XXII.
MAHĀNIPĀTO - NHÓM LỚN
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 188: |
Trang 189:
|
▪ 7.
MAHĀNĀRADAKASSAPAJĀTAKAṂ
|
▪ 7.
ĐẠI BỔN SANH NĀRADAKASSAPA |
544. CHUYỆN BẬC ĐẠI TRÍ
MAHÀNÀRADA-KASSAPA
(Tiền thân Mahanàrada-Kassapa) |
5283. Ahu rājā videhānaṃ aṅgāti nāma
khattiyo,
pahūtayoggo dhanimā anantabalaporiso.
|
5283. Xưa, đức vua của xứ sở Videha là vị
Sát-đế-lỵ tên Aṅgāti, có nhiều cỗ xe lớn, có tài sản, có lực
lượng quân đội vô số kể. |
1. Một v́ vua xứ Vi-đề-ha,
Tên gọi An-ga-ti, thuở xưa,
Có lắm cỗ xe, tài sản quư,
Binh hùng tướng mạnh kể sao vừa. |
5284. So ca paṇṇarasiṃ rattiṃ purime yāme
anāgate,
cātumassa komudiyā amacce sannipātayi.
|
5284.
Và vào đêm rằm Komudī thuộc tháng thứ tư của mùa mưa, khi canh
đầu chưa tàn, đức vua đă triệu tập các quan đại thần (gồm có):
|
2. Một đêm trăng sáng ngày mười lăm,
Canh một sắp qua, ánh nguyệt rằm,
Vào tháng tư mùa mưa mới đến,
Vua liền tụ họp đám quần thần. |
5285. Paṇḍite sutasampanne mihitapubbe
vicakkhaṇe,
vijayañca sunāmañca senāpatimalātakaṃ.
|
5285. Vijaya, Sunāma, và vị tướng lănh
quân đội Alāta, là các bậc sáng suốt, có nụ cười lúc gặp gỡ,
khôn ngoan. |
3. Vi-ja-ya, Đại tướng A-là,
Cùng với Đại thần Su-ma-na,
Là các trí nhân, tươi nét mặt,
Đông con kinh nghiệm đủ pḥ vua. |
5286. Tamanupucchi vedeho paccekaṃ brūtha
saṃruciṃ,
cātumassa komudajja juṇhaṃ vyapagataṃ tamaṃ,
kāyajja ratiyā rattiṃ viharemu imaṃ utuṃ.
|
5286.
Đức vua xứ Videha đă hỏi các vị quan đại thần ấy rằng: “Các
khanh, từng người một, hăy nói về ư thích của cá nhân. Hôm nay
là đêm rằm Komudī thuộc tháng thứ tư của mùa mưa, trăng sáng,
bóng tối bị xua tan, chúng ta có thể trải qua đêm ở tiết trời
này với sự thích thú sanh lên từ cơ thể.” |
4. Vua Vi-đề hỏi chúng triều đ́nh:
Hăy nói ư ḿnh muốn, mỗi khanh,
Nay đúng tháng tư, đêm măn nguyệt,
Mây mờ không phủ ánh trăng thanh,
Đêm nay ta có ǵ vui thú,
Tiêu khiển thời giờ ấy thật nhanh? |
Trang 190: |
Trang 191: |
5287. Tato senāpati rañño alāto
etadabravi,
haṭṭhaṃ yoggaṃ balaṃ sabbaṃ senaṃ sannāhayāmase.
|
5287.
Sau đó, Alāta, tướng quân của đức vua, đă nói điều này: “Chúng
ta hăy vũ trang quân đội để tất cả trở nên hăng hái, thiện
chiến, và mạnh mẽ. |
Lúc ấy Đại tướng Alàtaka tâu với vua: - Tâu Đại vương, ta hăy
tập hợp binh hùng tướng mạnh lại, rồi đi chinh chiến cùng với
muôn vạn dân chúng, cho phép chúng thần đem đặt dưới quyền Đại
vương những vị vua trước đây đă tự trị, đó là thiển ư của thần,
xin Đại vương cho phép chúng thần đi chinh phục những vùng đất
chưa từng bị chinh phục. |
5288. Niyyāma deva yuddhāya
anantabalaporisā,
ye te vasaṃ na āyanti vasaṃ upanayāmase,
esā mayhaṃ sakādiṭṭhi ajitaṃ ojināmase.
|
5288.
Tâu bệ hạ, chúng ta hăy xuất phát lực lượng quân đội vô số kể
vào chiến trường. Những kẻ nào không phục ṭng quyền lực của bệ
hạ, chúng ta hăy khép họ vào quyền lực, chúng ta hăy khuất phục
xứ sở chưa được thu phục; điều ấy là quan điểm riêng của hạ
thần.” |
5289. Alātassa vaco sutvā sunāmo
etadabravi,
sabbe tuyhaṃ mahārāja amittā vasamāgatā.
|
5289. Sau khi nghe lời nói của Alāta, vị
Sunāma đă nói điều này: “Tâu đại vương, tất cả những kẻ thù đều
đă phục ṭng quyền lực của bệ hạ. |
Khi nghe lời của Alàta tâu, Sumàna liền nói: - Tâu Đại vương,
các quốc thù của ngài đều đă được tập hợp về đây, họ đă buông
khí giới qua một bên và quy hàng Đại vương rồi. Hôm nay là ngày
đại lễ hội, thần không thích việc chiến chinh, xin Đại vương ra
lệnh mang rượu thịt cùng các loại sơn hào hải vị lên đây ta cùng
vui hưởng đờn ca xướng hát. |
5290. Nikkhittasatthā paccatthā
nivātamanuvattare,
uttamo ussavo ajja na yuddhaṃ mama ruccati.
|
5290. Những kẻ chống lại đă bỏ gươm đao
xuống chấp nhận việc đầu hàng. Hôm nay là ngày lễ quan trọng
nhất, việc đánh nhau không được thích thú đối với hạ thần.
|
5291. Annaṃ pānañca khajjañca khippaṃ
abhiharantu te,
ramassu deva kāmehi naccagīte suvādite.
|
5291. Hăy cho mọi người cấp tốc mang lại
cơm, nước, thức ăn. Tâu bệ hạ, xin bệ hạ hăy vui thích với các
dục ở điệu vũ, lời ca, và tấu nhạc du dương.” |
5292. Sunāmassa vāco sutvā vijayo
etadabravi,
sabbe kāmā mahārāja niccaṃ tava upaṭṭhitā.
|
5292. Sau khi nghe lời nói của Sunāma, vị
Vijaya đă nói điều này: “Tâu đại vương, tất cả các dục thường
xuyên sẵn sàng đối với bệ hạ. |
Nghe lời Sunàma tâu
như vậy, Vijaya liền nói: - Tâu Đại vương, tất cả thú vui dục
lạc lúc nào cũng sẵn sàng dâng lên Đại vương, không phải là khó
kiếm để làm thỏa ḷng Đại vương, nên dù có được những lạc thú
ấy, thần cũng không tán đồng. Xin Đại vương ngự xa giá đến hầu
thăm một vị Sa-môn hay Bà-la-môn tinh thông Thánh điển am tường
kinh nghĩa, có thể phá tan mọi hoài nghi của chúng thần hôm nay
về tâm nguyện của chúng thần. |
5293. Na hete dullabhā deva tava kāmehi
modituṃ,
sadāpi kāmā labbhanti netaṃ cittamataṃ mama.
|
5293.
Tâu bệ hạ, bởi v́ các dục ấy không khó đạt được đối với bệ hạ
khi bệ hạ có ư muốn vui thích với các dục. Mặc dầu các dục luôn
luôn được đạt đến, nhưng điều ấy không phải là suy nghĩ trong
tâm của hạ thần. |
5294. Samaṇaṃ brāhmaṇaṃ vāpi upāsemu
bahussutaṃ,
yo najja vinaye kaṅkhaṃ atthadhammavidū ise.
|
5294. Chúng ta nên đi đến hầu cận vị
Sa-môn hay là Bà-la-môn có kiến thức rộng, có sự hiểu biết về ư
nghĩa và giáo lư, có sự suy xét, là vị có thể xua tan nỗi hoài
nghi của chúng ta trong ngày hôm nay.” |
5295. Vijayassa vaco sutvā rājā
aṅgātimabravi,
yathā vijayo bhaṇati mayhampeteva ruccati.
|
5295. Sau khi nghe lời nói của Vijaya, đức
vua Aṅgāti đă nói rằng: “Giống như Vijaya nói, chính điều này
cũng được trẫm thích thú. |
Khi nghe lời của
Vijàya, vua Angati bảo:
- Lời tâu của Vijàya rất hợp ư trẫm, ta hăy cùng đi hầu thăm một
vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào tinh thông Thánh điển, am tường mọi
kinh nghĩa để có thể phá tan mối hoài nghi của ta về tâm nguyện
hôm nay. Các khanh hăy mau mau thi hành quyết định này, vậy ta
hăy đi hầu thăm vị Sư trưởng nào đây?Hôm nay vị nào tinh thông
kinh kệ cùng thâm nghĩa của Thánh điển có thể phá tan lưới nghi
của ta về các điều tâm nguyện. |
5296. Samaṇaṃ brāhmaṇaṃ vāpi upāsemu
bahussutaṃ,
yo najja vinaye kaṅkhaṃ atthadhammavidū ise.
|
5296. Chúng ta nên đi đến hầu cận vị
Sa-môn hay là Bà-la-môn có kiến thức rộng, có sự hiểu biết về ư
nghĩa và giáo lư, có sự suy xét, là vị có thể xua tan nỗi hoài
nghi của chúng ta trong ngày hôm nay. |
5297. Sabbeva santā karotha matiṃ kaṃ
upāsemu paṇḍitaṃ,
ko najja vinaye kaṅkhaṃ atthadhammavidū ise.
|
5297.
Tất cả các khanh đang hiện diện hăy suy nghĩ xem chúng ta nên đi
đến hầu cận bậc sáng suốt nào? Vị nào có sự hiểu biết về ư nghĩa
và giáo lư, có sự suy xét, có thể xua tan nỗi hoài nghi của
chúng ta trong ngày hôm nay?” |
5298. Vedehassa vaco sutvā alāto
etadabravi,
atthāya migadāyasmiṃ acelo dhīrasammato.
|
5298. Sau khi nghe lời nói của đức vua xứ
Videha, vị Alāta đă nói điều này: “Ở Migadāya có vị đạo sĩ lơa
thể được công nhận là sáng trí về ư nghĩa. |
Khi nghe vua nói vậy,
Alàta liền tâu: - Có một vị khổ hạnh lơa thể trú trong vườn Lộc
Uyển đằng kia, được mọi người tán thán là bậc hiền nhân,
|
Trang 192: |
Trang 192: |
5299. Guṇo kassapagottāyaṃ suto citrakathī
gaṇī,
taṃ deva payirupāsaya so no kaṅkhaṃ vinessati.
|
5299. Vị Guṇa này thuộc ḍng họ Kassapa,
có kiến thức, có sự thuyết giảng lưu loát, có đồ chúng. Tâu bệ
hạ, sau khi đi đến hầu cận vị ấy, vị ấy sẽ xua tan nỗi hoài nghi
của chúng ta.” |
tên gọi Guna ḍng
Ca-diếp, một bậc thuyết giáo đă lừng danh, có rất đông đệ tử
theo học. Vậy ta hăy đến hầu thăm ngài, ngài sẽ phá tan lưới
nghi của ta. |
5300. Alātassa vaco sutvā rājā codesi
sārathiṃ,
migadāyaṃ gamissāma yuttaṃ yānaṃ idhānaya.
|
5300. Sau khi nghe lời nói của vị Alāta,
đức vua đă ra lệnh cho người đánh xe: “Chúng ta sẽ đi đến
Migadāya. Khanh hăy đưa cỗ xe đă thắng ngựa đến đây.” |
Nghe lời tâu của
Alàta, vua ra lệnh cho quan thủ xa: - Trẫm muốn du hành đến vườn
Lộc Uyển, hăy mang xa giá đầy đủ yên cương lại đây. |
5301. Tassa yānaṃ ayojesuṃ dantaṃ
rūpiyapakkharaṃ,
sukkamaṭṭhaparivāraṃ paṇḍaraṃ dosināmukhaṃ.
|
5301. Bọn họ đă thắng ngựa vào cỗ xe của
đức vua được làm bằng ngà voi, có đường viền quanh bằng bạc, có
các đồ phụ tùng sạch sẽ bóng láng, có màu trắng tựa như ánh sáng
mặt trăng. |
Khi xa giá đă được
chuẩn bị yên cương, trang hoàng đầy đủ ngọc ngà, vàng bạc, cỗ xe
vương mă sáng ngời màu bạch ngọc, vẻ tinh khiết như bầu trời đêm
quang đăng. |
5302. Tatrāsuṃ kumudā yuttā cattāro
sindhavā hayā,
anilūpamasamuppātā sudantā soṇṇamālino.
|
5302. Tại nơi ấy, đă có bốn con ngựa ḍng
Sindhu màu hoa súng trắng, đă được nai nịt, có tốc độ tương tự
như làn gió, đă khéo được huấn luyện, có đeo ṿng hoa bằng vàng.
|
Bốn tuấn mă giống
Sindh trắng như hoa súng đă chầu sẵn, có sức phi nhanh như gió,
lại rất thuần thục, mang ṿng vàng lục lạc
|
5303. Setaṃ chattaṃ setaratho setassā
setavījanī,
vedeho sahamaccehi nīyyaṃ candova sobhatha.
|
5303. Cỗ xe màu trắng, có chiếc lọng màu
trắng, có ngựa màu trắng, có quạt màu trắng. Đức vua xứ Videha,
trong khi khởi hành cùng với các quan đại thần, tỏa sáng tựa như
mặt trăng. |
cùng lộng trắng, xe
trắng, ngựa trắng và quạt trắng. Đức vua khởi hành cùng đám cận
thần, rực rỡ như mặt trăng bạc.
|
5304. Tamannuyāyuṃ bahavo indakhaggadharā
balī,
assapiṭṭhigatā dhīrā narā naravarādhipaṃ.
|
5304. Nhiều người đă đi theo sau vị chúa
tể cao quư của loài người, các dũng sĩ mang gươm giáo, các bậc
sáng trí ngồi ở lưng ngựa. |
Nhiều bậc trí giả và
dũng sĩ nai nịt cung kiếm lên ngựa theo hầu đức vua anh hùng. |
5305. So muhuttaṃ va yāyitvā yānā oruyha
khattiyo,
vedeho sahamaccehi pattī guṇamupāgami.
|
5305. Sau khi đă ra đi chỉ trong chốc lát,
vị Sát-đế-lỵ xứ Videha ấy đă bước xuống xe, cùng với các quan
đại thần đi bộ đến gặp đạo sĩ lơa thể Guṇa. |
Sau một đoạn đường
dài, trong chốc lát, vua Videha cùng đám cận thần xuống xe, đi
bộ đến gần cḥi ẩn sĩ Guna;
|
5306. Yepi tattha tadā āsuṃ brāhmaṇibbhā
samāgatā,
na te apanayī rājā akaṭaṃ bhūmimāgate.
|
5306. Tại nơi ấy, vào lúc ấy, các
Bà-la-môn và các gia chủ cũng đă tụ hội lại. Đức vua đă không ra
lệnh dời đi những người ấy, những người đă đi đến làm cho khu
đất không c̣n chỗ trống. |
ngay lúc ấy các
Bà-la-môn và các phú gia đă tề tựu đông đúc tại đó. Nhà vua cũng
không ra lệnh bảo họ lui ra, mặc dù chẳng có chỗ nào dành cho
ngài. |
5307. Tato so mudukābhisiyā
muducittakalandake,
mudupaccatthate rājā ekamantaṃ upāvisi.
|
5307. Sau đó, vị vua ấy đă ngồi xuống một
bên, ở chiếc gối mềm, trên tấm nệm nhiều màu sắc mềm mại, ở nơi
đă được trải ra bằng tấm thảm mềm. |
Lúc ấy vua ngồi qua
một bên trên một tấm nệm êm ái, bọc bằng da lông sóc mượt mà đủ
loại cùng với một chiếc gối dựa mềm mại đặt ngang.
|
5308. Nisajja rājā sammodi kathaṃ
sārāṇiyaṃ tato,
kacci yāpanīyaṃ bhante vātānamavisaggatā.
|
5308. Đức vua đă ngồi xuống, sau đó đă vui
vẻ trao đổi lời xă giao thân thiện: “Thưa ngài, phải chăng việc
nuôi sống được thuận tiện, (tứ đại được điều ḥa) không bị quấy
rối bởi các cơn gió? |
Khi vừa an tọa, vua
chào hỏi vị ẩn sĩ bằng những lời tán thán đầy t́nh thân hữu và
cung kính: - Thưa Tôn giả, các nhu cầu về vật thực, y phục của
ngài có được đầy đủ chăng? Sinh lực của ngài không bị tiêu hao
nhiều chứ? |
5309. Kacci akasirā vutti labbhati
piṇḍayāpanaṃ,
appābādhovasī kacci cakkhuṃ na parihāyati.
|
5309. Phải chăng cuộc sống không gặp khó
khăn, việc chu cấp đồ ăn khất thực nhận được đầy đủ? Phải chăng
ngài ít bị bệnh, mắt không bị yếu?” |
Nếp sống của ngài có
dễ chịu chăng? Ngài có được cúng dường đúng thời chăng? Việc đi
lại của ngài có ǵ cản trở chăng? Nhăn quang của ngài vẫn được
tinh tường chứ? |
5310. Taṃ guṇo paṭisammodi vedehaṃ vinaye
rataṃ,
yāpanīyaṃ mahārāja sabbametaṃ tadūbhayaṃ.
|
5310. Vị đạo sĩ lơa thể Guṇa đă vui vẻ đáp
lại đức vua xứ Videha ấy, người thích thú trong việc rèn luyện:
“Tâu đại vương, việc nuôi sống được thuận tiện, mọi việc ấy,
luôn cả hai việc kia (đồ ăn khất thực và thị lực), đều tốt đẹp. |
Ẩn sĩ Gunà từ tốn đáp
lại vua Videha đang hết sức quan tâm đến phận sự của ngài: - Tâu
Đại vương, mọi nhu cầu vật dụng của bần đạo đều được đầy đủ, hai
vấn đề ngài nêu sau cùng cũng được như ư.
|
Trang 194: |
Trang 195:
|
5311. Kacci tuyhampi vedeha paccantā na
balīyare,
kacci arogaṃ yoggante kacci vahati vāhanaṃ,
kacci te vyādhayo natthi sarīrassupatāpikā.
|
5311. Tâu đức vua xứ Videha, phải chăng
các xứ lân bang của bệ hạ không gia tăng binh lực? Phải chăng
bầy thú kéo xe của bệ hạ không có bệnh? Và phải chăng cỗ xe hoạt
động tốt? Phải chăng các bệnh của bệ hạ không gây sự khó chịu ở
cơ thể?” |
C̣n phần Đại vương,
các vị quốc vương lân cận không quá hùng mạnh đối với Đại vương
chứ? Đại vương có được ngọc thể khang an chăng? Vương xa của Đại
vương thượng lộ b́nh an chứ? Đại vương không bị bệnh tật ǵ năo
hại chứ? |
5312. Paṭisammodito rājā tato pucchi
anantarā,
atthaṃ dhammañca ñāyañca dhammakāmo rathesabho.
|
5312. Được vui vẻ đáp lại, đức vua, đấng
thủ lănh xa binh, có ḷng mong mỏi giáo pháp, khi ấy, đă không
ngừng hỏi về ư nghĩa, về giáo lư, và về cách thức ứng xử rằng:
|
Vua mong cầu pháp
lành nên sau khi được vấn an xong, ngài liền hỏi vị ẩn sĩ ư
nghĩa và giáo pháp cùng giới luật công hạnh:
|
5313. Kathaṃ dhammaṃ care macco mātāpitusu
kassapa,
kathaṃ care ācariye puttadāre kathaṃ care.
|
5313. “Thưa ngài Kassapa, con người nên
thực hành đúng pháp đối với mẹ cha như thế nào? Nên thực hành
đối với thầy dạy học như thế nào? Nên thực hành đối với vợ con
như thế nào? |
- Thưa Tôn giả
Ca-diếp, một thế nhân phải cư xử như thế nào gọi là đúng pháp
đối với cha mẹ, đối với sư trưởng, đối với vợ con? |
5314. Kathaṃ careyya vuddhesu kathaṃ
samaṇabrāhmaṇe,
kathañca balakāyasmiṃ kathaṃ jānapade care.
|
5314. Nên thực hành đối với các bậc trưởng
thượng như thế nào? Đối với các Sa-môn và Bà-la-môn như thế nào?
Và đối với binh lính như thế nào? Nên thực hành đối với dân
chúng như thế nào? |
C̣n phải cư xử ra sao
đối với các bậc trưởng lăo, các Sa-môn, Bà-la-môn, với binh sĩ
cùng dân chúng trong quốc độ ḿnh? |
5315. Kathaṃ dhammaṃ caritvāna pecca
gacchati suggatiṃ,
kathañceke adhammaṭṭhā patanti nirayaṃ adho.
|
5315. Người thực hành đúng pháp sau khi
chết đi đến cảnh giới an vui như thế nào? Và một số người duy
tŕ sai pháp rơi xuống địa ngục như thế nào?” |
Làm thế nào để hành
tŕ đúng pháp rồi chung cuộc được lên Thiên giới? Và một số thế
nhân v́ theo tà pháp đă đọa địa ngục như thế nào? |
5316. Vedehassa vaco sutvā kassapo
etadabravi,
suṇohi me mahārāja saccaṃ avitathaṃ padaṃ.
|
5316. Sau khi nghe lời nói của đức vua xứ
Videha, vị đạo sĩ lơa thể Kassapa đă nói điều này: “Tâu đại
vương, xin ngài hăy lắng nghe lời nói chân thật, không sái quấy
của ta. |
Khi nghe vua Videha
hỏi, Kassapa trả lời: - Tâu Đại vương, đây là chân lư không sai
lạc: |
5317. Natthi dhammassa ciṇṇassa phalaṃ
kalyāṇapāpakaṃ,
natthi deva paro loko ko tato hi idhāgato.
|
5317. Không có quả báo thiện ác cho người
đă thực hành pháp. Tâu bệ hạ, không có đời sau, bởi v́ người nào
từ nơi ấy đi đến nơi này? |
Không có quả báo
thiện hay ác nào khi ta tuân giới luật, không có đời sau, tâu
Đại vương c̣n ai trở lại đời này sau khi mạng chung nữa?
|
5318. Natthi deva pitaro vā kuto mātā kuto
pitā,
natthi ācariyo nāma adantaṃ ko damessati.
|
5318. Tâu bệ hạ, không có ông bà; từ đâu
có mẹ, từ đâu có cha? Không có người gọi là thầy; ai sẽ thuần
hóa kẻ không được thuần hóa? |
Không có tổ tiên cha
mẹ, làm sao có cha hay mẹ được? Không có sư trưởng, v́ ai có khả
năng giáo hóa những pháp không thể được giáo hóa?
|
5319. Samatulyāni bhūtāni natthi
jeṭṭhāpacāyino,
natthi balaṃ vā viriyaṃ vā kuto uṭṭhānaporisaṃ,
niyatāni hi bhūtāni yathā goṭaviso tathā.
|
5319.
Các sinh linh đều b́nh đẳng và tương đương nhau, không có sự tôn
kính người lớn hơn, không có sức mạnh hoặc sự tinh tấn, từ đâu
có sự vươn lên của loài người? Bởi v́ các sinh linh (có số phận)
đă được định sẵn, giống như bánh lái của chiếc tàu (lèo lái
chiếc tàu). |
Mọi thế nhân đều b́nh
đẳng và giống nhau, không có kẻ nào đáng được kính lễ cũng không
có kẻ nào phải kính lễ người khác, không có các đức tính như
dũng mănh hoặc can trường v́ ở đời làm sao có được tinh tấn lực
hay tính anh hùng? Số phận các thế nhân đă được tiền định, cũng
như đuôi con tàu phải đi theo dấu con tàu vậy.
|
5320. Laddheyyaṃ labhate macco tattha
dānaphalaṃ kuto,
natthi dānaphalaṃ deva avaso deva vīriyo.
|
5320. Con người thọ nhận phần phải thọ
nhận; trong trường hợp ấy, quả báo của bố thí từ đâu có? Tâu bệ
hạ, không có quả báo của bố thí. Tâu bệ hạ, sự tinh tấn không có
năng lực. |
Mỗi thế nhân được thọ
hưởng phần ḿnh phải thọ hưởng, thế th́ bố thí để làm ǵ? Tâu
Đại vương, việc bố thí không ích lợi ǵ cả.
|
5321. Bālehi dānaṃ paññattaṃ paṇḍitehi
paṭicchitaṃ,
avasā denti dhīrānaṃ bālā paṇḍitamānino.
|
5321.
Vật bố thí được trao ra bởi các kẻ ngu và được tiếp nhận bởi các
bậc trí. Những kẻ ngu, không có quyền thế, bố thí đến các bậc
trí, có ư nghĩ ḿnh là người sáng suốt. |
Người bố thí là kẻ
yếu hèn, chẳng ai giúp đỡ, lễ vật bố thí được kẻ ngu ngốc đưa ra
và được kẻ không nhận lấy. Những kẻ vô trí, yếu hèn lại tưởng
ḿnh khôn ngoan khi bố thí cho kẻ có trí. |
Trang 196: |
Trang 197:
|
5322. Sattime sassatā kāyā acchejjā avikopino,
tejo paṭhavirāpo ca vāyo sukhadukhañcime,
jīve ca sattime kāyā yesaṃ chettā na vijjati.
|
5322. Bảy uẩn này là trường tồn, không thể
bị phá vỡ, không có sự xáo trộn. Bảy uẩn này là: lửa, đất, nước,
gió, lạc, khổ, và sự sống. Tác nhân phá vỡ chúng không hiện hữu.
|
- Có bảy uẩn không bị hủy diệt cũng không năo hại, đó là hỏa,
địa, thủy, không, lạc, khổ và tâm. Trong bảy uẩn này chẳng có
uẩn nào đủ công năng tiêu hủy hay phân tán.
|
5323. Natthi hantā vā chettā vā haññare vāpi koci naṃ,
antareneva kāyānaṃ satthāni vītivattare.
|
5323. Không có tác nhân nào tiêu diệt hoặc
phá vỡ được chúng, hoặc chúng tự bị tiêu diệt, dầu chỉ là một
uẩn nào đó. Các gươm đao xuyên qua ngay ở khoảng giữa của các
uẩn. |
Chúng cũng không hề bị phân hủy, gươm giáo đều vô hại đối với
các uẩn này. |
5324. Yopāyaṃ siramādāya paresaṃ nisitāsinā,
na so chindati te kāye tattha pāpaphalaṃ kuto.
|
5324. Kẻ nào mặc dầu đă nắm lấy và chặt
đứt cái đầu của những người khác bằng cây gươm bén, cũng không
cắt đứt được các uẩn ấy; trong trường hợp ấy, quả báo của tội ác
từ đâu có? |
Kẻ nào cắt đầu kẻ khác bằng thanh kiếm sắc bén cũng không thể
phân tán các uẩn này, thế th́ làm sao lại có thể hưởng được
nghiệp quả v́ làm ác nghiệp? |
5325. Cullāsīti māhākappe sabbe sujjhanti saṃsaraṃ,
anāgate tamhi kāle saññatopi na sujjhati.
|
5325. Tất cả được trong sạch trong khi
luân hồi tám mươi bốn đại kiếp. Khi thời gian ấy chưa được trải
qua, kẻ đă tự kiềm chế cũng không được trong sạch. |
Mọi chúng sanh đều được sạch tội lỗi khi đă sống qua tám mươi
bốn đại kiếp, trước thời kỳ đó chẳng có một người Phạm hạnh nào
được rửa sạch tội lỗi cả.
|
5326. Caritvāpi bahuṃ bhadraṃ neva sujjhanti nāgate,
pāpaṃ cepi bahuṃ katvā taṃ khaṇaṃ nātivattare.
|
5326. Dầu đă thực hành nhiều điều tốt đẹp,
họ vẫn không được trong sạch khi thời hạn chưa đến. Dầu cho đă
làm nhiều việc ác, họ cũng không vượt quá thời hạn ấy. |
Trước khi thời kỳ đó đến, dù họ thực hành giới hạnh bao nhiêu đi
nữa, họ cũng không thể rửa sạch tội lỗi, và dù họ phạm bao nhiêu
tội chướng đi nữa, họ cũng không thể vượt quá giới hạn đó.
|
5327. Anupubbena no suddhi kappānaṃ cullasītiyā,
niyatiṃ nātivattāma velantamiva sāgaro.
|
5327. Sự trong sạch của chúng ta sẽ theo
tuần tự trải qua tám mươi bốn kiếp. Chúng ta không vượt qua được
số phận (đă ấn định), tựa như biển cả không vượt qua giới hạn
của bờ cát.” |
Lần lượt con người sẽ được rửa sạch tội qua tám mươi bốn kiếp;
ta không thể vượt quá số phận ta, cũng như biển không thể vượt
bờ. |
5328. Kassapassa vaco sutvā alāto etadabravi,
yathā bhadanto bhaṇati mayhaṃpeteva ruccati.
|
5328. Sau khi nghe lời nói của đạo sĩ lơa
thể Kassapa, Alāta đă nói điều này: “Giống như lời đại đức nói,
chính điều này cũng được tôi thích thú. |
Khi nghe Kassapa nói vậy, Alàta đáp lời: - Những điều Tôn giả
nói rất hợp ư ta, |
5329. Ahaṃpi purimaṃ jātiṃ sare saṃsaritattano,
piṅgalo nāmahaṃ āsiṃ luddo goghātako pure.
|
5329. Tôi cũng nhớ lại việc đă bị luân hồi
của bản thân ở kiếp sống trước đây. Tôi đă là gă thợ săn, kẻ
giết trâu ḅ, tên Piṅgala ở tại thành phố. |
ta cũng nhớ lại đă trải qua một tiền kiếp: Ta là một thợ săn ḅ
tên là Pingala ở một tỉnh thành kia. |
5330. Bārāṇasiyaṃ phītāya bahuṃ pāpaṃ kataṃ mayā,
bahū mayhaṃ hatā pāṇā mahisā sūkarā ajā.
|
5330. Ở trong thành Bārāṇasī phồn thịnh,
tôi cũng đă làm nhiều tội ác. Tôi đă giết chết nhiều mạng sống:
trâu, heo, dê. |
Ta đă phạm bao nhiêu tội lỗi ở thành Ba-la-nại giàu có ấy. Ta đă
giết biết bao nhiêu sinh mạng ḅ, heo, trâu, dê.
|
5331. Tato cuto idha jāto iddhe senāpatikule,
natthi nūna phalaṃ pāpe sohaṃ na nirayaṃ gato.
|
5331. Từ nơi ấy chết đi, tôi đă được sanh
ra ở nơi này, trong gia tộc giàu có của vị tướng lănh quân đội.
Đương nhiên không có quả báo ở tội ác, tôi đây đă không đi đến
địa ngục.” |
Hết kiếp đó, ta lại sinh vào gia đ́nh phồn thịnh của một viên
đại tướng; như thế không hề có quả ác v́ hành nghiệp ác nên ta
đă không đọa vào địa ngục. |
5332. Athettha bījako nāma dāso āsi paḷaccarī,
uposathaṃ upavasanto guṇasantikupāgami.
|
5332. Khi ấy, tại nơi này, có gă nô lệ tên
Bījaka nghèo khó, khốn khổ. Trong khi hành tŕ ngày trai giới,
gă đă đi đến nơi ở của đạo sĩ lơa thể Guṇa. |
Lúc ấy có một tên nô lệ ăn mặc rách rưới tên là B́jaka đang hành
tŕ trai giới cũng đến đây nghe Guna thuyết pháp.
|
Trang 198: |
Trang 199:
|
5333. Kassapassa vaco sutvā alātassa ca bhāsitaṃ,
passasanto muhuṃ uṇhaṃ rudaṃ assūni vattayi.
|
5333. Sau khi nghe lời nói của đạo sĩ lơa
thể Kassapa và lời đáp lại của Alāta, trong khi liên tiếp thở
dài bực bội, trong khi khóc lóc, gă đă để trào ra những giọt
nước mắt. |
Khi nghe Kassapa và Alàta đối đáp như vậy, gă thở dài năo nuột
và bật khóc. |
5334. Tamanupucchi vedeho kimatthaṃ samma rodasi,
kinte sutaṃ vā diṭṭhaṃ vā kiṃ maṃ vedesi vedanaṃ. |
5334. Đức vua xứ Videha đă hỏi gă ấy rằng:
“Này khanh, v́ lư do ǵ mà ngươi khóc lóc? Điều ǵ đă được ngươi
nghe hoặc thấy? Ngươi hăy cho trẫm biết cảm thọ ra sao?” |
Vua hỏi: - Tại sao người khóc? Ngươi đă nghe thấy ǵ chăng? Tại
sao ngươi lộ vẻ đau khổ với ta như vậy? |
5335. Vedehassa vaco sutvā bījako etadabravi,
natthi me vedanā dukkhā mahārāja suṇohi me.
|
5335. Sau khi nghe lời nói của đức vua xứ
Videha, Bījaka đă nói điều này: “Không có cảm thọ khổ đau đối
với thần. Tâu đại vương, xin ngài hăy lắng nghe thần. |
B́jaka trả lời: - Tâu Đại vương, tiểu nô chẳng có ǵ làm khổ
đâu, xin Đại vương hăy nghe tiểu nô giải bày.
|
5336. Ahampi purimaṃ jātiṃ sarāmi sukhamattano,
sāketāhaṃ pure āsiṃ bhāvaseṭṭhi guṇe rato.
|
5336. Thần cũng nhớ lại sự sung sướng của
bản thân ở kiếp sống trước đây. Thần đă là triệu phú gia
Bhāvaseṭṭhi ở thành Sāketa, thích thú trong việc công đức. |
Tiểu nô cũng nhớ lại tiền kiếp rất được
sung sướng, tiểu nô là một Bhavasetthi (phú thương) trong thành
Sàketa, chuyên tŕ công đức, |
5337. Sammato brāhmaṇibbhānaṃ saṃvibhāgarato suci,
na cāpi pāpakaṃ kammaṃ sarāmi katamattano.
|
5337. Thần trong sạch, thích thú việc san
sẻ, được các vị Bà-la-môn và các phú gia ca ngợi. Thần nhớ lại
bản thân cũng đă không làm nghiệp ác. |
giữ thân trong sạch hay bố thí, được các
Bà-la-môn và các phú gia rất quư trọng. |
5338. Tato cutāhaṃ vedeha idha jāto duritthiyā,
gabbhamhi kumbhadāsiyā yato jāto suduggato.
|
5338.
Từ nơi ấy chết đi, tâu đức vua xứ Videha, thần đă bị sanh vào
bào thai của một phụ nữ nghèo khổ là người nữ tỳ đội nước. Từ
khi được sanh ra, thần đă lâm cảnh vô cùng khó khăn. |
Tiểu nô nhớ lại ḿnh chẳng hề phạm tội ác
bao giờ. Nhưng khi hết kiếp ấy, tiểu nô lại đầu thai vào bụng
một gái giang hồ nghèo khó và ra đời chịu rất nhiều cực khổ.
|
5339. Evampi duggato santo samacariyaṃ adhiṭṭhito,
upaḍḍhabhāgaṃ bhattassa dadāmi yo me icchati.
|
5339.
Mặc dầu bị lâm cảnh khó khăn như vậy, thần đă quyết tâm hạnh
sống b́nh đẳng. Thần bố thí một nửa phần bữa ăn của thần đến
người nào thích. |
Tuy nhiên dù khổ cực như hiện nay, tiểu nô
vẫn giữ tâm trí thanh tịnh, tiểu nô nhường phân nửa thức ăn cho
kẻ nào cần thực phẩm. |
5340. Cātuddasiṃ pañcadasiṃ sadā upavasāmahaṃ,
na cāpi bhūte hiṃsāmi theyyañcāpi vivajjayiṃ.
|
5340. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm,
thần luôn luôn hành tŕ trai giới. Thần cũng không hăm hại các
sanh linh và cũng đă lánh xa việc trộm cắp. |
Tiểu nô giữ trai giới các ngày mười bốn và
rằm, chẳng hề sát sanh trộm cắp. |
5341. Sabbameva hi nūnetaṃ suciṇṇaṃ bhavati nipphalaṃ,
niratthaṃ maññidaṃ sīlaṃ alāto yatha bhāsati.
|
5341. Bởi v́, chắc chắn rằng toàn bộ tất
cả việc thực hành tốt đẹp ấy là không có quả báo. Thần nghĩ rằng
giới hạnh này không có lợi ích, giống như tướng quân Alāta nói.
|
Nhưng tất cả những điều lành đó không đem
lại quả tốt nào như Alàta vừa nói, tiểu nô cho rằng công đức
thật chẳng ích ǵ. |
5342. Kalimeva nūna gaṇhāmi asippo dhuttako yathā,
kaṭaṃ alāto gaṇhāti kitavo sikkhito yathā.
|
5342. Có lẽ thần gặp phải vận xấu, giống
như kẻ bịp bợm không rành nghề. C̣n tướng quân Alāta nắm được sự
may mắn, giống như kẻ chơi tṛ đổ xúc xắc đă được huấn luyện. |
Tiểu nô thua cuộc trong đời như kẻ chơi
súc sắc bất tài, c̣n Alàta thắng cuộc như một kẻ đánh súc sắc
khéo tay. |
5343. Dvāraṃ nappatipassāmi yena gacchāmi suggatiṃ,
tasmā rāja parodāmi sutvā kassapabhāsitaṃ.
|
5343. Thần không nh́n thấy cánh cửa để
thần đi đến cảnh giới an vui. V́ thế, tâu bệ hạ, thần bật khóc
sau khi nghe lời nói của vị đạo sĩ lơa thể Kassapa.” |
Tiểu nô
không có cách nào lên thiên giới cả, v́ thế tiểu nô rơi lệ khi
nghe ngài Ca-diếp nói pháp. |
5344. Bījakassa vāco sutvā rājā aṅgātimabravi,
natthi dvāraṃ sugatiyā niyatiṃ kaṅkha bījaka.
|
5344. Sau khi nghe lời nói của Bījaka, đức
vua Aṅgāti đă nói rằng: “Không có cánh cửa vào cảnh giới an vui,
này Bījaka, ngươi hăy trông chờ số phận. |
Sau khi nghe B́jaka nói vậy, vua Angati
đáp: - Không có lối lên thiên đàng, chỉ đợi chờ số phận. |
Trang 200: |
Trang 201:
|
5345. Sukhaṃ vā yadi vā dukkhaṃ niyatiyā kira labbhati,
saṃsārasuddhi sabbesaṃ mā turittho anāgate.
|
5345. Thật vậy, con người được nhận lănh
hạnh phúc hay khổ đau là do số phận. Tất cả đều có sự thanh tịnh
thông qua luân hồi. Các khanh chớ vội vă về tương lai. |
Số người sướng hay khổ là do số phận định
đoạt. Chung cuộc mọi chúng sinh sẽ được giải thoát khỏi luân
hồi, vậy đừng nóng ḷng v́ tương lai. |
5346. Ahampi pubbe kalyāṇe brāhmaṇibbhesu vyāvaṭo,
vohāramanusāsanto ratihīno tadantarā.
|
5346. Trước đây, trẫm cũng đă bị bận rộn
về việc thiện, về các vị Bà-la-môn và các phú gia. Trong khi chỉ
bảo việc phán xử, trẫm đă bỏ bê khoái lạc trong khoảng thời gian
ấy. |
Trong các đời trước của ta, ta cũng đă
được nhiều phước phần và chuyên tâm phụng sự các Bà-la-môn cùng
các phú gia, nhưng lúc ta bận chấp chánh trị dân, ta lại không
được hưởng lạc ǵ cả. |
5347. Punapi bhante dakkhemu saṅgati ce bhavissati,
idaṃ vatvāna vedeho paccagā sanivesanaṃ.
|
5347. Thưa ngài đạo sĩ, chúng ta cũng có
thể gặp lại nếu có sự gặp gỡ.” Nói xong lời này, đức vua xứ
Videha đă quay về lại chỗ trú ngụ của ḿnh. |
Thưa Tôn giả Kassapa, trẫm xin từ tạ Tôn
giả, ta sẽ c̣n dịp hội ngộ ngày sau." Nói xong vua Videha trở về
cung. |
5348. Tato ratyā vivasane upaṭṭhānamhi aṅgati,
amacce sannipātetvā idaṃ vacanamabravi.
|
5348. Sau đó, vào cuối đêm, đức vua Aṅgāti
đă triệu tập các quan đại thần ở pḥng hội và đă nói lời nói
này: |
Qua đêm đó, rạng ngày mai, vua Angàti
triệu tập các vị đại thần lại và phán: |
5349. Candake me vimānasmiṃ sadā kāme vidhentu me,
māmūpagacchuṃ atthesu guyhappākāsiyesu ca.
|
5349. “Tại cung điện Candaka của trẫm, hăy
để bọn họ luôn luôn cung cấp các dục cho trẫm. Và chớ để bọn họ
đi đến về các việc riêng hay việc công. |
- Các khanh cho bày đủ mọi thứ dục lạc
trong điện Candaka để trẫm an hưởng, không ai được dâng sớ về
việc công tư ǵ nữa. |
5350. Vijayo ca sunāmo ca senāpati alātako,
ete atthe nisīdantu vohārakusalā tayo.
|
5350. Vijaya, Sunāma, và vị tướng lănh
quân đội Alāta, ba vị đều thiện xảo về việc phán xử. Hăy để các
vị ngồi giải quyết các công việc này.” |
Các khanhVijaya, Sunàma và đại tướng
Alàtaka đều tinh thông luật pháp, hăy ngồi xét xử mọi vấn đề
thay trẫm. |
5351. Idaṃ vatvāna vedeho kāme ca bahumaññatha,
na cāpi brāhmaṇibbheṣu atthe kismiñci vyāvaṭo.
|
5351. Sau khi nói điều ấy, đức vua xứ
Videha đă suy nghĩ nhiều về các dục, và không bị bận rộn về bất
cứ công việc nào, cũng như về các vị Bà-la-môn và các phú gia
nữa.
|
Vua nói thế xong, chẳng c̣n bận tâm điều
ǵ nữa ngoài dục lạc và ngài cũng chẳng c̣n thân cận với các
Bà-la-môn cùng các phú gia nữa. |
5352. Tato dve sattarattassa vedehassatrajā piyā,
rājakaññā rujā nāma dhātimātaramabravi.
|
5352.
Sau đó, vào đêm mười bốn, người con gái ruột yêu quư của đức vua
xứ Videha, công chúa tên Rujā, đă nói với người nhũ mẫu rằng:
|
Thế rồi vào đêm mười bốn, ái nữ của vua,
công chúa Rujà, nói với bà nhũ mẫu: |
5353. Alaṅkarotha maṃ khippaṃ sakhiyo ca karontu me,
suve paṇṇaraso dibbo gacchaṃ issarasantike.
|
5353. “Hăy mau chóng trang điểm cho con.
Và hăy bảo các nữ tỳ của con làm việc. Ngày mai là ngày mười
lăm, ngày của chư Thiên, con có thể đi đến gặp vua cha.” |
- Xin nhũ mẫu trang sức ngọc vàng cho con thật nhanh, bảo các
thị nữ đến hầu con ngày mai là ngày lễ rằm, con sẽ đi yết kiến
phụ vương. |
5354. Tassā mālyaṃ abhihariṃsu candanañca mahārahaṃ,
maṇisaṅkhamuttaratanaṃ nānāratte ca ambare.
|
5354. Các nàng đă mang lại tràng hoa và
trầm hương có giá trị cao, ngọc ma-ni, xà cừ, ngọc trai, ngọc
quư, và các tấm vải có màu sắc khác nhau. |
Họ liền đem cho nàng một tràng hoa cùng
gỗ đàn hương, ngọc ngà châu báu đủ loại và xiêm y lộng lẫy muôn
màu, |
5355. Tañca sovaṇṇaye pīṭhe nisinnaṃ bahukitthiyo,
parikiriya asobhiṃsu rujaṃ ruciravaṇṇiniṃ.
|
5355. Công chúa Rujā có sắc đẹp quyến rũ
ấy đă ngồi xuống ở chiếc ghế làm bằng vàng. Nhiều người phụ nữ
đă vây quanh và làm cho nàng chói sáng. |
nhiều thị nữ vây
quanh nàng lúc nàng ngồi trên chiếc kim đôn, trang sức cho nàng
cực kỳ rực rỡ tôn vẻ kiều diễm của nàng. |
5356. Sā ca sakhīmajjhagatā sabbābharaṇabhūsitā,
sateratā abbhamiva candakaṃ pāvisī rujā.
|
5356. Và nàng Rujā ấy, được tô điểm với
mọi thứ trang sức, đi ở giữa các nữ tỳ, đă tiến vào cung điện
Candaka, tựa như tia chớp ở bầu trời. |
Sau đó được đoàn thị nữ tháp tùng chung
quanh, sáng ngời trong các món trang sức trân bảo, công chúa
Rujà bước vào cung Candaka như tia chớp lóe giữa vầng mây.
|
Trang 202:
|
Trang 203:
|
5357. Upasaṅkamitvā vedehaṃ vanditvā
vinaye ratā,
suvaṇṇavikate pīṭhe ekamantaṃ upāvisi.
|
5357. Sau khi đi đến gần, công chúa Rujā,
thích thú trong việc rèn luyện, đă đảnh lễ đức vua xứ Videha,
rồi ngồi xuống một bên, ở chiếc ghế được khảm vàng. |
Sau khi đến gần phụ vương đảnh lễ hết sức
cung kính xong, nàng ngồi xuồng một bên trên chiếc bảo tọa chạm
vàng. |
5358. Tañca disvāna vedeho accharānaṃva
saṅgamaṃ,
rujaṃ sakhimajjhagataṃ idaṃ vacanamabravi.
|
5358. Và sau khi nh́n thấy công chúa Rujā
ấy đứng ở giữa các nữ tỳ, tựa như cuộc hội họp của các tiên nữ,
đức vua xứ Videha đă nói lời nói này: |
Khi vua thấy nàng được đám cung nữ theo
hầu như một bầy tiên nữ, liền phán bảo: |
5359. Kacci ramasi pāsāde anto pokkharaṇiṃ
pati,
kacci bahuvidhaṃ khajjaṃ sadā abhiharanti te.
|
5359.
“Phải chăng con ưa thích hồ nước ở bên trong ṭa lâu đài? Phải
chăng thức ăn nhiều loại luôn luôn được mang đến cho con? |
- Này công chúa, con có vui chơi thỏa
thích trong hồ nước nội cung chăng? Chúng có thường dâng con đủ
loại cao lương mỹ vị chăng? |
5360. Kacci bahuvidhaṃ mālyaṃ ocinitvā
kumāriyo,
gharake karotha paccekaṃ khiḍḍhāratiratā muhuṃ.
|
5360. Phải chăng những thiếu nữ các nàng
thường hay ưa thích vui chơi đùa giỡn, đă thu thập tràng hoa
nhiều loại rồi làm các căn nhà nhỏ riêng biệt? |
Con cùng các thị nữ có thường kết đủ loại
tràng hoa và xây nhà mát để chúng con nghỉ ngơi, vui đùa giải
trí chăng? |
5361. Kena vā vikalaṃ tuyhaṃ khippaṃ
abhiharantu te,
mano karassu kuḍḍamukhī api candasamamhipi.
|
5361. Hay là con thiếu thốn thứ ǵ? Hăy
bảo bọn họ cấp tốc mang lại. Này cô gái có khuôn mặt trong
sáng, con hăy suy nghĩ đi, cho dầu là vật khó khăn giống như mặt
trăng.” |
Bảo chúng đem lại đây ngay, con hăy thỉnh
cầu phụ vương mọi điều con ưa thích, những điều gay go nhất, dù
có khó như t́m mặt trăng đi nữa. |
5362. Vedehassa vaco sutvā rujā
pitaramabravi,
sabbametaṃ mahārāja labbhatissarasantike.
|
5362. Sau khi nghe lời nói của đức vua xứ
Videha, công chúa Rujā đă nói với vua cha rằng: “Tâu đại vương,
ở cạnh vị chúa tể, tất cả mọi thứ ấy đều được chu cấp. |
Nghe vua cha nói như vậy, công chúa thưa:
- Tâu phụ vương, trước long nhan, mọi nguyện vọng của tiện nữ
đều được thỏa măn. |
5363. Suve paṇṇaraso dibbo sahassaṃ
āharantu me,
yathādinnañca dassāmi dānaṃ sabbavaṇīsu ’haṃ.
|
5363.
Ngày mai là ngày mười lăm, ngày của chư Thiên, hăy bảo bọn họ
mang lại cho con một ngàn. Và với số tiền đă được cha cho, con
sẽ ban bố vật thí đến những người hành khất.” |
Ngày mai là ngày lễ rằm, xin phụ vương ban
cho con một ngàn đồng tiền để con bố thí cho các kẻ hành khất. |
5364. Rujāya vacanaṃ sutvā rājā
aṅgātimabravi,
bahuṃ vināsitaṃ vittaṃ niratthaṃ aphalaṃ tayā.
|
5364. Sau khi nghe lời nói của công chúa
Rujā, đức vua Aṅgāti đă nói rằng: “Nhiều của cải bị tiêu tan
không có lợi ích, không có quả báo do con.
|
Nghe Rujà nói, vua liền đáp: - Con đă
phung phí nhiều của cải mà chẳng có kết quả ǵ, |
5365. Uposathaṃ vasaṃ niccaṃ annapānaṃ na
bhuñjasi,
niyatetaṃ abhuttabbaṃ natthi puññaṃ abhuñjato.
|
5365. Trong khi hành tŕ ngày trai giới,
con thường xuyên không thọ dụng cơm nước. Việc ấy là số phận, là
không có thể thọ dụng. Không có phước báu cho người không thọ
dụng. |
con giữ ǵn trai giới, kiêng cử ăn uống,
nhưng quan niệm về phận sự giữ ǵn trai giới này đều do tiền
định, cho nên con có giữ ǵn trai giới cũng không đạt công hạnh
ǵ. |
5366. Bījakopi hi sutvāna tadā
kassapabhāsitaṃ,
passasanto muhuṃ uṇhaṃ rudaṃ assūni vattayi.
|
5366.
Bởi v́, ngay cả Bījaka, vào lúc ấy, sau khi nghe lời nói của đạo
sĩ lơa thể Kassapa, trong khi liên tiếp thở dài bực bội, trong
khi khóc lóc, đă để trào ra những giọt nước mắt. |
|
5367. Yāva ruje jīvasi no mā
bhattamapanāmayi,
natthi bhadde paro loko kiṃ niratthaṃ vihaññasi.
|
5367.
Này Rujā, cho đến khi nào con c̣n sống giữa chúng ta, chớ từ
chối bữa ăn. Này con gái ngoan, không có đời sau, tại sao con
lại khổ nhọc với việc không có lợi ích?” |
Trong lúc con c̣n sống đây với phụ vương,
con đừng bố thí vật thực nữa, không hề có đời sau nào ngoài đời
này nữa, tại sao con phải bận tâm v́ việc không đâu? |
5368. Vedehassa vaco sutvā rujā
ruciravaṇṇinī,
jānaṃ pubbāparaṃ dhammaṃ pitaraṃ etadabravi.
|
5368. Sau khi nghe lời nói của đức vua xứ
Videha, công chúa Rujā, có sắc đẹp quyến rũ, biết được sự việc
quá khứ và vị lai, đă nói với vua cha điều này: |
Lúc ấy Rujà với nhan sắc cực kỳ lộng lẫy,
nghe vua cha nói vậy liền đáp như sau, v́ biết rằng nàng hiểu
Pháp lành ở đời quá khứ cùng vị lai: |
Trang 204:
|
Trang 205:
|
5369. Sutameva me pure āsi sakkhi
diṭṭhamidaṃ mayā,
bālūpasevī yo hoti bālova samapajjatha.
|
5369. “Điều này trước đây con đă được nghe
và con đă được nh́n thấy tận mắt rằng: Người nào có sự thân cận
với trẻ con th́ trở nên giống như trẻ con. |
- Tâu phụ vương, tiện nữ đă được nghe
trong thuở quá khứ cũng như chính mắt tiện nữ được thấy rằng kẻ
nào bầu bạn với trẻ thơ rồi cũng trở thành trẻ thơ mà thôi. |
5370. Mūḷho hi mūḷhamāgamma bhiyyo mohaṃ
nigacchati,
patirūpaṃ alātena bījakena ca muyhituṃ.
|
5370. Thật vậy, kẻ ngu muội đi đến với kẻ
ngu muội càng trở nên ngu si nhiều hơn. Alāta và Bījaka là thích
đáng để bị trở thành ngu muội. |
Kẻ ngu thân cận với kẻ ngu lại càng ch́m
đắm trong sự ngu muội. Alàtaka và B́jaka bị lừa phỉnh là phải
lắm, |
5371. Tvañca deva sappañño dhīro atthassa
kovido,
kathaṃ bālehi sadisaṃ hīnaṃ diṭṭhiṃ upāgami.
|
5371.
Nhưng tâu bệ hạ, phụ vương là người có trí tuệ, thông minh, rành
rẽ về điều lợi ích, tại sao phụ vương lại đi theo tà kiến thấp
kém, như là những đứa trẻ con? |
chứ c̣n phụ vương là một vị vua hiền trí,
rất có tài trong việc trị dân; làm sao phụ vương lại rơi vào một
lư thuyết thấp hèn như vậy, chỉ xứng hợp với trẻ thơ. |
5372. Sace hi saṃsārapathena sujjhati
niratthiyā pabbajjā guṇassa,
kīṭova aggiṃ jalitaṃ apāpataṃ
uppajjati momūho naggabhāvaṃ.
|
5372. Bởi v́, nếu một người được trong
sạch thông qua con đường luân hồi, th́ việc xuất gia của đạo sĩ
lơa thể Guṇa là không có lợi ích. Kẻ ngu muội t́m đến trạng thái
lơa thể, tựa như con thiêu thân đang lao vào ngọn lửa cháy sáng.
|
Nếu con người được rửa sạch mọi tội chướng
chỉ do ḍng sinh tử th́ việc tu khổ hạnh của Guna thật là hoài
công, như con thiêu thân lao vào đèn sáng, kẻ ngu ngốc kia đă
chịu đựng đời hành khất lơa thể. |
5373. Saṃsārasuddhīti pure niviṭṭhā
kammaṃ vidūsenti bahū ajānaṃ,
pubbe kalī duggahitova atthā
dummocayā balisā ambujova.
|
5373. Có nhiều kẻ trước đây tin vào tà
kiến ‘có sự thanh tịnh thông qua luân hồi,’ rồi trở nên tồi bại
ở hành động không có ư thức. Vận xấu trong quá khứ đă bị chúng
bám víu một cách sai trái, khó thoát ra được, tựa như con cá
nuốt phải mồi câu khó thoát khỏi lưỡi câu. |
Sau khi đă chấp nhận lư thuyết cho
rằng kết cuộc mọi chúng sinh sẽ được rửa sạch mọi tội lỗi qua
luân hồi sinh tử, nhiều kẻ đă hành động sai lầm v́ vô minh chồng
chất, nên lại càng bị vây chặt hơn trong các nghiệp quả đời
trước, khó thoát ra được, như con cá mắc lưỡi câu. |
5374. Upamaṃ te karissāmi mahārāja
tavatthiyā,
upamāyapidhekacce atthaṃ jānanti paṇḍitā.
|
5374. Tâu đại vương, v́ lợi ích của phụ
thân, con sẽ nêu ví dụ cho phụ thân rơ. Trong trường hợp này,
một số bậc sáng suốt hiểu được ư nghĩa thông qua ví dụ. |
Tiện nữ xin kể hầu
phụ vương một chuyện ngụ ngôn cho trường hợp này của phụ vương,
v́ bậc trí giả đôi khi t́m được chân lư qua câu chuyện ngụ ngôn. |
5375. Vāṇijānaṃ yathā nāvā appamāṇaharā
garu,
atibhāraṃ samādāya aṇṇave avasīdati.
|
5375. Giống như chiếc thuyền của các
thương buôn chuyên chở không hạn lượng, trở nên nặng nề; mang
theo quá tải, con thuyền ch́m xuống biển. |
Như một con tàu của
thương nhân, chở quá nhiều hành lư nặng nề, phải ch́m trong biển
cả, |
5376. Evameva naro pāpaṃ thokathokampi
ācinaṃ,
atibhāraṃ samādāya niraye avasīdati.
|
5376. Tương tự y như vậy, con người tích
lũy việc ác từng chút từng chút một; sau khi mang theo quá nhiều
tội ác, người ấy đọa vào địa ngục. |
một con người chồng
chất dần tội lỗi măi cũng sẽ đọa vào địa ngục.
|
5377. Na tāva bhāro paripūro alātassa
mahīpati,
ācināti ca taṃ pāpaṃ yena gacchati duggatiṃ.
|
5377. Tâu vị chúa của trái đất, gánh nặng
về tội ác của Alāta c̣n chưa đầy đủ. Và tùy theo tội ác mà ông
ta tích lũy, ông ta sẽ đi đến cảnh giới khổ đau. |
Tâu phụ vương, hành
lư hiện tại của Alàta không phải là những thứ lăo ta đang hưởng
đâu, chính v́ những thứ lăo ta đang mang đi chất lên tàu mà lăo
sẽ đọa vào địa ngục kiếp sau.
|
5378. Pubbevassa kataṃ puññaṃ alātassa
mahīpati,
tassesa deva nissando yañceso labhate sukhaṃ.
|
5378. Tâu vị chúa của trái đất, phước
thiện của Alāta có thể đă được làm trong thời quá khứ, cái ấy có
được kết quả cho ông ta, tâu bệ hạ, chính là việc ông ta đạt
được sự sung sướng (trong thời hiện tại). |
Đời trước Alàtaka
thành chánh nghiệp, nên kết quả là ngày nay lăo ta hưởng thụ phú
quư vinh hoa. |
5379. Khīyatevassa taṃ puññaṃ tathāhi
aguṇe rato,
ujumaggaṃ avāhāya kummaggamanudhāvati.
|
5379. Và phước báu ấy của ông ta đang bị
cạn kiệt, bởi v́ ông ta thích thú trong việc phi công đức như
thế ấy. Sau khi bỏ rơi đạo lộ chân chánh, ông ta chạy theo đạo
lộ sai trái. |
Công đức ấy của lăo
đang bị tiêu tan v́ lăo chỉ chuyên tâm làm ác nghiệp, sau khi bỏ
chánh đạo, lăo ta lại đang theo đuổi tà đạo |
Trang 206:
|
Trang 207:
|
5380. Tulā yathā paggahitā ohite
tulamaṇḍale,
unnameti tulāsīsaṃ bhāre oropite sati.
|
5380. Giống như cái cân được giữ yên khi
đĩa cân không có vật ǵ. Đầu cân ngóc lên khi có vật nặng được
đặt vào đĩa cân. |
như chiếc cân được treo đúng đắn trong kho hàng sẽ làm cán cân
nhấc lên cao khi có trọng lượng của một vật đặt lên nó.
|
5381. Evameva naro puññaṃ thokathokampi
ācinaṃ,
saggātimāno dāsova bījako sātave rato.
|
5381. Tương tự y như vậy, con người tích
lũy phước thiện từng chút từng chút một. Tựa như gă nô lệ Bījaka
có sự chú tâm đến cơi Trời và thích thú về quả báo tốt lành (của
thiện nghiệp). |
Con người chung cuộc cũng làm cho số phận ḿnh thăng hoa nếu
biết tu tập công đức dần dần, như gă nô lệ B́jaka kia đang
chuyên tâm làm công hạnh và đang mơ tưởng thiết tha tới đến
thiên giới. |
5382. Yañcajja bījako dāso dukkhaṃ passati
attani,
pubbe tassa kataṃ pāpaṃ tameso paṭisevati.
|
5382. Và việc hôm nay gă nô lệ Bījaka nh́n
thấy sự khổ sở ở bản thân là việc ác của gă đă làm trong thời
quá khứ, và giờ đây gă nhận lănh quả báo ấy. |
Nỗi khổ đau mà nô lệ B́jaka phải chịu đựng là do nghiệp quả tội
chướng gă đă phạm đời trước.
|
5383. Khīyate cassa taṃ pāpaṃ tathāhi
vinaye rato,
kassapañca samāpajja mā hevuppathamāgamā.
|
5383.
Và việc ác ấy của gă đang được cạn kiệt, bởi v́ gă thích thú
trong việc rèn luyện như thế ấy. Và sau khi đến với đạo sĩ lơa
thể Kassapa, phụ vương chớ có bao giờ đi theo con đường sai
trái. |
Tội chướng ấy sẽ tiêu trừ v́ hiện gă đang chuyên tâm làm công
đức, tuy nhiênđừng để gă lọt vào tà đạo của lăo Ca-diếp kia. |
5384. Yaṃ yaṃ hi rāja bhajati sataṃ vā
yadi vā asaṃ,
sīlavantaṃ visīlaṃ vā vasaṃ tasseva gacchati.
|
5384. Bởi v́, tâu bệ hạ, khi hợp tác với
người nào, là người tốt hay người xấu, có giới hạnh hay không có
giới hạnh, ta sẽ chịu sự ảnh hưởng của chính người ấy. |
5. Khi vua quư trọng một thân bằng,
Dù đức hạnh hay kẻ ác gian,
Chuyên tạo ác hành hay thiện nghiệp,
Vua đều chịu ảnh hưởng quyền năng. |
5385. Yādisaṃ kurute mittaṃ
yādisañcūpasevati,
sopi tādisako hoti sahavāso hi tādiso.
|
5385. Khi kết bạn với người như thế nào,
và thân cận với người như thế nào, ta đây cũng trở thành người
như thế ấy; bởi v́ sự cộng trú là như thế. |
6-7. Bạn nào, vua
muốn chọn cho ḿnh,
Như bạn ấy, vua sẽ trở thành,
Uy lực này do t́nh
mật thiết; |
5386. Sevamāno sevamānaṃ samphuṭṭho
samphusaṃ paraṃ,
saro diddho kalāpaṃva alittamupalimpati,
upalepabhayā dhīro neva pāpasakhā siyā.
|
5386.
Người được phục vụ làm ô nhiễm người đang phục vụ ḿnh, người
được tiếp xúc làm ô nhiễm người khác đang tiếp xúc với ḿnh, ví
như mũi tên tẩm độc làm ô nhiễm túi tên c̣n chưa bị nhiễm độc.
Do nỗi sợ hăi sự ô nhiễm, bậc sáng trí không bao giờ có bạn bè
xấu xa. |
Kẻ luôn thân cận, bạn đồng hành,
Thường gây ảnh hưởng lên bằng hữu,
Như mũi tên đầu độc đáng kinh,
Làm bẩn vỏ bao trong sạch ấy,
Trí nhân, ác hữu chớ giao t́nh. |
5387. Pūtimacchaṃ kusaggena yo naro
upanayhati,
kusāpi pūti vāyanti evaṃ bālūpasevanā.
|
5387. Người nào bao bọc con cá thối bằng
ngọn cỏ, các ngọn cỏ cũng toát ra mùi hôi thối; tương tự như
vậy, do việc thân cận với những kẻ ngu dốt (sẽ bị tổn hại danh
tiếng). |
8. Nếu người buộc xác cá hôi ươn,
Với dăi Ku-sa, cỏ cát tường,
Cỏ sẽ có mùi hôi thúi ấy,
Cũng vậy, kết giao kẻ dại cuồng. |
5388. Tagarañca palāsena yo naro
upanayhati,
pattāpi surabhi vāyanti evaṃ dhīrūpasevanā.
|
5388. Người nào bao bọc gỗ thơm bằng lá
cây, các chiếc lá cũng tỏa ra mùi thơm; tương tự như vậy, do
việc thân cận với các bậc sáng trí (sẽ đạt được tiếng tốt). |
9. Nhưng nếu người ta buộc cỏ hương,
Vào trong một ngọn lá thông thường,
Lá thơm mùi nhẹ nhàng êm dịu,
Cũng vậy, kết giao bậc trí nhân. |
5389. Tasmā palapuṭasseva ñatvā
sampākamattano,
asante nopaseveyya sante seveyya paṇḍito,
asanto nirayaṃ nenti santo pāpenti suggatiṃ.
|
5389. V́ thế, sau khi biết được hậu quả
dành cho bản thân tương tự như kết quả của chiếc lá và vật chứa
đựng, người sáng suốt không nên hầu cận những kẻ ác nhân, nên
thân cận các bậc thiện nhân. Những kẻ ác nhân dẫn lối vào địa
ngục, các bậc thiện nhân giúp cho đạt được cảnh giới an vui. |
10. Do biết nghiệp ta sẽ thực thành,
Như là giỏ trái chín muồi nhanh,
Trí nhân chẳng bước theo người ác,
Nhưng chỉ bước theo bậc thiện hành.
Kẻ ác đưa ta vào địa ngục,
Người hiền đem bạn đến thiên đ́nh. |
5390. Ahampi jātiyo satta sare
saṃsaritattano,
anāgatāpi satteva yā gamissaṃ ito cutā.
|
5390. Con cũng nhớ lại việc đă bị luân hồi
của bản thân trong bảy kiếp sống. Ĺa đời từ nơi này, con đây sẽ
đi đến bảy kiếp sống nữa ở thời vị lai. |
- Tiện nữ cũng nhớ lại bảy đời trước mà
tiện nữ đă trải qua và khi hết đời này tiện nữ lại sẽ trải qua
bảy đời khác nữa. |
Trang 208:
|
Trang 209:
|
5391. Yā me sā sattamī jāti ahu pubbe
janādhipa,
kammāraputto magadhesu ahuṃ rājagahe pure.
|
5391. Tâu quân vương, vào kiếp sống thứ
bảy của con trong thời quá khứ, con đă là con trai người thợ rèn
ở thành phố Rājagaha thuộc xứ Magadha. |
Trong đời thứ bảy, trước kia, tâu phụ
vương, tiện nữ là con trai của một thợ rèn trong thành Ràjagaha
(Vương Xá) ở xứ Magadha (Ma-kiệt-đà). |
5392. Pāpaṃ sahāyaṃ āgamma bahuṃ pāpaṃ
kataṃ mayā,
paradārassa heṭhento carimha amarā viya.
|
5392. Sau khi đi đến với người bạn xấu xa,
con đă làm nhiều việc ác. Trong khi xâm phạm vợ của người khác,
chúng con đă sống như là những người bất tử. |
Tiện nữ đă kết giao với bạn ác và đă gây
nhiều ác nghiệp. Chúng con cứ mải mê rong chơi, lôi cuốn vợ
người khác vào đường tội lỗi như thể chúng con được trường sanh
bất tử vậy. |
5393. Taṃ kammaṃ nihitaṃ aṭṭhā
bhasmacchannova pāvako,
atha aññehi kammehi ajāyiṃ vaṃsabhūmiyaṃ.
|
5393. Nghiệp ấy đă được tàng trữ và tồn
tại, tựa như ngọn lửa bị vùi lấp bởi lớp tro. Rồi do những
nghiệp khác, con đă sanh ra tại đất nước Vaṃsa,– |
Những hành nghiệp ấy cứ âm ỉ như lửa được
vùi tro. Nhờ những nghiệp quả tốt khác, con đầu thai vào xứ
Vamsa |
5394. Kosambiyaṃ seṭṭhikule iddhe phīte
mahaddhane,
ekaputto mahārāja niccaṃ sakkatapūjito.
|
5394. –trong thành Kosambī, ở gia tộc
triệu phú, giàu có, phồn thịnh, có tài sản lớn. Tâu đại vương,
con là con trai độc nhất, thường xuyên được tôn vinh trân trọng.
|
trong gia đ́nh một phú thương ở Kosambi,
rất thế lực và giàu có, phát đạt: Con lại là con trai duy nhất
của gia đ́nh, được cưng chiều quư trọng vô cùng. |
5395. Tattha mittaṃ asevissaṃ sahāyaṃ
sātave rataṃ,
paṇḍitaṃ sutasampannaṃ so maṃ atthe nivesayi.
|
5395. Tại nơi ấy, con đă thân cận người
bạn, người cộng sự thích thú về quả báo tốt lành (của thiện
nghiệp), là bậc sáng suốt, thành tựu về kiến thức. Vị ấy đă giúp
con an trú vào việc lợi ích. |
Lúc ấy con kết bạn với một người chuyên
làm thiện pháp. |
5396. Cātuddasiṃ pañcadasiṃ bahuṃ
rattimupāvasiṃ,
taṃ kammaṃ nihitaṃ aṭṭhā nidhīva udakantike.
|
5396. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm,
con đă hành tŕ trai giới nhiều đêm. Nghiệp ấy đă được tàng trữ
và tồn tại, tựa như của cải chôn giấu ở trong nước. |
Con hành tŕ trai giới suốt các ngày mười
bốn và rằm và các hành nghiệp ấy được tồn trữ lại như một kho
tàng dưới nước. |
5397. Atha pāpānaṃ kammānaṃ yametaṃ
magadhe kataṃ,
phalaṃ pariyāga taṃ pacchā bhutvā duṭṭhavisaṃ yathā.
|
5397. Rồi quả báu của những nghiệp ác mà
con đă làm ở xứ Magadha sau đó đă xoay vần đến với con, giống
như đă ăn vào chất độc dữ dội. |
Nhưng những nghiệp quả ác mà con đă tạo ở
xứ Ma-kiệt-đà rốt cuộc lại đến với con như một thứ thuốc độc
khốc liệt. |
5398. Tato cutāhaṃ vedeha roruve niraye
ciraṃ,
sakammanā apaccissaṃ taṃ saraṃ na sukhaṃ labhe.
|
5398. Ĺa đời từ nơi ấy, tâu đức vua xứ
Videha, bởi nghiệp của chính ḿnh, con đă bị nung nấu lâu dài ở
địa ngục Roruva. Trong khi nhớ lại việc ấy, con không đạt được
sự an lạc (ở tâm). |
Tâu phụ vương, từ đó con phải trải qua một
thời gian dài ở địa ngục Roruva, con phải chịu đựng các nghiệp
quả ác ấy, ngày nay nhớ lại con c̣n thấy thật đau khổ. |
5399. Bahuvassagaṇe tattha khepayitvā
bahuṃ dukhaṃ,
bheṇṇākaṭe ahuṃ rāja chakalo uddhitapphalo.
|
5399. Sau khi trải qua nhiều khổ đau ở nơi
ấy một thời gian gồm nhiều năm, tâu bệ hạ, con đă là con dê đực
bị thiến ở thành Bheṇṇākaṭa. |
Sau khi chịu khổ sở tại đó không biết bao
nhiêu năm trường, con đă hóa sinh thành con dê bị thiến ở thành
Bhennàkata. |
5400. Sātaputtā mayā vūḷhā piṭṭhiyā ca
rathena ca,
tassa kammassa nissando paradāragamanassa me.
|
5400. Con đă chuyên chở những người con
trai gia tộc quyền quư bằng lưng và bằng cỗ xe kéo. Kết quả của
việc làm ấy là do việc con đă qua lại với vợ của người khác. |
Con phải chuyên chở các thanh niên nhà
giàu trên lưng hoặc kéo xe,đó là nghiệp quả của việc con đă
quyến rủ vợ người. |
5401. Tato cutāhaṃ vedeha kapi āsiṃ
brahāvane,
nilicchitaphaloyeva yūthapena pagabbhinā,
tassa kammassa nissando paradāragamanassa me.
|
5401. Ĺa đời từ nơi ấy, tâu đức vua xứ
Videha, con đă là con khi ở khu rừng rộng lớn, có tinh hoàn đă
bị con khỉ đầu đàn tàn bạo cắn đứt. Kết quả của việc làm ấy là
do việc con đă qua lại với vợ của người khác. |
11. Khi hết đời kia con được sinh,
Đầu thai làm khỉ chốn rừng xanh,
Hạ căn đứt bởi người gian ác,
Hậu quả do săn đuổi bạn t́nh. |
5402. Tato cutāhaṃ vedeha dasaṇṇesu pasū
ahuṃ,
nillacchito jave bhadro yoggaṃ vūḷhaṃ ciraṃ mayā,
tassa kammassa nissando paradāragamanassa me.
|
5402. Ĺa đời từ nơi ấy, tâu đức vua xứ
Videha, con đă là con ḅ đực ở xứ sở Dasaṇṇa. Bị thiến, nhanh
nhẹn, hiền thiện, con đă kéo cỗ xe thời gian dài. Kết quả của
việc làm ấy là do việc con đă qua lại với vợ của người khác. |
Tâu phụ vương, sau đó con đă đầu thai làm
con ḅ đực ở xứ dân Dasannas, lại bị hoạn nhưng cũng nhanh nhẹn
và xinh đẹp, con kéo xe một thời gian thật lâu, đó là nghiệp quả
của việc săn đuổi theo vợ người của con trước kia. |
Trang 210:
|
Trang 211:
|
5403. Tato cutāhaṃ vedeha vajjīsu
kulamāgamā,
nevitthī na pumā āsiṃ manussatte sudullabhe,
tassa kammassa nissando paradāragamanassa me.
|
5403. Ĺa đời từ nơi ấy, tâu đức vua xứ
Videha, con đă đi đến một gia đ́nh danh giá ở xứ Vajjī. Con
không phải là người nữ cũng không phải là người nam, khi bản thể
con người là việc đạt được vô cùng khó khăn. Kết quả của việc
làm ấy là do việc con đă qua lại với vợ của người khác. |
Khi mạng chung, con đầu thai vào một gia
đ́nh xứ Vajji (Bạt-kỳ, ở phía bắc sông Hằng, đối diện xứ
Ma-kiệt-đà), song con lại bán nam bán nữ v́ thật khó đầu thai
làm nam nhân, đó là nghiệp quả của việc con theo đuổi vợ người.
|
5404. Tato cutāhaṃ vedeha ajāyiṃ nandane
vane,
bhavane tāvatiṃsāhaṃ accharā kāmavaṇṇinī.
|
5404. Ĺa đời từ nơi ấy, tâu đức vua xứ
Videha, con đă sanh vào khu rừng Nandana ở cung trời Đạo Lợi.
Con là tiên nữ có sắc đẹp theo như ước muốn. |
Tâu phụ vương, sau đó con đă sinh vào rừng
Nandana làm một tiên nữ rất xinh đẹp ở cơi Tam thập tam thiên
(trời ba mươi ba) |
5405. Vicitta vatthābharaṇā
āmuttamaṇikuṇḍalā,
kusalā naccagītassa sakkassa paricārikā.
|
5405. Con có vải vóc và đồ trang sức đủ
màu sắc rực rỡ, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni,
thiện xảo về việc múa hát, là thị nữ của Thiên Vương Sakka. |
xiêm y rực rỡ muôn màu, mang nữ trang ngọc
vàng, ṿng hoa tay bằng châu báu đủ loại thiện xảo múa ca nên
được làm thị nữ ở cung Đế-Thích. |
5406. Tattha ṭhitāhaṃ vedeha sarāmi jātiyo
imā,
anāgatepi satteva yā gamissaṃ ito cutā.
|
5406. Trong khi tồn tại ở nơi ấy, tâu đức
vua xứ Videha, con nhớ lại các kiếp sống này, luôn cả bảy kiếp
sống ở thời vị lai mà con sẽ đi đến, sau khi ĺa đời từ cơi Trời
này. |
Khi con ở đó, con đă nhớ lại các đời trước
và luôn cả bảy đời tương lai mà con sẽ trải qua, sau khi từ giă
thiên giới. |
5407. Pariyāgatantaṃ kusalaṃ yaṃ me
kosambiyaṃ kataṃ,
deve ceva manusse ca sandhāvissaṃ ito cutā.
|
5407. Thiện pháp mà con đă làm ở xứ
Kosambī đă xoay vần đến với con. Ĺa đời từ nơi này, con sẽ sanh
về cơi Trời và cơi người. |
Các thiện pháp mà con tạo được ở Kosamb́
đă đến hồi kết quả, nên khi con hết đời này con sẽ được sinh
cùng với chư Thiên hoặc loài người. |
5408. Satta jacco mahārāja niccaṃ
sakkatapūjitā,
thībhāvāpi na muccissaṃ chaṭṭhāni gatiyo imā.
|
5408. Trong bảy kiếp sống, tâu đại vương,
con sẽ thường xuyên được tôn vinh trân trọng. Nhưng con cũng sẽ
không thoát ra khỏi bản thể người nữ ở kiếp sống thứ sáu này.
|
Tâu phụ vương, trong bảy đời liền, con sẽ
được cung kính phụng thờ, nhưng con sẽ không được thoát thân nữ
nhân cho đến hết đời thứ sáu. |
5409. Sattamī ca gati deva devaputto
mahiddhiko,
puma devo bhavissāmi devakāyasmimuttamo.
|
5409. Và ở cảnh giới tái sanh thứ bảy, tâu
bệ hạ, con sẽ là vị Thiên tử có đại thần lực, là vị Thiên nam
tối thượng ở tập thể chư Thiên. |
Tâu phụ vương, như vậy trong đời thứ bảy,
con sẽ là một Đại nam tử của chư thiên, sau cùng con sẽ được
sinh làm một thiên tử với thân tướng nam nhi. |
5410. Ajjāpi santānamayaṃ mālaṃ ganthenti
nandane,
devaputto javo nāma yo me mālaṃ paṭicchati.
|
5410. Thậm chí hôm nay, sự nối tiếp đă
được thực hiện; các tiên nữ ở khu rừng Nandana đang kết tràng
hoa, và vị Thiên tử tên Java là người đang tiếp nhận tràng hoa
cho con. |
Hiện nay, chư Thiên đang kết tràng hoa hái
từ cây hoa trời ở vườn Thiên lạc Nandana và có một vị Thiên tử
tên gọi Java, hiện đang kết tràng hoa cho con. |
5411. Muhutto viya so dibbo imāni vassāni
soḷasa,
rattindivo ca so dibbo mānusiṃ saradosataṃ.
|
5411. Một phút chốc ấy ở cơi Trời như là
mười sáu năm ở nơi này. Và một ngày đêm ấy ở cơi Trời là một
trăm mùa thu ở cơi người. |
Mười sáu năm con sống ở đời thế gian này
chỉ là một khoảnh khắc của thiên giới. Một trăm mùa thu ở hạ
giới chỉ bằng một ngày một đêm ở trên trời. |
5412. Iti kammāni anventi asaṅkheyyāpi
jātiyo,
kalyāṇaṃ yadi vā pāpaṃ na hi kammaṃ panassati.
|
5412. Các nghiệp theo đuổi (chúng ta) như
thế dầu cho trải qua các kiếp sống vô số kể, bởi v́ nghiệp thiện
hay ác không bị tiêu hoại. |
Như vậy các hành nghiệp của ta cứ theo ta
hoài qua vô số đời sống và mang theo thiện quả hay ác quả, không
sót một nghiệp nào. |
5413. Yo icche puriso hotuṃ jātijātiṃ
punappunaṃ,
paradāraṃ vivajjeyya dhotapādova kaddamaṃ.
|
5413.
Kẻ nào muốn trở thành người (nhân loại) liên tiếp từ kiếp sống
này sang kiếp sống khác nên tránh xa vợ của người khác, tựa như
kẻ có bàn chân đă được rửa sạch tránh xa vũng lầy. |
- Kẻ nào muốn thăng hoa đời đời kiếp kiếp,
xin hăy tránh xa vợ người như người có đôi bàn chân rửa sạch
phải tránh xa vũng bùn. |
5414. Yā icche puriso hotuṃ jātijātiṃ
punappunaṃ,
sāmikaṃ apacāyeyya indaṃva paricārikā.
|
5414. Nàng nào muốn trở thành người (nhân
loại) liên tiếp từ kiếp sống này sang kiếp sống khác nên tôn
kính chồng, tựa như các người hầu
gái tôn kính Thiên Vương Inda. |
Kẻ nào muốn lên cơi trên đời đời kiếp
kiếp, xin hăy tôn thờ đức Thế Tôn như chư Thiên phụng thờ Thiên
chủ Indra. |
5415. Yo icche dibbabhogañca dibbaṃ āyuṃ
yasaṃ sukhaṃ,
pāpāni parivajjetvā tividhaṃ dhammamācare.
|
5415. Kẻ nào muốn của cải Thiên đ́nh, tuổi
thọ thuộc cơi Trời, danh tiếng và hạnh phúc, nên tránh xa hẳn
các việc ác và nên thực hành ba loại pháp: |
Kẻ nào muốn hưởng thiên lạc, hưởng cuộc sống nơi
thiên giới với đầy đủ vinh quang hạnh phúc, xin hăy tránh xa tội
ác và hành tŕ Tam Pháp: |
Trang 212:
|
Trang 213:
|
5416. Kāyena vācā manasā appamatto
vicakkhaṇo,
attano hoti atthāya itthī vā yadi vā pumā.
|
5416. Là người không xao lăng về thân, về
khẩu, về ư, là người khôn ngoan v́ lợi ích của bản thân, dầu là
người nữ hay là người nam. |
- Phải hộ pḥng và minh triết trong thân,
khẩu, ư, tu tập thiện pháp tối cao, dù là nam nhân hay nữ nhân
cũng vậy. |
5417. Ye kecime manujā jīvaloke
yasassino sabbasamantabhogā,
asaṃsayaṃ tehi pure suciṇṇaṃ
kammassakāse puthu sabbasattā.
|
5417. Bất cứ những người nào ở thế gian
của cuộc sống, có danh tiếng, có đầy đủ mọi thứ của cải, chắc
chắn trước đây đă thực hành tốt đẹp ba pháp ấy. Tất cả chúng
sanh đều có nghiệp riêng của ḿnh. |
- Kẻ nào được vinh quang trong đời này và
được hưởng đủ mọi dục lạc, chắc chắn kẻ ấy đă sống cuộc đời đạo
hạnh ở kiếp trước; mọi chúng sanh đều phải đi theo nghiệp thiện
ác của ḿnh. |
5418. Iṅghānucintesi sayampi deva
kuto nidānā te imā janinda,
yā te imā accharāsannikāsā
alaṅkatā kañcanajālachannā.
|
5418. Nào, tâu bệ hạ, xin phụ thân cũng
hăy tự ḿnh suy gẫm. Tâu vị chúa của loài người, duyên cớ nào
phụ thân có những nữ nhân này? Những nữ nhân này của phụ thân
trông giống như các tiên nữ, đă được trang điểm, đă được choàng
lên những tấm lưới bằng vàng.” |
Tâu phụ
vương, phụ vương có bao giờ suy nghĩ hạnh nghiệp ǵ đă khiến phụ
vương thọ hưởng đám cung phi đẹp như tiên trên trời lại trang
sức xiêm y ngọc vàng rực rỡ thế kia chăng? |
5419. Iccevaṃ pitaraṃ kaññā rujā tosesi
aṅgatiṃ,
mūḷhassa maggamācikkhi dhammamakkhāsi subbatā.
|
5419. Công chúa Rujā, người con gái có sự
hành tŕ tốt đẹp, đă làm vui ḷng vua cha Aṅgāti, đă giải thích
về đạo lộ, đă nói về thiện pháp cho người cha mê muội như vậy. |
Công chúa Rujà đă làm
đẹp ḷng vua cha như thế, nàng tuyên thuyết chánh đạo cho kẻ mê
mờ ấy và thành tâm giảng pháp lành cho vua cha. |
5420. Athāgamā brahmalokā nārado mānusiṃ
pajaṃ,
jambudīpaṃ avekkhanto addā rājānamaṅgatiṃ.
|
5420. Rồi Bồ Tát Nārada đă từ thế giới
Phạm Thiên đi đến ḍng giống loài người. Trong lúc xem xét xứ sở
Jambudīpa, ngài đă nh́n thấy đức vua Aṅgāti. |
Lúc ấy Nàrada từ cơi
Phạm thiên xuống hạ giới, khi quan sát cơi Jambud́pa
(Diêm-phù-đề: Ấn Độ), ngài nh́n thấy vua Angati.
|
5421. Tato patiṭṭhā pāsāde vedehassa
puratthato,
tañca disvā anuppattaṃ rujā isimavandatha.
|
5421.
Sau đó, ngài đă ngự xuống ṭa lâu đài, ở phía trước đức vua xứ
Videha. Và sau khi nh́n thấy vị ấy đă đi đến, nàng Rujā đă đảnh
lễ vị ẩn sĩ. |
Rồi ngài đến trước
cung vua, nàng Rujà vừa trông thấy ngài, vội đảnh lễ bậc hiền
trí từ thiên giới giáng trần. |
5422. Athāsanamhā oruyha rājā
vyamhitamānaso,
nāradaṃ paripucchanto idaṃ vacanamabravi.
|
5422. Khi ấy, đức vua đă bước xuống từ chỗ
ngồi, tâm trí bị kinh sợ. Trong lúc hỏi han vị Nārada, đức vua
đă nói lời nói này: |
Lúc ấy vua hoang mang
trong trí, vội bước xuống ngai vàng, nói với Tôn giả Narada
những lời hỏi thăm: |
5423. Kuto nu āgacchasi devavaṇṇī
obhāsayaṃ saṃvariṃ candimāva,
akkhāhi me pucchito nāmagottaṃ
kathaṃ taṃ jānanti manussaloke.
|
5423. “Hỡi vị có sắc đẹp của Thiên nhân,
từ đâu ngài đi đến, tựa như mặt trăng, đang chiếu sáng ban đêm?
Được hỏi, xin ngài hăy nói cho trẫm biết tên họ. Ở thế giới nhân
loại, mọi người nhận biết ngài như thế nào?” |
12. Ngài đến từ
đâu, dáng thánh thần,
Như vầng trăng chiếu sáng đêm trường,
Nói cho ta biết tên, gia tộc,
Người gọi là ǵ giữa thế nhân? |
5424. Ahaṃ hi devato idāni emi
obhāsayaṃ saṃvariṃ candimāva,
akkhāmi te pucchito nāmagottaṃ
jānanti maṃ nārado kassapo ca.
|
5424. “Ta đi đến nơi này từ chư Thiên tựa
như mặt trăng, đang chiếu sáng ban đêm. Được hỏi, ta nói cho bệ
hạ biết tên họ. Mọi người nhận biết ta là Nārada và Kassapa.” |
13. Ta đến đây từ
hội chúng Thiên,
Như vầng trăng chiếu sáng đêm đen,
Ta nêu danh tánh cùng gia tộc:
Ca-diếp, Nà-ra-da, họ tên. |
5425. Acchariyarūpaṃ vata yādisañca
vehāsayaṃ gacchasi tiṭṭhasī ca,
pucchāmi taṃ nārada etamatthaṃ
atha kena vaṇṇena tavāyamiddhi.
|
5425. “Điều như thế này có vẻ kỳ diệu thật
đấy! Là việc ngài đi và đứng ở không trung. Thưa ngài Nārada,
trẫm hỏi ngài về sự việc này, vậy bằng cách nào ngài có được
thần thông này?” |
14. Cách ngài đi
đứng diệu kỳ thay,
Ta hỏi ngài: Đâu ư nghĩa đây,
V́ lư do ǵ ngài thị hiện,
Nà-ra-da hỡi, thần thông này? |
Trang 214:
|
Trang 215:
|
5426. Saccañca dhammo ca damo ca cāgo
guṇā mamete pakatā purāṇā,
teheva dhammehi susevitehi
manojavo yenakāmaṃ gamosmi.
|
5426. “Chân thật, thiện pháp, sự chế ngự
(các giác quan), và thí xả, các đức tính này của ta đă được thực
hành trong thời quá khứ. Với chính những pháp ấy đă khéo được
rèn luyện, ta di chuyển theo như ước muốn với tốc độ của ư.” |
15. Chân thật,
công bằng, chế ngự ḿnh,
Rộng ḷng bố thí đă lừng danh,
Nhờ công đức thực hành tinh tấn,
Như ư nguyện ḿnh, ta lướt nhanh. |
5427. Acchariyamācikkhasi puññasiddhiṃ
sace hi ete tvaṃ yathā vadesi,
pucchāmi taṃ nārada etamatthaṃ
puṭṭho ca me sādhu viyākarohi.
|
5427. “Ngài nói việc kỳ diệu là sự thành
tựu của phước báu. Nếu thật sự những pháp này là đúng như ngài
nói, thưa ngài Nārada, trẫm hỏi ngài về sự việc này. Và được
trẫm hỏi, xin ngài hăy trả lời cặn kẽ.” |
16. Ngài đă nói
điều kỳ diệu thay,
Khi nêu công lực thiện hành vầy;
Nếu điều này đúng như ngài nói,
Xin trả lời cho trẫm thẳng ngay. |
5428. Pucchassu maṃ rāja tavesa attho
yaṃ saṃsayaṃ kuruse bhūmipāla,
ahaṃ taṃ nissaṃsayataṃ gamemi
nayehi ñāyehi ca hetubhī ca.
|
5428. “Tâu đấng hộ quốc, ngài có sự hoài
nghi về bất cứ điều nào, tâu bệ hạ, xin ngài hăy hỏi bần đạo;
việc ấy có lợi ích cho bệ hạ. Bần đạo sẽ giúp bệ hạ hết nỗi hoài
nghi bằng những lư luận, bằng những lập luận, và bằng những
chứng cớ.” |
17. Đây việc của
ngài, hỡi Đại vương,
Hỏi ta điều cảm thấy nghi nan,
Hiển nhiên ta đáp cho ngài rơ,
Nhờ lư luận, bằng chứng rơ ràng. |
5429. Pucchāmi taṃ nārada etamatthaṃ
puṭṭho ca me nārada mā musā bhaṇa,
atthi nu devā pitaro nu atthi
loko paro atthi jano yamāhu.
|
5429. “Thưa ngài Nārada, trẫm hỏi ngài về
sự việc này. Và được trẫm hỏi, thưa ngài Nārada, ngài chớ nói
lời dối trá. Có thật là có chư Thiên, có thật là có tổ tiên, có
thật là có đời sau, mà người đời đă nói?” |
18. Nà-ra-da, trẫm
hỏi điều này,
Đừng trả lời sai câu hỏi đây:
Thật có chư Thiên hay tổ phụ,
Đời sau như bọn chúng đồn vầy? |
5430. Attheva devā pitaro ca atthi
loko paro atthi jano yamāhu,
kāmesu giddhā ca narā pamūḷhā
lokaṃ paraṃ na vidū mohayuttā.
|
5430. “Thật sự có chư Thiên, có tổ tiên,
và có đời sau, mà người đời đă nói. Bị thèm khát các dục, loài
người trở nên mê muội, bị gắn liền với sự si mê, chúng không
biết về đời sau.” |
19. Thật có Thiên
thần với tổ tiên,
Đời sau, như chúng vẫn nêu lên,
Nhưng người tham dục và mê đắm,
Không biết đời sau bởi đảo điên. |
5431. Atthīti ce nārada saddahāsi
nivesanaṃ paraloke matānaṃ,
idheva me pañcasatāni dehi
dassāmi te paraloke sahassaṃ.
|
5431. “Thưa ngài Nārada, nếu ngài tin rằng
‘có,’ về chỗ nương náu ở đời sau cho những người đă chết, th́
ngay ở tại nơi này, ngài hăy trao cho trẫm năm trăm tiền, trẫm
sẽ trao lại cho ngài một ngàn ở đời sống sau.” |
20. Nà-ra-da, nếu
đă tin rằng:
Có cơi cho người chết trú thân,
Đưa trẫm năm trăm đồng bạc gấp,
Đời sau trẫm sẽ trả ngàn đồng ! |
5432. Dajjemu kho pañcasatāni bhoto
jaññāmu ce sīlavantaṃ vadaññuṃ,
luddaṃ taṃ bhontaṃ niraye vasantaṃ
ko codaye paraloke sahassaṃ.
|
5432. “Quả thật chúng tôi có thể trao cho
bệ hạ năm trăm tiền, nếu chúng tôi có thể biết được bệ hạ là có
giới hạnh, rộng lượng. (Nếu như) bệ hạ là kẻ hung bạo đang sống
ở địa ngục, th́ người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở
đời sống khác? |
21. Ta đưa ngài đủ
số năm trăm,
Nếu biết ngài hiền đức, rộng ḷng,
Nhưng nếu ngài là người độc ác,
Đọa vào trong địa ngục đày thân,
C̣n ai đ̣i được ngài đem trả,
Đời kế, ngàn đồng ấy được không? |
5433. Idheva yo hoti adhammasīlo
pāpācāro alaso luddakammo,
na paṇḍitā tasmiṃ iṇaṃ dadanti
na hi āgamo hoti tathāvidhamhā.
|
5433. Ngay ở tại nơi này, người nào có bản
chất không đàng hoàng, có nết hạnh xấu xa, lười biếng, có hành
động tàn bạo, những người sáng suốt không cho kẻ ấy vay nợ, bởi
v́ không có sự hoàn lại (nợ đă vay) từ hạng người như thế ấy.
|
22. Khi một người
thù ghét thiện lương,
Chỉ yêu tội lỗi lại hung tàn,
Trí nhân chẳng muốn cho vay mượn,
Kẻ nợ ấy không thể đáo hoàn. |
Trang 216:
|
Trang 217:
|
5434. Dakkhañca posaṃ manujā viditvā
uṭṭhāhakaṃ sīlavantaṃ vadaññuṃ,
sayameva bhogehi nimantayanti
kammaṃ karitvā punamāharesi.
|
5434. Và mọi người, sau khi biết được
người tài giỏi, năng động, có giới hạnh, rộng lượng, đích thân
họ mời mọc bằng của cải, (bởi v́) người ấy sẽ mang trả lại sau
khi làm xong công việc. |
23. Khi người ta
biết kẻ tài năng,
Đức hạnh, tinh chuyên, lại rộng ḷng,
Họ sẽ mời người kia mượn của,
Bằng nhiều lợi lạc họ đem dâng;
Khi người kia đă làm xong việc,
Người sẽ bồi hoàn nợ đă mang. |
5435. Ito gato dakkhasi tattha rāja
kākolasaṅghehipi kaḍḍhamānaṃ,
taṃ khajjamānaṃ niraye vasantaṃ
kākehi gijjhehi ca seṇakehi,
sañchinnagattaṃ ruhiraṃ savantaṃ
ko codaye paraloke sahassaṃ.
|
5435. Tâu bệ hạ, từ nơi này ra đi, ngài sẽ
nh́n thấy ở nơi ấy, bản thân kẻ ấy trong khi sống ở địa ngục, bị
lôi kéo bởi bầy quạ đen, bị xâu xé bởi những con quạ, bởi những
con chim kên kên, và bởi những con diều hâu, có cơ thể bị hoàn
toàn tơi tả, và máu đang tuôn chảy, th́ người nào có thể nhắc
nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác? |
24. Đại vương, khi
giă biệt đời này,
Ngài sẽ thấy diều quạ cả bầy,
Vồ xé xác ngài trong địa ngục,
Và kên kên nữa máu me đầy,
C̣n ai bắt được ngài đời kế,
Đem trả ngàn đồng ấy đă vay? |
5436. Andhaṃtamaṃ tattha na candasuriyā
nirayo sadā tumulo ghorarūpo,
sā neva ratti na divā paññāyati
tathāvidhe ko vicare dhanatthiko.
|
5436. Tại nơi ấy, tối tăm mù mịt, không có
mặt trăng và mặt trời, địa ngục luôn luôn tối đen, có dáng vẻ
ghê rợn, ban đêm và ban ngày hoàn toàn không được nhận biết,
người nào có thể lai văng ở nơi như thế ấy v́ mục đích tài sản? |
25. Ở đó tối tăm
thật mịt mùng,
Và không vầng nhật hoặc vầng trăng,
Ngục này hỗn độn và kinh khủng,
Chẳng biết ngày đêm, chẳng tháng năm,
C̣n kẻ nào mong đ̣i món nợ,
Ở nơi như vậy nữa hay chăng? |
5437. Sabalo ca sāmo ca duve supāṇā
pavaddhakāyā balino mahantā,
khādanti dantehi ayomayehi
ito panuṇṇaṃ paralokapattaṃ.
|
5437. (Tại nơi ấy,) hai con chó Sabala và
Sāma có thân thể đă được phát triển, có sức mạnh, to lớn. Bằng
những chiếc răng bằng sắt, chúng nghiến ngấu kẻ đă bị ĺa trần
từ nơi (cơi người) này đi đến thế giới khác (địa ngục). |
26. Con chó Sa-ba
dáng khổng lồ,
Cùng Sà-ma lực lưỡng nhào vô,
Dùng răng cắn xé người tan xác,
Kẻ đọa từ đây đến ngục tù. |
5438. Taṃ khajjamānaṃ niraye vasantaṃ
luddehi vāḷehi aghammigehi ca,
saṃchinnagattaṃ ruhiraṃ savantaṃ
ko codaye paraloke sahassaṃ.
|
5438. Kẻ ấy, trong khi sống ở địa ngục, bị
ngấu nghiến bởi những con thú hung bạo, dữ tợn, và nguy hiểm, có
cơ thể bị hoàn toàn tơi tả, và máu đang tuôn chảy, th́ người nào
có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác? |
27. Vậy khi ở ngục bị
tan thân,
V́ thú dữ hành hạ bạo hung,
Thân xác tả tơi, ḍng máu chảy,
C̣n ai đ̣i trả nợ ngàn đồng? |
5439. Usūhi sattīhi sunissitāhi
hananti vijjhanti ca paccamittā,
kāḷūpakāḷā nirayamhi ghore
pubbe naraṃ dukkatakammakāriṃ.
|
5439. Bằng những mũi tên, bằng những cây
giáo vô cùng bén nhọn, những kẻ đối địch, các Kāḷūpakāḷa (quan
canh giữ địa ngục Kāḷūpakāḷa) ở địa ngục ghê rợn, đánh đập và
đâm xuyên người đă làm hành động tồi tệ trong thời quá khứ.
|
28. Với cung tên,
nhọn hoắc giáo gươm,
Quỷ sứ Kà-lù tựa địch nhân,
Đâm chém trọng thương người phải đọa,
Trước kia phạm tội ở nhân gian. |
5440. Taṃ haññamānaṃ niraye vajantaṃ
kucchismiṃ passasmiṃ viphālitūdaraṃ,
saṃchinnagattaṃ ruhiraṃ savantaṃ
ko codaye paraloke sahassaṃ.
|
5440. Kẻ ấy, trong khi bị đánh đập, trong
khi di chuyển ở địa ngục, có bao tử bị mở toang ở bụng, ở bên
hông, có cơ thể bị hoàn toàn tơi tả, và máu đang tuôn chảy, th́
người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác? |
29. Trong khi kẻ ấy
chạy lang thang,
Trong ngục, bị đâm ở bụng, sườn,
Gan ruột nát tan ḍng máu chảy,
Ai mong đ̣i nó một ngàn đồng? |
Trang 218:
|
Trang 219:
|
5441. Sattī usū tomarabheṇḍivālā
vividhāvudhaṃ vassati tattha devo,
patanti aṅgāramivaccimanto
silāsanī vassati luddakamme.
|
5441. Tại nơi ấy, trời đổ mưa nhiều loại
vũ khí: các cây giáo, các mũi tên, các gậy mũi nhọn, các cây
chĩa ba. Các loại vũ khí rơi xuống có ngọn lửa tựa như than
hừng. Trời đổ mưa các khối đá cháy rực xuống những kẻ đă tạo
nghiệp hung bạo. |
30. Trời mưa xuống
các loại tên, đao,
Các khí cụ hành tội: cọc, lao,
Đám lửa rơi như than cháy bỏng,
Trời mưa đá tảng trút ào ào. |
5442. Uṇho ca vāto nirayamhi dussaho
na tahiṃ sukhaṃ labbhati ittarampi,
taṃ taṃ vidhāvantamalenamāturaṃ
ko codaye paraloke sahassaṃ.
|
5442. Và có ngọn gió nóng khó chịu ở địa
ngục. Thậm chí chút ít sung sướng cũng không được thọ nhận ở nơi
ấy. Chính kẻ ấy, trong khi đang chạy tứ tung, không nơi trú ẩn,
bị tật bệnh, th́ người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở
đời sống khác? |
31. Luồng gió nóng
ran thật hăi hùng,
Thổi vào trong ngục tối không cùng.
Không v́ vui thú dù giây lát,
Nó chạy quanh, không chốn trú thân.
C̣n ai muốn bắt người kia trả,
Đời kế ngàn đồng ấy được không? |
5443. Sandhāvamānaṃ taṃ rathesu yuttaṃ
sajotibhūtaṃ paṭhaviṃ kamantaṃ,
patodalaṭṭhīhi sucodiyantaṃ
ko codaye pariloke sahassaṃ.
|
5443. Trong khi kẻ ấy, bị máng vào những
cỗ xe, đang phóng chạy, đang bước đi ở mặt đất có trạng thái bốc
lửa, đang bị thúc giục bởi những cây gậy nhọn, th́ người nào có
thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác? |
32. Bị buộc vào xe,
vội chạy nhanh,
Trên nền đất rực lửa hoành hành,
Biết bao gậy ngắn, dài kiềm thúc,
Ai muốn đ̣i ngàn bạc cho đành? |
5444. Tamāruhantaṃ khurasañcitaṃ giriṃ
vibhiṃsanaṃ pajjalitaṃ bhayānakaṃ,
sañchinnagattaṃ ruhiraṃ savantaṃ
ko codaye paraloke sahassaṃ.
|
5444. Trong khi kẻ ấy đang trèo lên ngọn
núi khủng khiếp được cắm đầy những lưỡi dao cạo, đă bị bốc cháy,
tạo ra sự sợ hăi, có cơ thể bị hoàn toàn tơi tả, và máu đang
tuôn chảy, th́ người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời
sống khác? |
33. Khi trèo leo lên
ngọn núi kinh hoàng,
Lởm chởm lưỡi dao, xé nát thân,
Máu chảy đầm đ́a, ai sẽ muốn,
Đời sau đ̣i nó một ngàn chăng? |
5445. Tamāruhantaṃ pabbatasannikāsaṃ
aṅgārarāsiṃ jalitaṃ bhayānakaṃ,
saṃdaḍḍhagattaṃ kapaṇaṃ rudantaṃ
ko codaye paraloke sahassaṃ.
|
5445. Trong khi kẻ ấy đang trèo lên đống
than hừng tương tự như ngọn núi, bị cháy rực, tạo ra sự sợ hăi,
có cơ thể bị thiêu đốt hoàn toàn, khốn khổ, đang khóc lóc, th́
người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời sống khác? |
34. Khi nó trèo lên
một đống than,
Đỏ hừng như núi lửa kinh hoàng,
Toàn thân cháy, thét gào, đau khổ,
Ai muốn đ̣i ngàn bạc ấy chăng? |
5446. Abbhakūṭasamā uccā kaṇṭakāpacitā
dumā,
ayomayehi tikkhehi naralohitapāyihi.
|
5446. Có những thân cây cao bằng chóp đỉnh
của đám mây, được chồng chất những gai nhọn sắc bén làm bằng
sắt, chuyên hút máu người. |
35. Lớp gai dày đặc
tựa tầng mây,
Có cọc nhọn đâm hút máu ngay, |
5447. Tamāruhanti nāriyo narā ca
paradāragū,
coditā sattihatthehi yamaniddesakārihi.
|
5447. Bị thúc giục bởi những quỷ sứ thi
hành lệnh của Diêm Vương có cây giáo cầm ở tay, những người đàn
bà và những người đàn ông đi lại với vợ của người khác trèo lên
thân cây ấy. |
Những bọn đuổi săn vợ
kẻ khác,
Phải trèo lên đó, bị từng bầy,
Quỷ Diêm- la chúa luôn xua đuổi
Mang các giáo dài ở dưới tay. |
5448. Tamāruhantaṃ nirayaṃ simbaliṃ
ruhiramakkhitaṃ,
vidaḍḍhakāyaṃ vitacaṃ āturaṃ gāḷhavedanaṃ.
|
5448. Trong khi trèo lên cây bông vải ở
địa ngục, kẻ ấy bị lấm lem bởi máu, có thân thể bị đốt cháy, da
bị lột, bị tật bệnh, có cảm thọ khủng khiếp. |
36. Khi nó trèo lên
cây vải bông,
Toàn thân đầy máu chảy ṛng ṛng,
Tả tơi thống khổ luôn xâu xé, |
5449. Passasantaṃ muhuṃ uṇhaṃ
pubbakammāparādhikaṃ,
dumaggaviṭapaggahataṃ ko taṃ yāceyya taṃ dhanaṃ.
|
5449.
Trong khi kẻ có tội lỗi ở nghiệp quá khứ liên tiếp thở dài bực
bội, có trạng thái bám víu ở chạng ba trên đỉnh ngọn cây, th́
người nào có thể đ̣i hỏi phần tài sản ấy? |
Hổn hển thở than thật nực nồng,
Để đền tội ác xưa như vậy;
Ai muốn đ̣i tiền nợ cũ không? |
Trang 220:
|
Trang 221:
|
5450. Abbhakūṭasamā uccā asipattācitā
dumā,
ayomayehi tikkhehi naralohitapāyihi.
|
5450. Có những thân cây cao bằng chóp đỉnh
của đám mây, được che phủ với tàng lá cây là những thanh gươm
sắc bén làm bằng sắt, chuyên hút máu người. |
37. Có những rừng cao
tựa đám mây,
Lá rừng là kiếm sắt tràn đầy,
Thiết đao uống máu người đày đọa; |
5451. Tamānupattaṃ asipattapādapaṃ
asīhi tikkhehi ca chijjamānaṃ,
saṃchinnagattaṃ ruhiraṃ savantaṃ
ko codaye paraloke sahassaṃ.
|
5451. Khi kẻ ấy đến được thân cây có tàng
lá là những thanh giươm, trong khi đang bị cắt đứt bởi những
thanh gươm sắc bén, có cơ thể bị hoàn toàn tơi tả, và máu đang
tuôn chảy, th́ người nào có thể nhắc nhở kẻ ấy về một ngàn ở đời
sống khác? |
Khi nó trèo lên đám lá cây,
Thân nó bị cưa bằng kiếm sắt,
Nát tan, máu chảy hăi hùng thay!
Ai mong đ̣i nó trong đời kế,
Trả nợ ngàn đồng nó đă vay? |
5452. Tato nikkhantamattaṃ taṃ
asipattanirayā dukhā,
sampatitaṃ vetaraṇiṃ ko taṃ yāceyya taṃ dhanaṃ.
|
5452. Sau đó, khi vừa thoát ra khỏi nỗi
khổ đau từ địa ngục lá gươm, kẻ ấy bị rơi vào ḍng sông
Vetaraṇī, th́ người nào có thể đ̣i hỏi phần tài sản ấy? |
38. Khi nó thoát ra khỏi ngục này,
Phủ đầy lá sắt giữa rừng cây,
Liền rơi vào giữa ḍng sông nọ,
Ai muốn đ̣i tiền nợ cũ đây? |
5453. Kharā khārodikā tattā duggā vetaraṇī
nadī,
ayopokkharasañchannā tikkhapattehi sandati.
|
5453.
Ḍng sông Vetaraṇī thô tháo trôi chảy, với nước có chất kiềm,
nóng bỏng, khó vượt qua, được bao phủ bởi những đóa hoa sen bằng
sắt có các cánh sen sắc bén. |
39. Ḍng sông chảy xiết Ve-ta-ran,
Khốc liệt, nước sôi sục ngập tràn,
Bao phủ lá, hoa sen bén nhọn, |
5454. Tattha sañchinnagattaṃ taṃ vuyhantaṃ
ruhiramakkhitaṃ,
vetaraññe anālambe ko taṃ yāceyya taṃ dhanaṃ.
|
5454.
Tại đó, trong khi kẻ ấy, có cơ thể bị hoàn toàn tơi tả, bị lấm
lem bởi máu, đang bị cuốn trôi ở ḍng sông Vetaraṇī không chỗ
bám víu, th́ người nào có thể đ̣i hỏi phần tài sản ấy?” |
Trong khi nó bị đuổi trên sông,
Máu me bao phủ, tay chân đứt,
Ḍng nước Ve-ta-ran hăi hùng,
Chẳng có một nơi nào trú ẩn,
Ai mong đ̣i nợ nó hay không? |
5455. Vedhāmi rukkho viya chijjamāno
disaṃ na jānāmi pamūḷhasaññī,
bhayasānutappāmi mahā ca me bhayaṃ
sutvāna gāthā tava bhāsitā ise.
|
5455. “Trẫm run rẩy tựa như thân cây bị
chặt đứt. Trẫm không c̣n biết được phương hướng, sự nhận biết đă
bị mê muội. Trẫm ăn năn v́ sợ hăi, và trẫm có nỗi sợ hăi lớn lao
sau khi lắng nghe những câu kệ đă được ngài nói ra, thưa vị ẩn
sĩ. |
Thưa bậc Trí giả,
trẫm run sợ như cây đang bị đốn ngă, tâm trí hoang mang bối rối,
trẫm không biết hướng về đâu, trẫm đang bị dày ṿ khủng khiếp,
nỗi kinh hoàng của trẫm thật gớm ghê khi trẫm nghe ngài ngâm các
bài kệ trên đây. |
5456. Āditte vārimajjhaṃva
dīpaṃvogherivaṇṇave,
andhakāreva pajjoto tvaṃ nosi saraṇaṃ ise.
|
5456.
Tựa như (nơi trú ẩn) ở giữa ḍng nước vào thời điểm bị đốt nóng,
tựa như ḥn đảo trong cơn lũ ở biển khơi, tựa như ngọn đèn ở
trong đêm tối, ngài là nơi nương nhờ của chúng tôi, thưa vị ẩn
sĩ. |
Như một vật đang cháy
được ném vào nước, như một ḥn đảo giữa đại dương đầy băo tố,
như một ngọn đèn trong đêm tối, ngài chính là nơi an trú của
trẫm vậy. |
5457. Atthañca dhammañcanusāsa maṃ ise
atītamaddhā aparādhitaṃ mayā,
ācikkha me nārada suddhimaggaṃ
yathā ahaṃ no niraye pateyyaṃ.
|
5457. Thưa vị ẩn sĩ, ngài hăy chỉ dạy điều
lợi ích và thiện pháp cho trẫm. Chắc chắn rằng trong quá khứ,
trẫm đă phạm tội lỗi. Thưa ngài Nārada, xin ngài hăy nói với
trẫm về đạo lộ trong sạch để cho trẫm có thế không c̣n rơi vào
địa ngục.” |
Xin bậc trí giả hăy
dạy cho trẫm thánh kinh, cùng thâm nghĩa của nó. Quá khứ của
trẫm thật là đầy tội lỗi, xin bậc Đại Trí giả Nàrada chỉ dạy cho
trẫm con đường rửa sạch tội lỗi để cho trẫm khỏi đọa vào địa
ngục. |
5458. Yathā ahū dhataraṭṭho vessāmitto
aṭṭhako yāmataggi,
usinnaro cāpi sivī ca rājā paricārakā samaṇabrāhmaṇānaṃ.
|
5458. “Giống như các vị vua Dhataraṭṭha,
Vessāmitta, Aṭṭhaka, Yāmataggi, luôn cả Usinnara, và đức vua
Sivi đă là những người hầu cận của các Sa-môn và Bà-la-môn. |
Các vị vua
Dhatarattha, Vessàmitta, Atthaka, Yàmataggi và Usinnara cùng vua
Sivi và nhiều vị khác, nhờ chuyên tâm cúng dường các Sa-môn và
Bà-la-môn |
Trang 222:
|
Trang 223:
|
5459. Ete caññe ca rājāno ye sakkavisayaṃ
gatā,
adhammaṃ parivajjetvā dhammaṃ cara mahīpati.
|
5459. Các vị này và những vị vua khác đă
đi đến Thiên giới của Chúa Trời Sakka. Tâu vị chúa của trái đất,
bệ hạ hăy tránh xa tà pháp và hăy thực hành thiện pháp. |
nên đă được lên thiên
giới của Sakka thiên chủ. Vậy Đại vương cũng phải tránh tà hạnh
và theo chánh hạnh. |
5460. Annahatthā ca te vyamhe ghosayantu
pure tava,
ko chāto ko ca tasito ko mālaṃ ko vilepanaṃ,
nānārattānaṃ vatthānaṃ ko naggo paridahessati.
|
5460.
Hăy cho người cầm thức ăn ở tay tại cung điện của bệ hạ, và cho
người thông báo ở trong thành phố của bệ hạ rằng: ‘Ai đói, ai
khát, ai cần tràng hoa, ai cần dầu thoa, trong số các tấm vải
vóc nhiều màu sắc khác nhau, ai lơa lồ sẽ (nhận lấy chúng để)
mặc vào?’ |
Hăy cho người mang
thực phẩm trên tay rao lên trong cung Đại vương: "Ai đang đói
khát đây? Ai đang cần ṿng hoa và dầu thơm? Kẻ nào lơa thể mong
muốn mặc xiêm y trang hoàng đầy châu báu?
|
5461. Ko panthe chattamādeti pādukā ca
mudū subhā,
iti sāyañca pāto ca ghosayantu pure tava.
|
5461. Ai nhận lấy ô dù và giày dép mềm
mại, thanh lịch cho việc đi đường?’ Hăy cho người thông báo như
vậy vào buổi sáng và buổi tối ở trong thành phố của bệ hạ. |
Kẻ nào có muốn lọng
che để đi đường và giầy thanh lịch êm chân? Đại vương hăy cho
người rao như vậy khắp kinh thành từ sáng đến tối.
|
5462. Jiṇṇaṃ posaṃ gavāssañca māssu yuñji
yathā pure,
parihārañca dajjāsi adhikārakato balī.
|
5462. Chớ giao phó cho người già, cho trâu
ḅ và ngựa đă già yếu công việc giống như trước đây. Bệ hạ nên
ban bố sự chăm sóc, bởi v́ việc phục vụ (của người ấy, của con
thú ấy) đă được hoàn tất khi c̣n có sức mạnh. |
Đừng bắt
người già hay trâu già, ngựa già phải làm việc nặng nhọc. Đối
với các hạng ấy, phải quư trọng đúng mức v́ khi họ c̣n khỏe
mạnh, họ đă hoàn thành sứ mạng được giao phó. |
5463. Kāyo te rathasaññāto manosārathiko
lahu,
avihiṃsāsāritakkho saṃvibhāgapaṭicchado.
|
5463.
Thân thể của bệ hạ được xem như là cỗ xe, tâm ư nhẹ nhàng là
người đánh xe, sự không hăm hại là trục xe được xoay chuyển, sự
san sẻ bố thí là trần xe. |
Thân của Đại vương
được ví như một cỗ xe, đoạn trừ mọi ác tâm chính là trục xe, có
ḷng bố thí đại lượng là cái trần xe, |
5464. Pādasaññamanemiyo
hatthasaññamapakkharo,
kucchisaññamanabbhanto vācāsaññamakūjano.
|
5464.
Sự kiềm chế bước chân là vành bánh xe, sự kiềm chế bàn tay là
khung xe, sự kiềm chế cái bụng (ăn uống có tiết độ) là bên trong
ổ trục (có dầu nhớt), sự kiềm chế lời nói là sự không ầm ĩ (của
cỗ xe). |
bước đi thận
trọng là sườn xe, hộ tŕ dục tâm là chính danh bánh xe, hộ tŕ
khẩu căn chính là giữ cho bánh xe khỏi kêu cọc cạch. |
5465. Saccavākyasamattaṅgo
apesuññasusaññato,
girāsakhilanelaṅgo mitabhāṇisilesito.
|
5465.
Lời nói chân thật là các bộ phận của cỗ xe được đầy đủ, việc
không nói đâm thọc là cỗ xe được điều khiển tốt đẹp, lời nói tử
tế là các bộ phận của cỗ xe được hoàn hảo, sự nói lời thân thiện
là cỗ xe được kết nối chắc chắn. |
Mọi bộ phận đều được
giữ ǵn hoàn hảo nhờ khẩu hành chân thật, gắn liền tốt đẹp với
sự từ bỏ nói hai lưỡi, cái sườn xe êm ái với lời nói thân hữu
kết hợp hài ḥa với ngôn ngữ cân nhắc thật kỹ lưỡng;
|
5466. Saddhālobhasusaṅkhāro
nivātañjalikubbaro,
atthaddhatānatīsākho sīlasaṃvaranandhano.
|
5466.
Khéo được kiến tạo với đức tin và đức tánh vô tham, sự khiêm tốn
và hành động chắp tay là gọng xe, không ương ngạnh và không luồn
cúi là càng xe, sự ǵn giữ giới hạnh là sự ràng buộc (cỗ xe được
chặt chẽ). |
xây dựng vững chắc
bằng ḷng tịnh tín và đoạn trừ tâm tham, với ḷng cung kínhđảnh
lễ đầy khiêm tốn chính là gọng xe, với càng xe nhẹ nhàng, nhu
thuận, với dây cương tựđiều phục thân tâm theo Ngũ giới, |
5467. Akkodhanamanugghātī
dhammapaṇḍarachattako,
bāhusaccamapālambo ṭhitacittamupādhiyo.
|
5467.
Sự không giận dữ là cỗ xe không có sự rung rinh, mười thiện pháp
là chiếc lọng che màu trắng, kiến thức rộng là tấm ván tựa lưng,
tâm kiên cố là tấm khăn phủ ở chỗ ngồi. |
cùng với ch́a khóa
đoạn trừ sân tâm, chiếc gọng xe trắng của ḷng công chính,
|
Trang 224:
|
Trang 225:
|
5468. Kālaññutācittasāro
vesārajjatidaṇḍako,
nivātavuttiyottako anatimānayugo lahu.
|
5468.
Trạng thái biết được thời điểm là điều cốt yếu của tâm, sự tự
tin là cây chống ba chân, thái độ khiêm tốn là sợi dây buộc, sự
không ngă mạn thái quá là cái ách được nhẹ bỗng. |
xe được lái đi nhờ sự
thông suốt bốn mùa khác nhau, với ba chiếc gậy bảo vệ ḷng tịnh
tín bất động, lời nói khiêm tốn chính là chiếc roi da, đoạn trừ
hư danh chính là sợi dây cương, |
5469. Alīnacittasanthāro
vaddhasevirajohato,
satipatodo dhīrassa dhiti yogo ca rasmiyo.
|
5469.
Tâm không bị lui sụt là tấm thảm trải, sự tập luyện được tiến bộ
(về tuệ) là đă được quét sạch bụi, bậc sáng suốt có niệm là cây
gậy thúc, sự kiên tŕ và gắn bó (vào pháp tu tập) là các sợi dây
cương. |
với sự hỗ trợ của tâm
niệm xả ly (không chấp thủ) đi theo chánh trí và giải thoát mọi
trần cấu. Hăy dùng trí giác làm động cơ thúc đẩy
ngài, hành tŕ nhất tâm để chế ngự mọi luyến ái;
|
5470. Mano dantapathatveti samadantehi
vāhibhi,
icchā lobho ca kummaggo ujumaggo ca saññamo.
|
5470.
Tâm đă được thuần phục đi theo đúng đường lối như là cỗ xe được
kéo bởi những con ngựa đă được thuần phục ổn định. Mong muốn và
tham lam là con đường sái quấy, sự tự kiềm chế là con đường ngay
thẳng. |
tâm tư theo đúng đạo lộ tự điều phục cùng với mọi tuấn mă đă
được huấn luyện thuần phục.
Dục vọng và tham đắm đều là tà đạo, tự điều phục là chánh đạo.
|
5471. Rūpe sadde rase gandhe vāhanassa
padhāvato,
paññā ākoṭanī rāja tattha attāva sārathi.
|
5471. Khi cỗ xe đang lao theo các sắc, các
thinh, các vị, các hương, trí tuệ là sự trừng trị răn đe. Tâu bệ
hạ, trong trường hợp ấy, chính bản thân là người đánh xe. |
Khi con ngựa chạy
theo sắc, thanh, hương, vị, th́ trí tuệ phải dùng roi trừng phạt
và tâm chính là người lái xe. |
5472. Sace etena yānena samacariyā daḷhā
dhiti,
sabbakāmaduho rāja na jātu nirayaṃ vaje.
|
5472.
Nếu có sự thực hành ổn định, vững chắc, kiên quyết với cỗ xe
này, tâu bệ hạ, cỗ xe (thân thể) này đem lại mọi điều ước muốn,
chắc chắn không thể đi đến địa ngục.” |
Nếu ta đồng hành với cỗ xe, nếu trí thanh tịnh và nhất tâm bền
vững măi như thế, ta sẽ đạt mọi nguyện ước, tâu Đại vương, ta
không thể nào đọa địa ngục. |
5473. Alāto devadattosi sunāmo āsi
bhaddaji,
vijayo sāriputtosi moggallānosi bījako.
|
5473. “Devadatta đă là Alāta, vị Bhaddaji
đă là Sunāma, vị Sāriputta đă là Vijaya, vị Moggallāna đă là
Bījaka. |
40. Đề-bà-đạt chính A-là-ta,
Bhad-da-ji chính Su-na-ma,
Vi-ja-ya là Xá-lợi-phất, |
5474. Sunakkhatto licchaviputto guṇo āsi
acelako,
ānando ca rujā āsi yā rājānaṃ pasādayi.
|
5474. Sunakkhatta, người con trai xứ
Licchavi, đă là đạo sĩ lơa thể Guṇa, vị Ānanda đă là công chúa
Rujā, cô con gái đă cải hóa vua cha. |
Su-na-kha, ẩn sĩ Gu-na,
Ru-jà giáo hóa quân vương ấy,
Chính là thị giả A-nan-dà. |
5475. Uruvelakassapo rājā pāpadiṭṭhi tadā
ahu,
mahābrahmā bodhisatto evaṃ dhāretha jātakan ”ti.
|
5475. Uruvelakassapa khi ấy đă là vị vua
có tà kiến xấu xa, và đức Bồ Tát là vị Đại Phạm Thiên. Các ngươi
hăy ghi nhớ câu chuyện Bổn Sanh này như vậy.” |
41. B́-ja-ka chính Mục-kiền-liên,
Ca-diếp, vua theo thuyết hăo huyền,
Các ông hiểu Bổn sinh như vậy,
Bồ-tát chính là Đại Phạm thiên.
Câu chuyện
544 |
Mahānāradakassapajātakaṃ sattamaṃ.
|
Đại Bổn Sanh Nāradakassapa. [544] |
<Trang trước> |
<Trang Kế> |