XXII.
MAHĀNIPĀTO - NHÓM LỚN
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 456: |
Trang 457:
|
▪ 10.
MAHĀVESSANTARAJĀTAKAṂ
|
▪ 10. BỔN SANH
VESSANTARA VĨ ĐẠI
(tiếp theo) |
547. CHUYỆN ĐẠI VƯƠNG
VESSANTARA
(Tiền thân Vessantara)
(tiếp theo) |
6729. Tato ratyā vivasane
suriyassuggamanampati,
sakko brāhmaṇavaṇṇena pāto tesaṃ adissatha.
|
6729. Sau đó, vào lúc tàn đêm, cho đến lúc
mọc lên của mặt trời, Thiên Chủ Sakka, với vóc dáng Bà-la-môn,
đă hiện ra với hai người ấy
vào lúc sáng sớm.
|
621. Vậy khi đêm đă dần tàn,
Và trời vừa mới tinh sương sáng dần,
Sak-ka giả dạng đạo nhân
Lên đường thật sớm đến thăm thảo đường: |
6730. Kaccinnu bhoto kusalaṃ kacci bhoto
anāmayaṃ,
kacci uñchena yāpetha kacci mūlaphalābahu.
|
(Lời Thiên Chủ Sakka)
6730. “Thưa ngài, phải chăng ngài được an
khang? Thưa ngài, phải chăng ngài được vô sự? Phải chăng ngài
nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái
cây? |
622. - Ta tin rằng, hỡi Thánh nhân,
Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ, quả tràn trề ẩn am. |
6731. Kacci ḍaṃsā ca makasā ca appameva
siriṃsapā,
vane vālamigākiṇṇe kacci hiṃsā na vijjati.
|
6731. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và
các loài ḅ sát? Phải chăng không có sự hăm hại ở khu rừng đông
đúc các loài thú dữ?” |
623. Ngài nay có bị phiền ḷng
V́ loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hoặc bầy dă thú t́m mồi,
Chẳng hay ngài tránh mọi loài được chăng? |
6732. Kusalañceva no brahme atho brahme
anāmayaṃ,
atho uñchena yāpema atho mūlaphalābahu.
|
(Lời đức Bồ- tát Vessantara)
6732. “Này vị Bà-la-môn, chúng tôi được an
khang. Và Này vị Bà-la-môn, chúng tôi được vô sự. Chúng tôi nuôi
sống bằng việc thu nhặt. Rễ củ và trái cây có nhiều. |
624. Cám ơn ông, hỡi đạo nhân,
Ta nay thịnh vượng an khương mọi bề
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ, quả tràn trề ẩn am. |
6733. Atho ḍaṃsā ca makasā ca appameva
siriṃsapā,
vane vālamigākiṇṇe hiṃsā mayhaṃ na vijjati.
|
6733. Có rất ít ruồi, muỗi, và các loài ḅ
sát. Không có sự hăm hại đến với chúng tôi ở khu rừng đông đúc
các loài thú dữ. |
625. Ta không phải chịu phiền ḷng
V́ loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hoặc bầy dă thú t́m mồi,
Ta đây tránh được mọi loài, b́nh an. |
6734. Satta no māse vasataṃ araññe
jīvasokinaṃ,
idampi dutiyaṃ passāma brāhmaṇaṃ devavaṇṇinaṃ,
ādāya beḷuvaṃ daṇḍaṃ dhārentaṃ ajinakkhipaṃ.
|
6734. Suốt bảy tháng chúng tôi sống cuộc
sống sầu muộn ở trong rừng, chúng tôi nh́n thấy người này lần
thứ nh́, là vị Bà-la-môn với dáng vóc thiên thần, mang theo cây
gậy bằng gỗ beḷuva, đang mặc
áo choàng da dê. |
626. Sống đây đă bảy tháng trường,
Và ông là vị đạo nhân thứ nh́
Cầm cây gậy ở tay kia,
Để đi vào chốn rừng già thảo am. |
6735. Svāgatante mahābrāhme atho te
adurāgataṃ,
anto pavisa bhaddante pāde pakkhālayassu te.
|
|
627. Kính chào ông, hỡi đạo nhân,
Mừng duyên hạnh ngộ đưa đường đến đây.
Hăy vào, chúc phúc cầu may,
Bước vào và rửa chân tay, ta mời. |
Trang 458:
|
Trang 459:
|
6736. Tindukāni piyālāni madhuke
kāsumāriyo,
phalāni khuddakappāni bhuñja brahme varaṃ varaṃ.
|
6736. Này vị Bà-la-môn, có các loại trái
cây tinduka,
piyāla,
madhuka,
kāsumārī ngọt như mật ong, xin
ông hăy thưởng lăm các trái ngon nhất. |
628. Pi-yal, tin-dook lá tươi,
Kà-su-mà quả ngọt bùi thơm ngon,
Trái cây như thể mật ong
Chọn ngay hạng nhất, La-môn, ăn nào. |
6737. Idampi pānīyaṃ sītaṃ ābhataṃ
girigabbharā,
tato piva mahābrahme sace tvaṃ abhikaṅkhasi.
|
6737. Cũng có nước uống mát lạnh này được
mang lại từ hang núi, Này vị Bà-la-môn vĩ đại, xin ông hăy uống
nước từ nơi ấy nếu ông muốn. |
629. Nước này lấy tự hang sâu
Ẩn ḿnh dưới ngọn đồi cao trong rừng.
Xin mời, hỡi bậc Thánh nhân,
Uống vào cho thỏa tấm ḷng ước ao. |
6738. Atha tvaṃ kena vaṇṇena kena vā pana
hetunā,
athappatto brahāraññaṃ taṃ me akkhāhi pucchito.
|
6738. Vậy th́ v́ lư do ǵ, hay là v́
nguyên nhân ǵ, mà ông đă đi đến khu rừng rộng lớn? Được hỏi,
xin ông hăy giải thích điều ấy cho tôi.” |
630. Bây giờ v́ lư do nào
Hoặc duyên cớ dẫn ông vào đường đây,
V́ sao ông kiếm rừng cây,
Ta xin ông giải điều này cho hay. |
6739. Yathā vārivaho pūro sabbakālaṃ na
khīyati,
evaṃ taṃ yācitāgañchiṃ bhariyaṃ me dehi yācito.
|
6739. “Giống như ḍng nước chảy luôn luôn
được tràn đầy, không bị cạn kiệt, tương tự như vậy, ta đă đi đến
để cầu xin ngài. Được yêu cầu, xin ngài hăy ban cho ta người
vợ.” |
631. Giống như hồng thủy ngập đầy
Và không hề có một ngày nào vơi,
Đại vương thần đến van nài
Xin ban Vương hậu của ngài, thần mong. |
6740. Dadāmi na vikampāmi yaṃ maṃ yācasi
brāhmaṇa,
santaṃ nappaṭigūhāmi dāne me ramatī mano.
|
6740. “Này vị Bà-la-môn, tôi sẽ ban cho,
tôi không do dự việc mà ông yêu cầu tôi. Tôi không cất giấu vật
đang có. Tâm của tôi vui thích trong việc bố thí.” |
632. Nhọc ḷng, ta chẳng giấu ông,
Tuy nhiên trong nỗi khổ ḷng riêng tư,
Phát ban, ta chẳng chần chừ
V́ ḷng hoan hỷ đến từ phát ban. |
6741. Maddiṃ hatthe gahetvāna udakassa ca
kamaṇḍaluṃ,
brāhmaṇassa adā dānaṃ sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano.
|
6741. Sau khi nắm lấy nàng Maddī ở bàn tay
và cái b́nh đựng nước, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi đă ban
vật thí đến vị Bà-la-môn. |
633. Thế rồi b́nh nước vừa nâng,
Si-vi quốc độ Đại vương thuở nào
Đem Mad-d́ ấy liền trao
Bà-la-môn nọ thẳng vào tay kia. |
6742. Tadāsi yaṃ bhiṃsanakaṃ tadāsi
lomahaṃsanaṃ,
maddiṃ pariccajantassa medinī samakampatha.
|
6742. Lúc bấy giờ, việc ấy đă là sự kinh
hoàng. Lúc bấy giờ, đă có sự dựng đứng lông. Trong lúc vị ấy ban
tặng nàng Maddī cho người này, trái đất đă rúng động. |
634. Kinh hoàng xảy đến tức th́,
Đất dày chuyển động ngay khi ấy liền,
Ngài đem trao tặng vợ hiền
Mad-d́ cho khách viếng miền thảo am. |
6743. Nevassa maddī bhakuṭī na sandhīyati
na rodati,
pekkhatevassa tuṇhī sā eso jānāti yaṃ varaṃ.
|
6743. Nàng Maddī không có chút cau mày,
không bất b́nh, không khóc lóc. Nàng chỉ nh́n, im lặng (nghĩ
rằng): “Chàng biết việc ấy là cao quư.” |
635. Mad-d́ chẳng chút mày nhăn,
Nàng không khó chịu, khóc than bây giờ.
Lặng yên nh́n, dạ suy tư:
"Hẳn chàng biết rơ lư do đâu là". |
6744. Jāliṃ kaṇhājinaṃ dhītaṃ maddideviṃ
patibbataṃ,
cajamāno na cintesiṃ bodhiyā yeva kāraṇā.
|
6744. Trong khi dứt bỏ con trai Jāli, con
gái Kaṇhājinā, và hoàng hậu Maddī người vợ chung thủy, Ta đă
không phải nghĩ ngợi với lư do chỉ là v́ quả vị giác ngộ. |
636. Cả Jà-li lẫn Kan-hà
Ta đem cho một lăo Bà-la-môn,
Và Mad-d́, vợ keo sơn,
Chỉ v́ Tuệ Giác cao hơn cả mà. |
6745. Na me dessā ubho puttā maddī devī na
dessiyā,
sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ tasmā piye adāsahaṃ.
|
6745. Cả hai đứa con không có bị ta ghét
bỏ, hoàng hậu Maddī không có bị ta ghét bỏ, đối với Ta quả vị
Toàn Giác là yêu quư; v́ thế Ta đă bố thí những người thân yêu. |
637. Vợ hiền ta chẳng xấu xa,
Và hai đứa trẻ con nhà cũng không.
Nhưng v́ Tuệ Giác viên thông
Với tâm ta, thật bội phần thiết thân. |
6746. Komārī yassahaṃ bhariyā sāmiko mama
issaro,
yassicche tassa maṃ dajjā vikkiṇeyya haneyya vā.
|
(Lời công chúa Maddī)
6746. “Khi c̣n con gái, thiếp là vợ của
chàng. Người chồng là chủ nhân của thiếp. Chàng có thể ban tặng
thiếp cho người nào chàng muốn, hoặc có thể bán đi, hoặc có thể
giết chết.” |
638. Vợ chàng từ thuở thanh xuân,
Chính chàng là chủ nhân ông suốt đời,
Tùy chàng muốn bán cho ai,
Biếu không, hoặc giết thân tôi tớ nhà. |
Trang 460: |
Trang 461:
|
6747. Tesaṃ saṅkappamaññāya devindo
etadabravī,
sabbe jitā te paccuhā ye dibbā ye ca mānusā.
|
6747. Biết được ư định của hai người, vị
chúa của chư Thiên đă nói điều này: “Ngài đă chiến thắng tất cả
các chướng ngại thuộc cơi Trời và cơi người. |
639. Đáp lời, khi ấy Sak-ka
Thấy bao nguyện ước nàng vừa hướng tâm:
- Mọi điều chướng ngại dẹp xong
Ở trên trời lẫn ở trong nhân quần. |
6748. Ninnāditā te paṭhavī saddo te
tidivaṃ gato,
samantā vijjutā āguṃ girīnaṃva paṭissutā.
|
6748. V́ ngài trái đất đă gầm rú, v́ ngài
tiếng động đă đi đến Thiên cung. Các tia chớp đă phát ra ở khắp
nơi, tựa như các ngọn núi đă có sự đồng ư. |
640. Đất bằng đă phải chuyển rung,
Âm thanh tràn ngập mọi tầng trời cao,
Chớp loè sáng chói biết bao,
Sấm rền vang vọng đồi cao bấy giờ. |
6749. Tassa te anumodanti ubho
nāradapabbatā
indo ca brahmā ca pajāpatī ca,
somo yamo vessavaṇo ca rājā
sabbe devā anumodanti dukkaraṃ hi karoti so.
|
6749. Hai hội chúng chư Thiên Nārada và
Pabbata tùy hỷ đối với ngài đây. Thiên Chủ Inda và đấng Brahmā,
vị chúa của loài người, các vị Thiên Vương Soma, Yama, và
Vessavaṇa, tất cả chư Thiên đều tùy hỷ, bởi v́ ngài đây làm được
công việc khó làm. |
641. Na-ra-da với Pab-ba
Cả hai hiền sĩ cùng ḥa niềm vui,
Mọi Thiên thần cơi Ba mươi
Hoan nghênh thành tích tuyệt vời khó khăn. |
6750. Duddadaṃ dadamānānaṃ dukkaraṃ kamma
kubbataṃ,
asanto nānukubbanti sataṃ dhammo durannayo.
|
6750. Trong khi họ cho vật khó cho, trong
khi họ làm công việc khó làm, những kẻ xấu không làm theo được;
pháp của những người tốt là khó đạt đến. |
642. Khó làm như các thiện nhân,
Phát ban như bậc chánh chân vẫn làm.
Ác nhân khó thể theo gương
Cuộc đời mà bậc thiện lương sống hoài. |
6751. Tasmā satañca asatañca nānā hoti
itogati,
asanto nirayaṃ yanti santo saggaparāyaṇā.
|
6751. V́ thế, cảnh giới tái sanh sau kiếp
này dành cho những người tốt và những kẻ không tốt là khác nhau,
những kẻ không tốt đi địa ngục, những người tốt có sự đi đến cơi
trời. |
643. Vậy khi thiện, ác ĺa đời,
Giă từ cuộc sống ở nơi phàm trần,
Ác nhân vào ngục hạ tầng,
Thiện nhân đến cơi Thiên thần tái sinh. |
6752. Yametaṃ kumāre adadā bhariyaṃ adadā
vane vasaṃ,
brahmayānamanokkamma sagge te taṃ vipaccatu.
|
6752. Việc ngài đă bố thí hai đứa trẻ, đă
bố thí người vợ trong khi sống ở trong rừng được gọi là cỗ xe
tối thượng; sau khi không đọa vào khổ cảnh, việc ấy hăy thành
tựu kết quả cho ngài ở cơi Trời. |
644. Cỗ Xe này thật Cao minh:
Cả thê nhi được hi sinh cúng dường,
Nên không c̣n đọa bước đường,
Việc này mang phước quả trong cơi trời. |
6753. Dadāmi bhoto bhariyaṃ maddiṃ
sabbaṅgasobhanaṃ,
tvaññeva maddiyā channo maddī ca patinā saha.
|
6753. Ta ban lại cho ngài nàng Maddī,
người vợ có sự xinh đẹp toàn thân. Chính ngài là tương xứng với
nàng Maddī, và nàng Maddī là tương xứng với chồng. |
645. Nay ta trả lại cho ngài
Mad-d́ hiền phụ tuyệt vời đẹp xinh.
Xứng đôi vừa lứa duyên t́nh,
Sống đời ḥa hợp an b́nh tối cao. |
6754. Yathā payo ca saṅkho ca ubho
samānavaṇṇino,
evaṃ tuvaṃ ca maddī ca samānamanacetasā.
|
6754. Giống như sữa và vỏ ṣ, cả hai có
màu sắc giống nhau, tương tự như vậy, ngài và nàng Maddī có tâm
ư tương đồng. |
646. Như dây ràng buộc nhiệm mầu,
Như là cá nước gặp nhau lạ ǵ,
Cũng vầy ngài với Mad-d́
Đồng tâm ḥa hợp phu thê sắt cầm. |
6755. Avaruddhettha araññasmiṃ ubho
sammatha assame,
khattiyā gottasampannā sujātā mātupettito,
yathā puññāni kayirātha dadantā aparāparaṃ.
|
6755. Bị đày đọa, cả hai vị sống ở nơi
này, trong khu rừng, tại khu ẩn cư. Hai vị là Sát-đế-lỵ, được
thành tựu về ḍng họ, thuộc ḍng dơi cao sang về bên mẹ và bên
cha. Hai vị có thể làm phước thiện như thế trong khi tiếp tục bố
thí. |
647-648. Cả hai đồng đẳng giống ḍng,
Đôi bên cha mẹ cũng đồng gia môn,
Nơi đây trong chốn thảo am
Các ngài chung sống rừng hoang một ḿnh,
Để rồi tiếp tục làm lành
Ở ngay trong chốn rừng xanh là nhà. |
6756. Sakkohamasmi devindo āgatosmi
tavantike,
varaṃ varassu rājisi vare aṭṭha dadāmi te.
|
6756. Ta là Sakka, chúa tể của chư Thiên,
đă đi đến bên cạnh ngài. Thưa vị ẩn sĩ của hoàng gia, ta ban cho
ngài tám điều ước muốn.” |
649. Ta là Thiên chủ Sak-ka
Đến đây thăm viếng ngôi nhà Hiền nhân,
Chọn ngay điều ước, Minh quân,
Ta ban tám ước nguyện phần Hiền vương. |
6757. Varaṃ ce me ado sakka
sabbabhūtānamissara,
pitā maṃ anumodeyya ito pattaṃ sakaṃ gharaṃ,
āsanena nimanteyya paṭhamaṃ taṃ varaṃ vare.
|
6757. “Tâu Thiên Chủ Sakka, tâu vị chúa tể
của tất cả chúng sanh, nếu ngài đă ban cho tôi điều ước muốn,
mong rằng phụ vương có thể tùy thuận cho tôi từ nơi này trở về
lại nhà của ḿnh, và có thể trao lại vương vị; tôi chọn điều ước
muốn thứ nhất ấy. |
650-651. Sak-ka, Chúa tể Thiên nhân
Khắp trần gian đă ban phần thưởng ta,
Mong vương phụ chóng giải ḥa,
Mong ngài hăy sớm gọi ta về nhà,
Cho ta bảo tọa vương gia,
Đầu tiên nguyện ước mong ta đạt thành. |
Trang 462:
|
Trang 463:
|
6758. Purisassa vadhaṃ na roceyyaṃ api
kibbisakārikaṃ,
vajjhaṃ vadhamhā moceyyaṃ dutiyetaṃ varaṃ vare.
|
6758. Tôi không vui thích việc xử tử con
người, dầu là kẻ đă gây tội ác, tôi có thể giải thoát kẻ tử tù
khỏi cái chết; tôi chọn điều ước muốn thứ nh́ này. |
652. Ta không kết án tử h́nh,
Dù ai có phạm tội t́nh ra sao,
Mong ta cứu tử người nào
Bị tù đày, ấy nguyện cầu thứ hai. |
6759. Ye vuddhā ye ca daharā ye ca
majjhimaporisā,
mameva upajīveyyuṃ tatiyetaṃ varaṃ vare.
|
6759. Các lăo niên, các thanh niên, và các
trung niên có thể sống nương tựa vào chính tôi; tôi chọn điều
ước muốn thứ ba này. |
653. Mong toàn dân chúng mọi người
Khi cần giúp đỡ đến nơi ta liền,
Trẻ già, lớn bé, trung niên,
Và đây là chính ước nguyền thứ ba. |
6760. Paradāraṃ na gaccheyyaṃ sadārapasuto
siyaṃ,
thīnaṃ vasaṃ na gaccheyyaṃ catutthetaṃ varaṃ vare.
|
6760. Tôi không quyến rũ vợ người khác,
trung thành với vợ của ḿnh, không bị ở dưới quyền lực của nữ
nhân; tôi chọn điều ước muốn thứ tư này. |
654. Ta không t́m vợ người ta,
Chỉ vừa ḷng với vợ nhà thiết thân,
Không ch́u theo ư nữ nhân,
Thứ tư ước nguyện ta mong mỏi hoài. |
6761. Putto me sakka jāyetha so ca
dīghāyuko siyā,
dhammena jine paṭhaviṃ pañcametaṃ varaṃ vare.
|
6761. Thưa Thiên Chủ Sakka, mong rằng con
trai của tôi được sanh ra, nó được sống lâu và có thể trị v́
trái đất một cách công minh; tôi chọn điều ước muốn thứ năm này. |
655. Sak-ka, Thiên chủ, xin ngài
Ban cho quư tử sống đời dài lâu,
Chánh chân chinh phục toàn cầu,
Thứ năm nguyện ước ân sâu xin ngài. |
6762. Tato ratyā vivasane
suriyassuggamanampati,
dibbā bhakkhā pātubhaveyyuṃ chaṭṭhametaṃ varaṃ vare.
|
6762. Sau đó, vào lúc tàn đêm, cho đến lúc
mọc lên của mặt trời, các thực phẩm của cơi Trời sẽ hiện ra; tôi
chọn điều ước muốn thứ sáu này. |
656. Mỗi khi vừa hết đêm dài,
Vầng đông vừa hé, ban mai tiếp liền,
Mong sao thực phẩm thần tiên
Cũng vừa xuất hiện, ước nguyền sáu đây. |
6763. Dadato me na khīyetha datvā
nānutapeyyahaṃ,
dadaṃ cittaṃ pasādeyyaṃ sattametaṃ varaṃ vare.
|
6763. (Vật thí) không bị cạn kiệt trong
khi tôi đang bố thí, tôi không hối tiếc sau khi bố thí, tôi có
tâm tịnh tính trong khi bố thí; tôi chọn điều ước muốn thứ bảy
này. |
657. Mong sao thí vật đủ đầy
Ta luôn ban phát rộng tay không ngừng
Với ḷng sung sướng hân hoan
Đây nguyền thứ bảy ta mong ước hoài. |
6764. Ito vimuccamānāhaṃ saggagāmī
visesagu,
anibbattī tato assaṃ aṭṭhametaṃ varaṃ vare.
|
6764. Trong khi được giải thoát từ nơi
này, tôi có sự đi đến cơi Trời, là sự ra đi đặc biệt, từ nơi ấy
tôi không có sự tái sanh nữa; tôi chọn điều ước muốn thứ tám
này.” |
658. Mong ta thẳng tiến lên trời,
Tự do, giải thoát khỏi nơi nhân quần,
Không c̣n sinh cơi phàm trần,
Đây nguyền thứ tám ta mong cầu ngài. |
6765. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā devindo
etadabravi,
aciraṃ vata te tāto pitā taṃ daṭṭhumessati.
|
6765. Sau khi lắng nghe lời nói ấy của
Vessantara, vị chúa của chư Thiên đă nói điều này: “Quả thật,
không bao lâu nữa, người cha của ngài sẽ đi đến để gặp lại
ngài.” |
659. Sak-ka, Thiên chủ cơi trời,
Đă nghe ngài nói, đáp lời như sau:
- Phụ vương ngài chẳng bao lâu
Sẽ mong gặp mặt con, dâu tái hồi. |
6766. Idaṃ vatvāna maghavā devarājā
sujampati,
vessantare varaṃ datvā saggakāyaṃ apakkami.
|
6766. Sau khi nói điều này, vị Trời Đế
Thích, đấng Thiên Vương, chồng của nàng Sujā đă ban điều ước
muốn cho Vessantara rồi đă trở về lại tập thể cơi Trời. |
660. Sak-ka, Thiên chủ hùng oai,
Su-ja phu tướng, nói lời này xong,
Sau khi ban đủ đặc ân,
Trở về thẳng cơi Thiên thần trú an. |
Sakkapabbaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Đoạn Về Thiên Chủ Sakka được hoàn tất. |
6767. Kassetaṃ mukhamābhāti hemaṃ
vuttattamagginā,
nikkhaṃva jātarūpassa ukkāmukhapahaṃsitaṃ.
|
(Lời đại vương Sañjaya)
6767. “Khuôn mặt này là của ai mà chói
sáng tựa như vàng được nấu chảy bởi ngọn lửa, tựa như đồng tiền
bằng vàng rực rỡ ở miệng bễ ḷ rèn? |
661. Mặt ai đây chiếu ánh vàng
Khác nào lửa đốt khô rang nóng bừng,
Giống như mặt chiếc ṿng vàng
Nung trong ngọn đuốc héo tàn cả thôi? |
6768. Ubho sadisapaccaṅgā ubho
sadisalakkhaṇā,
jālissa sadiso eko ekā kaṇhājinā yathā.
|
6768. Cả hai có các bộ phận cơ thể tương
tự, cả hai có đặc điểm tương tự, đứa bé trai giống như Jāli, đứa
bé gái giống như Kaṇhājinā. |
662. Cả hai đều giống dáng người
Đây là đôi trẻ nhà ai thế này?
Ḱa Jà-li giống cậu trai,
Kan-hà, cô gái chẳng sai chút ǵ. |
Trang 464:
|
Trang 465:
|
6769. Sīhā bilāva nikkhantā ubho
sampatirūpakā,
jātarūpamayā yeva ime dissanti dārakā.
|
6769. Tựa như hai con sư tử đang đi ra
khỏi hang, cả hai có h́nh dáng giống nhau. Hai đứa trẻ này có vẻ
như được làm toàn bằng vàng. |
663. Giống như sư tử thiếu nhi
Mới từ hang núi bước đi xuống đường.
Giống nhau như thể đúc khuôn,
Khác nào các bức tượng vàng đứng kia. |
6770. Kuto nu tvaṃ bhāradvāja ime ānesi
dārake,
ajja raṭṭhamanuppatto kuto āgacchasi brāhmaṇa.
|
6770. Này vị Bhāradvāja, từ nơi nào mà lăo
dẫn lại hai đứa trẻ này? Hôm nay, ngài đă đến được vương quốc,
này vị Bà-la-môn, ngài từ nơi nào đi đến?” |
664. Hiền nhân Bhà-rad-và-ja,
Từ đâu đem lũ trẻ thơ đến vầy,
Hăy mau nói rơ ta hay. |
6771. Mayhante dārakā deva dinnā vittena
sañjaya,
ajja pannarasā rattī yato dinnāme dārākā.
|
(Lời Bà-la-môn Jūjaka)
6771. “Tâu bệ hạ, hai đứa trẻ ấy thuộc về
thần. Tâu đại vương Sañjaya, chúng đă được ban cho với sự hân
hoan. Kể tử khi hai đứa trẻ đă được bố thí cho thần, đến nay là
mười lăm đêm.” |
665. Muôn tâu, nửa tháng trước đây có
người
Đă đem lũ trẻ cho tôi,
Hân hoan về việc làm người ban ân. |
6772. Kena vā vācapeyyena sammāñāyena
saddahe,
ko te taṃ dānamadadā puttake dānamuttamaṃ.
|
6772. “Bằng lời nói ngon ngọt nào (mà lăo
đă đạt được hai đứa trẻ)? Lăo hăy làm cho trẫm tin bằng cách
thức đúng đắn. Ai đă bố thí cho lăo vật thí ấy – hai đứa con nhỏ
– là vật thí tối thượng?” |
666. Nhờ tài dịu ngọt nói năng,
Hay lời chân thật khiến ông được ḷng
Từ đâu có các nhi đồng,
Thí tài đệ nhất tôn ông nhận vầy? |
6773. Yo yācataṃ patiṭṭhāsi bhūtānaṃ
dharaṇīriva,
so me vessantaro rājā puttedāsi vane vasaṃ.
|
6773. “Đức vua Vessantara là nơi nương tựa
của những người cầu xin, tựa như trái đất là nơi nương tựa của
các sinh linh, vị vua ấy đă bố thí cho thần hai đứa con, trong
khi đang sống ở trong rừng. |
667. Ves-san-ta Đại vương này
Sống trong rừng thẳm lâu ngày ẩn thân,
Cho làm nô lệ, gia nhân,
Ngài như đất mẹ rộng ḷng phát ban. |
6774. Yo yācataṃ gatī āsi savantīnaṃva
sāgaro,
so me vessantaro rājā puttedāsi vane vasaṃ.
|
6774. Đức vua Vessantara là đích đến của
những người cầu xin, tựa như biển cả là đích đến của các ḍng
sông, vị vua ấy đă bố thí cho thần hai đứa con, trong khi đang
sống ở trong rừng.” |
668. Ves-san-ta, chính Đại vương
Cho tôi con ruột làm thân tôi đ̣i.
Mọi người cầu phúc đến ngài
Như muôn sông đổ biển khơi ngàn trùng. |
6775. Dukkataṃ vata bho raññā saddhena
gharamesinā,
kathaṃ nu puttake dajjā araññe avaruddhako.
|
(Lời các quan đại thần)
6775. “Quả thật vị vua có đức tin trong
lúc đang ở nhà đă làm điều sai trái. Vậy tại sao kẻ bị đày đọa ở
trong rừng vẫn có thế bố thí hai đứa con nhỏ? |
669. Khi c̣n ở tại vương cung
Làm điều sai trái minh quân chẳng hề.
Sao c̣n cho cả thiếu nhi,
Khi ngài đă bị đuổi đi vào rừng? |
6776. Imaṃ bhonto nisāmetha yāvantettha
samāgatā,
kathaṃ vessantaro rājā puttedāsi vane vasaṃ.
|
6776. Hỡi quư ông, hết thảy quư ông đă tụ
hội ở nơi này, xin quư ông hăy chú tâm lắng nghe điều này: Tại
sao đức vua Vessantara đă bố thí hai đứa con, trong khi đang
sống ở trong rừng? |
670. Hăy nghe ta, cả quần thần,
Thảy đang tề tựu ở trong cung đ́nh
Sao vua ban chính con ḿnh
Để hầu hạ một gia đ́nh khác kia? |
6777. Dāsaṃ dāsiñca so dajjā assaṃ
vāssatarīrathaṃ,
hatthiñca kuñjaraṃ dajjā kathaṃ so dajjā dārake.
|
6777. Vị ấy có thể bố thí tôi trai và tớ
gái, ngựa, hoặc con la cái và cỗ xe, voi cái và voi đực, tại sao
vị ấy lại bố thí hai đứa trẻ?” |
671. Cứ ban nô lệ, nữ tỳ,
Ngựa, la, và cả cỗ xe để ngồi,
Hoặc là cho cả bầy voi,
Nhưng sao cho chính cả hai con ngài? |
6778. Yassa natthi ghare dāso asso
vāssatarīratho,
hatthi ca kuñjaro nāgo kiṃ so dajjā pitāmaha.
|
(Lời bé trai Jāli)
6778. “Thưa ông nội, người không có tôi
trai, tớ gái, ngựa, hoặc con la cái và cỗ xe, voi cái, voi đực,
và long tượng, người ấy có thể bố thí cái ǵ?” |
672. Làm sao có thể cho ai
Khi không có chút gia tài đất đai,
Ngựa, la và cả bầy voi
Cỗ xe, tỳ nữ, tôi đ̣i cũng không? |
6779. Dānamassa pasaṃsāma na ca nindāma
puttakā,
kathannu hadayaṃ āsi tumhe datvā vaṇibbake.
|
6779. “Này hai con nhỏ, chúng ta không
khen và chúng ta không chê việc bố thí của người này, vậy trái
tim của người này đă như thế nào sau khi đă bố thí hai con cho
người nghèo khổ?” |
673. Ông khen cha cháu ban ân,
Không lời chê trách lỗi lầm ǵ đâu,
Nhưng ḷng vương phụ thế nào,
Khi cha trao các con vào tay kia? |
Trang 466:
|
Trang 467:
|
6780. Dukkhassa hadayaṃ āsi atho uṇhampi
passasi,
rohiṇīheva tambakkhī pitā assūni vattayi.
|
6780. “Trái tim của người này đă khổ sở,
và ngài cũng nh́n thấy sức nóng của nó. Với hai mắt đỏ ngầu như
ngôi sao Rohiṇī, cha đă để cho các giọt nước mắt tuôn trào. |
674. Ḷng ngài nặng trĩu sầu bi,
Ḷng nung nấu chẳng khác chi lửa nồng.
Mắt ngầu đỏ tựa cá hồng,
Tuôn rơi lệ thảm đôi ḍng xuống chân. |
6781. Yaṃ taṃ kaṇhājināvoca ayaṃ maṃ tāta
brāhmaṇo,
laṭṭhiyā patikoṭeti ghare jātaṃva dāsiyaṃ.
|
6781. Điều mà Kaṇhājinā đă nói với cha
rằng: ‘Cha ơi, lăo Bà-la-môn này đánh con bằng cây gậy như là
đánh đứa tớ gái đă được sanh ra ở trong nhà. |
675. Ông ơi, xem lăo La-môn
Cứ ưa đánh đập lưng con măi hoài
Với dây leo nọ, liễu gai,
Giống như nô lệ tôi đ̣i xuất thân. |
6782. Na cāyaṃ brāhmaṇo tāta dhammikā
honti brāhmaṇā,
yakkho brāhmaṇavaṇṇena khādituṃ tāta neti no,
nīyamāne pisācena kinnu tāta udikkhasi.
|
6782. Và cha ơi, lăo này không phải là
Bà-la-môn; các vị Bà-la-môn là có đạo lư. Cha ơi, gă Dạ-xoa với
vóc dáng Bà-la-môn dẫn chúng con đi để ăn thịt. Trong khi chúng
con bị quỷ sứ dẫn đi, tại sao cha lại dửng dưng?’” |
676-677. Lăo này không phải đạo nhân,
V́ đạo nhân phải chánh chân mới là.
Lăo này đội lốt quỷ ma
Dẫn đi ăn thịt cả nhà trẻ con.
Sao đành nh́n cháu đích tôn
Bị lôi đi thật ác ôn bạo tàn? |
6783. Rājaputtī ca vo mātā rājaputto ca vo
pitā,
pubbe me aṅkamāruyha kinnu tiṭṭhatha ārakā.
|
(Lời đại vương Sañjaya)
6783. “Mẹ của hai con là công chúa, và cha
của hai con là thái tử. Trước đây, hai con đă trèo vào ḷng của
ông, giờ hai con tại sao lại đứng ở đằng xa?” |
678. Các con: vương tử, công nương,
Mẹ cha là chính quốc vương nước này,
Xưa thường đeo sát sườn đây,
Sao bây giờ đứng như vầy xa xa? |
6784. Rājaputtī ca no mātā rājaputto ca no
pitā,
dāsā mayaṃ brāhmaṇassa tasmā tiṭṭhāma ārakā.
|
(Lời bé trai Jāli)
6784. “Mẹ của hai con là công chúa, và cha
của hai con là thái tử. Chúng con là nô lệ của lăo Bà-la-môn; v́
thế, chúng con đứng ở đằng xa.” |
679. Chúng con ḍng dơi vương gia,
Quốc vương là chính mẹ cha song toàn,
Nhưng nay nô lệ đạo nhân,
Cho nên con đứng trông chừng xa xa. |
6785. Mā sammevaṃ avacuttha dayhate
hadayaṃ mama,
citakā viya me kāyo āsane na sukhaṃ labhe.
|
6785. “Cháu yêu, chớ nói như thế. Trái tim
của nội bị đốt nóng. Thân thể nội tựa như giàn lửa thiêu, nội
không đạt được sự thoải mái ở chiếc ghế ngồi. |
680. Cháu yêu, đừng nói vậy mà,
Nóng như thiêu đốt, ḷng ta khô cằn,
Thân ta như lửa cháy bừng,
Đứng ngồi quá thật bất an bây giờ. |
6786. Mā sammevaṃ avacuttha bhiyyo sokaṃ
janetha maṃ,
nikkiṇissāmi daṇḍena na vo dāsā bhavissatha.
|
6786. Cháu yêu, chớ nói như thế. Chớ tạo
thêm nỗi sầu muộn cho nội. Nội sẽ chuộc lại với giá cao, các
cháu sẽ không c̣n là nô lệ.
|
681. Cháu yêu, đứng nói vậy mà,
Cháu làm ông thật xót xa buồn rầu,
Ông mua cháu với giá nào
Thoát thân nô lệ, hăy mau cháu à. |
6787. Kimagghiyaṃ hi vo tāta brāhmaṇassa
pitā adā,
yathābhūtaṃ me akkhātha paṭipādentu brāhmaṇaṃ.
|
6787. Này cháu, cha đă định giá hai cháu
thế nào rồi trao hai cháu cho lăo Bà-la-môn? Cháu hăy nói đúng
theo sự thật với nội. Hăy để các giá cả khiến lăo Bà-la-môn chấp
nhận. |
682. Nói cho ông rơ thật thà,
Rồi ông sẽ trả cho Bà-la-môn
Giá nào cha đă định phần,
Khi cha đem cháu ban ân cúng dường? |
6788. Sahassagghaṃ hi maṃ tāta brāhmaṇassa
pitā adā.
acchaṃ kaṇhājinaṃ kaññaṃ hatthinā ca satena ca.
|
6788. Thưa nội, bởi v́ cha đă trao con cho
lăo Bà-la-môn với giá một ngàn, c̣n Kaṇhājinā thơ ngây là con
gái với giá một trăm voi và (các thứ khác mỗi thứ một trăm).” |
683. Một ngàn đồng giá của con,
Phần em con muốn thoát thân nô tỳ,
Trăm voi và mọi thứ kia,
Một trăm mỗi thứ cha đà định luôn. |
6789. Uṭṭhehi katte taramāno brāhmaṇassa
avākara,
dāsīsataṃ dāsasataṃ gavaṃ hatthūsabhaṃ sataṃ,
jātarūpasahassañca puttānaṃ dehi nikkayaṃ.
|
6789. “Này quan thủ kho, khanh hăy đứng
dậy và cấp tốc chi trả cho vị Bà-la-môn. Khanh hăy xuất ra một
trăm tớ gái, một trăm tôi trai, gia súc, voi, ḅ mỗi thứ một
trăm, và một ngàn tiền vàng cho việc chuộc lại hai con nhỏ.”
|
684-685. Cận thần, mau trả đạo nhân
Đúng theo giá được định phần cháu ta.
Một trăm nam nữ gia nô,
Một trăm voi với đàn ḅ trăm con,
Một trăm con ngựa trong chuồng,
Một ngàn đồng chẵn tiền vàng đúng cân. |
6790. Tato kattā taramāno brāhmaṇassa
avākari,
dāsīsataṃ dāsasataṃ gavaṃ hatthūsabhaṃ sataṃ,
jātarūpasahassañca puttānaṃ dāsi nikkayaṃ.
|
6790. Sau đó, viên quan thủ kho đă cấp tốc
chi trả cho vị Bà-la-môn. Vị ấy đă xuất ra một trăm tớ gái, một
trăm tôi trai, gia súc, voi, ḅ mỗi thứ một trăm, và một ngàn
tiền vàng cho việc chuộc lại hai con nhỏ. |
686-687. Cận thần liền trả đạo nhân
Ngay khi giá được định phần rơ ra:
Một trăm nam nữ gia nô,
Một trăm voi với đàn ḅ trăm con,
Một trăm con ngựa trong chuồng,
Một ngàn đồng chẵn tiền vàng đúng cân. |
6791. Nikkiṇitvā nahāpetvā bhojayitvāna
dārake,
samalaṅkaritvā bhaṇḍena ucchaṅge upavesayuṃ.
|
6791. Sau khi đă chuộc lại, vị đại vương
đă bảo người cho hai đứa trẻ tắm rửa, ăn uống, trang điểm với
vật dụng, rồi cho đặt vào ngồi ở trong ḷng. |
|
Trang 468:
|
Trang 469:
|
6793. Sīsaṃ nahāte sucivatthe
sabbābharaṇabhūsite,
rājā aṅke karitvāna ayyako paripucchatha.
|
6793. Khi hai đứa trẻ đă được gội đầu, có
y phục sạch sẽ, đă được tô điểm với mọi thứ trang sức, đức vua,
tức ông nội, đă đặt chúng vào ḷng và hỏi han. |
688. Chuộc xong, trẻ được tắm ngay,
Uống ăn, trang điểm và thay áo quần.
Được ông bà bế vào ḷng,
Quốc vương cất tiếng hỏi han ân cần: |
6794. Kuṇḍale ghusite māle
sabbālaṅkārabhūsite,
rājā aṅke karitvāna idaṃ vacanamabravi.
|
6794. Khi hai đứa trẻ đă được chưng diện
với mọi vật trang điểm, có ṿng hoa, và bông tai kêu leng keng,
đức vua đă đặt Jāli vào ḷng và đă nói lời nói này: |
|
6795. Kacci ubho arogā te jāli mātāpitā
tava,
kacci uñchena yāpenti kacci mūlaphalā bahū.
|
6795. “Này Jāli, phải chăng cả hai người
họ, mẹ và cha của cháu, đều khỏe mạnh? Phải chăng họ nuôi sống
bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái cây? |
689.- Ta tin rằng phụ mẫu thân
Thảy đều thịnh vượng, an khương mọi bề
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ quả tràn trề thảo am. |
6796. Kacci ḍaṃsā ca makasā ca appameva
siriṃsapā,
vane vālamigākiṇṇe hiṃsā tesaṃ na vijjati.
|
6796. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và
các loài ḅ sát, và không có sự hăm hại đến với họ ở khu rừng
đông đúc các loài thú dữ?” |
690. Song thân con có phiền ḷng
V́ loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hay bầy dă thú t́m mồi,
Song thân có tránh mọi loài được chăng? |
6797. Atho ubho arogā me deva mātāpitā
mama,
atho uñchena yāpenti atho mūlaphalā bahū.
|
6797. “Tâu bệ hạ, cả hai người họ, mẹ và
cha của cháu, đều khỏe mạnh. Họ nuôi sống bằng việc thu nhặt. Rễ
củ và trái cây có nhiều. |
691. Cám ơn ông, tổ phụ vương,
Song thân thịnh vượng, an khương mọi bề,
Với bao thóc lúa thu về
Và bao củ quả tràn trề thảo am. |
6798. Atho ḍaṃsā ca makasā ca appameva
siriṃsapā,
vane vālamigākiṇṇe hiṃsā tesaṃ na vijjati.
|
6798. Có rất ít ruồi, muỗi, và các loài ḅ
sát, và không có sự hăm hại đến với họ ở khu rừng đông đúc các
loài thú dữ. |
692. Song thân không bị phiền ḷng
V́ loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hoặc bầy dă thú t́m mồi,
Song thân tránh được mọi loài, b́nh an. |
6799. Khaṇantālūkalambāni biḷāli takkalāni
ca,
kolaṃ bhallāṭakaṃ bellaṃ sā no āhacca posati.
|
6799. Trong khi đào các củ khoai mỡ, củ
cải, củ hành, và củ takkala,
mẹ đă mang về trái táo rừng, hạt dẻ, trái
bella, rồi nuôi dưỡng chúng
con. |
693. Mẹ đào củ cải, hành hoang,
Mẹ t́m cỏ thuốc, rau thơm, bạc hà,
Táo và hạt dẻ, Vil-va,
Mẹ thường hái để cả nhà ăn luôn. |
6800. Yañceva sā āharati
vanamūlaphalahārikā,
taṃ no sabbe samāgantvā rattiṃ bhuñjāma no divā.
|
6800. Mẹ là người mang về rễ và trái cây
rừng, bất cứ vật ǵ mà mẹ mang về, tất cả chúng con đă quây quần
lại và ăn vật ấy, ban đêm và ban ngày. |
694. Và khi nào mẹ cưu mang
Dù là củ quả rừng hoang loại ǵ,
Cả nhà đều đến tựu tề,
Và cùng ăn uống no nê đêm ngày. |
6801. Ammā ca no kisā paṇḍu āharantī
dumapphalaṃ,
vātātapena sukhumālī padumaṃ hatthagatāmiva.
|
6801. Và mẹ của chúng con, trong khi mang
trái cây về, đă trở nên gầy ốm, vàng vọt, mảnh mai bởi gió và
nắng, tựa như đóa sen bị bàn tay dày ṿ. |
695. Mẹ con vàng vơ, ốm gầy,
Bởi v́ vất vả suốt ngày kiếm ăn,
Dăi dầu mưa nắng gió sương
Ở trong rừng rậm thú hoang trú nhiều. |
6802. Ammāya patanū kesā vicarantyā
brahāvane,
vane vālamigākiṇṇe khaggadīpinisevite.
|
6802. Các sợi tóc của mẹ trở nên mỏng manh
trong khi mẹ đi lang thang ở khu rừng rộng lớn, ở khu rừng đông
đúc các thú dữ, được lai văng bởi loài tê giác và loài báo.
|
696. Như hoa sen thật yêu kiều
Ở trong tay nọ tiêu điều xác xơ.
Tóc bà chỉ mọc lơ thơ
V́ lang thang giữa rừng già trống trơn. |
6803. Kesesu jaṭaṃ bandhitvā kacche
jallamadhārayi,
cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.
|
6803. Mẹ đă buộc các sợi tóc thành bện và
mang đất ở nách, mặc y phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần
lửa. |
697. Dưới tay bám đất từng ḥn,
Tóc bà buộc chặt từng cḥm phía trên.
Bà chăm nom ngọn lửa thiêng,
Đắp nhiều da thú nằm trên đất dày. |
6804. Puttā piyā manussānaṃ lokasmiṃ
udapajjisuṃ,
na ha nūnamhākaṃ ayyassa putte sneho ajāyatha.
|
6804. Những đứa con trai đă được sanh ra ở
thế gian đều được mọi người yêu quư. Ông nội của chúng con chắc
chắn đă không có ḷng yêu thương con trai!” |
698. Thói thường ở thế gian này,
Mọi người yêu quí con trai trong nhà,
Nhưng trừ trường hợp này ra
H́nh như tổ phụ bỏ ra việc này. |
6805. Dukkatañca hi no putta bhūnahaccā
kataṃ mayā,
yohaṃ sivīnaṃ vacanā pabbājesiṃ adūsakaṃ.
|
6805. “Này cháu Jāli, quả thật là điều đă
làm sai trái của nội. Nội đă tạo nghiệp hủy hoại sự tiến triển.
Nội đây v́ lời nói của dân chúng xứ Sivi mà đă trục xuất người
không tồi bại. |
699. Việc này ta thật trái sai,
Hại người vô tội tàn đời rừng hoang,
Khi nghe lời của thần dân,
Ta đành đày ải con thân trong nhà. |
Trang 470:
|
Trang 471:
|
6806. Yaṃ me kiñci idha atthi dhanaṃ
dhaññañca vijjati,
etu vessantaro rājā siviraṭṭhe pasāsatu.
|
6806. Bất cứ vật ǵ của ta có ở nơi này,
tài sản và thóc lúa hiện có (nội cho tất cả đến cha cháu). Hăy
để Vessantara trở về làm vua, hăy để Vessantara lănh đạo đất
nước Sivi.” |
700. Vậy th́ tài sản của ta,
Những ǵ ta có bây giờ trong tay
Thuộc quyền sở hữu con trai,
Ves-san-ta hăy đến ngay trị v́
Trên toàn đất nước Si-vi. |
6807. Na deva mayhaṃ vacanā ehiti
sivisuttamo,
sayameva devo gantvāna siñca bhogehi atrajaṃ.
|
6807. “Tâu bệ hạ, với lời nói của cháu th́
con người vô cùng cao cả của xứ Sivi sẽ không trở về. Chính đích
thân bệ hạ hăy đi đến và ban tặng các của cải cho người con trai
ruột.” |
701. Không v́ lời của ấu nhi vừa rồi,
Mà vương phụ sẽ tái hồi,
Tâu ngài tổ phụ cao ngôi nước ḿnh,
Vậy xin ngài tự thân hành
Ban con trai đủ ân lành từ tay. |
6808. Tato senāpatiṃ rājā sañjayo
ajjhabhāsatha,
hatthī assā rathā pattī senā sannāhayantu naṃ,
negamā ca maṃ anventu brāhmaṇā ca purohitā.
|
6808. Sau đó, đại vương Sañjaya đă ra lệnh
cho vị tướng lănh quân đội rằng: “Hăy cho các đoàn quân gồm có
tượng binh, mă binh, xa binh, và bộ binh nai nịt để đón rước vị
ấy. C̣n các thị dân và các vị quan tế tự Bà-la-môn hăy đi theo
trẫm. |
702. Cỗ xe bầy ngựa đi ngay
Bầy voi và bộ binh nay sẵn sàng,
Thần dân hăy đến quanh vùng,
Tế sư tất cả đi cùng chỗ kia. |
6809. Tato saṭṭhisahassāni yudhino
cārudassanā,
khippamāyantu sannaddhā nānāvaṇṇehilaṅkatā.
|
6809. Kế đến, sáu mươi ngàn chiến sĩ có
dáng vẻ dễ mến, đă được nai nịt, đă được trang phục với nhiều
màu sắc khác nhau, hăy cấp tốc đi đến. |
703. Sáu mươi ngàn tướng lănh ta
Giáo gươm tô điểm thật là xinh sao,
Giáp bào xanh,trắng hoặc nâu,
Măo cao đỏ tựa máu đào, đến kia. |
6810. Nīlavatthadharāneke pītāneke
nivāsitā,
aññe lohitauṇhisā suddhāneke nivāsitā,
khippamāyantu sannaddhā nānāvatthehilaṅkatā.
|
6810. Nhiều vị mang y phục màu xanh, nhiều
vị mặc màu vàng, nhiều vị khác có khăn đội đầu màu đỏ, nhiều vị
mặc màu trắng, đă được nai nịt, đă được trang phục với nhiều y
phục khác nhau, hăy cấp tốc đi đến. |
6811. Himavā yathā gandhadharo pabbato
gandhamādano,
nānārukkhehi sañchanno mahābhūtagaṇālayo.
|
6811, 6812. Giống như ngọn núi tuyết
Gandhamādana – có hương thơm, được che phủ bởi nhiều loại cây
khác nhau, là nơi trú ngụ của tập thể chư Thiên, – chói sáng và
tỏa hương đi khắp các phương bởi các loại thảo dược của cơi
Trời, các vị đă được nai nịt hăy cấp tốc đi đến, hăy chói sáng
và tỏa hương đi khắp các phương. |
704. Giống như đồi lắm quỉ ma,
Nơi ngàn cây mọc chen đua thẳng hàng,
Sáng ngời, thơm ngát dịu dàng
Với cây thần, gió nhẹ nhàng tới lui. |
6812. Osadhehi ca dibbehi disā bhāti
pavāti ca,
khippamāyantu sannaddhā disā bhantu pavantu ca.
|
6813. Tato nāgasahassāni yojayantu
catuddasa,
suvaṇṇakacchā mātaṅgā hemakappanavāsasā.
|
6813, 6814. Kế đến, hăy thắng yên cương
cho mười bốn ngàn con voi, là những con khổng tượng có dây đai
bằng vàng, có trang phục là yên cương bằng vàng, được cỡi lên
bởi các viên quản tượng có cây thương móc câu ở bàn tay. Các
viên quản tượng đă được nai nịt, đă được nh́n thấy ngồi trên
ḿnh của các con voi, hăy cấp tốc đi đến. |
705. Hăy đem mười bốn ngàn voi
Trang hoàng toàn thể cân đai bằng vàng,
Bọn nài voi giáo liềm mang
Cùng nhiều bầy ngựa, ta ban lệnh này. |
6814. Ārūḷhā gāmaṇīyehi tomaraṅkusapāṇihi,
khippamāyantu sannaddhā hatthikkhandhehi dassitā.
|
6815. Tato assasahassāni yojayantu
catuddasa,
ājānīyāva jātiyā sindhavā sīghavāhanā.
|
6815, 6816. Kế đến, hăy thắng yên cương
cho mười bốn ngàn con ngựa, là những con ngựa Sindhu thuần chủng
về ḍng dơi, có sức chuyển vận mau lẹ, được cỡi lên bởi các kỵ
mă có mang gươm và cung. Các kỵ mă đă được nai nịt, đă được
trang phục, ngồi trên lưng của các con ngựa, hăy cấp tốc đi đến. |
706. Ngựa Sindh toàn thể cả bầy,
Giống ṇi cao quư vẫn hay tốc hành,
Mỗi con chở một kỵ binh
Hiên ngang cung kiếm bên ḿnh sẵn mang. |
6816. Ārūḷhā gāmaṇīyehi illiyācāpadhārihi,
khippamāyantu sannaddhā assapiṭṭhehilaṅkatā.
|
6817. Tato rathasahassāni yojayantu
catuddasa,
ayosukatanemiyo suvaṇṇacitapakkhare.
|
6817. Kế
đến, hăy thắng ngựa cho mười bốn ngàn con cỗ xe, có các vành
bánh xe được làm cẩn thận bằng sắt, có các khung xe được khảm
bằng vàng. |
707. Cỗ xe một vạn bốn ngàn
Điểm tô thật đẹp yên cương đủ đầy,
Bánh làm sắt rất khéo thay,
Dát vàng toàn thể thắng ngay cả đoàn. |
Trang 472:
|
Trang 473:
|
6818. Āropentu dhaje tattha cammāni
kavacāni ca,
vipphālentu ca cāpāni daḷhadhammā pahārino,
khippamāyantu sannaddhā rathesu rathajīvino.
|
6818. Ở trên xe, hăy treo lên các cờ hiệu
và các mộc che bằng da thú, và hăy cho các cung thủ có tài nghệ
vững chắc giương các cây cung. Các xa phu ở trên các cỗ xe, đă
được nai nịt, hăy cấp tốc đi đến. |
708. Phướng, cờ chuẩn bị sẵn sàng,
Giáp bào, khiên mộc vai mang xuất hành,
Cung tên đầy đủ bên ḿnh
Những người chiến sĩ giao tranh không sờn. |
6819. Lājā olopiyā pupphā
mālāgandhavilepanā,
agghiyāni ca tiṭṭhantu yena maggena ehiti.
|
6819. Hăy để sẵn các cánh hoa để tung lên,
các bông hoa, các tràng hoa, nước thơm, dầu thơm, và các vật có
giá trị dọc theo lộ tŕnh vị ấy sẽ đi đến. |
709. Hoa là-ja trải khắp đường
Những tràng hoa đẹp ngát hương dăng màn,
Hăy đem lễ vật cúng dường
Đặt ngay trên lối quân vương du hành. |
6820. Gāme gāme sataṃ kumbhā merayassa
surāya ca,
maggamhi patitiṭṭhantu yena maggena ehiti.
|
6820. Hăy bày ra ở mỗi ngôi làng một trăm
chum rượu ủ men và rượu nấu, ở đường đi dọc theo lộ tŕnh vị ấy
sẽ đi đến. |
710. Hăy đem ra rượu trăm b́nh,
Mỗi thôn mời mọi dân lành muốn say.
Trăm b́nh rượu ấy đặt ngay
Bên đường vương tử mai này hồi loan. |
6821. Maṃsā pūvā saṅkuliyo kummāsā
macchasaṃyutā,
maggamhi patitiṭṭhantu yena maggena ehiti.
|
6821. Hăy bày ra các món thịt, các loại
bánh ngọt, bánh saṅkulī, bánh
kem, được kết hợp với các món cá, ở đường đi dọc theo lộ tŕnh
vị ấy sẽ đi đến. |
711. Hăy đem bánh thịt sẵn sàng,
Món canh phải khéo trang hoàng cá ngon,
Đem ra đặt ở vệ đường,
Ở ngay trên lối quân vương đi về. |
6822. Sappi telaṃ dadhiṃ khīraṃ kaṅgu vīhi
bahū surā,
maggamhi patitiṭṭhantu yena maggena ehiti.
|
6822. Hăy bày ra bơ lỏng, dầu ăn, sữa
đông, sữa tươi, và nhiều rượu làm từ hạt kê, làm từ hạt lúa, ở
đường đi dọc theo lộ tŕnh vị ấy sẽ đi đến. |
712. Rượu, dầu, bơ, sữa, hạt kê,
Sữa chua, cơm chín ê hề thức ăn
Đem ra đặt chúng bên đường
Ở ngay trên lối quân vương đi về. |
6823. Āḷārikā ca sūdā ca
naṭanaṭṭakagāyakā,
pāṇissarā kumbhathūniyo maṇḍakā sokajhāyikā.
|
6823. (Hăy tập hợp) các thợ nướng bánh,
các đầu bếp, các vũ công, các kịch sĩ, các ca sĩ, các nghệ sĩ
hát theo nhịp vỗ tay, các nghệ nhân biểu diễn chum và trống, các
nữ ca sĩ giọng trầm, các nghệ sĩ giải khuây. |
713. Hỏa đầu quân hăy tựu tề,
Người làm bánh mứt, làm hề, hát rong,
Người nhào lộn, các vũ công.
Những người đánh trống, đóng tuống giải khuây. |
6824. Āhaññantu sabbavīṇā bheriyo
deṇḍimāni ca,
kharamukhāni dhammantu vadantu ekapokkharā.
|
6824. Hăy cho tấu lên tất cả các cây đàn
vīṇā, các trống lớn, và các
trống con, hăy cho thổi lên các tù và vỏ ốc miệng lớn, và hăy
làm vang lên các chiếc trống một mặt. |
714. Đàn tỳ trổi giọng lên ngay,
Tù và inh ỏi, đủ đầy thần dân,
Trống con, trống lớn khua rần
Khắp nơi đủ loại thùng thùng dậy vang. |
6825. Mutiṅgā paṇavā saṅkhā godhā
parivadentikā,
dindimāni ca haññantu kuṭumbadindimāni ca.
|
6825. Hăy cho vỗ lên các trống nhỏ, các
chập chơa, các tù và vỏ ốc, các nhạc cụ
godha, các đàn dây, các trống
con, và các chiếc trống kuṭumba.” |
6826. Sā senā mahatī āsi uyyuttā
sivivāhinī,
jālinā magganāyena vaṅkaṃ pāyāsi pabbataṃ.
|
6826. Đạo quân vĩ đại ấy, binh đội của xứ
Sivi đă xuất phát, đă khởi hành đi đến ngọn núi Vaṅka theo sự
hướng dẫn đường đi của bé trai Jāli. |
715. Đạo quân hùng hậu lên đường,
Đạo quân của cả nước non quê nhà,
Đi về phía núi Vam-ka,
Jà-li hướng dẫn đoàn ra trước liền. |
6827. Kuñcaṃ nadati mātaṅgo kuñjaro
saṭṭhihāyano,
kacchāya baddhamānāya kuñcaṃ nadati vāraṇo.
|
6827. Con khổng tượng, con voi sáu mươi
năm tuổi, rống lên tiếng kêu của loài voi. Con voi rống lên
tiếng kêu của loài voi trong khi yên cương đang được buộc vào. |
716. Voi già đă sáu mươi niên
Rống lên một tiếng như kèn dậy vang,
Thú rừng gầm thét rộn ràng
Những khi chúng buộc dây cương chặt vào. |
6828. Ājānīyā hasissiṃsu nemighoso
ajāyatha,
abbhaṃ rajo acchādesi uyyuttā sivivāhinī.
|
6828. Các con ngựa thuần chủng đă hí vang,
tiếng động của bánh xe đă nổi lên, bụi mù đă che phủ bầu trời,
binh đội của xứ Sivi đă xuất phát. |
717. Bánh xe dồn dập xôn xao,
Rồi bầy ngựa hí giọng cao vang lừng,
Đại quân thẳng tiến lên đường,
Mịt mù tung đám bụi hồng như mây. |
Trang 474:
|
Trang 475:
|
6829. Sā senā mahatī āsi uyyuttā
hārahāriṇī,
jālinā magganāyena vaṅkaṃ pāyāsi pabbataṃ.
|
6829. Đạo quân vĩ đại ấy, mang theo vật
cần thiết, đă xuất phát, đă khởi hành đi đến ngọn núi Vaṅka theo
sự hướng dẫn đường đi của bé trai Jāli. |
718. Nhu cầu cung cấp đủ đầy,
Đạo quân quyết chí đi ngay sẵn sàng.
Jà-li hướng dẫn cả đoàn
Tiến về đồi núi bạt ngàn Vam-ka. |
6830. Te pāviṃsu brahāraññaṃ bahusākhaṃ
bahūdakaṃ,
puppharukkhehi sañchannaṃ phaḷarukkhehi cūbhayaṃ.
|
6830. Họ đă đi vào khu rừng rộng lớn, có
nhiều cành cây, có nhiều đầm nước, được che phủ bởi cả hai loại:
các cây cho hoa và các cây ăn quả. |
719. Đi vào rừng rậm bao la
Tưng bừng chim chóc, cỏ hoa muôn loài,
Với bao hoa nở nụ cười,
Với bao trái chín làm người mừng vui. |
6831. Tattha bindussarā vaggu nānāvaṇṇā
bahū dijā,
kūjantamupakūjanti utusampupphite dume.
|
6831. Tại nơi ấy, ở thân cây đă được nở rộ
hoa lúc vào mùa, nhiều con chim có màu sắc khác nhau có giọng
hót tṛn trịa, có âm thanh ngọt ngào, cất tiếng hót ḥa theo con
chim đang hót. |
720. Khi rừng đang độ hoa tươi,
Chim ca rào rạt như trời đổ mưa,
Véo von ríu rít gần xa
Với bao đôi cánh sáng ḷa bay ngang. |
6832. Te gantvā dīghamaddhānaṃ
ahorattānamaccaye,
padesaṃ taṃ upāgañchuṃ yattha vessantaro ahu.
|
6832. Họ đă đi đoạn đường dài (sáu mươi
do-tuần). Khi đă trải qua nhiều ngày đêm, họ đă đi đến gần khu
vực ấy, nơi vị Vessantara cư ngụ. |
721. Ngày đêm thẳng tiến lên đường,
Cuối cùng chấm dứt đường trường nơi đây,
Tiến vào trong xóm thôn này
Ves-san-ta Chúa lâu rày ẩn thân. |
Mahārājapabbaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Đoạn Về Vị Đại Vương được hoàn tất. |
6833. Tesaṃ sutvāna nigghosaṃ bhīto
vessantaro ahu,
pabbataṃ abhirūhitvā bhīto senaṃ udikkhati. |
6833. Sau khi nghe được tiếng động của
những người ấy, Vessantara đă trở nên hoảng sợ. Vị ấy đă leo lên
ngọn núi, và hoảng sợ quan sát đạo quân. |
722. Đoàn quân rầm rộ đến gần,
Ves-san-ta lắng nghe ầm ầm vang,
Ngài trèo lên ngọn đồi hoang
Nh́n đoàn quân ấy, kinh hoàng lắm thay. |
6834. Iṅgha maddi nisāmehi nigghoso yādiso
vane,
ājānīyā hasissanti dhajaggāni ca dissare.
|
6834. “Này Maddī, nàng hăy lắng tai nghe.
Có tiếng động như thế này ở khu rừng: các con ngựa thuần chủng
hí vang và các cờ hiệu được nh́n thấy. |
723. - Mad-d́, hăy lắng nghe này,
Âm thanh gầm thét tràn đầy rừng hoang,
Tiếng bầy ngựa hí nghe vang,
Nh́n cờ phấp phới bay ngang ngọn đồi. |
6835. Ime nūna araññasmiṃ migasaṅghāni
luddakā,
vāgurāhi parikkhippa sobbhaṃ pātetva tāvade,
vikkosamānā tippāhi hanti nesaṃ varaṃ varaṃ.
|
6835. Phải chăng những gă thợ săn này đă
dùng các tấm lưới rào quanh, rồi lùa các bầy thú ở khu rừng rơi
xuống hố liền khi ấy, và trong lúc la hét, chúng giết chết những
con thú ngon nhất trong số đó bằng những lao nhọn? |
724. Phải chăng, bọn thợ săn mồi
Với dao, lưới bẫy ở nơi hố hầm,
Đi t́m dă thú trong rừng,
Đang gào thét để truy lùng chúng đây? |
6836. Yathā mayaṃ adūsakā araññe
avaruddhakā,
amittahatthatthagatā passa dubbalaghātakaṃ.
|
6836. Giống như chúng ta là những người
không tồi bại, những kẻ bị đày đọa ở trong rừng đă bị rơi vào
bàn tay của kẻ thù. Nàng hăy nh́n xem kẻ sát hại những người yếu
đuối.” |
725. Chúng ta, những kẻ lưu đày,
Mặc dù vô tội, ở ngay trong rừng,
Đang chờ cái chết bạo hung,
Rơi vào tay của cừu nhân bây giờ! |
6837. Amittā nappasaheyyuṃ aggīva
udakaṇṇave,
tadeva tvaṃ vicintehi api sotthi ito siyā.
|
6837. “Các kẻ thù không có thể áp bức được
chàng, tựa như ngọn lửa ở trong biển nước. Chàng hăy suy xét đến
chính điều ấy,
cũng có thể có sự b́nh yên từ việc này.
|
726. Thảy đều tốt đẹp với ta,
Quân thù không hại vương gia đâu nào,
Không hề có ngọn lửa cao
Đủ năng lực để tràn vào đại vương. |
6838. Tato vessantaro rājā orohitvāna
pabbatā,
nisīdi paṇṇasālāyaṃ daḷhaṃ katvāna mānasaṃ.
|
6838. Sau đó, đức vua Vessantara đă leo
xuống núi, rồi đă ngồi xuống ở gian nhà lá, sau khi đă củng cố
lại tâm ư. |
727. Ves-san-ta, bậc Đại vương,
Nghe vầy, bước xuống từ vườn đồi hoang,
Và ngồi ngay trước thảo am,
Nhưng ḷng vẫn thấy bàng hoàng bất an. |
6839. Nivattayitvāna rathaṃ votthāpetvāna
seniyo,
ekaṃ araññe viharantaṃ pitā puttaṃ upāgami.
|
6839. Sau khi đă bảo cỗ xe quay lại và sau
khi đă cho bố trí quân lính bảo vệ, người cha (đại vương
Sañjaya) đă đi đến gặp người con (đức vua Vessantara) đang sống
một ḿnh ở trong khu rừng. |
728. Điều hành quân đội sẵn sàng,
Vương xa hướng đến con đường vừa qua,
Và đi t́m chốn rừng già,
Nơi kia vương tử làm nhà độc cư. |
Trang 476:
|
Trang 477:
|
6840. Hatthikkhandhato oruyha ekaṃso
pañjalīkato,
parikkhitto amaccehi puttaṃ siñcitumāgami.
|
6840. Sau khi leo xuống từ ḿnh voi, vị
đại vương đă khoác hoàng bào một bên vai trái, chắp tay lại.
Được tùy tùng bởi các quan đại thần, ngài đă đi đến để phục hồi
vương vị cho người con trai. |
729. Trên ḿnh voi báu, vua cha,
Hoàng y ngài đă khoác hờ trên vai,
Giơ cao, nắm chặt đôi tay,
Ngài đi trao lại chiếc ngai con ḿnh. |
6841. Tatthaddasa kurāraṃ so rammarūpaṃ
samāhitaṃ,
nisinnaṃ paṇṇasālāyaṃ jhāyantaṃ akutobhayaṃ.
|
6841. Tại nơi ấy, ngài đă nh́n thấy vị
vương tử có dáng vẻ đáng yêu, b́nh tĩnh, ngồi ở gian nhà lá,
đang trầm tư, không có sự sợ hăi từ bất cứ đâu. |
730. Ngài nh́n vương tử đẹp xinh,
Dáng không sợ hăi, an b́nh trong tâm.
Ngồi ngay ở trước thảo am
Và đang tĩnh lặng thâm trầm tư duy. |
6842. Tañca disvāna āyantaṃ pitaraṃ
puttagiddhinaṃ,
vessantaro ca maddī ca paccuggantvā avandisuṃ.
|
6842. Và sau khi nh́n thấy người cha ấy
đang đi đến với sự mong ngóng con trai, Vessantara và Maddī đă
đi ra đón tiếp và thi lễ. |
731. Ves-san-ta với Mad-d́
Thấy vua cha, phải vội đi đón mừng,
Vừa khi vương phụ đến gần
Trong ḷng mong mỏi viếng thăm con ngài. |
6843. Maddī ca sirasā pāde
sasurassābhivādayi,
maddī ahaṃ hi te deva pāde vandāmi te husā,
tesu tattha palissajja pāṇinā parimajjatha.
|
6843. Nàng Maddī đă đê đầu đảnh lễ hai bàn
chân của cha chồng (nói rằng): “Tâu bệ hạ, thần thiếp chính là
Maddī, con dâu của bệ hạ, xin đảnh lễ hai bàn chân của ngài.”
Tại nơi ấy, vua cha đă ôm chầm lấy hai người và vuốt ve bằng bàn
tay. |
732. Mad-d́ đảnh lễ tức thời
Đặt đầu nàng trước chân ngài, phụ vương,
Ngài ôm chặt cả hai con,
Đôi tay ve vuốt đem nguồn hân hoan. |
6844. Kacci vo kusalaṃ putta kacci putta
anāmayaṃ,
kacci uñchena yāpetha kacci mūlaphalā bahū.
|
(Lời trao đổi giữa hai cha con, đại vương
Sañjaya và đức vua Vessantara)
6844. “Này con trai, phải chăng con được
an khang? Này con trai, phải chăng con được vô sự? Phải chăng
các con nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ
và trái cây? |
733. Ta tin rằng, hỡi con thương,
Con thường thịnh vượng, an khương mọi bề
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ, quả tràn trề ẩn am. |
6845. Kacci ḍaṃsā ca makasā ca appameva
siriṃsapā,
vane vālamigākiṇṇe kacci hiṃsā na vijjati.
|
6845. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và
các loài ḅ sát? Phải chăng không có sự hăm hại ở khu rừng đông
đúc các loài thú dữ?” |
734. Con nay có bị phiền ḷng
V́ loài rắn rít, bọ ong quấy hoài?
Hoặc bầy dă thú t́m mồi,
Chẳng hay con tránh mọi loài được chăng? |
6846. Atthi no jīvikā deva yā ca yādisi
kīdisā,
kasirā hi jīvikā homa uñchācariyāya jīvikaṃ.
|
6846. “Tâu bệ hạ, chúng con có cách kiếm
sống, và cách ấy là thấp kém. Sinh kế quả thật khó khăn, chúng
con nuôi mạng bằng việc thu nhặt củ quả. |
735. Chúng con sống, tấu phụ thân,
Cuộc đời cực khổ khốn cùng vừa qua,
Chúng con nỗ lực tối đa
Để ăn những thứ t́m ra quanh đồi. |
6847. Aniddhinaṃ mahārāja dametassaṃva
sārathi,
tyamhā aniddhikā dantā asamiddhi dameti no.
|
6847. Tâu đại vương, tựa như người đánh xe
rèn luyện con ngựa chưa được thuần phục, chúng con đây chưa được
thành tựu, nhưng đă được rèn luyện; sự bất hạnh rèn luyện chúng
con. |
736. Nghịch duyên rèn luyện con người
Như người giữ ngựa luyện loài ngựa hoang.
Nghịch duyên này, tấu phụ vương,
Đă làm thuần thục chúng con nơi này. |
6848. Api no kisāni maṃsāni pitu mātu
adassanā,
avaruddhānaṃ mahārāja araññe jīvasokinaṃ.
|
6848. Tuy nhiên, là những người bị đày đọa
ở trong rừng, có cuộc sống sầu muộn, tâu đại vương, chúng con có
thân thể bị ốm o, do việc không nh́n thấy cha và mẹ. |
737. Nhưng v́ xa vắng lâu ngày
Song thân khiến chúng con gầy tấm thân,
Bị lưu đày, tấu Đại quân,
Và đi vào sống trong rừng hoang sơ. |
6849. Ye pi te siviseṭṭhassa
dāyādappattamānasā,
jālī kaṇhājinā cubho brāhmaṇassa vasānugā,
accāyikassa luddassa yo ne gāvova sumbhati.
|
6849. Thậm chí, cả hai Jāli và Kaṇhājinā –
những người thừa kế c̣n chưa được thành tựu của cha là vị đứng
đầu xứ Sivi – th́ đă ở dưới quyền lực của lăo Bà-la-môn vô cùng
hung ác; gă đánh đập hai trẻ như là đánh đập trâu ḅ. |
738. Nhưng Jà-li, với Kan-hà,
Vương tôn bất hạnh của cha nối ḍng,
Bà-la-môn nọ bạo tàn
Đă xua đuổi chúng như đàn ḅ non. |
6850. Te rājaputtiyā putte yadi jānātha
saṃsatha,
pariyāpuṇātha no khippaṃ sappadaṭṭhaṃva māṇavaṃ.
|
6850. Nếu cha biết về hai đứa con ấy của
công chúa Maddī, xin cha hăy thông báo. Xin cha hăy mau chóng
làm chủ cho chúng con, tựa như cứu chữa người thanh niên bị rắn
cắn.” |
739. Nếu cha biết chút ǵ chăng
Về đôi trẻ nhỏ nối ḍng, nói ngay,
Như y sư chữa khéo thay
Một người bị rắn cắn ngay tức th́. |
6851. Ubho kumārā nikkītā jālī kaṇhājinā
cubho,
brāhmaṇassa dhanaṃ datvā putta mā bhāyi assasa.
|
6851. “Cả hai đứa trẻ đă được chuộc lại,
cả hai Jāli và Kaṇhājinā, sau khi cha đă ban bố tài sản cho lăo
Bà-la-môn. Này con trai, chớ sợ hăi, hăy b́nh tĩnh.” |
740. Cả Kan-hà với Jà-li
Giờ đây đă được chuộc về hoàng cung.
Ta đem tiền trả đạo nhân,
Vậy đừng sợ, hăy yên ḷng, con thương! |
Trang 478:
|
Trang 479:
|
6852. Kaccinnu tāta kusalaṃ kacci tāta
anāmayaṃ,
kaccinnu tāta me mātu cakkhuṃ na parihāyati.
|
6852. “Thưa cha, phải chăng cha được an
khang? Thưa cha, phải chăng cha được vô sự? Thưa cha, phải chăng
mắt của mẹ con không bị hư hoại?” |
741. - Con mong cha được an khương,
Và không c̣n chuyện lo buồn xảy ra,
Mẹ con không phải lệ sa
Đến khi đôi mắt xót xa đỏ bừng. |
6853. Kusalaṃ ceva me putta atho putta
anāmayaṃ,
athopi putta te mātu cakkhuṃ na parihāyati.
|
6853. “Này con trai, cha được an khang. Và
này con trai, cha được vô sự. Này con trai, c̣n mắt của mẹ con
không bị hư hoại.” |
742. - Cám ơn, cha được an khương,
Và không c̣n chuyện đau buồn xảy ra,
Mẹ con không phải lệ sa
Đến khi đôi mắt xót xa đỏ bừng. |
6854. Kacci arogaṃ yoggaṃ te kacci vahati
vāhanaṃ,
kacci phītā janapadā kacci vuṭṭhi na chijjati.
|
6854. “Phải chăng bầy thú kéo xe của cha
không có bệnh? Và phải chăng cỗ xe hoạt động tốt?Phải chăng các
xứ sở được thịnh vượng? Phải chăng mưa không bị gián đoạn?” |
743. - Con mong vương quốc thịnh hưng
Và toàn đất nước giang sơn an toàn,
Đàn gia súc thật hùng cường,
Và mây mưa vẫn tuôn tràn chẳng ngưng. |
6855. Atho arogaṃ yoggaṃ me atho vahati
vāhanaṃ,
atho phītā janapadā atho vuṭṭhi na chijjati.
|
6855. “Bầy thú kéo xe của cha không có
bệnh, và cỗ xe hoạt động tốt. C̣n các xứ sở được thịnh vượng, và
mưa không bị gián đoạn.” |
744. - Ồ, vương quốc vẫn thịnh hưng,
Và toàn đất nước giang sơn an toàn,
Đàn gia súc thật hùng cường,
Và mây mưa vẫn tuôn tràn chẳng ngưng. |
6856. Iccevaṃ mantayantānaṃ mātā nesaṃ
adissatha,
rājaputtī giridvāre pattikā anupāhanā.
|
6856. Trong khi hai người đang trao đổi
như vậy, mẫu hậu – cũng là một công chúa, đi bộ, không giày dép
– đă được nh́n thấy trong số mọi người, ở lối đi vào ngọn núi.
|
745. Trong khi hai vị luận bàn,
Bấy giờ lại thấy mẫu thân đến gần,
Bước vào cửa lớn thảo am,
Dù là hoàng hậu, chân trần sá chi. |
6857. Tañca disvāna āyantiṃ mātaraṃ
puttagiddhiniṃ,
vessantaro ca maddī ca paccuggantvā avandisuṃ.
|
6857. Và sau khi nh́n thấy người mẹ ấy
đang đi đến với sự mong ngóng con trai, Vessantara và Maddī đă
đi ra đón tiếp và thi lễ. |
746. Ves-san-ta với Mad-d́
Thấy thân mẫu, vội ra đi đón mừng, |
6858. Maddī ca sirasā pāde sassuyā
abhivādayi,
maddī ahamhi te ayye pāde vandāmi te husā.
|
6858. Nàng Maddī đă đê đầu đảnh lễ hai bàn
chân của mẹ chồng (nói rằng): “Thưa mẫu hậu, thần thiếp chính là
Maddī, con dâu của mẫu hậu, xin đảnh lễ hai bàn chân của mẫu
hậu.” |
Mad-d́ liền chạy lại gần,
Đặt đầu nàng xuống trước chân mẹ hiền. |
6859. Maddiñca puttakā disvā dūrato
sotthimāgatā,
kandantā abhidhāviṃsu vacchā bālāva mātaraṃ.
|
6859. Và hai đứa con nhỏ, đă đi đến b́nh
yên, sau khi nh́n thấy nàng Maddī từ đằng xa, đă khóc lóc chạy
đến mẹ, tựa như hai con bê thơ dại chạy đến ḅ mẹ. |
747. Mad-d́ bất chợt nh́n lên,
Thấy hai con trẻ b́nh yên sờ sờ,
Như bê con thấy mẹ ḅ,
Chúng liền la hét thật to chào mừng. |
6860. Maddī ca puttake disvā dūrato
sotthimāgate,
vāruṇī va pavedhentī thanadhārābhisiñcatha.
|
6860. Và nàng Maddī, sau khi nh́n thấy từ
đằng xa hai đứa con nhỏ đă đi đến b́nh yên, trong lúc đang run
rẩy tựa như người bị phi nhân nhập, đă tiết ra hai ḍng sữa từ
hai bầu vú. |
748. Mad-d́ thấy chúng b́nh an,
Như người quỷ ám, vội vàng phi thân,
Run run, bầu sữa phồng căng
Vú nàng cho các con ăn thỏa ḷng. |
6861. Samāgatānaṃ ñātīnaṃ mahāghoso
ajāyatha,
pabbatā samanādiṃsu mahī pakampitā ahu.
|
6861. Vào lúc các thân quyến đă gặp lại
nhau, có tiếng động lớn đă sanh lên, các ngọn núi đă cùng nhau
gào thét, trái đất đă bị rúng động. |
749. Ngay khi thân tộc tương phùng,
Âm thanh vĩ đại liền bùng nổ ra,
Các đồi núi vọng vang xa,
Đất bằng rung chuyển thật là mạnh thay. |
6862. Vuṭṭhidhāraṃ pavecchanto devo
pāvassi tāvade,
atha vessantaro rājā ñātīhi samagacchatha.
|
6862. Trong khi ban cho đám mây mưa, trời
đă đổ mưa ngay lập tức. Khi ấy, đức vua Vessantara đă gặp gỡ với
các thân quyến. |
750. Trời liền đem một vầng mây
Từ trên giáng xuống mưa đầy tuôn ra,
Khi quân vương Ves-san-ta
Vừa cùng tái ngộ hoàng gia của ngài. |
6863. Nattāro suṇisā putto rājā devī ca
ekato,
yadā samāgatā āsuṃ tadāsi lomahaṃsanaṃ.
|
6863. Hai cháu nội, con dâu, con trai, vị
đại vương, và hoàng hậu đă ở chung một nơi. Vào lúc họ gặp gỡ
nhau, khi ấy, đă có sự dựng đứng lông. |
751-752. Phụ vương, mẫu hậu, con trai,
Con dâu, các cháu đồng thời nơi kia.
Khi vừa sum họp một nhà,
Tóc lông dựng đứng, thịt da rợn người, |
6864. Pañjalikā tassa yācanti rodantā
bherave vane,
vessantarañca maddiñca sabbe raṭṭhā samāgatā,
tvaṃ nosi issaro rājā rajjaṃ kāretha no ubho.
|
6864. Tất cả dân chúng đă tụ tập lại ở khu
rừng khiếp đảm, chắp tay lên hướng về vị ấy, khóc lóc, thỉnh cầu
Vessantara và Maddī rằng: “Ngài là chúa tể, là đức vua của chúng
tôi. Xin cả hai vị hăy trị v́ xứ sở của chúng tôi.” |
Thần dân đồng vỗ tay hoài
Nêu cao nguyện ước một lời với vua.
753. Dân yêu cầu Ves-san-ta
Và Mad-d́, thảy cùng la vang lừng:
- Hăy làm chúa tể chúng thần,
Quốc vương, hoàng hậu, nghe dân gọi vầy! |
Chakkhattiyapabbaṃ.
|
Đoạn Về Sáu Vị Sát-đế-lỵ. |
Trang 480:
|
Trang 481:
|
6865. Dhammena rajjaṃ kārentaṃ raṭṭhā
pabbājayittha maṃ,
tvañca jānapadā ceva negamā ca samāgatā.
|
(Lời đức Bồ-tát Vessantara)
6865. “Trong khi con đang trị v́ xứ sở một
cách công minh, cha và luôn cả dân chúng nữa, cùng các thị dân
đă tụ họp lại, các người đă trục xuất con ra khỏi đất nước.”
|
754 . Phụ vương, quần chúng lâu nay
Dân quê, thành thị lưu đày thần nhi,
Khi con đang ngự ngai kia,
Và đang theo cách trị v́ chánh chân. |
6866. Dukkatañca hi no putta bhūnahaccaṃ
kataṃ mayā,
yohaṃ sivīnaṃ vacanā pabbājesiṃ adūsakaṃ.
|
6866. “Này con trai, quả thật là điều đă
làm sai trái của cha. Cha đă tạo nghiệp hủy hoại sự tiến triển.
Cha đây v́ lời nói của dân chúng xứ Sivi mà đă trục xuất người
không tồi bại. |
755. Thật là ta đă sai lầm
Khi ta làm hại con không tội này,
V́ nghe lời của dân vầy
Ta đưa đến chốn lưu đày con ta. |
6867. Yena kenaci vaṇṇena pitu dukkhaṃ
udabbahe,
mātu bhaginiyā cāpi api pāṇehi attano.
|
6867. Bằng bất cứ cách thức nào đó, thậm
chí là bằng sinh mạng của ḿnh, con nên nhấc lên nỗi khổ đau cho
cha, cho mẹ, và cho cả em gái nữa.” |
756. Nỗi sầu của mẹ cùng cha,
Hoặc là em gái, muốn xoa dịu dần,
Nam nhi không chút ngập ngừng
Cho dù ta phải hiến dâng cuộc đời. |
6868. Tato vessantaro rājā rajojallaṃ
pavāhayi,
rajojallaṃ pavāhetvā saccavaṇṇaṃ adhārayi.
|
6868. Sau đó, đức vua Vessantara đă cho
gột rửa bụi bặm và cáu ghét. Sau khi đă cho gột rửa bụi bặm và
cáu ghét, vị ấy đă trở lại vóc dáng thật sự. |
757. Đại vương, tắm rửa đến thời,
Tẩy cho sạch hết trần ai bấy giờ!
Thế rồi vua Ves-san-ta
Tẩy cho thật sạch đất dơ, bụi trần. |
6869. Sīsaṃ nahāto sucivattho
sabbābharaṇabhūsito,
paccayaṃ nāgamāruyha khaggaṃ bandhi parantapaṃ.
|
6869. Vị ấy đă được gội đầu, có y phục
sạch sẽ, đă được tô điểm với mọi thứ trang sức, sau đó đă cỡi
lên con voi Paccaya và đă buộc chặt thanh gươm là vật làm cho kẻ
thù phải bực bội. |
758. Đầu vừa được gội sạch xong,
Xiêm y lộng lẫy, trang hoàng oai phong,
Đeo vào thanh kiếm vô song,
Ngự lên bảo tượng, bạn đồng hành xưa. |
6870. Tato saṭṭhisahassāni yudhino
cārudassanā,
sahajātā parikariṃsu nandayantā rathesabhaṃ.
|
6870. Kế đến, sáu mươi ngàn chiến sĩ có
dáng vẻ dễ mến, được sanh ra cùng ngày, đă vây quanh, tạo niềm
vui cho đấng thủ lănh xa binh. |
759. Sáu mươi ngàn bạn ấu thơ
Ngắm xem thật đẹp, bước ra quây quần,
Nay là sáu vạn quần thần,
Thảy đều kính lễ chúa công tức th́. |
6871. Tato maddimpi nāhāpesuṃ sivikaññā
samāgatā,
vessantaro taṃ pāletu jālīkaṇhājinā cubho,
athopi taṃ mahārājā sañjayo abhirakkhatu.
|
6871. Sau đó, các nàng hầu của đức vua
Sivi đă tụ tập lại và cũng đă tắm gội cho nàng Maddī (và chúc
tụng rằng): “Mong rằng Vessantara cùng với hai con Jāli và
Kaṇhājinā hăy bảo vệ cho nàng. Rồi đại vương Sañjaya cũng hăy hộ
tŕ cho nàng.” |
760. Cung nga tắm gội Mad-d́,
Và đồng cầu chúc vương phi vang lừng:
- Ves-san-ta bậc Đại vương
Sañ-ja Thái thượng bảo toàn nương nương! |
6872. Idañca paccayaṃ laddhā pubbe
kilesamattano,
ānandiyaṃ ācariṃsu ramaṇīye giribbaje.
|
6872. Sau khi đạt được duyên sự này và nhớ
lại nỗi khó nhọc của bản thân trong quá khứ, họ đă tổ chức lễ
hội ăn mừng ở trong ḷng ngọn núi Vaṅka đáng yêu. |
761. Thế là mọi sự phục hoàn,
Và hồi tưởng nỗi đau buồn đă qua,
Trên miền đất của nhà vua,
Nhân dân mở hội, hát ca vui mừng. |
6873. Idañca paccayaṃ laddhā pubbe
kilesamattano,
ānandi vittā sumanā putte saṅgamma lakkhaṇā.
|
6873. Sau khi đạt được duyên sự này và nhớ
lại nỗi khó nhọc của bản thân trong quá khứ, sau khi gặp lại các
con, nàng Maddī đă vui mừng, hân hoan, hài ḷng, có được khí
sắc. |
|
6874. Idañca paccayaṃ laddhā pubbe
kilesamattano,
ānandi vittā patītā saha puttehi lakkhaṇā.
|
6874. Sau khi đạt được duyên sự này và nhớ
lại nỗi khó nhọc của bản thân trong quá khứ, cùng với hai con,
nàng Maddī đă vui mừng, hân hoan, sung sướng, có được khí sắc.
|
762. Thế là mọi sự phục hoàn,
Và hồi tưởng nỗi đau buồn đă qua,
Vương phi hạnh phúc chan ḥa,
Cùng đi với các con thơ lạc bầy. |
6875. Ekabhattā pure āsiṃ niccaṃ
thaṇḍilasāyinī,
iti metaṃ vataṃ āsi tumhaṃ kāmāhi puttakā.
|
(Lời nàng Maddī nói với hai con)
6875. “Trước đây, mẹ đă ăn ngày một bữa,
thường xuyên nằm ngủ ở nền đất. Này hai con thơ, bởi v́ mong mỏi
các con mà mẹ đă sự hành tŕ như thế. |
763. - Mẹ ăn một bữa mỗi ngày,
Mẹ nằm ngủ mặt đất này trống trơn,
Đó là nguyện ước yêu thương
Đến khi con được vuông tṛn t́m ra. |
6876. Taṃ me vataṃ samiddhajja tumhe
saṅgamma puttakā,
mātujampi taṃ pāletu pitujampi ca puttakā,
atho pi taṃ mahārājā sañjayo abhirakkhatu.
|
6876. Hôm nay, sự hành tŕ ấy của mẹ đă
được thành tựu. Này hai con thơ, mẹ đă gặp lại hai con. Này con
Jāli, mong rằng hạnh phúc đă sanh lên cho mẹ và đă sanh lên cho
cha hăy bảo vệ con. Và mong rằng đại vương Sañjaya cũng hộ tŕ
con. |
764-765. Lời nguyền đă đạt bây giờ,
Và nay lần nữa mẹ tha thiết cầu
Điều lành ǵ tạo bấy lâu,
Ước mong bảo hộ ngày sau con nhờ,
Và mong tổ phụ Sañ-ja
Luôn che chở các con nhà từ đây. |
Trang 482:
|
Trang 483:
|
6877. Yaṃ kiñcitthi kataṃ puññaṃ mayhaṃ
ceva pitucca te,
sabbena tena kusalena ajaro tvaṃ amaro bhava.
|
6877. Và có bất cứ phước báu nào đă được
tạo ra thuộc về mẹ và thuộc về cha của con, do tất cả các thiện
pháp ấy, mong rằng con sẽ không già và không chết.” |
766. Điều lành ǵ tạo bấy nay,
Bởi thân phụ hoặc chính tay mẹ mà,
Ước mong con trẻ không già,
Nhờ chân chính, các con thơ trường tồn. |
6878. Kappāsikañca koseyyaṃ
khomakodumbarāni ca,
sassu suṇhāya pāhesi yehi maddī asobhatha.
|
6878. Mẹ chồng đă bảo mang lại cho con dâu
các thứ y phục bằng bông g̣n, tơ lụa, sợi len, vải xứ Kodumbara;
với những thứ ấy, nàng Maddī đă chói sáng. |
767. Vải bông, tơ lụa, áo quần
Thật là tuyệt mỹ, màn chăn thiếu ǵ,
Mẫu hoàng trao tặng Mad-d́
Làm cho sắc đẹp vương phi sáng bừng. |
6879. Tato khomañca kāyūraṃ aṅgadaṃ
maṇimekhalaṃ,
sassu suṇhāya pāhesi yehi maddī asobhatha.
|
6879. Sau đó, mẹ chồng đă bảo mang lại cho
con dâu y phục bằng sợi len, ṿng đeo cánh tay, ṿng đeo cổ tay,
đai lưng bằng ngọc ma-ni; với những thứ ấy, nàng Maddī đă chói
sáng. |
|
6880. Tato khomañca kāyūraṃ gīveyyaṃ
ratanāmayaṃ,
sassu suṇhāya pāhesi yehi maddī asobhatha.
|
6880. Sau đó, mẹ chồng đă bảo mang lại cho
con dâu y phục bằng sợi len, ṿng đeo cánh tay, ṿng đeo cổ làm
bằng ngọc quư; với những thứ ấy, nàng Maddī đă chói sáng. |
768. Ṿng tay, ṿng cổ, ṿng chân,
Mạng che trán, chiếc đai lưng trang hoàng,
Mẫu thân gửi tặng cho nàng
Làm cho nàng đẹp huy hoàng sáng tươi. |
6881. Uṇṇataṃ mukhaphullañca nānāratte ca
māṇiye,
sassu suṇhāya pāhesi yehi maddī asobhatha.
|
6881. Sau đó, mẹ chồng đă bảo mang lại cho
con dâu vật trang sức ở trán, tràng hoa ở bên trán, và các ṿng
đeo làm bằng ngọc ma-ni nhiều màu sắc; với những thứ ấy, nàng
Maddī đă chói sáng. |
|
6882. Uggatthanaṃ giṅgamakaṃ mekhalaṃ
paṭipādukaṃ,
sassu suṇhāya pāhesi yehi maddī asobhatha.
|
6882. Sau đó, mẹ chồng đă bảo mang lại cho
con dâu hai vật trang sức khác nữa, thêm vào đai lưng, và vật
trang sức ở bàn chân; với những thứ ấy, nàng Maddī đă chói sáng. |
|
6883. Suttañca suttavajjañca upanijjhāya
seyyasi,
asobhatha rājaputtī devakaññāva nandane.
|
6883. Sau khi xem xét vật trang sức có kết
chỉ và không có kết chỉ, rồi trang điểm, nàng Maddī là hạng
nhất. Nàng công chúa đă chói sáng, tựa như các Thiên nữ ở khu
vườn Nandana. |
769. Và khi công chúa tuyệt vời
Ngắm nh́n châu báu sáng ngời nàng mang,
Rỡ ràng, nàng chiếu ánh quang
Khác nào các vị nữ thần Lạc Viên [*].
-------------
[*] Nandana: Thiên Lạc Viên ở cơi trời Ba
mươi ba. |
6884. Sīsaṃ nahātā sucivatthā
sabbābharaṇabhūsitā,
asobhatha rājaputtī tāvatiṃsāva accharā.
|
6884. Khi đă được gội đầu, có y phục sạch
sẽ, đă được tô điểm với mọi thứ trang sức, nàng công chúa đă
chói sáng, tựa như các nữ thần ở cơi Trời Đạo Lợi. |
770. Với đầu tẩm ướt tóc tiên,
Nữ trang, xiêm áo ngắm nh́n đẹp tươi,
Vương phi tỏa ánh sáng ngời
Như là Thiên nữ cơi trời Băm ba. |
6885. Kadalīva vātacchupitā jātā
cittalatāvane,
dantāvaraṇasampannā rājaputtī asobhatha.
|
6885. Tựa như cây chuối sanh trưởng ở khu
rừng Cittalatā được va chạm bởi làn gió, nàng công chúa Maddī có
đôi môi đỏ đă chói sáng. |
771. Trong vườn Thiên giới Cit-ta [**]
Cây ba tiêu ngọn gió lùa nhẹ rung,
Đôi môi công chúa tuyệt trần,
Dáng nàng khả ái như thân cây trời.
------------
[**] Cittalatà: Lạc Viên của Sakka ở cơi
trời Ba mươi ba. |
6886. Sakuṇī mānusinīva jātā cittapattā
patī,
nigrodhapakkabimboṭṭhī rājaputtī asobhatha.
|
6886. Tựa như loài nữ nhân điểu đă được
sanh ra có cặp cánh nhiều màu sắc bay lượn, nàng công chúa với
cặp môi tương tự như trái bimba
chín màu đỏ đă chói sáng. |
772. Như chim lông đẹp sáng ngời
Lượn bay khắp mọi nẻo trời trên không,
Môi nàng xinh tựa đóa hồng,
Dung nhan làm ngẩn ngơ ḷng thế nhân. |
6887. Tassā ca nāgamānesuṃ nātivaddhañca
kuñjaraṃ,
sattikkhamaṃ sarakkhamaṃ īsādantaṃ urūḷhavaṃ.
|
6887. Họ đă đem lại cho nàng ấy con voi,
là con khổng tượng không quá già, chịu đựng được giáo nhọn, chịu
đựng được mũi tên, có ngà như cán cày, xứng đáng để cỡi. |
773. Chúng dâng voi đẹp c̣n xuân,
Con voi dũng mănh oai phong hùng cường,
Không hề biết sợ giáo gươm,
Ngà dài, chẳng sợ chiến trường ba quân. |
6888. Sā maddī nāgamāruyhi nātivaddhañca
kuñjaraṃ,
sattikkhamaṃ sarakkhamaṃ īsādantaṃ urūḷhavaṃ.
|
6888. Nàng Maddī ấy đă leo lên con voi, là
con khổng tượng không quá già, chịu đựng được giáo nhọn, chịu
đựng được mũi tên, có ngà như cán cày, xứng đáng để cỡi. |
774. Nàng lên voi nọ c̣n xuân
Con voi dũng mănh, oai phong hùng cường,
Không hề biết sợ giáo gươm,
Ngà dài, chẳng sợ chiến trường giao tranh. |
Trang 484:
|
Trang 485:
|
6889. Sabbamhi taṃ araññamhi yāvantettha
migā ahu,
vessantarassa tejena nāññamaññamaheṭhayuṃ.
|
6889. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các
loài thú sống ở nơi này, nhờ vào oai lực của Vessantara, đă
không hăm hại lẫn nhau. |
775. Nhờ Ves-san chúa quang vinh,
Xuyên qua suốt dải rừng xanh bạt ngàn,
Không loài dă thú, chim muông
Làm ǵ hại chúng bạn, luôn làm lành... |
6890. Sabbamhi taṃ araññamhi yāvantettha
dijā ahu,
vessantarassa tejena nāññamaññamaheṭhayuṃ.
|
6890. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các
loài chim sống ở nơi này, nhờ vào oai lực của Vessantara, đă
không hăm hại lẫn nhau. |
|
6891. Sabbamhi taṃ araññamhi yāvantettha
migā ahu,
ekajjhaṃ sannipatiṃsu,
vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.
|
6891. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các
loài thú sống ở nơi này đă tập trung lại một chỗ, khi
Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát. |
776-777. Và khi ngài phải đăng tŕnh,
Muôn loài như một đồng t́nh tiễn đưa,
Chim muông, dă thú gần xa,
Mọi loài trong chốn rừng già cùng nhau |
6892. Sabbamhi taṃ araññamhi yāvantettha
dijā ahu,
ekajjhaṃ sannipatiṃsu,
vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.
|
6892. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các
loài chim sống ở nơi này đă tập trung lại một chỗ, khi
Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát. |
6893. Sabbamhi taṃ araññamhi yāvantettha
migā ahu,
nāssu mañjūni kūjiṃsu,
vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.
|
6893. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các
loài thú sống ở nơi này đă không kêu lên các tiếng kêu, khi
Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát. |
Lặng im mọi tiếng xôn xao
Khi ngài rời chốn rừng sâu lên đường. |
6894. Sabbamhi taṃ araññamhi yāvantettha
dijā ahu,
nāssu mañjūni kūjiṃsu,
vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.
|
6894. Ở toàn bộ khu rừng ấy, hết thảy các
loài chim sống ở nơi này đă không hót lên các tiếng hót, khi
Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát. |
6895. Paṭiyatto rājāmaggo vicitto
pupphasanthato,
vasi vessantaro yattha yāvatā ca jetuttarā.
|
6895. Con đường vua đi đă được sửa soạn,
đă được trang hoàng, đă được trải bông hoa, từ nơi Vessantara đă
trú ngụ cho đến kinh thành Jetuttara. |
778. Đường vua đi mới được làm,
Với muôn hoa lá trang hoàng đẹp xinh,
Từ nơi ngài ở rừng xanh
Xuôi dần đến chốn kinh thành Jet-ta. |
6896. Tato saṭṭhisahassāni yudhino
cārudassanā,
samantā parikariṃsu,
vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.
|
6896. Kế đến, sáu mươi ngàn chiến sĩ có
dáng vẻ dễ mến đă vây quanh khắp các nơi khi Vessantara, bậc làm
hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát. |
779. Sáu mươi ngàn bạn ấu thơ,
Nam nhi, phụ nữ, thương gia quây quần,
Đạo nhân trở lại quê hương
Về kinh đô tiến thẳng đường Jet-ta. |
6897. Orodhā ca kumārā ca vesiyānā ca
brāhmaṇā,
samantā parikariṃsu,
vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.
|
6897. Các công nương, các hoàng tử, các
thương nhân, và các vị Bà-la-môn, đă vây quanh khắp các nơi khi
Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát. |
|
6898. Hatthārūhā anīkaṭṭhā rathikā
pattikārakā,
samantā parikariṃsu,
vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.
|
6898. Các viên quản tượng, các ngự lâm
quân, các xa binh, và các bộ binh đă vây quanh khắp các nơi khi
Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát. |
780. Nhiều người quản tượng, quản xa,
Cùng đoàn vệ sĩ hoàng gia xuất hành,
Và nhiều lữ khách, bộ binh
Thảy đồng tiến tới kinh thành Jet-ta. |
6899. Samāgatā jānapadā negamā ca
samāgatā,
samantā parikariṃsu,
vessantare payātamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.
|
6899. Các đám đông dân chúng và các đám
đông thị dân đă vây quanh khắp các nơi khi Vessantara, bậc làm
hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát. |
|
Trang 486:
|
Trang 487:
|
6900. Karoṭiyā cammadharā khaggahatthā
suvammino,
purato paṭipajjiṃsu, vessantare payātamhi sivīnaṃ
raṭṭhavaḍḍhane.
|
6900. Các dũng sĩ đội măo tṛn, mặc da
thú, tay cầm gươm, mặc áo giáo đẹp, đă tiến lên phía trước khi
Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, xuất phát. |
781. Chiến binh mang măo áo da,
Quân mang bào giáp sáng ḷa kiếm thương,
Để cùng bảo vệ quân vương
Về kinh đô tiến thẳng đường Jet-ta. |
6901. Te pāvisuṃ puraṃ rammaṃ
bahupākāratoraṇaṃ,
upetaṃ annapānehi naccagītehi cūbhayaṃ.
|
6901. Họ đă tiến vào kinh thành đáng yêu,
có nhiều tường thành và cổng chào, được đầy đủ cơm ăn, nước
uống, với các điệu vũ và lời ca, cả hai loại. |
782. Đoàn quân vào đến thành đô,
Đẹp xinh hào lũy, cửa ô cao vầy,
Đàn ca múa hát vui thay,
Thức ăn thức uống đủ đầy luôn luôn. |
6902. Vittā jānapādā āsuṃ negamā ca
samāgatā,
anuppatte kumāramhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.
|
6902. Dân chúng đă được hân hoan, các thị
dân đă tụ hội lại khi vị thái tử, bậc làm hưng thịnh đất nước
Sivi, đă về đến. |
783. Thần dân toàn thể hân hoan
Từ nông dân đến thị dân mọi nhà,
Chào mừng trở lại quê cha
Vương nhi danh vọng gần xa vang lừng. |
6903. Celukkhepo avattittha āgate
dhanadāyake,
nandippavesi nagare bandhanamokkho aghosatha.
|
6903. Họ đă vẫy khăn chúc mừng khi vị bố
thí của cải đi đến. Vị ấy đă đem đến sự vui mừng cho thành phố.
Vị ấy đă công bố sự tự do khỏi sự trói buộc, giam cầm (cho tất
cả chúng sanh). |
784. Mọi người đều vẫy chiếc khăn
Lên không để đón ân nhân đến gần.
Bấy giờ có tiếng trống rung,
Lệnh truyền đại xá ban ân muôn loài. |
6904. Jātarūpamayaṃ vassaṃ devo pāvassi
tāvade,
vessantare paviṭṭhamhi sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhane.
|
6904. Trởi đă lập tức đổ xuống cơn mưa
bằng vàng khi Vessantara, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi, đă
tiến vào. |
785. Khi Ves-san chúa tái hồi
Đại vương bảo hộ mọi người Si-vi,
Trời cho mưa báu tràn trề
Ở trên đất nước là quê hương này. |
6905. Tato vessantaro rājā dānaṃ datvāna
khattiyo,
kāyassa bhedā sappañño saggaṃ so upapajjathā ”ti.
|
6905. Từ đó, đức vua Vessantara, vị
Sát-đế-lỵ đă ban phát vật thí. Do sự hoại ră của thân, vị có trí
tuệ ấy đă tái sanh vào cơi Trời.” |
786. Ves-san Vương tử rộng tay
Phát ban tặng vật đủ đầy toàn dân,
Cuối cùng ngài đă mạng chung,
Tràn đầy trí tuệ, thiên cung ngài về.
Câu chuyện
547 |
Mahāvessantarajātakaṃ.
|
Bổn Sanh
Vessantara Vĩ Đại. [547] |
Mahānipātavaṇṇanā niṭṭhitā.
|
Nhóm Lớn được
hoàn tất.
|
JĀTAKAPĀḶI
SAMATTĀ.
--ooOoo--
|
BỔN SANH ĐƯỢC ĐẦY
ĐỦ.
--ooOoo-- |
<Trang trước> |
|