maṃsūpasecanaṃ.
|
2215. Sau khi cầm vật thực bằng
tay trái, b́nh nước bằng tay phải, vị ẩn sĩ đă dâng đến ta bữa
ăn tinh khiết, có trộn lẫn thịt. |
17- Tay phải vị kia
nắm chiếc b́nh,
Thức ăn cầm phía trái bên ḿnh,
Cho ta món thịt hầm người đặt,
Trên bát cơm ngon thật tốt lành. |
2216. Ete hi dātumarahanti samamā
sapariggahā,
paccaṇīkamahaṃ maññe yo dātāraṃ nimantaye.
|
2216. Chính những vị này nên bố
thí, những người có trạng thái chấp là của ta, có sở hữu. Ta
nghĩ rằng người nào mời thỉnh thí chủ là việc làm trái khuấy.”
|
18- Chúng nhiều tài
sản, lắm kim ngân,
Bổn phận là đem của phát phân,
Ai bảo người cho cũng thọ hưởng,
Ấy là thù địch, chớ phân vân. |
2217. Atthāya vata me ajja
idhāgañji rathesabho,
ito pubbe na pajānāmi yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
|
2217. “Quả thật v́ lợi ích của ta
mà hôm nay đấng thủ lănh xa binh đă đi đến nơi này. Trước đây,
ta không biết được vật đă được bố thí ở nơi nào có quả báo lớn.
|
19- Thật là ta
được một duyên may
Hạnh ngộ quân vương ngự tới rày,
Thuở trước ta không hề biết rơ,
Cúng dường mang phước quá tràn đầy. |
2218. Raṭṭhesu giddhā rājāno
kiccākiccesu brāhmaṇā,
isī mūlaphale giddhā vippamuttā ca bhikkhavo ”ti.
13. Bhikkhāparamparajātakaṃ.
|
2218. Các vị vua bị tham đắm vào
các quốc độ, các vị Bà-la-môn vào các công việc lớn nhỏ, các vị
ẩn sĩ bị tham đắm vào các rễ và trái cây, c̣n các vị tỳ khưu
được giải thoát hoàn toàn.”
13. Bổn sanh Vật Thực Theo Tuần
Tự. [496]
|
20- Đế vương với các Bà la môn,
Trị nước mà tâm ác dục tràn,
Các trí nhân t́m cây quả dại,
Bậc tu hành giải thoát ḷng tham.
Câu chuyện 496 |
TASSUDDĀNAṂ
Suva kinnaramukkakharājina so
bhisajāta mahesi kapotavaro,
atha mora satacchaka vāṇijako
atha rāja dasabrāhmaṇā bhikkhaparan ”ti.
Pakiṇṇakanipāto niṭṭhito.
--ooOoo-- |
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Chim két, loài nhân điểu, chim ưng, y da dê thô cứng,
các củ sen, hoàng hậu chánh cung, chuyện chim bồ câu,
rồi chim công, với con heo rừng Taccha, người thương buôn,
rồi đức vua Sādhīna, mười hạng Bà-la-môn, vật thực theo tuần tự.
Nhóm Linh Tinh được chấm dứt.
--ooOoo-- |
<Trang trước> |
<Trang Kế> |