I. URAGAVAGGO - PHẨM RẮN (tiếp theo)
|
Buddha
Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka |
Lời tiếng Việt:
(văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda
|
Lời tiếng Việt:
(văn vần) HT. Thích Minh Châu |
8. METTASUTTAṂ
|
8. KINH TỪ ÁI
|
8. KINH TỪ BI
|
143. Karaṇīyamatthakusalena yaṃ
taṃ santaṃ padaṃ abhisamecca,
sakko ujū ca sūjū ca suvaco cassa mudu anatimāni. |
143. Việc cần làm bởi vị thiện
xảo trong việc thực hành, sau khi đă thấu hiểu về vị thế (Niết
Bàn) an tịnh ấy là: có khả năng, ngay thẳng, chánh trực, dễ dạy,
ḥa nhă, và không ngă mạn thái quá.
|
143. Vị thiện xảo mục đích,
Cần phải làm như sau:
Sau khi hiểu thông suốt,
Con đường an tịnh ấy,
Có khả năng, trực tánh,
Thật sự, khéo chân trực,
Dễ nói và nhu ḥa,
Không có ǵ cao mạn. |
144. Santussako ca subharo ca
appakicco ca sallahukavutti,
santindriyo ca nipako ca appagabbho kulesu ananugiddho. |
144. Là người tự biết đủ, dễ cấp
dưỡng, ít bận rộn công việc, và có lối sống nhẹ nhàng, có giác
quan an tịnh, và chín chắn, không hỗn xược, không tham đắm theo
các gia tộc. |
144. Sống cảm thấy vừa đủ,
Nuôi sống thật dễ dàng,
Ít có sự rộn ràng,
Sống đạm bạc giản dị.
Các căn được tịnh lạc,
Khôn ngoan và thật trọng,
Không xông xáo gia đ́nh,
Không tham ái, tham vọng. |
145. Na ca khuddaṃ samācare kiñci
yena viññū pare upavadeyyuṃ,
sukhino vā khemino hontu sabbe sattā bhavantu sukhitattā. |
145. Và không nên thực hành bất
cứ điều ǵ nhỏ nhặt mà các bậc hiểu biết khác đă khiển trách.
Mong rằng tất cả chúng sanh có được sự an lạc, có được sự an
toàn. Mong rằng tất cả chúng sanh có bản thân được an lạc.
|
145. Các sở hành của ḿnh,
Không nhỏ nhen vụn vặt,
Khiến người khác có trí,
Có thể sanh chỉ trích.
Mong mọi loài chúng sanh,
Được an lạc, an ổn,
Mong họ chứng đạt được,
Hạnh phúc và an lạc. |
146. Ye keci pāṇa bhūtatthi tasā
vā thāvarā vā anavasesā,
dīghā vā ye mahantā vā majjhamā rassakāṇukathūlā.
|
146. Bất cứ những chúng sanh nào
dầu là: yếu hoặc mạnh (tất cả) không bỏ sót, (có thân h́nh) dài
hoặc to lớn, trung b́nh hoặc ngắn, nhỏ bé hay mập.
|
146. Mong tất cả những ai,
Hữu t́nh có mạng sống,
Kẻ yếu hay kẻ mạnh,
Không bỏ sót một ai,
Kẻ dài hay kẻ lớn,
Trung, thấp, loài lớn, nhỏ. |
147. Diṭṭhā vā ye va addiṭṭhā ye
ca dūre vasanti avidūre,
bhūtā vā sambhavesī vā sabbe sattā bhavantu sukhitattā.
|
147. Được nh́n thấy, hoặc không
được nh́n thấy, cư ngụ ở nơi xa và không xa, đă được hiện hữu
hoặc đang tầm cầu sự thành h́nh, mong rằng tất cả chúng sanh có
bản thân được an lạc. |
147. Loài được thấy, không
thấy,
Loài sống xa, không xa,
Các loài hiện đang sống,
Các loài sẽ được sanh,
Mong mọi loài chúng sanh
Sống hạnh phúc an lạc. |
148. Na paro paraṃ nikubbetha
nātimaññetha katthaci naṃ kañci,
byārosanā paṭighasaññā nāññamaññassa dukkhamiccheyya.
|
148. Người này không nên lường
gạt kẻ khác, không nên khi dễ bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu.
Do sự giận dữ, do ư tưởng bất b́nh, không nên mong mỏi sự khổ
đau cho lẫn nhau. |
148. Mong rằng không có ai,
Lường gạt lừa dối ai,
Không có ai khinh mạn,
Tại bất cứ chỗ nào.
Không v́ giận hờn nhau,
Không v́ tưởng chống đối.
Lại có người mong muốn,
Làm đau khổ cho nhau. |
149. Mātā yathā niyaṃ puttaṃ
āyusā ekaputtamanurakkhe,
evampi sabbabhūtesu mānasaṃ bhāvaye aparimānaṃ. |
149. Giống như người mẹ bảo vệ
đứa con trai của ḿnh, đứa con trai độc nhất, đến trọn đời, cũng
như vậy, đối với tất cả các sanh linh, nên phát triển tâm ư vô
hạn lượng.
|
149. Như tấm ḷng người mẹ,
Đối với con của ḿnh,
Trọn đời lo che chở,
Con độc nhất ḿnh sanh.
Cũng vậy, đối tất cả
Các hữu t́nh chúng sanh,
Hăy tu tập tâm ư,
Không hạn lượng rộng lớn. |
150. Mettañca sabbalokasmiṃ
mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ,
uddhaṃ adho ca tiriyañca asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ.
|
150. Và tâm từ ái ở tất cả thế
giới, nên phát triển tâm ư vô hạn lượng, bên trên, bên dưới, và
chiều ngang, không bị ngăn trở, không thù oán, không đối nghịch.
|
150. Hăy tu tập từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hăy tu tập tâm ư,
Không hạn lượng rộng lớn.
Phía trên và phía dưới,
Cũng vậy, cả bề ngang,
Không hạn chế, trói buộc,
Không hận, không thù địch. |
151. Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno vā
sayāno vā yāvatassa vigatamiddho,
etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya brahmametaṃ vihāraṃ idhamāhu. |
151. Trong khi đứng, trong khi
đi, hoặc khi đă ngồi xuống, hoặc trong khi nằm, cho đến khi nào
sự buồn ngủ được xa ĺa, nên chuyên chú vào niệm này, ở đây việc
này được gọi là sự an trú cao thượng.
|
151. Khi đứng, hay khi đi,
Khi ngồi, hay khi nằm,
Lâu cho đến khi nào,
Khi đang c̣n tỉnh thức,
Hăy an trú niệm này,
Nếp sống này như vậy,
Được đời đề cập đến,
Là nếp sống tối thượng. |
152. Diṭṭhiñca anupagamma sīlavā
dassanena sampanno,
kāmesu vineyya gedhaṃ na hi jātu gabbhaseyyaṃ punaretīti. |
152. Và sau
khi không đeo đuổi tà kiến, là người có giới, được thành tựu về
nhận thức, sau khi xua đi sự thèm khát ở các dục, th́ chắc chắn
không đi đến thai bào lần nữa. |
152. Ai từ bỏ tà kiến,
Giữ giới, đủ chánh kiến,
Nhiếp phục được tham ái,
Đối với các dục vọng,
Không c̣n phải tái sanh,
Đi đến thai tạng nữa. |
Mettasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Từ
Ái.
|
|
9. HEMAVATASUTTAṂ
|
9. KINH
HEMAVATA
|
9. KINH
HEMAVATA |
153. Ajja paṇṇaraso uposatho (iti
sātāgiro yakkho)
divyā ratti upaṭṭhitā,
anomanāmaṃ sāttharaṃ
handa passāma gotamaṃ. |
153. (Dạ-xoa Sātāgira nói)
Hôm nay là ngày mười lăm, ngày
Uposatha,
đêm rực rỡ đă đến rồi.
Nào, chúng ta hăy diện kiến bậc
Đạo Sư Gotama có danh xưng cao tột.
|
Sàtàgira:
153. Nay đúng vào ngày rằm,
Ngày trai giới, bố-tát,
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Đêm đă được an trú,
Đêm đẹp như cơi trời,
Hăy gặp Gotama,
Bậc Đạo Sư vô thượng. |
154. Kacci mano supaṇihito (iti
hemavato yakkho)
sabbabhūtesu tādino,
kacci iṭṭhe aniṭṭhe ca
saṅkappassa vasīkatā.
|
154. (Dạ-xoa Hemavata nói)
Phải chăng tâm của bậc như thế ấy
là đă được phát nguyện vững chắc hướng đến tất cả chúng sanh?
Phải chăng tâm tư của vị này đă đạt đến quyền làm chủ ở đối
tượng được ưa thích và không được ưa thích?
|
Hemavata:
154. Có phải ư vị ấy,
Tâm nguyện thật khéo phát?
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Hemavata,
Có phải đối sanh loại,
Có tâm tư như vậy?
Có phải các tư duy,
Được khéo léo điều phục
Đối với các pháp khả ái,
Và pháp không khả ái? |
155. Mano cassa supaṇihito (iti
sātāgiro yakkho)
sabbabhūtesu tādino,
atho iṭṭhe aniṭṭhe ca
saṅkappassa vasīkatā. |
155. (Dạ-xoa Sātāgira nói)
Tâm của vị này, của bậc như thế
ấy là đă được phát nguyện vững chắc hướng đến tất cả chúng sanh.
Và tâm tư của vị này đă đạt đến quyền làm chủ ở đối tượng được
ưa thích và không được ưa thích.
|
Sàtàgira:
155. Ư vị ấy là vậy,
Tâm nguyện thật khéo phát,
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Đối với mọi sanh loại,
Có tâm tư như vậy,
Như vậy là tư duy,
Được khéo léo điều phục. |
156. Kacci adinnaṃ nādiyati (iti
hemavato yakkho)
kacci pāṇesu saññato,
kacci ārā pamādamhā
kacci jhānaṃ na riñcati. |
156. (Dạ-xoa Hemavata nói)
Phải chăng vị ấy không lấy vật
không được cho?
Phải chăng vị ấy tự kiềm chế về
các sanh mạng?
Phải chăng vị ấy xa ĺa sự xao
lăng?
Phải chăng vị ấy không bỏ phế
việc tham thiền?
|
Hemavata:
156. Có phải là vị ấy
Không lấy vật không cho?
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Hemavata,
Có phải với hữu t́nh,
Vị ấy khéo chế ngự?
Có phải với phóng dật,
Vị ấy khéo viễn ly?
Có phải đối thiền định,
Vị ấy không từ bỏ? |
157. Na so adinnaṃ ādiyati (iti
sātāgiro yakkho)
atho pāṇesu saññato,
atho ārā pamādamhā
buddho jhānaṃ na riñcati
|
157. (Dạ-xoa Sātāgira nói)
Ngài không lấy vật không được
cho,
đă tự kiềm chế về các sanh mạng,
đă xa ĺa sự xao lăng,
đức Phật không bỏ phế việc tham
thiền. |
Sàtàgira:
157. Vị ấy không có lấy
Những vật không được cho,
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Vị ấy với hữu t́nh,
Rất khéo léo chế ngự,
Vị ấy với phóng dật,
Thật sự sống viễn ly,
Đức Phật đối thiền định,
Không từ bỏ, sao lăng.
|
158. Kacci musā na bhaṇati (iti
hemavato yakkho)
kacci na khīṇavyappatho,
kacci vebhūtiyaṃ nāha
kacci samphaṃ na bhāsati.
|
158. (Dạ-xoa Hemavata nói)
Phải chăng vị ấy không nói lời
dối trá?
Phải chăng vị ấy không có lời nói
thô lỗ?
Phải chăng vị ấy đă không nói lời
phá hoại (đâm thọc)?
Phải chăng vị ấy không nói nhảm
nhí?
|
Hemavata:
158. Có phải là vị ấy,
Không nói lời nói láo?
Nói vậy là Dạ-xoa,
Tên Hemavata,
Có phải là vị ấy
Đoạn tận các trách nhiệm?
Có phải là vị ấy
Không nói lời vu khống?
Có phải là vị ấy
Không nói lời phù phiếm? |
159. Musā ca so na bhaṇati (iti
sātāgiro yakkho)
atho na khīṇavyappatho,
atho vebhūtiyaṃ nāha
mantā atthaṃ so bhāsati.
|
159. (Dạ-xoa Sātāgira nói)
Và vị ấy không nói lời dối trá,
cũng không có lời nói thô lỗ,
cũng đă không nói lời phá hoại
(đâm thọc),
là bậc trí, vị ấy nói điều có lợi
ích.
|
Sàtàgira:
159. Và thật sự vị ấy,
Không nói lời nói láo,
Nói vậy là Dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Đoạn tận đường ác ngữ,
Không nói lời vu khống,
Vị ấy nói những lời
Sáng suốt, có nghĩa lư. |
160. Kacci na rajjati kāmesu (iti
hemavato yakkho)
kacci cittaṃ anāvilaṃ,
kacci mohaṃ atikkanto
kacci dhammesu cakkhumā.
|
160. (Dạ-xoa Hemavata nói)
Phải chăng vị ấy không luyến ái ở
các dục?
Phải chăng tâm không bị vẩn đục?
Phải chăng vị ấy vượt qua si mê?
Phải chăng là bậc hữu nhăn về các
pháp?
|
Hemavata:
160. Có phải đối các dục,
Vị ấy không tham ái?
Đây là lời Dạ-xoa,
Tên Hemavata,
Có phải tâm vị ấy
Không có bị dao động?
Có phải tâm vị ấy
Vượt khỏi sự si ám?
Có phải thật vị ấy,
Có mắt đối các pháp? |
161. Na so rajjati kāmesu (iti
sātāgiro yakkho)
atho cittaṃ anāvilaṃ,
sabbamohaṃ atikkanto
buddho dhammesu cakkhumā. |
161. (Dạ-xoa Sātāgira nói)
Vị ấy không luyến ái ở các dục,
và tâm không bị vẩn đục,
Ngài vượt qua mọi si mê,
đức Phật là bậc hữu nhăn về các
pháp.
|
Sàtàgira:
161. Vị ấy không tham ái
Đối với các dục vọng,
Đây là lời Dạ-xoa,
Tên Sàtàgira,
Tâm không có dao động,
Vượt khỏi mọi si ám,
Đức Phật thật có mắt
Đối với tất cả pháp. |
162. Kacci vijjāya sampanno (iti
hemavato yakkho)
kacci saṃsuddhacāraṇo,
kaccissa āsavā khīṇā
kacci natthi punabbhavo. |
162. (Dạ-xoa Hemavata nói)
Phải chăng vị ấy đă thành tựu về
minh?
Phải chăng vị ấy có sở hành hoàn
toàn trong sạch?
Phải chăng các lậu hoặc của vị
này đă cạn kiệt?
Phải chăng không có sự tái sanh
lại nữa?
|
Hemavata:
162. Có phải là vị ấy
Đầy đủ về các minh?
Đây là lời Dạ-xoa
Tên Hemavata,
Có phải là vị ấy
Sở hành thật thanh tịnh?
Có phải là vị ấy
Các lậu hoặc đoạn tận?
Có phải là vị ấy
Không c̣n có tái sanh? |
163. Vijjāya ceva sampanno (iti
sātāgiro yakkho)
atho saṃsuddhacāraṇo,
sabbassa āsavā khīṇā
natthi tassa punabbhavo. |
163. (Dạ-xoa Sātāgira nói)
Vị ấy hẳn nhiên đă thành tựu về
minh,
c̣n có sở hành hoàn toàn trong
sạch,
các lậu hoặc của vị này đă cạn
kiệt,
đối với vị ấy không có sự tái
sanh lại nữa.
|
Sàtàgira:
163. Sự thật là vị ấy,
Đầy đủ với các minh,
Đây là lời Dạ-xoa,
Tên Sàtàgira
Sở hành thật thanh tịnh,
Mọi lậu hoặc đoạn tận,
Thật sự đối vị ấy,
Không c̣n có tái sanh. |
164. Sampannaṃ munino cittaṃ
kammanā vyappathena ca,
vijjācaraṇasampannaṃ dhammato naṃ pasaṃsasi.
|
164. Tâm của bậc hiền trí là được
trọn vẹn với hành động và lời nói. Ngươi hăy thật ḷng ca ngợi
vị ấy, bậc đă thành tựu minh và hạnh. |
Hemavata:
163. (a) Có phải vị ẩn sĩ,
Với tâm được viên măn,
Mọi việc làm vị ấy
Được làm khéo hoàn măn,
Có phải người tán thán,
Một cách đúng Chánh pháp.
Vị đầy đủ trí đức,
Đầy đủ cả hạnh đức. |
165. Sampannaṃ munino cittaṃ
kammanā vyappathena ca,
vijjācaraṇasampannaṃ dhammato anumodasi.
|
165. Tâm của bậc hiền trí là được
trọn vẹn với hành động và lời nói. Ngươi hăy thật ḷng tùy hỷ
với bậc đă thành tựu minh và hạnh. |
Sàtàgira:
163. (b) Thật sự vị ẩn sĩ,
Với tâm được viên măn,
Mọi việc làm vị ấy
Được làm khéo hoàn măn.
Thật sự Ông tùy hỉ
Một cách đúng Chánh pháp,
Vị đầy đủ trí đức,
Đầy đủ cả hạnh đức.
|
166. Sampannaṃ munino cittaṃ
kammanā vyappathena ca,
vijjācaraṇasampannaṃ handa passāma gotamaṃ.
|
166. Tâm của bậc hiền trí là được
trọn vẹn với hành động và lời nói. Nào, chúng ta hăy diện kiến
vị Gotama, bậc đă thành tựu minh và hạnh.
|
Cả hai:
164. Thật sự vị ẩn sĩ,
Với tâm được viên măn,
Mọi việc làm vị ấy
Được làm khéo hoàn măn.
Chúng ta hăy yết kiến
Tôn giả Gotama,
Vị đầy đủ trí đức,
Đầy đủ cả hạnh đức. |
167. Eṇijaṅghaṃ kisaṃ vīraṃ
appāhāraṃ alolupaṃ,
muniṃ vanasmiṃ jhāyantaṃ ehi passāma gotamaṃ.
|
167. Ngươi hăy đến, chúng ta hăy
diện kiến vị Gotama, bậc hiền trí có bắp chân như của loài nai,
gầy ốm, dũng cảm, ít vật thực, không tham đắm, đang tham thiền ở
khu rừng. |
Hemavata:
165. Bắp chân giống như nai,
Thon vững chắc, bền bỉ,
Giản dị ít nhu cầu,
Không tham đắm vật ǵ.
Hăy đi đến yết kiến
ẩn sĩ Gotama,
Vị hành tŕ thiền định,
Trong rừng núi xa vắng. |
168. Sīhaṃvekacaraṃ nāgaṃ kāmesu
anapekkhinaṃ,
upasaṃkamma pucchāma maccupāsā pamocanaṃ.
|
168. Sau khi đến gần bậc Long
Tượng đang sống một ḿnh tựa như loài sư tử, không mong mỏi về
các dục, chúng ta hăy hỏi Ngài về sự thoát ra khỏi bẫy sập của
tử thần.
|
166. Sống cô độc một ḿnh,
Như sư tử, như voi,
Ngài không có tham đắm,
Không cầu mong các dục.
Chúng ta hăy đi đến,
Và hỏi thăm vị ấy
Về con đường giải thoát
Khỏi cạm bẫy Ác ma. |
169. Akkhātāraṃ pavattāraṃ
sabbadhammāna pāraguṃ,
buddhaṃ verabhayātītaṃ mayaṃ pucchāma gotamaṃ.
|
169. Chúng ta hăy hỏi vị Gotama,
bậc tuyên thuyết, bậc tuyên bố, bậc đă đi đến bờ kia của tất cả
các pháp, bậc đă giác ngộ, bậc đă vượt qua thù hận và sợ hăi.
|
Cả hai:
167. Vị tuyên bố giải thích,
Vị đạt đến mọi pháp,
Bậc giác ngộ vượt khỏi
Hận thù và sợ hăi,
Chúng ta hăy đến học
Sa-môn Gotama. |
170. Kismiṃ loko samuppanno (iti
hemavato yakkho)
kismiṃ kubbati santhavaṃ,
kissa loko upādāya
kismiṃ loko vihaññati. |
170. (Dạ-xoa Hemavata nói)
Khi cái ǵ (sanh khởi) thế
giới được sanh khởi?
liên quan đến cái ǵ tạo nên sự
gắn bó?
chấp thủ vào cái ǵ mà thế giới
(hiện hữu)?
do cái ǵ mà
thế giới bị sầu khổ?
----------------
|
Hemavata:
168. Do pháp nào có mặt,
Thế giới được sanh khởi,
Nói vậy là dạ-xoa,
Tên Hemavata.
Do pháp nào có mặt,
Tác thành sự giao hợp?
Sự chấp thủ ở đời,
Là chấp thủ cái ǵ?
Do pháp nào có mặt,
Thế giới bị tàn hại? |
171. Chassu loko samuppanno
(hemavatāti bhagavā)
chassu kubbati santhavaṃ,
channameva upādāya
chassu loko vihaññati. |
171. (Đức Thế Tôn nói với Dạ-xoa
Hemavata)
Khi sáu (sanh khởi) thế
giới được sanh khởi,
liên quan đến sáu tạo nên sự gắn
bó,
chấp thủ vào sáu mà thế giới
(hiện hữu),
do sáu mà thế giới bị sầu khổ.
|
Thế Tôn:
169. Do sáu pháp có mặt,
Thế giới được sanh khởi,
Này Hemavata,
Thế Tôn nói như vậy.
Do sáu pháp có mặt,
Tác thành sự giao hợp,
Sự chấp thủ ở đời,
Là chấp thủ sáu pháp,
Do sáu pháp có mặt,
Thế giới bị tàn hại. |
172. Katamaṃ taṃ upādānaṃ yattha
loko vihaññati,
niyyānaṃ pucchito brūhi kathaṃ dukkhā pamuccati. |
172. Sự chấp thủ ấy là cái ǵ mà
tại nơi ấy thế giới bị sầu khổ? Được hỏi về lối dẫn dắt ra khỏi
xin Ngài hăy nói, làm thế nào được thoát khỏi khổ đau? |
Hemavata:
170. Do chấp thủ cái ǵ,
Đây thế giới bị hại?
Được hỏi, hăy nói lên,
Về con đường thoát đời.
Làm thế nào đau khổ,
Được giải thoát hoàn toàn? |
173. Pañca kāmaguṇā loke mano
chaṭṭhā pamoditā,
ettha chandaṃ virājetvā evaṃ dukkhā pamuccati. |
173. Năm loại dục được vui thích
ở thế gian, với ư là thứ sáu. Sau khi ĺa khỏi sự mong muốn ở
nơi này, như vậy th́ được thoát khỏi khổ đau. |
Thế Tôn:
171. Đây, năm dục trưởng
dưỡng,
Ư được gọi thứ sáu,
Bỏ ước muốn ở đây,
Như vậy, thoát đau khổ. |
174. Etaṃ lokakassa niyyānaṃ
akkhātaṃ vo yathā tathaṃ,
etaṃ vo ahamakkhāmi evaṃ dukkhā pamuccati. |
174. Điều này là lối dẫn dắt ra
khỏi thế giới, đă được nói cho các ngươi đúng theo thực thể. Ta
nói ra điều này cho các ngươi, như vậy th́ được thoát khỏi khổ
đau.
|
172. Đây, con đường thoát đời.
Như thật nói Ông rơ,
Đường này Ta nói Ông,
Như vậy, thoát đau khổ. |
175. Ko sūdha taratī oghaṃ ko
sūdha tarati aṇṇavaṃ,
appatiṭṭhe anālambe ko gambhīre na sīdati. |
175. Vậy ở đây ai vượt qua cơn
lũ, ở đây ai vượt qua biển cả, ai không ch́m xuống nơi sâu thẳm
không có chỗ nâng đỡ, không có vật để nắm vào? |
Hemavata:
173. Đây, ai vượt bộc lưu?
Đây, ai vượt biển lớn?
Không chân đứng bám víu,
Ai không ch́m vực sâu? |
176. Sabbadā sīlasampanno paññavā
susamāhito,
ajjhattacintī satimā oghaṃ tarati duttaraṃ.
|
176. Vị luôn luôn thành tựu giới,
có tuệ, khéo định tĩnh, có tâm tư hướng nội, có niệm, vượt qua
cơn lũ khó vượt qua được.
|
Thế Tôn:
174. Ai luôn luôn đủ giới,
Có tuệ, khéo thiền định,
Tâm hướng nội, chánh niệm,
Vượt bộc lưu khó vượt. |
177. Virato kāmasaññāya
sabbasaṃyojanātigo,
nandībhavaparikkhīṇo so gamabhīre na sīdati.
|
177. Vị không c̣n vui thích ở dục
tưởng, đă vượt lên khỏi mọi sự ràng buộc, đă hoàn toàn cạn kiệt
sự vui thích và hiện hữu, vị ấy không ch́m xuống nơi sâu thẳm.
|
175. Ai từ bỏ dục tưởng,
Vượt khỏi mọi kiết sử,
Ai, hỷ, hữu đoạn tận,
Không ch́m vào vực sâu. |
178. Gambhīrapaññaṃ
nipuṇatthadassiṃ
akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ,
taṃ passatha sabbadhi vippamuttaṃ
dibbe pathe kamamānaṃ mahesiṃ. |
178. Chúng ta
hăy chiêm ngưỡng bậc Đại Ẩn Sĩ ấy, bậc có tuệ thâm sâu, bậc nh́n
thấy ư nghĩa vi tế, không sở hữu ǵ, không dính mắc ở dục và
hữu, đă được giải thoát về mọi phương diện, đang bước đi ở con
đường thiên giới. |
Hemavata:
176. Vị trí tuệ thâm sâu,
Thấy được đích tế nhị,
Vị không có sở hữu,
Không tham đắm dục hữu.
Hăy yết kiến vị ấy,
Vị luôn luôn giải thoát,
Bậc đại sĩ tiến bước,
Trên con đường Thiên đạo. |
179. Anomanāmaṃ nipuṇatthadassiṃ
paññādadaṃ kāmālaye asattaṃ,
taṃ passatha sabbaviduṃ sumedhaṃ
ariye pathe kamamānaṃ mahesiṃ. |
179. Chúng ta hăy chiêm ngưỡng
bậc Đại Ẩn Sĩ ấy, bậc có danh xưng cao tột, bậc nh́n thấy ư
nghĩa vi tế, bậc ban bố trí tuệ, không dính mắc ở trạng thái
tiềm ẩn của các dục, bậc biết tất cả, bậc khôn ngoan, đang bước
đi ở con đường thánh thiện. |
177. Bậc danh xưng vô thượng,
Bậc thấy đích tế nhị,
Bậc ban bố trí tuệ,
Không tham đắm dục tạng.
Hăy yết kiến vị ấy,
Vị Toàn trí, Thiện tuệ,
Bậc Đại sĩ tiến bước
Trên con đường Thánh đạo. |
180. Sudiṭṭhaṃ vata no ajja
suppabhātaṃ suvuṭṭhitaṃ,
yaṃ addasāma sambuddhaṃ oghatiṇṇamanāsavaṃ. |
180. Quả thật hôm nay chúng ta đă
nh́n thấy rơ ràng, b́nh minh rạng rỡ đă mọc lên tốt đẹp, nhờ thế
chúng ta đă nh́n thấy đấng Toàn Giác, bậc đă vượt qua (bốn) ḍng
nước lũ, không c̣n lậu hoặc. |
178. Hôm nay thật chúng con
Được thấy điềm tốt lành,
Được hào quang chói sáng,
Của b́nh minh tốt lành.
V́ chúng con được thấy,
Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác,
Bậc đă vượt bộc lưu,
Bậc đă đoạn lậu hoặc. |
181. Ime dasasatā yakkhā
iddhimanto yasassino,
sabbe taṃ saraṇaṃ yanti tvaṃ no satthā anuttaro. |
181. Một ngàn Dạ-xoa này, có thần
thông, có danh tiếng, tất cả đi đến nương nhờ Ngài. Ngài là bậc
Đạo Sư vô thượng của chúng tôi.
|
179. Ngàn vị dạ-xoa này,
Có thần lực danh xưng,
Tất cả xin đi đến
Y tựa quy ngưỡng Ngài,
Ngài là bậc Đạo Sư,
Vô thượng của chúng con. |
182. Te mayaṃ vicarissāma gāmā
gāmaṃ nagā nagaṃ,
namassamānā sambuddhaṃ dhammassa ca sudhammatanti.
|
182. Chúng tôi đây sẽ du hành từ
làng này đến làng nọ, từ núi này đến núi khác, kính lễ đấng Toàn
Giác và tính chất thánh thiện của Giáo Pháp. |
180. Chúng con sẽ bộ hành
Làng này qua làng khác,
Thành này qua thành khác,
Đảnh lễ bậc Chánh giác,
Đảnh lễ thiện pháp tánh,
Của Chánh pháp vi diệu. |
Hemavatasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Hemavata.
|
|
10. ĀḶAVAKASUTTAṂ
|
10. KINH ĀḶAVAKA
|
10. KINH
ALAVAKA |
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ
bhagavā āḷaviyaṃ viharati āḷavakassa yakkhassa bhavane atha kho
āḷavako yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti. |
Tôi đă nghe như vầy: Một thời đức
Thế Tôn ngự ở Āḷavī, tại nơi trú ngụ của Dạ-xoa Āḷavaka. Khi ấy,
Dạ-xoa Āḷavaka đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với
đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hăy đi ra.” |
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Alavi,
tại trú xứ của Dạ-xoa Alavaka. Rồi Dạ-xoa Alavaka
đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói với Thế Tôn:
- Này Sa-môn, hăy đi ra. |
Sādhāvusoti bhagavā nikkhami.
|
“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế
Tôn đă đi ra.
|
- Lành thay, Hiền giả.
Thế Tôn đi ra. |
Pavisa samaṇāti.
Sādhāvusoti bhagavā pāvisi.
|
“Này Sa-môn, hăy đi vào.”
“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế
Tôn đă đi vào.
|
- Này Sa-môn, hăy đi vào.
- Lành thay, Hiền giả.
Thế Tôn đi vào. |
Dutiyampi kho āḷavako yakkho
bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti. |
Đến lần thứ nh́, Dạ-xoa Āḷavaka
đă nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hăy đi ra.” |
Lần thứ hai,
Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:
- Này Sa-môn, hăy đi ra. |
Sādhāvusoti bhagavā nikkhami.
|
“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế
Tôn đă đi ra.
|
- Lành thay, Hiền giả.
Thế Tôn đi ra: |
Pavisa samaṇāti.
Sādhāvusoti bhagavā pāvisi.
|
“Này Sa-môn, hăy đi vào.”
“Này đạo hữu,
tốt lắm.” Đức Thế Tôn đă đi vào.
|
- Này Sa-môn, hăy đi vào.
- Lành thay, Hiền giả.
Thế Tôn đi vào. |
Tatiyampi kho āḷavako yakkho
bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti. |
Đến lần thứ ba, Dạ-xoa Āḷavaka đă
nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hăy đi ra.” |
Lần thứ ba, Dạ-xoa Alavaka
nói với Thế Tôn:
- Này Sa-môn, hăy đi ra. |
Sādhāvusoti bhagavā nikkhami.
|
“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế
Tôn đă đi ra. |
- Lành thay, Hiền giả.
Thế Tôn đi ra. |
Pavisa samaṇāti.
Sādhāvusoti bhagavā pāvisi. |
“Này Sa-môn, hăy đi vào.”
“Này đạo hữu, tốt lắm.” Đức Thế
Tôn đă đi vào.
|
- Này Sa-môn, hăy đi vào.
- Lành thay, Hiền giả.
Thế Tôn đi vào. |
Catutthampi kho āḷavako yakkho
bhagavantaṃ etadavoca: Nikkhama samaṇāti. |
Đến lần thứ tư, Dạ-xoa Āḷavaka đă
nói với đức Thế Tôn điều này: “Này Sa-môn, hăy đi ra.”
|
Lần thứ tư, Dạ-xoa Alavaka
nói với Thế Tôn:
- Này Sa-môn, hăy đi ra. |
Na khvāhaṃ taṃ āvuso
nikkhamissāmi yaṃ te karaṇīyaṃ taṃ karohīti. |
“Này đạo hữu, vậy th́ Ta sẽ không
đi ra. Điều ǵ mà ngươi cần làm th́ ngươi hăy làm điều ấy đi.”
|
- Này Hiền giả, Ta sẽ không đi ra
cho Ông. Ông cần ǵ hăy làm?
|
Pañhaṃ taṃ samaṇa pucchissāmi,
sace me na vyākarissasi cittaṃ vā te khipissāmi, hadayaṃ vā te
phālessāmi, pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipissāmīti. |
“Này Sa-môn, ta sẽ hỏi ông câu
hỏi, nếu ông không trả lời ta, th́ ta sẽ khuấy động tâm của ông,
hoặc ta sẽ chẻ đôi trái tim của ông, hoặc ta sẽ nắm ở hai bàn
chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā.”
|
- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ngài. Nếu
Ngài không trả lời cho ta, ta sẽ làm tâm trí Ngài điên loạn, hay
ta sẽ bóp nát quả tim của Ngài, hay nắm chân của Ngài, ta sẽ
quăng qua bờ sông bên kia sông Hằng. |
Na khvāhaṃ taṃ āvuso passāmi
sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya
sadevamanussāya yo me cittaṃ vā khipeyya hadayaṃ vā phāleyya
pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipeyya, api ca tvaṃ āvuso
puccha, yadākaṅkhasīti. |
“Này đạo hữu, Ta quả không nh́n
thấy người nào trong thế gian tính luôn cơi của chư Thiên, cơi
Ma Vương, cơi Phạm Thiên, cho đến ḍng dơi Sa-môn, Bà-la-môn,
các hạng chư Thiên và loài người mà có thể khuấy động tâm của
Ta, hoặc có thể chẻ đôi trái tim của Ta, hoặc có thể nắm ở hai
bàn chân rồi ném qua bên kia sông Gaṅgā. Này đạo hữu, tuy vậy
ngươi hăy hỏi điều mà ngươi muốn.” |
- Này Hiền giả, Ta không thấy một
ai trong thế giới với chư Thiên, với Ác ma và với Phạm thiên,
trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người,
lại có thể làm tâm Ta điên loạn, hay bóp nát quả tim của Ta, hay
nắm chân quăng Ta qua bên kia bờ sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền
giả, Ông cứ hỏi như ư Ông muốn.
|
Atha kho āḷavako yakkho
bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi: |
Khi ấy, Dạ-xoa Āḷavaka đă nói với
đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:
|
Rồi Dạ-xoa với bài kệ nói với Thế
Tôn: |
183. Kiṃ sūdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ
kiṃ sū suciṇṇaṃ sukhamāvahāti,
kiṃ sū have sādutaraṃ rasānaṃ
kathaṃ jīviṃ jīvitamāhu seṭṭhaṃ.
|
183. "Cái ǵ ở thế gian này là của
cải hạng nhất đối với con người?
Cái ǵ được khéo thực hành đem
lại sự an lạc?
Cái ǵ quả thật là ngọt ngào hơn
cả trong số các vị nếm?
Sống cách nào
người ta đă gọi là đời sống hạng nhất?"
|
Alavaka:
181. Ở đời, tài sản ǵ,
Tối thắng cho con người?
Cái ǵ khéo thực hành
Đem lại chơn an lạc.
Cái ǵ trong các vị,
Là vị ngọt tối thượng?
Nếp sống như thế nào,
Gọi nếp sống tối thắng? |
184. Saddhīdha vittaṃ purisassa
seṭṭhaṃ
dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti,
saccaṃ have sādutaraṃ rasānaṃ
paññājīviṃ jīvitamāhu seṭṭhaṃ.
|
184. "Đức tin ở thế gian này là
của cải hạng nhất đối với con người.
Giáo Pháp được khéo thực hành đem
lại sự an lạc.
Chân thật quả thật là ngọt ngào
hơn cả trong số các vị nếm.
Sống với trí
tuệ người ta đă gọi là đời sống hạng nhất."
|
Thế Tôn:
182. Ở đời này, ḷng tin,
Tối thắng cho con người,
Cái ǵ khéo thực hành,
Đem lại chơn an lạc?
Chánh pháp khéo thực hiện,
Đem lại chơn an lạc,
Sự thật trong các vị,
Là vị ngọt tối thượng,
Nếp sống với trí tuệ,
Là nếp sống tối thắng. |
185. Kathaṃ su tarati oghaṃ
kathaṃ su tarati aṇṇavaṃ,
kathaṃ su dukkhaṃ acceti kathaṃ su parisujjhati. |
185. "Làm thế nào vượt qua cơn lũ?
Làm thế nào vượt qua biển cả? Làm thế nào khắc phục khổ đau? Làm
thế nào trở nên thanh tịnh?"
|
Alavaka:
183. Thế nào vượt bộc lưu?
Thế nào vượt biển lớn?
Thế nào vượt qua khổ?
Thế nào thật thanh tịnh? |
186. Saddhāya taratī oghaṃ
appamādena aṇṇavaṃ,
viriyena dukkhamacceti paññāya parisujjhati. |
186. "Nhờ đức tin vượt qua cơn lũ.
Nhờ không xao lăng vượt qua biển cả. Nhờ tinh tấn khắc phục khổ
đau. Nhờ trí tuệ trở nên thanh tịnh."
|
Thế Tôn:
184. Với tín, vượt bộc lưu,
Không phóng dật, vượt biển,
Tinh tấn, vượt đau khổ,
Với tuệ, được thanh tịnh. |
187. Kathaṃ su labhate paññaṃ
kathaṃ su vindate dhanaṃ,
kathaṃ su kittiṃ pappoti kathaṃ mittāni ganthati,
asmā lokā paraṃ lokaṃ kathaṃ pecca na socati.
|
187. "Làm thế nào đạt được trí
tuệ? Làm thế nào kiếm được tài sản?
Làm thế nào thành đạt tiếng tăm?
Làm thế nào kết giao bạn hữu?
Từ đời này đến đời khác, làm thế
nào không sầu muộn sau khi chết?"
|
Alavaka:
185. Thế nào được trí tuệ?
Thế nào được tài sản?
Thế nào đạt danh xưng?
Thế nào cột bạn hữu?
Đời này qua đời sau,
Thế nào, chết không sầu? |
188. Saddhāno arahataṃ dhammaṃ
nibbānapattiyā,
sussūsā labhate paññaṃ appamatto vicakkhaṇo. |
188. "Trong khi có niềm tin vào
Giáo Pháp của các bậc A-la-hán nhằm đạt đến Niết Bàn, nhờ vào sự
mong mỏi lắng nghe, người không xao lăng, sâu sắc đạt được trí
tuệ.
|
Thế Tôn:
186. Tin tưởng bậc La-hán,
Tin pháp, đạt Niết-bàn,
Khéo nghe, được trí tuệ,
Bậc trí, không phóng dật. |
189. Patirūpakārī dhuravā uṭṭhātā
vindate dhanaṃ,
saccena kittiṃ pappoti dadaṃ mittāni ganthati. |
189. Người có việc làm phù hợp,
có trách nhiệm, năng động, kiếm được tài sản. Nhờ vào sự chân
thật thành đạt tiếng tăm. Trong khi bố thí kết giao các bạn hữu.
|
187. Làm thích đáng trách
nhiệm,
Phấn đấu được tài sản,
Với sự thật được danh,
Bố thí cột bạn bè.
|
190. Yassete caturo dhammā
saddhassa gharamesino,
saccaṃ dhammo dhiti cāgo sa ve pecca na socati.
|
190. Người nào, sống tại gia có
đức tin, sở hữu bốn pháp này: chân thật, chính trực, kiên tŕ,
xả thí, người ấy chắc chắn không sầu muộn sau khi chết.
|
188. Ai là người gia chủ,
Tin tưởng bốn pháp này,
Sự thật và Chánh pháp,
Kiên tŕ và bố thí,
Vị ấy sau khi chết,
Nhất định không sầu muộn. |
191. Iṅgha aññepi pucchassu puthu
samaṇabrāhmaṇe,
yadi saccā damā cāgā khantyā bhīneyā vijjati. |
191. Này, ngươi cũng hăy hỏi số
đông các Sa-môn và Bà-la-môn về các điều khác, nếu có điều nào
đó là tốt hơn sự chân thật, sự tự chế ngự, sự xả thí, và
sự
kham nhẫn."
|
189. Hăy hỏi các vị khác,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Nếu có pháp nào khác
Ở đời, lại thắng hơn,
Sự thật và nhiếp phục,
Bố thí và kham nhẫn? |
192. Kathaṃ nu dāni puccheyyaṃ
puthu samaṇabrāhmaṇe,
sohaṃ ajja pajānāmi yo cattho samparāyiko.
|
192. "V́ sao con lại phải hỏi số
đông các Sa-môn và Bà-la-môn? Hôm nay con đây biết rơ điều nào
là việc lợi ích ở thời vị lai.
|
Alavaka:
190. Sao nay con rộng hỏi,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Nay con được rơ biết,
Hiện, vị lai hạnh phúc. |
193. Atthāya vata me buddho
vāsāyā’ḷavimāgamī,
sohaṃ ajja pajānāmi yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
|
193. Quả thật v́ lợi ích cho con
mà đức Phật đă đi đến cư ngụ ở Āḷavī. Hôm nay con đây biết rơ
vật đă được bố thí ở nơi nào là có quả báu lớn lao.
|
191. V́ hạnh phúc cho con,
Mong rằng bậc Giác Ngộ,
Hăy đi đến an trú,
Tại xứ Alavi.
Nay con đă rơ biết.
Chỗ nào thí, quả lớn. |
194. So ahaṃ vivarissāmi gāmā
gāmaṃ purāpuraṃ,
namassamāno sambuddhaṃ dhammassa ca sudhammatanti. |
194. Con đây
sẽ du hành từ làng này đến làng nọ, từ phố này đến phố khác,
kính lễ đấng Toàn Giác và tính chất thánh thiện của Giáo Pháp." |
192. Con sẽ đi bộ hành,
Làng này qua làng khác,
Thành này qua thành khác,
Đảnh lễ bậc Giác Ngộ,
Đảnh lễ thiện pháp tánh
Của Chánh pháp vi diệu. |
Evaṃ vutte āḷavako yakkho
bhagavantaṃ etadavoca: Abhikkantaṃ bho gotama, abhikkantaṃ bho
gotama, seyyathāpi bho gotama nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya
paṭicchannaṃ vā vivareyya mūḷhassa vā maggā ācikkheyya andhakāre
vā telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto rūpāni dakkhintīti,
evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito, esāhaṃ
bhagavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca
bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge
pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti.
|
Khi được nói
như vậy, Dạ-xoa Āḷavaka đă nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch
Ngài, thật là tuyệt vời! Bạch Ngài, thật là tuyệt vời! Bạch
Ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đă được úp lại, mở ra
vật đă bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu
nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nh́n thấy được
các h́nh dáng;’ tương tự như thế Pháp đă được đức Thế Tôn giảng
rơ bằng nhiều phương tiện. Bạch Ngài, con đây xin đi đến nương
nhờ đức Thế Tôn Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Xin
đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đă đi đến nương nhờ kể từ
hôm nay cho đến trọn đời.”
|
|
Āḷavakasuttaṃ
niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Āḷavaka. |
|
11. VIJAYASUTTAṂ
|
11. KINH CHIẾN
THẮNG
|
11. KINH THẮNG TRẬN
|
195. Caraṃ vā yadi vā tiṭṭhaṃ
nisinno uda vā sayaṃ,
sammiñjeti pasāreti esā kāyassa iñjanā. |
195. Trong lúc đang bước đi, hoặc
đang đứng, đă ngồi xuống, hoặc đang nằm, người ta co lại, duỗi
ra (các khớp nối); việc ấy là cử động của thân.
|
193. Hoặc là đi hay đứng,
Hoặc là ngồi hay nằm,
Hoặc co tay, duỗi tay,
Như vậy, thân dao động. |
196. Aṭṭhinahārusaṃyutto
tacamaṃsāvalepano,
chaviyā kāyo paṭicchanno yathābhūtaṃ na dissati. |
196. Được nối liền bởi xương và
gân, được bôi trét bởi da và thịt, thân được che phủ bởi lớp da,
không nh́n thấy đúng theo bản thể thật.
|
194. Ràng buộc với xương gân,
Trét thoa với da thịt,
Thân được da che đậy,
Như thật không thấy rơ. |
197. Antapūrodarapūro yakapeḷassa
vatthino,
hadayassa papphāsassa vakkassa pihakassa ca. |
197. (Thân xác) được chất đầy bởi
ruột, được chất đầy bởi bao tử, bởi túi gan, bởi bàng quang, bởi
tim, bởi phổi, bởi thận, và bởi lá lách.
|
195. Trong một bụng chứa đầy,
Cục gan, và bọng đái,
Quả tim và buồng phổi,
Cả thận, và tỳ tạng. |
198. Siṅghāṇikāya kheḷassa
sedassa medassa ca,
lohitassa lasikāya pittassa ca vasāya ca. |
198. Bởi nước mũi, bởi nước
miếng, bởi mồ hôi, và bởi mỡ, bởi máu, bởi nước ở khớp xương,
bởi mật, và bởi huyết tương.
|
196. Nước mũi, và nước miếng,
Mồ hôi, và nước mỡ,
Máu, và nước khớp xương,
Mật, và bạch huyết cầu. |
199. Athassa navahi sotehi asucī
savati sabbadā,
akkhimhā akkhigūthako kaṇṇamhā kaṇṇagūthako.
|
199. Rồi chất dơ luôn luôn trào
ra từ chín ḍng chảy của thân xác này: chất dơ của mắt từ mắt,
chất dơ của tai từ tai.
|
197. Từ chín nguồn nước này,
Bất tịnh luôn luôn chảy,
Từ mắt, đồ bẩn chảy,
Từ tai, đồ bẩn chảy. |
200. Siṅghāṇikā ca nāsāto mukhena
vamat’ ekadā,
pittaṃ semhañca vamati kāyamhā sedajallikā. |
200. Và nước mũi từ mũi, có lúc
mật và đàm ói ra từ miệng, mồ hôi và cáu bẩn tiết ra từ thân.
|
198. Nước mũi từ lỗ mũi,
Từ miệng, có khi chảy,
Chảy mật, và niêm dịch,
Từ thân, mồ hôi bẩn. |
201. Athassa susiraṃ sīsaṃ
matthaluṅgassa pūritaṃ,
subhato naṃ maññatī bālo avijjāya purakkhato. |
201. Rồi cái đầu trống rỗng của
thân xác này được chứa đầy bởi năo bộ. Bị lèo lái bởi vô minh,
kẻ ngu nghĩ rằng nó là đẹp đẽ.
|
199. Trong đầu thật trống
rỗng,
Chứa đầy những óc, năo.
Bị vô minh dắt dẫn,
Kẻ ngu nghĩ tịnh sạch. |
202. Yadā ca so mato seti
uddhumāto vinīlako,
apaviddho susānasmiṃ anapekkhā honti ñātayo. |
202. Và khi nào kẻ ấy đă chết,
nằm xuống, trương lên, đổi màu xanh tím, bị liệng bỏ ở băi tha
ma, các thân nhân c̣n không trông ngóng.
|
200. Khi bị chết nằm xuống,
Phồng lên, và xanh bầm,
Quăng bỏ trong nghĩa địa,
Bà con không đoái hoài. |
203. Khādanti naṃ supāṇā ca
sigālā ca vakā kimī,
kākā gijjhā ca khādanti ye caññe santi pāṇino. |
203. Các con chó, dă can, chó
sói, và gịi bọ ngấu nghiến, các con quạ và diều hâu rỉa rói, và
có các loài sinh vật khác nữa.
|
201. Chó, dă can đến ăn,
Chó sói, các côn trùng,
Quạ, diều hâu đến ăn,
C̣n có hữu t́nh khác. |
204. Sutvāna buddhavacanaṃ
bhikkhu paññāṇavā idha,
so kho naṃ parijānāti yathābhūtaṃ hi passati. |
204. Ở đây, sau khi lắng nghe lời
dạy của đức Phật, vị tỳ khưu có tuệ. Thật vậy, vị ấy biết toàn
diện về thân xác này, bời v́ vị ấy nh́n thấy đúng theo bản thể
thật.
|
202. Được nghe lời Phật dạy,
Tỷ-kheo có trí tuệ,
Vị ấy liễu tri thân,
Thấy thân đúng như thật. |
205. Yathā idaṃ tathā etaṃ yathā
etaṃ tathā idaṃ,
ajjhattañca bahiddhā ca kāye chandaṃ virājaye. |
205. Cái này như thế nào, cái kia
như thế ấy; cái kia như thế nào, cái này như thế ấy. Nên ĺa
khỏi sự mong muốn ở thân xác, bên trong và bên ngoài.
|
203. Đây thế nào, kia vậy,
Kia thế nào, đây vậy,
Đối với thân trong ngoài,
Từ bỏ mọi ḷng dục. |
206. Chandarāgaviratto so bhikkhu
paññāṇavā idha,
ajjhagā amataṃ santiṃ nibbāna padamaccutaṃ. |
206. Đă ĺa khỏi ḷng mong muốn
và luyến ái, ở đây vị tỳ khưu ấy, thành tựu tuệ, đă đạt đến Bất
Tử, An Tịnh, vị thế Niết Bàn, Bất Hoại.
|
204. Từ bỏ ḷng tham dục,
Đây Tỷ-kheo có tuệ,
Chứng bất tử, tịch tịnh,
Niết-bàn giới thường trú. |
207. Dipādako yaṃ asuci duggandho
parihīrati,
nānākuṇapaparipūro vissavanto tato tato.
|
207. Thân xác có hai chân này,
không sạch sẽ, có mùi hôi, lại được săn sóc; nó tràn đầy chất
thối rửa, đang rỉ nước từ nơi kia nơi nọ.
|
205. Thân này với hai chân,
Bất tịnh và hôi thúi,
Đầy xác chết, chảy nước,
Lại được giữ, nâng niu. |
208. Etādisena kāyena yo maññe
uṇṇametave,
paraṃ vā avajāneyya kimaññatra adassanāti.
|
208. Với thân xác như thế này, kẻ
nào nghĩ đến kiêu hănh, hoặc khi dễ người khác, c̣n có điều ǵ
khác ngoài việc không nh́n thấy?
|
206. Với thân thể như vậy,
Ai lại nghĩ đề cao,
Hay khinh miệt kẻ khác,
Trừ kẻ không thấy ǵ. |
Vijayasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh
Chiến Thắng. |
|
12. MUNISUTTAṂ
|
12. KINH HIỀN
TRÍ
|
12. KINH ẨN SĨ
|
209. Santhavāto bhayaṃ jātaṃ
niketā jāyate rajo,
aniketamasanthavaṃ etaṃ ve munidassanaṃ. |
209. Sợ hăi sanh ra từ sự thân
thiết, bụi bặm sanh ra từ nhà ở. Không nhà ở, không thân thiết,
quả thật điều ấy là quan điểm của bậc hiền trí.
|
207. Thân mật, sanh sợ hăi,
Trú xứ, sanh bụi bặm,
Không trú xứ, không thân,
H́nh ảnh bậc ẩn sĩ. |
210. Yo jātamucchijja na
ropayeyya
jāyantamassa nānuppavecche,
tamāhu ekaṃ muninaṃ carantaṃ
addakkhi so santipadaṃ mahesi.
|
210. Người nào, sau khi cắt đứt
(ô nhiễm) đă được sanh ra, không nên vun trồng (ô nhiễm) đang
được sanh ra, không nên tham gia cùng với nó (ô nhiễm). Người ta
đă nói bậc hiền trí ấy đang du hành một ḿnh. Bậc đại ẩn sĩ ấy
đă nh́n thấy vị thế an tịnh.
|
208. Ai đă chặt sanh hữu,
Không c̣n gieo giống thêm,
Sanh hữu đă đoạn tận,
Không muốn nó tùy sanh,
Được gọi là ẩn sĩ,
Một ḿnh đi im lặng,
Bậc đại sĩ đă thấy,
Con đường tịch tịnh ấy. |
211. Saṅkhāya vatthūni pahāya
bījaṃ
sinehamassa nānuppavecche,
sa ve muni jātikhayantadassī
takkaṃ pahāya na upeti saṃkhaṃ. |
211. Sau khi đă xem xét các nền
tảng, sau khi đă dứt bỏ hạt giống yêu thương, không nên tham gia
cùng với nó. Quả thật, với việc nh́n thấy sự chấm dứt của việc
sanh ra và hoại diệt, bậc hiền trí ấy dứt bỏ các suy tầm (bất
thiện) và không c̣n đi đến sự định đặt (khái niệm).
|
209. Sau khi ước lượng đất,
T́m hiểu được hột giống,
Không c̣n muốn tham ái,
Được tiếp tục tùy sanh,
Vị ấy chân ẩn sĩ,
Thấy sanh diệt chấm dứt,
Đoạn tận mọi lư luận,
Không rơi vào tính toán. |
212. Aññāya sabbāni nivesanāni
anikāmayaṃ aññatarampi tesaṃ,
sa ve muni vītagedho agiddho
nāyūhatī pāragato hi hoti. |
212. Sau khi hiểu biết về tất cả
các nơi trú ngụ (các cảnh giới tái sanh),
không c̣n dục vọng với bất cứ nơi
trú ngụ nào trong số chúng.
Quả thật, bậc hiền trí ấy, đă xa
ĺa sự thèm khát, không bị thèm khát,
không c̣n tích lũy (nghiệp) bởi
v́ đă đi đến bờ kia. |
210. Đă rơ mọi trú xứ,
Không ham trú xứ nào,
Vị ấy chân ẩn sĩ,
Không tham, không say đắm.
Không c̣n phải ra sức,
Đă đạt bờ bên kia. |
213. Sabbābhibhuṃ sabbaviduṃ
sumedhaṃ
sabbesu dhammesu anūpalittaṃ,
sabbañjahaṃ taṇhakkhaye vimuttaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti. |
213. Là vị khuất phục tất cả,
biết rơ tất cả, có trí tuệ,
không bị nhiễm ô trong tất cả các
pháp,
từ bỏ tất cả, được giải thoát
trong sự diệt tận về tham ái,
chính vị ấy, các bậc sáng trí
nhận biết là
bậc
hiền trí.
|
211. Bậc chiến thắng toàn
diện,
Bậc toàn tri, thiện tuệ,
Đối với tất cả pháp,
Không c̣n bị ô nhiễm.
Bậc từ bỏ tất cả,
Ái đoạn diệt, giải thoát.
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ. |
214. Paññābalaṃ sīlavatūpapannaṃ
samāhitaṃ jhānarataṃ satīmaṃ,
saṅgāpamuttaṃ akhilaṃ anāsavaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti. |
214. Là vị có tuệ lực, đă thành
tựu về giới và phận sự,
được định tĩnh, thích thú việc
tham thiền, có niệm,
đă thoát khỏi sự quyến luyến,
không chướng ngại, không c̣n lậu hoặc,
chính vị ấy, các bậc sáng trí
nhận biết là bậc hiền trí.
|
212. Vị có trí tuệ lực,
Giới cấm được đầy đủ,
Định tĩnh, thích thiền định,
Ǵn giữ tŕ chánh niệm,
Giải thoát các trói buộc,
Không hoang vu, lậu tận,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ. |
215. Ekaṃ carantaṃ muniṃ
appamattaṃ
nindāpasaṃsāsu avedhamānaṃ,
sīhaṃva saddesu asantasantaṃ
vātaṃva jālamhi asajjamānaṃ,
padumaṃ va toyena alippamānaṃ
netāramaññesamanaññaneyyaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.
|
215. Vị hiền trí, du hành một
ḿnh, không xao lăng,
không rung động ở các lời khen
ngợi hay chê bai,
tựa như loài sư tử không kinh sợ
ở các tiếng động,
tựa như làn gió không bị dính mắc
ở tấm lưới,
tựa như đóa hoa sen không nhiễm
bẩn bởi nước,
người dẫn dắt những kẻ khác,
không bị dẫn dắt bởi kẻ khác,
chính vị ấy, các bậc sáng trí
nhận biết là bậc hiền trí.
|
213. Bộ hành, riêng một ḿnh,
ẩn sĩ, không phóng dật,
Trước chê bai, tán thán,
Không có bị dao động.
Như sư tử, không sợ,
Giữa các tiếng vang động.
Như gió không vướng lưới,
Như son không dính nước,
Bậc lănh đạo mọi người,
Người không ai lănh đạo.
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ. |
216. Yo gāhaṇe
thambhorivābhijāyatī
yasmiṃ pare vācāpariyantaṃ vadanti,
taṃ vītarāgaṃ susamāhitindriyaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.
|
216. Vị nào hành xử tựa như cây
cột trụ ở băi tắm,
khi những kẻ khác nói lời nói quá
mức,
vị ấy đă xa ĺa luyến ái, có giác
quan khéo được định tĩnh,
chính vị ấy, các bậc sáng trí
nhận biết là bậc hiền trí.
|
214. Vị nào biết xử sự,
Như cột trụ hồ tắm,
Khi người khác nói lời,
Lời khen chê cực đoạn,
Vị không có tham ái,
Với căn khéo định tĩnh,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ. |
217. Yo ve ṭhitatto tasaraṃva
ujjuṃ
jigucchati kammehi pāpakehi,
vīmaṃsamāno visamaṃ samañca
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti. |
217. Thật vậy, vị nào với tánh
kiên định, ngay thẳng tựa như con thoi,
nhờm gớm đối với các nghiệp ác,
cân nhắc việc không đúng đắn và
việc đúng đắn,
chính vị ấy, các bậc sáng trí
nhận biết là bậc hiền trí.
|
215. Ai thật tự ḿnh đứng
Thẳng như cây thoi đưa,
Nhàm chán các nghiệp ác,
Quán sát chánh, bất chánh,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ. |
218. Yo saññatatto na karoti
pāpaṃ
daharo ca majjhimo ca munī yatatto,
arosaneyyo so na roseti kañci
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti. |
218. Vị có bản thân đă tự chế ngự
không làm việc ác,
c̣n trẻ hoặc trung niên, vị hiền
trí có bản thân đă được chế ngự.
Không nổi giận, vị ấy không làm
bất cứ ai nổi giận,
chính vị ấy, các bậc sáng trí
nhận biết là bậc hiền trí.
|
216. Ai biết tự chế ngự,
Không làm các điều ác,
Trẻ và hạng trung niên,
Bậc ẩn sĩ chế ngự,
Vị không nên chọc giận,
V́ không làm ai giận,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ. |
219. Yadaggato majjhato sesato vā
piṇḍaṃ labhetha paradattūpajīvi,
nālaṃ thutuṃ nopi nipaccavādī
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.
|
219. Vị có mạng sống nhờ vào sự
bố thí của những người khác nên thọ nhận đồ ăn khất thực dầu là
từ phần bên trên, hay từ phần ở giữa, hoặc từ phần c̣n thừa lại,
không đáng để ca ngợi cũng không có lời nói miệt thị, chính vị
ấy, các bậc sáng trí nhận biết là bậc hiền trí.
|
217. Ai sống nhờ người cho,
Nhận lănh đồ khất thực,
Nhận từ trên, từ giữa,
Hay từ chỗ c̣n lại,
Không đủ để tán thán,
Không nói lời hạ ḿnh,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ. |
220. Muniṃ carantaṃ virataṃ
methunasmā
yo yobbane na upanibajjhate kvaci,
madappamādā virataṃ vippamuttaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.
|
220. Bậc hiền trí du hành, lánh
xa việc đôi lứa,
vào thời tuổi trẻ, không nên gắn
bó với bất cứ nơi đâu,
đă lánh xa sự say sưa và xao
lăng, đă được giải thoát,
chính vị ấy, các bậc sáng trí
nhận biết là bậc hiền trí.
|
218. Sống thụ hạnh ẩn sĩ,
Từ bỏ sự dâm dục,
Ai lúc c̣n tuổi trẻ,
Không bị trói buộc ǵ,
Từ bỏ mạn, phóng dật,
Được hoàn toàn giải thoát,
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ. |
221. Aññāya lokaṃ
paramatthadassiṃ
oghaṃ samuddaṃ atitariya tādiṃ,
taṃ chinnaganthaṃ asitaṃ anāsavaṃ
taṃ vāpi dhīrā muniṃ vedayanti.
|
221. Sau khi đă hiểu biết thế
gian, có sự nh́n thấy chân lư tuyệt đối,
sau khi đă vượt qua ḍng nước lũ
và biển cả, là bậc tự tại,
vị ấy đă cắt đứt sự trói buộc,
không c̣n lệ thuộc, không c̣n lậu hoặc,
chính vị ấy, các bậc sáng trí
nhận biết là bậc hiền trí.
|
219. Rơ biết được thế giới,
Thấy được lư chân đế,
Vượt khỏi được bộc lưu,
Vượt biển lớn như vậy.
Vị chặt đứt trói buộc,
Không ỷ lại, vô lậu.
Các bậc trí nhận thức,
Vị ấy thật ẩn sĩ. |
222. Asamā cubho
dūravihāravuttino
gihī dāraposī amamo ca subbato,
parapāṇarodhāya gihī asaññato
niccaṃ munī rakkhati pāṇino yato.
|
222. Và cả hai không tương tự
nhau, với chỗ trú ngụ và cách sinh sống khác xa nhau. Kẻ tại gia
nuôi vợ, c̣n vị vô sở hữu có sự hành tŕ tốt đẹp. Kẻ tại gia
không tự chế ngự ở việc chận đứng sanh mạng của kẻ khác, c̣n vị
hiền trí, đă được chế ngự, thường xuyên bảo vệ các sanh mạng.
|
220. Hai nếp sống không giống.
An trú, thật xa nhau,
Gia chủ, có vợ con,
Không ngă sở, khéo nhiếp,
Gia chủ không chế ngự,
Ngăn chận hữu t́nh khác,
Bậc ẩn sĩ luôn luôn,
Che chở loài hữu t́nh. |
223. Sikhī yathā nīlagīvo
vihaṅgamo
haṃsassa nopeti javaṃ kudācanaṃ,
evaṃ gihī nānukaroti bhikkhuno
munino vicittassa vanamhi jhāyatoti. |
Rắn, và vị Dhaniya nữa, sừng (tê
giác), và vị Kasī như thế ấy,
vị Cunda, và sự thoái hóa nữa,
người hạ tiện, sự tu tập tâm từ ái,
(Dạ-xoa) Sātāgira, Āḷavaka, chiến
thắng, và vị hiền trí như thế ấy,
mười hai bài
kinh này được gọi là ‘Phẩm Rắn.’
|
221. Giống như loại chim công,
Loại chim có cổ xanh,
Không bao giờ sánh bằng
Chim thiên nga nhanh nhẹn.
Cũng vậy, người gia chủ,
Không sánh bằng Tỷ-kheo,
Bậc ẩn sĩ viễn ly,
Sống thiền định trong rừng. |
Munisuttaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Dứt Kinh Hiền
Trí.
|
|
Uragavaggo paṭhamo.
|
Phẩm Rắn là thứ
nhất. |
|
TASSUDDĀNAṂ
Urago dhaniyo ceva visāṇañca
tathā kasī,
cundo parābhavo ceva vasalo
mettabhāvanā.
Sātāgiro āḷavako vijayo ca tathā
muni,
dvādasetāni suttāni uragavaggoti
vuccati. |
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Rắn, và vị Dhaniya nữa, sừng (tê
giác), và vị Kasī như thế ấy,
vị Cunda, và sự thoái hóa nữa,
người hạ tiện, sự tu tập tâm từ ái,
(Dạ-xoa) Sātāgira, Āḷavaka, chiến
thắng, và vị hiền trí như thế ấy,
mười hai bài kinh này được gọi là
‘Phẩm Rắn.’ |
|
<Trang
Trước> |
<Đầu Trang><Mục
Lục> |
<Trang Kế> |