Trang Chính

TTPV 34: Jātakapāḷi - Bổn Sanh tập III

Font VU-Times

 

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT

KHUDDAKANIKĀYA - TIỂU BỘ

JĀTAKAPĀḶI - BỔN SANH tập III

* TTPV tập 34 *

(Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader)

Cập Nhật: Sunday, October 30, 2016

 

XXII. MAHĀNIPĀTO - NHÓM LỚN  

 

Nguồn: Tam Tạng Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS)

Lời tiếng Việt: Tỳ khưu Indacanda

Trang 294:

 

Trang 295:

 

 

▪ 9. UMMAGGAJĀTAKAṂ

 

 

▪ 9. BỔN SANH UMMAGGA

546. CHUYỆN ĐƯỜNG HẦM VĨ ĐẠI
(Tiền thân Mahà-Ummagga)

5799. Sabbasaṃhārako natthi suddhaṃ kaṅgu pavāyati,
alikaṃ bhāsatayaṃ dhuttī saccamāhu mahallikā.

5799. Không có mùi thơm tổng hợp của mọi loài hoa, ṿng đeo bằng sợi chỉ tỏa ra hương thơm của hoa kaṅgu tinh khiết. Cô gái vô lại này nói lời sai trái, bà lăo đă nói sự thật.

Chẳng có mùi hương của bá hoa,
Chỉ Kan-gu cứ thoảng bay ra,
Nữ nhân ác độc kia gian dối,
Bà lăo nhà quê nói thật thà.

Sattadārakapañhā.
 

Bảy Câu Hỏi Dành Cho Đứa Trẻ.

 

 

5800. Haṃsi tuvaṃ evaṃ maññesi seyyo
puttena pitāti rājaseṭṭha,
handassatarassa te ayaṃ
assatarassa hi gadrabho pitā.

 

5800. Tâu chúa thượng, nếu ngài nghĩ rằng: ‘Người cha là tốt hơn so với người con,’ vậy th́ con lừa này, đối với ngài, phải cao giá hơn con la, bởi v́ con lừa là cha của con la.

Tâu Đại vương, ngài vẫn nghĩ rằng
Con luôn thua kém bậc cha ông?
Thế th́ lừa phải hơn la chứ,
Lừa ấy với la chính phụ thân!

Gadrabhapañho.
Ekūnavīsatipañhā niṭṭhitā.

 

Câu Hỏi về Con Lừa.
Dứt Mười Chín Câu Hỏi.

 

 

5801. Nāyaṃ pure unnamati toraṇagge kakaṇṭako,
mahosadha vijānāhi kena thaddho kakaṇṭako.

 

5801. “Con tắc kè này ở trên đỉnh cổng chào, trước đây nó không ngước lên. Này Mahosadha, khanh có biết được v́ sao con tắc kè lại ương ngạnh?”

1. Tắc kè thuở trước chẳng ḅ lên,
Khung cửa ṿng cung, bậc Trí hiền,
Hăy giải thích ngay cho trẫm rơ,
Tắc kè sao cứng cổ như trên?

5802. Aladdhapubbaṃ laddhāna addhamāsaṃ kakaṇṭako,
atimaññati rājānaṃ vedehaṃ mithilaggahaṃ.

 

5802. “Sau khi nhận được nửa đồng tiền chưa từng nhận được trước đây, con tắc kè khi dễ vị vua trị v́ ở thành Mithilā, xứ Videha.”

 

2. Con tắc kè kia được thưởng cho,
Món tiền nó chẳng có bao giờ,
Nửa hào, nên nó không tôn trọng,
Đại đế Vi-đề Mi-thi-la.

Kakaṇṭakapañho.

 

Câu Hỏi về Con Tắc Kè.

 

 

5803. Itthī siyā rūpavatī sā ca sīlavatī siyā,
puriso taṃ na iccheyya saddahāsi mahosadha.

 

5803. “Giả sử một người nữ có sắc đẹp, và nàng ấy có đức hạnh, người nam lại không ước muốn nàng ấy, này Mahosadha, khanh có tin không?”

3. Một nữ nhi đức hạnh, diễm kiều,
Nhưng nam nhân ấy chẳng thương yêu,
Hiền khanh có thể tin không chứ?
Trí giả Sa-dha hăy nói nào.

5804. Saddahāmi mahārāja puriso dubbhago siyā,
sirī ca kālakaṇṇī ca na samenti kudācanaṃ.

 

5804. “Tâu đại vương, thần tin (điều ấy), nếu người nam có phần phước kém. Người may mắn và kẻ bất hạnh không bao giờ kết hợp với nhau.”

 

4. Thần vẫn tin điều ấy, Đại vương,
Kẻ kia thật bất hạnh bần cùng,
Người nhiều ân phước và vô phước,
Chẳng có bao giờ kết bạn chung.

Sirikālakaṇṇipañho.

 

Câu Hỏi về May Mắn và Bất Hạnh.

 

5805. Yesaṃ na kadāci bhūtapubbaṃ
sakkhiṃ sattapadampi imasmiṃ loke,
jātā amittā duve sahāyā
paṭisandhāya caranti kissa hetu.

 

5805. “Đối với những kẻ thù trước đây chưa bao giờ có sự đối diện trong khoảng cách bảy bước chân ở thế gian này, giờ họ đă trở thành hai người bạn sống liên kết với nhau; nguyên nhân là thế nào?

5. Hai kẻ thù theo lẽ tự nhiên,
Chưa từng bảy bước đứng kề bên,
Trở thành bạn thiết không rời nữa,
Duyên cớ là đâu? Các bậc hiền!

5806. Yadi me ajja pātarāsakāle
pañhaṃ na sakkuṇeyyātha vattumetaṃ,
raṭṭhā pabbājayissāmi vo sabbe
na hi mattho duppaññajātikehi.
 

5806. Nếu hôm nay, vào bữa ăn sáng của trẫm, các khanh không có khả năng để trả lời câu hỏi ấy, trẫm sẽ trục xuất tất cả các khanh ra khỏi đất nước, bởi v́ với những kẻ có tuệ tồi th́ không có lợi ích cho trẫm.”

6. Nếu không giải đáp trước trưa nay,
Trẫm sẽ đuổi luôn hết cả bầy,
Trẫm không cần những người ngu nữa,
Vậy hăy t́m lời giải đáp ngay.

Trang 296:

Trang 297:

 

5807. Mahājanasamāgamamhi ghore
janakolāhalasaṅgamamhi jāte,
vikkhittamanā anekacittā
pañhaṃ na sakkuṇoma vattumetaṃ.

 

(Lời vị Senaka)
5807. “Ở nơi tập trung đông đảo dân chúng, ở nơi hăi hùng, ở cuộc hội họp ồn ào của loài người, chúng tôi có ư nghĩ bị rối loạn, có tâm tánh thất thường, không có khả năng để trả lời câu hỏi ấy.

7. Giữa đám đông người tụ tập trung,
Thật ồn ào quá, trí mông lung,
Không sao tập hợp tư duy được,
Để giải đáp ngay, tâu Đại vương.

5808. Ekaggacittā ca ekamekā
rahasigatā atthaṃ nicintayitvā,
paviveke sammasitvāna dhīrā
atha vakkhanti janinda atthametaṃ.

 

5808. Tâu vị chúa của loài người, các bậc sáng trí, với tâm được chuyên nhất và chỉ một ḿnh, đă đi đến nơi thanh vắng, sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng về ư nghĩa, sau khi nắm vững được vấn đề ở nơi cô quạnh, các vị sẽ nói về ư nghĩa ấy.”

8. Nhưng hễ khi nào được độc cư,
B́nh tâm tĩnh trí để suy tư,
Vấn đề xem xét cho tường tận,
Sẽ giải đáp ngay, hăy đợi chờ.

5809. Uggaputtarājaputtiyānaṃ
urabbhamaṃsaṃ piyaṃ manāpaṃ,
na te sunakhassa adenti maṃsaṃ
atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.

 

(Lời vị Senaka)
5809. “Đối với các trai trẻ ḍng quư tộc và các trai trẻ thuộc hoàng gia, thịt cừu là đáng yêu, hợp ư. Những vị ấy không ăn thịt chó. Rồi t́nh thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

9. Bọn hành khất trẻ, các ông hoàng,
Rất thích thịt dê đực ngọt ngon,
Thịt chó, họ đều không thọ dụng,
Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng.

5810. Cammaṃ vihananti eḷakassa
assapiṭṭhattharaṇasukhassa hetu,
na ca te sunakhassa attharanti
atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.

 

(Lời vị Pukkusa)
5810. Họ lột da của loài cừu v́ nguyên nhân của sự thoải mái trong việc trải lên lưng ngựa. Và họ không trải lên bằng da của loài chó. Rồi t́nh thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

10. Họ lấy da dê phía núi rừng,
Phủ che ngựa quư ở trên lưng,
C̣n da của chó không dùng được,
Nhưng chó dê cùng kết bạn thân.

5811. Āvellitasiṅgiko hi meṇḍo
na sunakhassa visāṇāni atthi,
tiṇabhakkho maṃsabhojano ca
atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.

 

(Lời vị Kāvinda)
5811. Bởi v́ cừu là loài thú có sừng cong, và không có các sừng ở loài chó. Cừu có thức nhai là cỏ và chó có thức ăn là thịt. Rồi t́nh thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

11. Cặp sừng cong xoắn, chú dê rừng,
Nhưng chó lại không có cặp sừng,
Một con ăn cỏ, con ăn thịt,
Tuy thế, chó, dê, kết bạn thân.

5812. Tiṇamāsi pālasamāsi meṇḍo
na sunakho tiṇamāsi no palāsaṃ,
gaṇheyya suṇo sasaṃ biḷāraṃ
atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.

 

(Lời vị Devinda)
5812. Cừu là loài ăn cỏ và là loài ăn lá. C̣n chó không ăn cỏ và không ăn lá. Chó có thể săn bắt thỏ và mèo. Rồi t́nh thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

12. Cừu dê ăn cỏ, lá cây luôn,
Cỏ, lá th́ con chó chẳng ăn,
Chó thích ăn mèo hay thịt thỏ,
Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng.

5813. Aḍḍhaṭṭhapādo catuppadassa
meṇḍo aṭṭhanakho adissamāno,
chādiyaṃ āharati ayaṃ imassa
maṃsaṃ āharati ayaṃ amussa.

 

(Lời đức Bồ Tát)
5813. “Là con thú bốn chân thuộc loài tứ túc, con cừu có tám móng (mỗi chân có hai móng) không bị phát hiện (khi đi lấy thịt). Con chó này mang lại vật che đậy (rơm, cỏ) cho con cừu kia; con cừu kia mang lại thịt cho con chó này.

13-14. Con dê cao tám tất dùng chân,
Tám móng, không ai thấy, vội mang,
Món thịt về cho con chó ấy,
Chó đem cỏ đến chú dê rừng.

5814. Pāsādagato videhaseṭṭho
vitihāraṃ aññamañña bhojanānaṃ,
addakkhi kira sakkhi taṃ janindo
bobhukkhassa ca puṇṇamukhassa cetaṃ.
 

5814. Vị thủ lĩnh xứ sở Videha đă đi đến ṭa lâu đài. Vị chúa của loài người đă thực sự nh́n thấy tận mắt việc trao đổi về thức ăn giữa con thú này với con kia. Và điều ấy xảy ra giữa con chó và con cừu.”

Vi-đề-ha, chúa toàn dân chúng,
Đứng tại thượng lầu tận mắt trông,
Việc lấy thức ăn trao đổi ấy,
Giữa dê, chó kết mối thân bằng.

Trang 298:

Trang 299:

 

5815. Lābhā vata me anapparūpā
yassa me edisā paṇḍitā kulamhi,
gambhīragataṃ nipuṇamatthaṃ
paṭivijjhanti subhāsitena dhīrā.

 

(Lời đức vua)
5815. “Thật vậy, lợi ích có vẻ không phải là ít ỏi đă có cho trẫm, là việc trẫm đây có được các bậc sáng suốt như thế này ở gia tộc! Bằng lời nói khéo léo, các bậc sáng trí thấu triệt ư nghĩa vi tế và sâu sắc của câu hỏi.

15. Trẫm có các bậc hiền giả tại triều
Thật là ích lợi biết bao nhiêu,
Vấn đề tế nhị và uyên áo,
Họ thấu triệt, lời lẽ tối ưu.

5816. Assatarīrathañca ekamekaṃ
phītaṃ gāmavarañca ekamekaṃ,
sabbaṃ vo dammi paṇḍitānaṃ
paramapatītamano subhāsitenā ”ti.

 

5816. Với tâm ư được hài ḷng tột đỉnh, trẫm sẽ ban cho tất cả những bậc sáng suốt các khanh mỗi vị một cỗ xe kéo bởi lừa cái, và mỗi vị được ân huệ là một ngôi làng giàu có.”

16. Cứ mỗi hiền khanh, trẫm thưởng ban,
Một xe, la cái, một ngôi làng,
Giàu sang thượng hạng cho người trí,
Trẫm thích thú lời lẽ ngọc vàng !

(Dvādasanipāte) Meṇḍakapañhaṃ.
 

Câu Hỏi Về Con Cừu

(thuộc Nhóm Mười Hai Kệ Ngôn).

 

5817. Paññāyupetaṃ siriyā vihīnaṃ
yasassinañvāpi apetapaññaṃ,
pucchāmi taṃ senaka etamatthaṃ
kamettha seyyo kusalā vadanti.

 

(Lời đức vua)

5817. “Người có trí tuệ nhưng thiếu về uy quyền, hay là người có danh vọng mà không có trí tuệ, này Senaka, trẫm hỏi khanh về sự việc này, các bậc thiện xảo nói người nào trong hai người này là tốt hơn?”

17. Có trí khôn nhưng thiếu bạc vàng,
Hoặc giàu tiền lại kém khôn ngoan,
Se-na-ka, trẫm hỏi khanh nhé:
Bậc trí gọi ai tốt đẹp hơn?

5818. Dhīrā ca bālā ca have janinda
sippūpapannā ca asippino ca,
sujātimantopi ajātimassa
yassasino pessakarā bhavanti,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi
pañño nihīno sirimāva seyyo.

 

(Lời vị Senaka)

5818. “Tâu vị chúa của loài người, thật vậy, những bậc trí và những kẻ ngu, những người có kiến thức và không có kiến thức, dầu cho có ḍng dơi cao quư, cũng trở thành những người làm công việc phục vụ cho kẻ không có ḍng dơi cao quư nhưng có danh vọng. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ thấp kém nhưng có uy quyền là tốt hơn.”

18. Quả thật, kẻ ngu hoặc trí nhân,
Vô văn phàm tục, hoặc đa văn,
Đều hầu hạ những người giàu có,
Dù họ cao sang hoặc hạ tầng,
Nh́n thấy điều này, thần mới nói:
Trí nhân thua kém kẻ giàu sang.

5819. Tavampi pucchāmi anomapañña
mahosadha kevaladhammadassi,
bālaṃ yasassiṃ paṇḍitaṃ appabhogaṃ
kamettha seyyo kusalā vadanti.

 

(Lời đức vua)

5819. “Này Mahosadha, vị có trí tuệ hoàn hảo, có sự nh́n thấy tất cả các pháp, trẫm cũng hỏi luôn cả khanh nữa, giữa người ngu có danh vọng và người trí có ít của cải, các bậc thiện xảo nói người nào trong hai người này là tốt hơn?”

19. Ta cũng hỏi con, Đại trí nhân,
Bậc tinh thông vạn pháp trên trần:
Kẻ ngu lắm của, người khôn khó,
Bậc trí gọi ai tốt bội phần?

5820. Pāpāni kammāni karoti bālo
idhameva seyyo iti maññamāno,
idhalokadassī paralokaṃ adassī
ubhayattha bālo kalimaggahesi,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi
paññova seyyo na yasassī bālo.

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5820. “Kẻ ngu làm các hành động xấu xa nghĩ rằng: ‘Chính cái này (uy quyền) là tốt hơn.’ Có sự nh́n thấy đời này, không nh́n thấy đời sau, kẻ ngu gánh lấy tai họa trong cả hai đời. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

20. Người ngu phạm tội, nghĩ suy rằng:
"Trên cơi đời, ta thắng thế hơn",
Họ thấy đời này, không cơi kế,
Nên mang tai họa cả hai đường.
Điều này con thấy, nên con nói:
Bậc trí hơn xa trọc phú đần.

5821. Na sippametaṃ vidadhāti bhogaṃ
na bandhavā na sarīrāvakāso,
passeḷamūgaṃ sukhamedhamānaṃ
sirī hi naṃ bhajate gorimandaṃ,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi
pañño nihīno sirimāva seyyo.
 

(Lời vị Senaka)

5821. “Không phải tài nghệ này đem lại của cải, không phải các thân quyến, không phải ưu thế về cơ thể (đem lại của cải). Bệ hạ hăy nh́n xem gă Gorimanda ngu dốt đang tràn trề hạnh phúc, bởi v́ uy quyền phục vụ cho gă. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ th́ bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

21. Kiến thức không đem lại bạc vàng,
Cũng không gia thế hoặc dung nhan,
Hăy nh́n ngốc tử Go-ri ấy,
Đang hưởng vinh hoa, đại phú cường,
V́ Đại vận ch́u người hạ tiện.
Điều này thần thấy, mới thưa rằng:
Bậc hiền trí chịu phần hèn mọn,
C̣n kẻ giàu tiền thắng thế hơn.

Trang 300:

Trang 301:

 

5822. Laddhā sukhaṃ majjati appapañño
dukkhena phuṭṭhopi pamohameti
āgantunā sukhadukkhena phuṭṭho,
pavedhati vāricarova ghamme
etampi disvāna ahaṃ vadāmi,
paññova seyyo na yasassī bālo.

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)

5822. “Sau khi đạt được hạnh phúc, kẻ thiểu trí bị say mê. Luôn cả người bị tác động bởi khổ đau, cũng đi đến sự mê muội. Bị tác động bởi niềm hạnh phúc hay nỗi khổ đau đă xảy đến, con người run rẩy tựa như loài thủy tộc giăy giụa ở nơi nóng bức. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

22. Một người tiểu trí hóa mê man.
Bị nhiễm độc khi hưởng bạc vàng:
Nếu gặp tai ương, thành ngớ ngẩn,
Rủi may số phận đến không lường,
Nó vùng như cá phơi ngoài nắng,
Khi thấy điều trên, trẻ nói rằng:
Người trí hơn xa người có của,
Giàu tiền nhưng trí óc ngu đần.

5823. Dumaṃ yathā sāduphalaṃ araññe
samantato samabhicaranti pakkhi,
evampi aḍḍhaṃ sadhanaṃ sabhogaṃ
bahujjano bhajati atthahetu,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi
paññova nihino sirimāva seyyo.

 

(Lời vị Senaka)

5823. “Giống như cây có trái ngọt ở trong rừng, các con chim lai văng ở xung quanh, cũng tương tự như thế, nhiều người phục vụ kẻ giàu sang, có tài sản, có của cải, v́ nguyên nhân lợi lộc. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ th́ bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

23. Trong rừng, chim chóc tự mười phương,
Tụ tập trên cây có trái ngon,
Cũng vậy, người nhiều tiền lắm của,
Đám đông hám lợi đến quây quần.
Thấy vầy, thần nói: người hiền trí,
Hèn kém, kẻ giàu thắng thế hơn.

5824. Na sādhu balavā bālo sāhasaṃ vindate dhanaṃ
kandantameva dummedhaṃ kaḍḍhanti niraye bhusaṃ,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi
paññova seyyo na yasassī bālo.

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)
5824. “Chẳng tốt lành ǵ việc kẻ ngu có quyền thế t́m kiếm tài sản bằng bạo lực. Các viên quan canh giữ địa ngục kéo lôi kẻ ngu muội c̣n đang than khóc vào địa ngục vô số kể. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

24. Kẻ ngu quyền thế chẳng hiền lương,
Dùng bạo lực khi chiếm bạc vàng,
Nó rống thật to tùy ư thích,
Quỷ nhân kéo nó xuống âm cung!
Thấy điều này, tiểu nhi xin nói:
Bậc trí hơn xa trọc phú đần.

5825. Yā kāci najjo gaṅgamabhissavanti
sabbāva tā nāmagottaṃ jahanti
gaṅgā samuddaṃ paṭipajjamānā,
na khāyate iddhiparo hi loko
etampi disvāna ahaṃ vadāmi,
paññova nihīno sirimāva seyyo.

 

(Lời vị Senaka)
5825. “Mọi ḍng sông đều chảy vào sông Gaṅgā; tất cả các ḍng sông ấy đều từ bỏ danh xưng và gốc gác. Trong khi đạt đến biển cả, sông Gaṅgā không c̣n được biết đến; bởi v́ kẻ khác có quyền lực hiện diện ở trên đời, (người trí không c̣n được biết đến). Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ th́ bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

25. Mọi ḍng nước đổ xuống sông Hằng,
Đều mất tánh danh với giống ḍng,
Đổ xuống biển, sông Hằng cũng sẽ,
Không c̣n phân biệt được thành phần.
Vậy đời phục vụ người giàu của;
Nh́n thấy điều trên, thần nói rằng:
Người có trí chịu phần thấp kém,
C̣n người giàu của chiếm phần hơn.

5826. Yametamakkhā udadhiṃ mahantaṃ
savanti najjo sabbakālaṃ asaṅkhaṃ,
so sāgaro niccamuḷāravego
velaṃ na acceti mahāsamuddo.

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)
5826. “Biển cả to lớn mà vị Senaka đă nói đến ấy có các ḍng sông luôn chảy vào không kể xiết, biển cả ấy, là đại dương, thường xuyên có lực đẩy khủng khiếp, nhưng không tràn qua bờ.

26-27. Biển cả, người kia nói, lệ thường,
Muôn sông đổ xuống, đập không ngừng,
Vào bờ, nhưng chẳng bao giờ vượt,
Bờ nọ, dù hùng vĩ đại dương.

5827. Evampi bālassa pajappitāni
paññaṃ na acceti sirī kadāci,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi
paññova seyyo na yasassī bālo.

 

5827. Cũng tương tự như vậy, những lời nói làm nhảm của kẻ ngu (không qua mặt được người trí); uy quyền không bao giờ vượt hơn trí tuệ. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

Cũng vậy, lời người ngu nhảm nhí,
Phồn vinh không thể vượt hiền nhân,
Thấy điều này, tiểu nhi xin nói:
Người trí hơn xa trọc phú đần.

5828. Asaññato cepi paresamatthaṃ
bhaṇāti santhānagato yasassī,
tasseva taṃ rūhati ñātimajjhe
sirī hi naṃ kārayate na paññā,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi.
paññova nibhino sirimāva seyyo.
 

(Lời vị Senaka)
5828. “Nếu kẻ có danh vọng đă đạt được địa vị tŕnh bày sự việc cho những người khác, dầu cho không có giới hạnh, lời nói của chính kẻ ấy vẫn có giá trị ở giữa các thân quyến; chính uy quyền giúp cho gă ấy vượt lên, không phải trí tuệ. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ th́ bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

28. Người giàu ở địa vị cao sang,
Có thể thiếu pḥng hộ bản thân,
Nhưng nếu nói ǵ cùng kẻ khác,
Lời kia giá trị giữa nhân quần.
Trí khôn không thể gây uy tín,
Cho kẻ nào không có bạc vàng.
Thấy vầy thần nói: người hiền trí,
Thấp kém, người giàu thắng thế hơn.

Trang 302:

 

Trang 303:

 

5829. Parassa vā attano vāpi hetu
bālo musā bhāsati appapañño,
so nindito hoti sabhāya majjhe
peccāpi so duggatigāmi hoti,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi.
paññova seyyo na yasassī bālo.

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)
5829. “Dẫu cho v́ nguyên nhân của người khác hay của bản thân, kẻ ngu, kém trí tuệ, nói lời dối trá, kẻ ấy bị chê bai ở giữa hội chúng. Thậm chí sau khi chết, kẻ ấy c̣n bị đi đến chốn khổ đau. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

29. V́ kẻ khác hay chính bản thân,
Kẻ ngu thường chẳng nói chân ngôn,
Chịu ô nhục giữa nơi quần chúng,
Đời kế nó rơi cảnh khổ buồn.
V́ thấy điều này, con trẻ nói:
Trí nhân hơn trọc phú ngu đần.

5830. Atthampi ce bhāsati bhūripañño
anāḷhiyo appadhano daḷiddo,
na tassa taṃ rūhati ñātimajjhe
sirī ca paññāṇavato na hoti
etampi disvāna ahaṃ vadāmi,
paññova nihīno sirimāva seyyo.

 

(Lời vị Senaka)
5830. “Nếu người có trí tuệ uyên bác, không dư dả, có ít tài sản, nghèo khó, tŕnh bày sự việc, lời nói của người ấy không có giá trị ở giữa các thân quyến; và uy quyền không thuộc về người có trí tuệ. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ th́ bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

30. Cho dù người Đại trí khôn ngoan,
Thiếu gạo thóc, lâm cảnh khốn nàn,
Nếu có nói điều ǵ phải trái,
Cũng không giá trị giữa thân nhân,
Phồn vinh không đến nhờ tri kiến.
Nh́n thấy điều trên, thần nói rằng:
Người trí phải chịu phần thấp kém,
C̣n người giàu của thắng phần hơn.

5831. Parassa vā attano vāpi hetu
na bhāsati alikaṃ bhūripañño,
so pūjito hoti sabhāya majjhe
peccañca so suggatigāmi hoti,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi
paññova seyyo na yasassī bālo.

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)
5831. “Dẫu cho v́ nguyên nhân của người khác hay của bản thân, người có trí tuệ uyên bác không nói lời sai trái, người ấy được tôn vinh ở giữa hội chúng. Và sau khi chết, người ấy được đi đến chốn an vui. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

31. Chẳng v́ ḿnh, cũng chẳng v́ người,
Bậc Đại trí nhân phải dối lời,
Người được tôn sùng trong hội chúng,
Đời sau hưởng hạnh phúc an vui.
Thấy điều này trẻ thơ xin nói:
Bậc trí hơn người trọc phú thôi.

5832. Hatthīgavāssā maṇikuṇḍalā ca
nāriyo ca iddhesu kulesu jātā,
sabbāva tā upabhogā bhavanti
iddhassa posassa aniddhimanto,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi
paññova seyyo na yasassī bālo.

 

(Lời vị Senaka)
5832. “Các con voi, ḅ, ngựa, các bông tai ngọc ma-ni, và các nữ nhân được phát hiện ở các gia tộc giàu có; toàn bộ tất cả các nàng ấy là vật sở hữu. Những người không có quyền thế là thuộc về người có quyền thế. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ th́ bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

32. Voi, ngựa, ḅ, ṿng ngọc, nữ nhân,
Thấy nhiều trong các hộ giàu sang,
Để dành cho các người giàu hưởng,
Mà chẳng cần uy lực thánh thần,
Nh́n thấy điều này, thần dám nói:
Bậc hiền thấp kém, phú gia hơn.

5833. Asaṃvihitakammantaṃ
bālaṃ dummantamantinaṃ,
sirī jahati dummedhaṃ
jiṇṇaṃva urago tacaṃ,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi
paññova seyyo na yasassī bālo.

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)
5833. “Uy quyền từ bỏ kẻ ngu muội, là kẻ có việc làm không được sắp xếp, ngu dốt, có suy nghĩ xấu xa, tựa như con rắn từ bỏ lớp da đă bị già cỗi. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.”

33. Người ngu hành động thiếu suy tư,
Nói những lời ngu xuẩn, dại rồ;
Vô trí bị quăng v́ Đại vận,
Như con rắn bỏ lớp da khô.
Thấy điều này, trẻ thơ xin nói:
Bậc trí hơn xa phú hộ ngu.

5834. Pañca paṇḍitā mayaṃ bhadante
sabbe pañjalikā upaṭṭhitā,
tvaṃ no abhibhuyya issarosi
sakko bhūtapatīva devarājā,
etampi disvāna ahaṃ vadāmi
paññova nihīno sirimāva seyyo.
 

(Lời vị Senaka)
5834. “Tâu bậc tôn kính, năm người sáng suốt chúng thần, tất cả đều chắp tay hầu cận. Ngài đă khuất phục chúng thần và là vị chúa tể, tựa như Sakka là người chủ quản của các sanh linh, vị chúa của chư Thiên. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Người có trí tuệ th́ bị hạ thấp, chính kẻ có uy quyền là tốt hơn.”

34. Năm trí nhân là bọn chúng thần,
Thảy đều hầu cận đấng tôn quân,
Hết ḷng kính trọng ngài là chúa,
Là chủ nhân ông của thứ dân.
Như Đế Thích là vua vạn vật,
Chính là chúa tể của thiên nhân.
Thấy vầy thần nói: người hiền trí,
Thấp kém, người giàu thắng thế hơn.

Trang 304:

 

Trang 305:

 

5835. Dāsova paññassa yasassī bālo
atthesu jātesu tathāvidhesu,
yaṃ paṇḍito nipuṇaṃ saṃvidheti
sammohamāpajjati tattha bālo
etampi disvāna ahaṃ vadāmi.
paññova seyyo na yasassī bālo.

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)
5835. “Kẻ ngu có danh vọng chính là nô lệ của người trí. Khi các công việc thuộc loại như thế ấy sanh khởi, người sáng suốt xếp đặt công việc một cách khéo léo, trong trường hợp ấy kẻ ngu đi đến sự rối loạn. Sau khi nh́n thấy điều ấy, thần nói rằng: Chính người có trí tuệ là tốt hơn, không phải kẻ ngu có danh vọng.
 

35. Người ngu nô lệ của người hiền,
Khi vấn đề này phát khởi lên,
Bậc trí giải đề khôn khéo lắm,
Kẻ ngu rối trí tựa cuồng điên.
Thấy điều này, trẻ thơ xin nói:
Bậc trí hơn xa kẻ lắm tiền.

5836. Addhā hi paññāva sataṃ pasatthā
kantā sirī bhogaratā manussā,
ñāṇañca buddhānamatulyarūpaṃ
paññaṃ na acceti sirī kadāci.

 

5836. Thật vậy, bởi v́ chính trí tuệ đă được các bậc thiện nhân ca tụng; c̣n loài người ưa thích của cải, th́ uy quyền được chúng yêu mến. Và trí của chư Phật là không thể sánh bằng. Uy quyền không bao giờ vượt hơn trí tuệ.”

36. Trí tuệ được sùng bởi thiện nhân,
Bạc vàng được chuộng bởi người trần,
Đắm say hưởng thụ bao tham dục.
Tri kiến Phật-đà thật tuyệt luân;
Vàng bạc chẳng bao giờ vượt quá
Trí cao siêu việt, tấu vương quân.

5837. Yaṃ taṃ apucchimha akittayī no
mahosadha kevaladhammadassī,
gavaṃ sahassaṃ usabhañca nāgaṃ
ājaññayutte ca rathe dasa ime,
pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho
dadāmi te gāmavarāni soḷaya.

 

(Lời đức vua)
5837. “Điều mà chúng ta đă hỏi khanh, khanh đă trả lời cho chúng ta. Này Mahosadha, vị có sự nh́n thấy tất cả các pháp, được hài ḷng với việc giải thích câu hỏi, ta ban cho khanh một ngàn ḅ cái, một ḅ mộng, và một con voi, với mười cỗ xe kéo đă được thắng vào những con ngựa thuần chủng này, và ân huệ là mười sáu ngôi làng.”

37. Con đáp mọi câu hỏi của ta,
Pháp Sư độc nhất, Ma-ho-sa,
Ngàn ḅ cái, một voi, ḅ đực,
Tuấn mă kéo mười cỗ đại xa,
Mười sáu ngôi làng giàu đẹp nhất,
Hân hoan ta tặng thưởng con thơ.

Vīsatinipāte sirimandapañho.
 

Câu Hỏi về Uy Quyền và Kẻ Ngu

(thuộc Nhóm Hai Mươi Kệ Ngôn).

 

5838. Yena sattubilaṅgā ca
dviguṇapalāso ca pupphito,
yenādāmi tena vadāmi
yena nādāmi na tena vadāmi,
esa maggo yavamajjhakassa
etaṃ channapathaṃ vijānāhi.

 

5839. Theo hướng đi có tiệm bánh và tiệm cháo, rồi có cây song diệp đă được trổ hoa; thiếp cho bằng tay nào th́ thiếp nói về hướng đó, thiếp không nói về hướng phía bên tay mà thiếp không cho; con đường ấy dẫn đến ngôi làng Yavamajjhaka, chàng hăy nhận biết lối đi đă được che giấu ấy.

38. Nhờ món bánh và cháo nấu nhừ,
Cùng cây song điệp trổ muôn hoa,
Bàn tay thiếp để ăn và chỉ,
Chẳng phải bàn tay thiếp bỏ qua,
Đó chính là đường đi thị trấn,
Con đường bí mật phải t́m ra.

Channapathapañho.
 

Câu Hỏi về Lối Đi Đă Được Che Giấu.

 

 

5839. Hanti hatthehi pādehi mukhañca parisumbhati,
sace rāja piyo hoti kaṃ tenamabhipassati.

5839. Gă ấy đánh bằng những cánh tay, bằng những bàn chân, và gă ấy đấm vào mặt. Tâu bệ hạ, gă ấy quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có ai đáng yêu hơn gă ấy?

39. Kẻ ấy đánh bằng chân lẫn tay,
Đánh luôn cả mặt mũi tai mày,
Tuy nhiên kẻ ấy, tâu Hoàng thượng;
Thân thiết hơn chồng nữa, lạ thay !

5840. Ko nu santamhi pajjote aggipariyesanaṃ caraṃ,
addakkhi rattiṃ khajjotaṃ jātavedaṃ amaññatha.

 

5840. “Người nào, trong khi có cây đèn, trong khi đi t́m kiếm ngọn lửa, đă nh́n thấy con đom đóm lúc ban đêm và đă nghĩ là ngọn lửa?

"Khi lửa tắt, có ai đi t́m lửa từng nghĩ rằng con đom đóm có thể làm mồi lửa được chăng, nếu người ấy trông thấy đom đóm ban đêm?

5841. Svāssa gomayacuṇṇāni abhimatthaṃ tiṇāni ca,
viparītāya saññāya nāsakkhi sañjaletave.

 

5841. Kẻ ấy, trong khi nghiền nát bụi phân ḅ và các cỏ khô ở con đom đóm (để nhóm lửa), do hiểu biết sai lệch, đă không thể làm bùng cháy ngọn lửa.

Nếu người ấy ṿ vụn phân ḅ và cỏ chất lên nó th́ thật là điên rồ, v́ không thể làm nó bắt lửa được.

5842. Evampi anupāyena atthaṃ na labhate mago,
visāṇato gavaṃ dohaṃ yattha khīraṃ na vindati.
 

5842. Cũng như vậy, bằng cách thức sai trái, kẻ ngu không đạt được sự lợi ích trong khi vắt sữa ḅ cái từ sừng ḅ, là nơi không t́m thấy sữa.

Cũng vậy, một thú vật không ích lợi ǵ cho ta nếu ta dùng nó theo cách sai lạc, ví như vắt sữa sừng ḅ, th́ chẳng bao giờ sữa chảy ra.

Trang 306:

 

Trang 307:

 

5843. Vividhehi upāyehi atthaṃ papponti māṇavā,
niggahena amittānaṃ mittānaṃ paggahena ca.

 

5843. Các chàng trai trẻ thu thập điều lợi ích theo nhiều cách thức, nhờ vào sự quở trách của những kẻ thù và nhờ vào sự nâng đỡ của các thân hữu.

Con người được lợi lạc nhờ nhiều phương tiện như là trừng phạt kẻ thù và tỏ t́nh thân ái với bằng hữu.

5844. Seṇimokkhopalābhena vallabhānaṃ nayena ca,
jagatiṃ jagatīpālā āvasanti vasundharaṃ.

 

5844. Nhờ việc thu phục các tướng lănh của quân đội, và nhờ vào kế hoạch của các cận thần, các vị chúa tể trái đất cư ngụ ở trái đất, nơi cất giữ nhiều của cải.”

Nhờ chinh phục các tướng lănh giữa chốn ba quân và lời bằng hữu khuyên răn, các vị chúa tể trên thế gian ngự trị cả thế gian và hưởng thụ trọn vẹn."

Khajjopaṇakapañho.
 

Câu Hỏi về Con Đom Đóm.

 

5845. Saccaṃ kira tvampi bhūripañño
yā tādisī sirī dhitī mutī ca,
na tāyate bhāvavasūpanītaṃ
yo yāvakaṃ bhuñjasi appasūpaṃ.

 

(Lời của một quan viên)
5845. “(Điều vị Senaka đă nói) quả đúng là sự thật, ngài dầu có trí tuệ uyên bác, thêm vào sự vinh quang, nghị lực, và thông minh như thế ấy vẫn không bảo vệ được vị thế và quyền lực đă đạt đến của ngài, khiến ngài phải ăn món lúa mạch với ít nước xúp.”

40. Có thật ngài là bậc Trí nhân,
Như người đồn có trí uyên thâm,
Vậy tài trí, đại vinh quang ấy,
Chẳng phục vụ ngài đúng nghĩa chăng,
Và đă trở thành không ư nghĩa,
Trong khi ngài nuốt chút cơm hầm?

5846. Sukhaṃ dukkhena paripācayanto
kālākālaṃ vicinaṃ chandachanno,
atthassa dvārāni avāpuranto
tenāhaṃ tussāmi yavodanena.

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)
5846. “Trong khi làm tăng trưởng hạnh phúc với sự khó nhọc, trong khi xem xét thời điểm hoặc chưa phải thời điểm, ta đă che giấu ḷng mong muốn trong khi mở ra các cánh cửa đưa đến điều lợi ích; v́ thế, ta hài ḷng với cơm lúa mạch.

41. Vinh quang ta tạo bởi gian truân,
Đúng lúc, trái thời, ta biệt phân,
Để ẩn náu ḿnh theo ư muốn,
Mở toang các cửa lợi vô ngần,
Cho nên ta biết điều tri túc,
Với chút cơm hầm, vẫn muốn ăn.

5847. Kālañca ñatvā abhijīhanāya
mantehi atthaṃ paripācayitvā,
vijambhissaṃ sīhavijambhitāni
tāyiddhiyā dakkhasi maṃ punāpi.

 

5847. Và sau khi nhận biết thời điểm cho việc ra sức, sau khi làm cho chín muồi sự lợi ích thông qua các kế hoạch, ta sẽ phô trương bản thân tựa như con sư tử đă vươn dậy; với sự thành tựu ấy, ngươi cũng sẽ gặp lại ta.”

42. Khi ta nhận thấy đúng thời cơ,
Nỗ lực tạo thành mối lợi to,
Theo kế hoạch, ta liền chịu đựng,
Can cường chẳng khác một thanh sư,
Và nhờ năng lực oai hùng ấy,
Ông sẽ thấy ta trở lại mà.

5848. Sukhī hi eke na karonti pāpaṃ
avaṇṇasaṃsaggabhayā puneke,
pahū samāno vipulatthacintī
kiṃ kāraṇā me na karosi dukkhaṃ.

 

(Lời đức vua)
5848. “Một số người không làm điều ác bởi v́ họ hạnh phúc, thêm nữa một số người do sợ hăi việc dính líu đến điều tai tiếng; c̣n khanh, trong khi đang có nhiều ư tưởng về những lợi ích lớn lao, v́ lư do ǵ mà khanh không gây ra sự khổ đau cho trẫm?”

43. Lắm kẻ không gây tạo lỗi lầm,
Bởi v́ họ đă được giàu sang,
Nhưng nhiều người chẳng gây lầm lỗi,
V́ sợ bùn nhơ cấu uế tâm,
Con đủ tài năng làm sự nghiệp,
Sao con không hăm hại vương quân?

5849. Na paṇḍitā attasukhassa hetu
pāpāni kammāni samācaranti,
dukkhena puṭṭhā khalitattāpi santā
chandā ca dosā na jahanti dhammaṃ.

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)
5849. “Các bậc sáng suốt không v́ nguyên nhân hạnh phúc của bản thân mà tạo ra các ngiệp ác xấu. Những người tốt, dầu bị tác động bởi khổ đau, dầu bản thân bị vấp ngă, cũng không v́ tham muốn và sân hận mà từ bỏ thiện pháp.”

44. Bậc Trí giả không tạo lỗi lầm,
Chỉ v́ lạc thú hưởng giàu sang,
Thiện nhân dù gặp cơn tai họa,
Và bị lâm vào cảnh khốn nàn,
Chẳng v́ thân hữu hay thù hận,
Mà phải khước từ đạo chánh chân .

5850. Yena kenaci vaṇṇena mudunā dārunena vā,
uddhare dīnamattānaṃ pacchā dhammaṃ samācare.
 

(Lời đức vua)
5850. “Bằng bất cứ cách thức nào, mềm mỏng hay thô bạo, nên đưa bản thân ra khỏi t́nh trạng khốn khó, rồi sau đó mới thực hành thiện pháp.”

45. Người nào v́ bất cứ nguyên nhân,
Dù nhỏ, dù to, với bản thân,
Đưa chính ḿnh lên từ chỗ thấp,
Về sau tiến bước đạo Như chân.

Trang 308:

 

Trang 309:

 

5851. Yassa rukkhassa chāyāya nisīdeyya sayeyya vā,
na tassa sākhaṃ bhañjeyya mittadubbho hi pāpako.

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)
5851. “Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của cây nào th́ không nên bẻ găy cành lá của cây ấy, bởi v́ kẻ phản bội bạn bè là kẻ ác xấu.

46. Dưới một gốc cây bóng mát lành,
Nếu ta ngồi xuống nghỉ thân ḿnh,
Chặt cành lá ấy là làm phản,
Bọn giả dối, ta phải ghét khinh.

5852. Yassā hi dhammaṃ manujo vijaññā
ye cassa kaṅkhaṃ vinayanti santo,
taṃ hissa dīpañca parāyaṇañca
na tena mittaṃ jarayetha pañño.

 

5852. Nhờ vào vị nào mà một người có thể nhận thức được lẽ phải, và các bậc thiện nhân dẹp bỏ mối nghi ngờ đối với người này, chính vị ấy là ḥn đảo và là nơi nương tựa của người này; người có sự hiểu biết không nên hủy hoại t́nh bạn với vị ấy.”

47. Nếu một người khai đạo chánh chân,
Đánh tan nghi hoặc của tha nhân,
Người này thành một nơi nương tựa,
Và bảo hộ cho chính bản thân,
Bậc Trí không bao giờ hủy diệt,
Mối dây này kết hợp thân bằng.

5853. Alaso gihī kāmabhogī na sādhu
asaññato pabbajito na sādhu,
rājā na sādhu anisammakārī
yo paṇḍito kodhano taṃ na sādhu.

 

5853. “Người tại gia biếng nhác có sự thọ hưởng các dục, là không tốt, bậc xuất gia không tự chế ngự, là không tốt, vị vua có hành động không cân nhắc, là không tốt, người sáng suốt có sự phẫn nộ, việc ấy là không tốt.

48. Ta ghét thế nhân đắm dục t́nh,
Giả tu là dối gạt rành rành,
Hôn quân xử án không nghe thấy,
Sân hận người hiền chẳng biện minh.

5854. Nisamma khattiyo kayirā nānisamma disampati,
nisammakārino rāja yaso kitti ca vaḍḍhati.

 

5854. Vị Sát-đế-lỵ nên hành động sau khi cân nhắc. Bậc chúa tể một phương không thể không cân nhắc. Đối với vị vua có hành động đă được cân nhắc, danh vọng và tiếng tăm tăng trưởng.”

49. Vị vua thận trọng suy tư kỹ,
Xử án đầy suy xét tận t́nh,
Vua chúa suy tư phân xử đúng,
Đời đời danh vọng măi quang vinh.

Bhūripañho.
 

Câu Hỏi Uyên Bác.
 

 

5855. Hanti hatthehi pādehi mukhañca parisumbhati,
sa ce rāja piyo hoti kaṃ tenamabhipassasi.

 

5855. “Gă ấy đánh bằng những cánh tay, bằng những bàn chân, và gă ấy đấm vào mặt. Tâu bệ hạ, gă ấy quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có ai đáng yêu hơn gă ấy?”

50. Kẻ ấy đánh bằng chân lẫn tay,
Đánh luôn cả mặt, mũi, tai, mày,
Tuy nhiên kẻ ấy, tâu Hoàng thượng,
Thân thiết hơn chồng nữa, lạ thay!

5856. Akkosati yathākāmaṃ āgamañcassa na icchati,
sa ce rājā piyo hoti taṃ tenamabhipassasi.

 

5856. “Người sỉ vả gă ấy tùy theo ư thích, nhưng người lại mong muốn sự quay về của gă ấy. Tâu bệ hạ, gă ấy quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có ai đáng yêu hơn gă ấy?”

51. Bà mắng kẻ kia thật tệ tàn,
Nhưng bà muốn nó ở kề gần,
Kẻ kia, tuy vậy, tâu Hoàng thượng,
C̣n thiết thân hơn chính cả chồng.

5857. Abbhakkhāti abhūtena alikenamabhisāraye,
sa ce rāja piyo hoti kaṃ tenamabhipassasi.

 

5857. “Người trách móc gă ấy với việc không có thật, người buộc tội với chuyện giả dối. Tâu bệ hạ, gă ấy quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có ai đáng yêu hơn gă ấy?”

52. Nàng mắng nhiếc chàng chẳng lư do,
Và nàng trách móc thật vu vơ,
Tuy nhiên, chàng ấy, tâu Hoàng thượng,
Thân thiết hơn chồng nữa, lạ chưa?

5858. Haraṃ annañca pānañca vatthasenāsanāni ca,
aññadatthu harā santā te ve rāja piyā honti kaṃ tenamabhipassasi.

 

5858. “Trong khi lấy mang đi cơm, nước, y phục, và chỗ trú ngụ, thật vậy, những người lấy mang đi là những người tốt. Tâu bệ hạ, những người ấy quả thật đáng yêu; bệ hạ xem có những ai đáng yêu hơn những người ấy?”

53. Lấy thực phẩm, y phục, tọa sàng,
Thiện nhân mang mọi vật lên đàng,
Tuy nhiên, các vị, tâu Hoàng thượng,
C̣n thiết thân hơn chính cả chồng.

Devatāpucchitapañhā.
 

Các Câu Hỏi Được Hỏi Bởi Vị Thiên Nhân.

 

5859. Pañca paṇḍitā samāgatā
pañho me paṭibhāti taṃ suṇātha,
nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
kassevāvikareyya guyhamatthaṃ.
 

(Lời đức vua)
5859. “Năm bậc nhân sĩ đă tụ hội lại. Có câu hỏi lóe lên ở trẫm, các vị hăy lắng nghe điều ấy. Có nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người nào khác, cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi?”

54. Năm vị hiền nhân họp buổi nay,
Vấn đề trẫm chợt nghĩ, nghe đây:
Cùng ai, bí mật nên bày tỏ,
Dù tốt xấu, hay dở, nói ngay!

Trang 310:

 

Trang 311:

 

5860. Tvaṃ no āvikarohi bhūmipāla
bhattā bhārasaho tuvaṃ vadetaṃ,
tava chandañca ruciñca sammasitvā
atha vakkhanti janinda pañca dhīrā. 

 

(Lời vị Senaka)
5860. “Tâu đấng hộ quốc, xin bệ hạ hăy bày tỏ với chúng thần. Bệ hạ là chủ nhân, là người nâng đỡ gánh nặng cho chúng thần, xin bệ hạ hăy nói ra điều ấy. Tâu vị chúa của loài người, sau khi nắm bắt được mong muốn và ư thích của bệ hạ, khi ấy năm vị sáng trí sẽ phát biểu.”

55. Xin Đại vương cho biết ư trời,
Muôn tâu Chúa thượng ở trên đời,
Là người bảo hộ, cưu mang nặng,
Năm trí giả mong hiểu ư ngài,
Cùng sở thích ngài, xin hăy nói,
Muôn tâu chúa tể cơi trần ai!
 

5861. Yā sīlavatī anaññadheyyā
bhattucchandavasānugā piyā manāpā,
nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
bhariyāyāvikareyya guyhamatthaṃ.  

 

(Lời đức vua)
5861. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người vợ, (nếu) nàng là người có giới hạnh, không thể bị xúi giục bởi người khác, chiều theo sự mong muốn và mệnh lệnh của chồng, đáng yêu, và hợp ư.”

56. Nếu nữ nhân đức hạnh phục tùng,
Tuân theo ư nguyện của phu quân,
Đầy t́nh thân ái th́ nên nói,
Điều bí mật, hay dở mặc ḷng!

5862. Yo kicchagatassa āturassa
saraṇaṃ hoti gatī parāyaṇañca,
nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
sakhinovāvikareyya guyhamatthaṃ.  

 

(Lời vị Senaka)
5862. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người bạn, (nếu) vị ấy là nơi nương tựa, nơi đi đến, nơi nâng đỡ đối với người gặp khó khăn, đối với người bị bệnh.”

57. Ai bảo vệ người bệnh khốn cùng,
Là nguồn cấp dưỡng, chốn nương thân,
Th́ nên bày tỏ cùng thân hữu.
Điều bí mật, hay dở mặc ḷng.

5863. Jeṭṭho atha majjhimo kaṇiṭṭho
so ce sīlasamāhito ṭhitatto,
nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
bhātuvāvikareyya guyhamatthaṃ.  

 

(Lời vị Pukkusa)
5863. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến anh em trai, là người anh cả, anh thứ, hay em út, nếu người ấy có giới hạnh, trầm tĩnh, có bản tánh kiên định.”

58. Dù già hay trẻ, hoặc trung niên,
Nếu chú em đức hạnh, đáng khen,
Với chú em này, điều bí mật,
Dù là tốt xấu, hăy nêu lên.

5864. Yo ve pituhadayassa paddhagu
anujāto pitaraṃ anomapañño,
nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
puttassāvikareyya guyhamatthaṃ.

 

(Lời vị Kāvinda)
5864. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người con trai, là người tuân phục sự sai bảo của cha, là người con tiếp nối sự nghiệp của cha, là người có trí tuệ hoàn hảo.”

59. Khi đứa con vâng phục ư cha,
Con trai thành thật, trí cao xa,
Với con như vậy, th́ nên nói,
Điều bí mật, dù tốt xấu mà.

5865. Mātā dipadā janindaseṭṭha
yo taṃ poseti chandasā piyena,
nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
mātuyāvikareyya guyhamatthaṃ.

 

(Lời vị Devinda)
5865. “Tâu vị chúa tối thượng của loài người có hai chân, cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người mẹ, là người mẹ nuôi dưỡng kẻ ấy với sự mong mỏi, với sự yêu mến.”

60. Muôn tâu Chúa tể của quần sinh,
Nếu mẹ yêu con thật tận t́nh,
Đối với mẹ này, điều bí mật
Dở hay, có thể nói cho rành.

5866. Guyhassa hi guyhameva sādhu
na hi guyhassa pasatthamāvikammaṃ,
anipphādāya saheyya dhīro
nipphannattho yathāsukhaṃ bhaṇeyya.

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)
5866. “Riêng đối với việc cần phải giấu kín, chỉ có việc giấu kín là tốt, bởi v́ đối với việc cần phải giấu kín, sự bày tỏ là không được khen ngợi. Khi việc chưa được hoàn tất, vị sáng trí nên chịu đựng; khi việc đă được hoàn tất, th́ có thể nói ra một cách thoải mái.”

61. Giữ ǵn bí mật chính là hay,
Chẳng đáng khen cơ mật tỏ bày,
Người khôn phải giữ điều thầm kín,
Khi việc chưa thành tựu, khéo thay!
Sau lúc thực hành điều bí mật,
Khi người muốn, có thể nêu ngay.

5867. Kinnu tvaṃ vimanosi rājaseṭṭha
dipadinda vacanaṃ suṇoma netaṃ,
kiṃ cintayamāno dummanosi
nūna deva aparādho atthi mayhaṃ.
 

(Lời hoàng hậu Udumbaradevī)
5867. “Tâu chúa thượng, việc ǵ khiến bệ hạ ưu tư? Tâu vị chúa tể của loài người, bọn thiếp không nghe nói ǵ về việc ấy. Trong khi suy nghĩ về việc ǵ mà ngài phiền muộn? Tâu bệ hạ, không lẽ thiếp có lỗi lầm ǵ chăng?”

62. V́ sao lo lắng, tâu Quân vương?
Thần thiếp chẳng nghe giọng Chúa công,
Hoàng thượng nghĩ ǵ sinh khổ năo,
Có ǵ lầm lỗi, thiếp làm chăng?

Trang 312:

 

Trang 313:

 

5868. Pañño vajjho mahosadhoti
āṇatto me vadhāya bhūripañño,
taṃ cintayanto dummanosmi
na hi devi aparādho atthi tuyhaṃ.  

 

(Lời đức vua)
5868. “‘Kẻ có trí Mahosadha đáng bị giết chết,’ (nghe lời sàm tấu) trẫm đă ra lệnh hành quyết bậc có trí tuệ uyên bác. Trong khi suy nghĩ về việc ấy khiến trẫm phiền muộn. Này hoàng hậu, nàng chẳng có lỗi lầm ǵ.”

63. Chúng tâu: "Trí giả Đại Sa-dha
Phải bị giết ngay v́ đức vua",
Đệ nhất hiền nhân, ta xử trảm,
Khi ta nghĩ vậy, trí buồn lo.
Không ǵ lầm lỗi từ khanh cả,
Hỡi ái hậu yêu dấu của ta.

5869. Abhidosagato idāni esi
kiṃ sutvā kimāsaṅkate mano te,
ko te kimavoca bhūripañña
iṅgha taṃ vacanaṃ suṇoma brūhi metaṃ.  

 

(Lời đức vua nói với bậc sáng suốt Mahosadha tại triều)
5869. “Tối hôm qua khanh đă ra về, bây giờ khanh đi đến. Khanh đă nghe điều ǵ? Ư của khanh nghi ngờ điều ǵ? Này bậc có trí tuệ uyên bác, người nào đă nói điều ǵ với khanh? Nào, hăy cho chúng ta nghe lời nói ấy. Khanh hăy nói điều ấy với trẫm.”

64. Chiều tối hôm qua, con đă đi,
Bây giờ lại đến, hỡi vương nhi!
Điều ǵ lo sợ trong tâm trí,
Hoặc giả con nghe nói những ǵ?
Ai bảo con làm, này Trí giả,
Nào ta lắng đợi, nói ngay đi!

5870. Pañño vajjho mahosadhoti
yadi te mantayitaṃ janinda dosaṃ,
bhariyāya rahogato asaṃsi
guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.  

 

(Lời bậc sáng suốt Mahosadha)
5870. “Tâu vị chúa của loài người, nếu điều đă được nói ra bởi bệ hạ tối hôm qua rằng: ‘Kẻ có trí Mahosadha đáng bị giết chết,’ rồi bệ hạ đă bày tỏ cho người vợ ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đă được phơi bày, (bởi v́) thần đă nghe được điều ấy.

65. Bậc hiền trí Đại O-sadha,
Phải bị giết ngay, nếu tối qua,
Ngài kể chuyện này cho chánh hậu,
Th́ điều bí mật bị phơi ra!

5871. Yaṃ sālavanasmiṃ senako
pāpakammaṃ akāsi asabbhirūpaṃ,
sakhinova rahogato asaṃsi
guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.  

 

5871. Việc Senaka đă làm hành động xấu xa, có h́nh thức không tốt lành, ở khu rừng cây sāla, rồi đă bày tỏ cho người bạn ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đă được phơi bày, (bởi v́) thần đă nghe được điều ấy.

66. Tội ác bạo tàn Se-na-ka,
Đă làm trong bụi rậm Sà-la,
Lăo cho bạn biết nơi thầm kín,
Thần đă nghe: cơ mật lộ ra!

5872. Pukkusapurisassa te janinda
uppanno rogo arājayutto,
bhātucca rahogato asaṃsi
guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.  

 

5872. Tâu vị chúa của loài người, Pukkusa, người của bệ hạ, đă bị phát khởi chứng bệnh (phong cùi), không thích hợp để đức vua chạm đến. Lăo đă bày tỏ cho người em trai ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đă được phơi bày, (bởi v́) thần đă nghe được điều ấy.

67. Trong người này, lăo Pu-ku-sa,
Có một bệnh không thích hợp cho,
Một đấng quân vương nào đụng chạm,
Lăo đem bí mật nói riêng tư,
Cho em ḿnh biết, điều thầm kín,
Thần đă nghe, được tiết lộ ra.

5873. Ābādhoyaṃ asabbhirūpo
kāvindo naradevena phuṭṭho,
puttassa rahogato asaṃsi
guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.  

 

5873. Căn bệnh này có h́nh thức không tốt lành, Kāvinda bị ám ảnh bởi Dạ-xoa Naradeva. Lăo đă bày tỏ cho người con trai ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đă được phơi bày, (bởi v́) thần đă nghe được điều ấy.

68. Kẻ kia bệnh hoạn, tính tà gian,
Bị quỷ Na-ra ám ảnh tâm,
Lăo nói cho con điều bí mật,
Thần nghe bí mật bị phơi trần!

5874. Aṭṭhavaṅkaṃ maṇiratanaṃ uḷāraṃ
sakko te adadā pitāmahassa,
devindassa gataṃ tadajja hatthaṃ
mātucca rahogato asaṃsi
guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.  

 

5874. Thiên chủ Sakka đă cho đến ông nội của bệ hạ viên bảo ngọc ma-ni tuyệt hảo, có tám mặt. Hôm nay, viên ngọc ấy đă rơi vào tay của Devinda. Lăo đă bày tỏ cho người mẹ ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đă được phơi bày, (bởi v́) thần đă nghe được điều ấy.

69. Bát giác ngọc thần ấy thuở xưa,
Thượng hoàng được tặng bởi Sak-ka,
De-vin-da giữ trong tay lăo,
Lăo kể chuyện kia với mẹ già,
Trong chỗ kín, thần nghe thấy được,
Điều cơ mật ấy được phôi ra!

5875. Guyhassa hi guyhameva sādhu
na hi guyhassa pasatthamāvikammaṃ,
anipphādāya saheyya dhīro
nipphannattho yathāsukhaṃ bhaṇeyya.
 

5875. Riêng đối với việc cần phải giấu kín, chỉ có việc giấu kín là tốt, bởi v́ đối với việc cần phải giấu kín, sự bày tỏ là không được khen ngợi. Khi việc chưa được hoàn tất, vị sáng trí nên chịu đựng; khi việc đă được hoàn tất, th́ có thể nói ra một cách thoải mái.

70. Giữ điều bí mật mới là hay,
Bí mật không nên được tỏ bày,
Người trí phải duy tŕ bí mật,
Khi người thành tựu mục tiêu này,
Th́ người hăy nói như ḿnh muốn.

Trang 314:

 

Trang 315:

 

5876. Na guyhamatthaṃ vivareyya rakkheyya naṃ yathā nidhiṃ,
na hi pātukato sādhu guyho attho pajānatā.  

 

5876. Không nên bộc lộ việc cần phải giấu kín; nên bảo vệ nó như là của chôn giấu. Quả thật là không tốt đẹp nếu việc cần phải giấu kín bị phơi bày bởi người có sự nhận thức.

Vậy chớ phơi ra bí mật vầy,
Phải giữ nó như kho bảo vật,
Người khôn chẳng lộ việc riêng tây.

5877. Thiyā guyhaṃ na saṃseyya amittassa ca paṇḍito,
yo cāmisena saṃhīro hadayattheno ca yo naro.  

 

5877. Vị sáng suốt không nên bày tỏ điều bí mật cho phụ nữ, cho kẻ đối nghịch, cho kẻ có thể bị mua chuộc bởi tài vật và hạng người giả vờ kết thân.

71. Người trí chẳng nên nói lộ ra,
Một điều bí mật với đàn bà,
Với cừu địch, người ham tư lợi,
Hoặc bởi t́nh thân ái thiết tha.

5878. Guyhamatthamasambuddhaṃ saṃbodhayati yo naro,
mantabhedabhayā tassa dāsabhūto titikkhati.  

 

5878. Người nào cho biết việc cần phải giấu kín đến kẻ không khôn ngoan do nỗi sợ hăi về chú thuật hay về sự đổ vỡ quan hệ đối với kẻ ấy, th́ phải chịu đựng thân phận làm nô lệ (cho kẻ ấy).

Người tiết lộ ra điều bí mật,
V́ lo sợ bạn chẳng tin ta,
Về sau phải chịu làm nô lệ,
Cho chính kẻ kia thật dại khờ!

5879. Yāvanto purisassatthaṃ guyhaṃ jānanti mantinaṃ,
tāvanto tassa ubbegā tasmā guyhaṃ na vissaje.  

 

5879. Càng có nhiều kẻ biết được việc cần phải giấu kín của một người (do) đă được thổ lộ, th́ càng có nhiều kích động đối với người ấy; v́ thế, không nên thố lộ điều bí mật.

72. Càng nhiều người biết chuyện riêng tư,
Càng có thêm nhiều mối sợ lo,
Vậy chẳng nên phơi bày bí mật,

5880. Vivicca bhāseyya divā rahassaṃ
rattiṃ giraṃ nātivelaṃ pamuñce,
upassutikā hi suṇanti mantaṃ
tasmā manto khippamupeti bhedaṃ.

 

5880. Vào ban ngày, nên tách ly rồi mới nói điều bí mật, vào ban đêm không nên thốt ra lời tốn quá nhiều thời gian. Bởi v́ những kẻ nghe lén lắng nghe điều thố lộ; v́ thế, điều thố lộ mau chóng đi đến việc ṛ rỉ.”

Ban ngày hăy đến một nơi xa,
Nói điều bí mật, c̣n đêm tối,
Hăy nói giọng nho nhỏ ấy mà,
V́ lắm người nghe lời nói ấy,
Nên lời ấy thoáng chốc tuôn ra.

Vīsatinipāte pañcapaṇḍitapañhā.
 

Câu Hỏi Dành Cho Năm Bậc Nhân Sĩ

(thuộc Nhóm Hai Mươi Kệ Ngôn).

 

5881. Pañcālo sabbasenāya brahmadatto samāgato,
sāyaṃ pañcāliyā senā appameyyā mahosadha.  

 

 

- Brahmadatta đă đến cùng với đám chư hầu, đạo binh Pañcàla này thật vô địch. Này Mahosadha,

5882. Piṭṭhimatī pattimati sabbasaṅgāmakovidā,
ohārinī saddavatī bherisaṅkhappabodhanā.  

 

 

quân hầu đầu đội vai mang, bộ binh bao kẻ thiện chiến, sẵn sàng đi tàn sát, một cảnh đại náo loạn, tiếng trống chiêng vang dậy ngập trời,

5883. Lohavijjālaṅkārābhā dhajinī vāmarohiṇī,
sippiyehi susampannā sūrehi suppatiṭṭhitā.  

 

 

đây là nơi trổ tài sử dụng binh khí, nào cờ xí, kỵ binh mặc áo giáp, chiến sĩ anh hùng thắng trận vẻ vang.

5884. Dasettha paṇḍitā āhu bhūripaññā rahogamā,
mātā ekādasī rañño pañcāliyaṃ pasāsati.

 

 

Cả mười bậc Trí giả lại đây, uyên thâm trí tuệ, mưu lược thần kỳ và vị thứ mười một chính là thái hậu đang cổ vơ đạo binh Pañcàla.

5885. Athetthekasataṃ khatyā anuyuttā yasassino,
acchinnaraṭṭhā byathitā pañcālīnaṃ vasaṃgatā.
 

 

Đây là cả một trăm lẻ một vị vương hầu thiện chiến làm tùy tướng, quốc độ của họ đă bị chiếm đóng, họ đang kinh hoàng và chịu thần phục trước đạo binh của Pañcàla.

Trang 316:

 

Trang 317:

 

5886. Yaṃvadā takkarā rañño akāmā piyabhāṇino,
pañcālamanuyāyanti akāmā vasino gatā.  

 

 

Họ thề nguyện phụng sự ṿ vua này, dù muốn dù không, họ cũng nói thẳng họ phải làm như vậy, nay họ bắt buộc phải theo phe vua Pañcàla, v́ họ ở dưới quyền vua này.

5887. Tāya senāya mithilā tisandhiparivāritā,
rājadhānī videhānaṃ samantā parikhaññati.

 

 

Kinh thành Mithilà đang bị bao vây bởi đạo binh dàn trận ở ba chặng đường, tấn công vào đủ mọi mặt,

5888. Uddhaṃ tārakajātāva samantā parivāritā,
mahosadha vijānāhi kathaṃ mokkho bhavissati.

 

 

thành bị bao vây mọi phía như thể muôn sao trên trời. Này Mahosadha, làm cách nào giải vây được chăng?

5889. Pāde deva pasārehi bhuñja kāme ramassu ca,
hitvā pañcāliyaṃ senaṃ brahmadatto palāyati.

 

 

70. Đại vương hăy duỗi thẳng đôi chân,
Mở hội vui chơi, tiệc uống ăn,
Chốc lát Brah-ma, vua địch ấy,
Sẽ đào tẩu, bỏ mặc binh hùng.

5890. Rājā santhavakāmo te ratanāni pavecchati,
āgacchantu tato dūtā mañjukā piyabhāṇino.

 

 

74. Một v́ vua muốn kết thân bằng,
Tặng bảo vật này đến Đại vương,
Mong các sứ thần lời êm dịu,
Từ nơi chốn nọ chóng lên đường.

5891. Bhāsantu mudukā vācā yā vācā paṭinanditā,
pañcālā ca videhā ca ubho ekā bhavantu te.

 

 

75. Ước mong lời lẽ họ ôn ḥa,
Đem lại hân hoan cho chúng ta,
Mong ước thần dân Vi-đề quốc,
Ḥa đồng với tộc Pañ-cà-la.

5892. Kathannu kevaṭṭa mahosadhena,
samāgamo āsi tadiṅgha brūhi,
kacci te paṭinijjhatto kacci tuṭṭho mahosadho.
 

 

76. Việc ngài hội kiến Ma-sa-dha,
Diễn tiến ra sao, Ke-vat-ta,
Xin hăy nói ngay cho trẫm biết,
Ma-sa-dha có muốn cầu ḥa?

5893. Anariyarūpo puriso janinda,
asammodako thaddho asabbhirūpo,
yathā mūgo ca badhiro ca na kiñcatthaṃ abhāsatha.  

 

77. Kẻ kia bản chất thật gian tà,
Tâu Đại vương, ngoan cố, xấu xa,
Khó chịu, tính t́nh đầy độc ác,
Như người câm điếc, chẳng lời ra.

5894. Addhā idaṃ mantapadaṃ sududdasaṃ
attho suddho naraviriyena diṭṭho,
tathā hi kāyo mama sampavedhati
hitvā sayaṃ ko parahatthamessati.  

 

78. Quyết định này sao khó hiểu vầy,
Một nguyên nhân thật rơ ràng thay,
Được người dũng cảm này tiên đoán,
V́ vậy thân ta rung động đây,
Ai sẽ là người mất tính mạng,
Và rơi vào địch thủ cao tay?

5895. Channaṃ hi ekāva matī sameti
ye paṇḍitā uttamabhūripattā,
yānaṃ ayānaṃ athavāpi ṭhānaṃ
mahosadha tvampi matiṃ karohi.  

 

 

79. Sáu người một ư thật ḥa đồng
Là các bậc hiền trí thượng nhân,
Đi, hoặc không đi và ở lại,
Ma-ho-sad hăy nói ta cùng.

5896. Jānāsi kho rāja mahānubhāvo
mahabbalo cūḷanibrahmadatto,
rājā ca taṃ icchati kāraṇatthaṃ
migaṃ yathā okacarena luddo.
 

 

80. Ngài có biết chăng, tâu Đại vương,
Cù-la-ni thế lực hùng cường,
Vua kia muốn giết ngài như thể,
Lập hố bắt nai với lúa hương!

Trang 318:

 

Trang 319:

 

5897. Yathāpi maccho baḷisaṃ vaṅkaṃ maṃsena chāditaṃ,
āmagiddho na jānāti maccho maraṇamattano.  

 

 

81. Như cá tham ăn, không nhận thấy,
Lưỡi câu giấu kín dưới mồi ngon,
Một người đời chẳng hề trông thấy,
Bóng dáng đâu đây của tử thần.

5898. Evameva tuvaṃ rāja cūḷanīyassa dhītaraṃ,
kāmagiddho na jānāsi macchova maraṇamattano.  

 

 

82. Cũng vậy, đầy tham dục, Đại vương,
Không sao nhận thấy vị công nương,
Con Cù-la đế là thần chết,
V́ chính ngài là một thế nhân.

5899. Sace gacchasi pañcālaṃ khippamattaṃ jahissasi,
migaṃ pathānupannaṃva mahantaṃ bhayamessati.

 

 

83. Đại vương cứ đến Păn-cà-la,
Và tự diệt vong chốc lát mà,
Như chú nai kia lâm đại nạn,
Trên con đường nọ bị sa cơ.

5900. Mayameva bālamhase eḷamūgā
ye uttamatthāni tayī lapimha,
kimeva tvaṃ naṅgalakoṭivaddho
atthāni jānāsi yathāpi aññe.

 

 

84. Trẫm thật điếc ngấm câm, ngu dại thay,
Hỏi ngươi những việc tối cao vầy!
Làm sao ngươi hiểu như người khác
Khi đă lớn lên bám lưỡi cày?

5901. Imaṃ gale gahetvāna nāsetha vijitā mama,
yo me ratanalābhassa antarāyāya bhāsati.

 

 

85. Bắt lấy gă này, tóm cổ mau,
Tống ra khỏi xứ sở ta nào,
Con người dám nói ḥng ngăn cản,
Việc trẫm sắp đi lấy bảo châu!

5902. Tato ca so apakkamma vedehassa upantikā,
atha āmantayī dūtaṃ māḍharaṃ suvapaṇḍitaṃ.

 

 

86. Sau đó ngài đi khuất mắt vua,
Nói cùng chim két Mà-tha-ra:

5903. Ehi samma harīpakkha veyyāvaccaṃ karohi me,
atthi pañcālarājassa sāḷikā sayanapālikā.

 

 

"Đến đây, anh vũ màu xanh lục,
Bạn hăy làm công việc giúp ta.

87. Păn-cà Đại đế có May-nah,
Canh giữ vương sàng của đức vua,

5904. Taṃ pattharena pucchassu sā hi sabbassa kovidā,
sā tesaṃ sabbaṃ jānāti rañño ca kosiyassa ca.

 

 

Hỏi nó ngọn nguồn, v́ nó biết,
Điều cơ mật của Ko-si-ya".

5905. Āmoti so paṭissutvā māḍharo suvapaṇḍito,
agamāsi harīpakkho sāḷikāya upantikaṃ.

 

 

88. Mà-tha-ra, trí điểu nghe rồi,
Két lục bay đi đến tận nơi,
Trú ngụ chim May-nah quư tộc,

5906. Tato ca kho so gantvāna māḍharo suvapaṇḍito,
atha āmantayi sugharaṃ sāḷikaṃ mañjubhāṇikaṃ.

 

 

Ma-tha-ra trí điểu trao lời,
Với May-nah giọng du dương ấy,
Trong chiếc lồng son đẹp tuyệt vời:

5907. Kacci te sughare khamanīyaṃ kacci vesse anāmayaṃ,
kacci te madhunā lājā labbhate sughare tava.

 

 

89.- Bạn ơi, bạn có được khang an,
Trong chiếc lồng vàng của bạn chăng,
Hạnh phúc có tràn đầy, Vệ-xá,
Họ cho bạn đủ mật, ngô rang?

5908. Kusalañceva me samma atho samma anāmayaṃ,
atho me madhunā lājā labbhate suvapaṇḍita.
 

 

90. Em đầy an lạc, hỡi Tôn ông,
Quả thật nơi đây hạnh phúc tṛn,
Họ tặng em ngô rang, mật ngọt;

Trang 320:

 

Trang 321:

 

5909. Kuto nu samma āgamma kassa vā pahito tuvaṃ,
na ca mesi ito pubbe diṭṭho vā yadi vā suto.

 
 

Hỡi Anh vũ có trí tinh thông,
Sao ngài đến, vậy ai sai đến,
Em chẳng hề nghe thấy quư ông?

5910. Ahosiṃ sivirājassa pāsāde sayanapālako,
tato so dhammiko rājā baddhe mocesi bandhanā.

 
 

91. Ta là thị giả Chúa Si-vi,
Ở chính trong cung điện xứ kia,
Từ đó vị minh quân giải thoát,
Các tù nhân được tự do đi.

5911. Tassa mekā dutiyāsi sāḷikā mañjubhāṇikā,
taṃ tattha avadhī seno pekkhato sughare mama.

 
 

92. Ta có vợ hiền một thuở xưa,
Du dương tiếng hót, một May-nah,
Rồi chim ưng nọ vồ nàng chết,
Mang xác nàng đi trước mắt ta.

5912. Tassā kāmā hi sammatto āgatosmi tavantike,
sace kareyyāsi okāsaṃ ubhayova vasāmase.

 
 

93. Yêu quư vợ hiền, ta đến đây,
Nếu nàng cho phép, tự hôm nay,
Chúng ta có thể cùng nhau hưởng,
Cuộc sống lứa đôi hạnh phúc thay.

5913. Suvova suviṃ kāmeyya sāḷiko pana sāḷikaṃ,
suvassa sāḷikāya ca saṃvāso hoti kīdiso.

 
 

94. Anh vũ phải yêu Anh vũ thôi,
May-nah kết hợp May-nah hoài,
Làm sao có thể đem ḥa hợp,
Anh vũ, May-nah thật đẹp đôi?

5914. Yaṃ yaṃ kāmī kāmayati api caṇḍālikāmapi,
sabbehi sadiso hoti natthi kāme asādiso.

 
 

95. Khi kẻ si t́nh yêu quư ai,
Dù Chiên-đà hạ liệt mà thôi,
Họ đều đồng đẳng bên nhau cả,
Trong ái t́nh không có khác sai.

5915. Atthi jambāvatī nāma mātā sivissa rājino,
sā bhariyā vāsudevassa kaṇhassa mahesī piyā.

 
 

96. Mẫu thân của Chúa thượng Si-vi,
Tên gọi là Jam-bà-va-t́,
Bà đă được lên ngôi chánh hậu,
Và Su Hắc đế vẫn yêu v́.

5916. Rathāvatī kimpurisī sāpi vacchaṃ akāmayi,
manusso migiyā saddhiṃ natthi kāme asādiso.

 
 

97. Ra-tha-va nọ, một tiên nga,
Cũng đă từng yêu quư Vac-cha,
Người ấy đă yêu loài thú vật,
Trong t́nh yêu chẳng khác nhau mà.

5917. Handa khohaṃ gamissāmi sāḷike mañjubhāṇike,
paccakkhānupadaṃ hetaṃ atimaññasi nūna maṃ.

 
 

98. Quả thật ta gần cất cánh xa,
Hỡi nàng thánh thót giọng May-nah,
Đây là lời chối từ ta đấy,
Chắc chắn nàng đang khinh bỉ ta.

5918. Na sirī taramānassa māḍhara suvapaṇḍita,
idheva tāva acchassu yāva rājānaṃ dakkhasi,
sossasi saddaṃ mutiṅgānaṃ ānubhāvañca rājino.

 
 

99-100. Không phước lành cho kẻ vội vàng
Mà-tha-ra, két lục khôn ngoan,
Ở đây cho đến khi triều kiến,
Chúa thượng và nghe tiếng dậy vang,
Của các trống chiêng khua đủ loại,
Và nh́n Đại đế đẹp huy hoàng.

5919. Yo nu khoyaṃ tibbo saddo tirojanapade suto,
dhītā pañcālarājassa osadhī viya vaṇṇinī,
taṃ dassati videhānaṃ so vivāho bhavissati.

 
 

100-101. Tiếng đồn này thật lớn truyền ra,
Khắp cả miền đất nước của ta:
Công chúa Păn-cà-la Đại đế,
Như sao rực sáng, được vua cha,
Đem gả Vi-đề-ha quư tộc,
Lễ thành hôn sắp đến đây mà!

5920. Nediso te amittānaṃ vivāho hotu māḍhara,
yathā pañcālarājassa vedehena bhavissati.
 

 

102. Đừng để cho ai, dẫu kẻ thù,
Tác thành hôn lễ, Ma-tha-ra,
Giống như cách của hai vua ấy,
Păn-cà-la và Vi-đế-ha.
(c̣n tiếp)

<Trang trước>

<Trang Kế>

 

<Mục Lục Jātakapāḷi - Bổn Sanh tập III>

<Đầu Trang>