XXII.
MAHĀNIPĀTO - NHÓM LỚN
|
Nguồn: Tam Tạng
Pāli - Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) |
Lời tiếng Việt:
Tỳ khưu Indacanda |
Trang 390: |
Trang 391:
|
▪ 10.
MAHĀVESSANTARAJĀTAKAṂ
|
▪ 10. BỔN SANH
VESSANTARA VĨ ĐẠI
(tiếp theo) |
547. CHUYỆN ÐẠI VƯƠNG
VESSANTARA
(Tiền thân Vessantara)
(tiếp theo) |
6334. Yadi keci manujā enti anumagge
paṭipathe,
maggaṃ te paṭipucchāma kuhiṃ vaṅkatapabbato. |
6334. Mỗi lúc có những người nào đó đi đến
ở con đường cùng chiều, ở lối đi ngược chiều, chúng tôi hỏi họ
về đường đi rằng: ‘Núi Vaṅka ở đâu?’ |
243. Bất cứ khi nào gặp du khách đến,
Hai vị hỏi thăm phương hướng đi đường,
Và nơi đâu là Vạn-cổ Cao sơn. |
6335. Te tattha amhe passitvā karuṇaṃ
paridevayuṃ,
dukkhaṃ te paṭivedenti dūre vaṅkatapabbato. |
6335. Tại nơi ấy, sau khi nhìn chúng tôi,
những người ấy đã than vãn thương xót. Họ cho biết về nỗi khó nhọc
rằng: ‘Núi Vaṅka còn xa lắm.’ |
244. Ðám du hành đều khóc than thương xót,
Nhìn các ngài trên con đường rảo bước,
Và bảo ngài nhiệm vụ quá nặng nề:
- Con đường còn xa lắc ở đằng kia. |
6336. Yadi passanti pavane dārakā phalite
dume,
tesaṃ phalānaṃ hetūhi uparodanti dārakā. |
6336. Mỗi lúc hai đứa trẻ nhìn thấy những
cây đã trổ quả ở khu rừng lớn, chính vì nguyên nhân của những
trái cây ấy mà hai đứa trẻ kêu khóc. |
245. Khi trẻ thơ ngắm nhìn trên sườn núi
Nhiều cây cao mọc lên đầy hoa trái,
Hai trẻ kia liền kêu khóc đòi ăn. |
6337. Rodante dārake disvā ubbiggā vipulā
dumā,
sayamevonamitvāna upagacchanti dārake. |
6337. Sau khi nhìn thấy hai đứa trẻ đang
khóc lóc, các thân cây sum suê, bị xúc động, đã tự mình hạ thấp
xuống và di chuyển đến gần hai đứa trẻ. |
246. Khi cây rừng nhìn lũ trẻ khóc than,
Cây cao vút bỗng sinh lòng ái ngại
Cúi rạp mình đưa các cành đi tới
Cho tay người hái được trái cây rừng. |
6338. Idaṃ accherakaṃ disvā abbhutaṃ
lomahaṃsanaṃ,
sādhukāraṃ pavattesi maddī sabbaṅgasobhanā. |
6338. Sau khi nhìn thấy sự kỳ diệu, phi
thường, có sự dựng đứng lông này, nàng Maddī, người phụ nữ có sự
xinh đẹp toàn thân, đã thốt lên lời tán thán (rằng): |
247. Lúc ấy Mad-dì reo lớn vui mừng,
Nàng công chúa diễm kiều và rực rỡ,
Khi nhìn thấy phép thần kỳ diệu đó
Khiến cho người ta phải dựng tóc lông. |
6339. Accheraṃ vata lokasmiṃ abbhutaṃ
lomahaṃsanaṃ,
vessantarassa tejena sayamevonatā dumā. |
6339. Thật là điều kỳ diệu ở thế gian, là
việc phi thường, có sự rởn lông! Các thân cây đã tự mình hạ thấp
xuống bởi oai lực của Vessantara. |
248. Tóc lông người dựng đứng lúc nhìn
trông
Nhờ thần lực Ves-san-ta Chúa thượng
Các cây cao bỗng nghiêng mình cúi xuống. |
6340. Saṅkhipiṃsu pathaṃ yakkhā anukampāya
dārake,
nikkhantadivaseneva cetaraṭṭhaṃ upāgamuṃ.
|
6340. Vì lòng thương tưởng hai đứa trẻ,
các Dạ-xoa đã thâu ngắn lại đoạn đường. Bọn họ đã đến được đất
nước Ceta ngay khi ngày vừa hết. |
249. Thần Dạ-xoa thâu ngắn dặm trường
Vì thương con trẻ gặp tai ương,
Ce-ta quốc độ nay vừa đến
Trước buổi hoàng hôn kịp bước đường. |
6341. Te gantvā dīghamaddhānaṃ
cetaraṭṭhamupāgamuṃ,
iddhaṃ phītaṃ janapadaṃ bahumaṃsasurodanaṃ.
|
6341. Sau khi đã đi đoạn đường dài, bọn họ
đã đến được đất nước Ceta, xứ sở giàu có, phồn thịnh, có nhiều
cơm, rượu, thịt. |
250. Cả đoàn đi đến xứ Ce-ta
Gian khổ lộ trình quả thật xa,
Vương quốc tràn trề đồ ẩm thực,
Phú cường, thịnh vượng cõi sơn hà. |
Trang 392: |
Trang 393: |
6342. Cetiyā parikariṃsu disvā
lakkhaṇamāgataṃ,
sukhumālī vatayaṃ ayyā pattikā paridhāvati.
|
6342. Sau khi nhìn thấy người phụ nữ có ưu
điểm đi đến, các nàng hầu đã vây quanh (nói rằng): “Quả thật vị
phu nhân thanh nhã này đi lại bằng đôi chân (của bà)!” |
251. Nhìn thấy vương phi dáng tốt lành
Ðàn bà xúm lại đứng vây quanh:
- Bà phu nhân ấy trông hiền dịu
Sao phải đi chân suốt lộ trình? |
6343. Vayhāhi pariyāyitvā sivikāya ca
khattiyā,
sājja maddī araññasmiṃ pattikā paridhāvati.
|
6343. Sau khi đã di chuyển bằng các phương
tiện chuyên chở và bằng kiệu khiêng, hôm nay, vị nữ Sát-đế-lỵ,
nàng Maddī ấy đi lại trong khu rừng bằng đôi chân (của nàng)!
|
252. Ngày xưa trên võng kiệu, vương xa,
Bà mệnh phụ kia được rước ra,
Nay lúc Mad-dì đành rảo bước,
Nơi nàng cư trú: chốn rừng già. |
6344. Taṃ disvā cetapāmokkhā rodamānā
upāgamuṃ,
kaccinnu deva kusalaṃ kacci deva anāmayaṃ,
kacci pitā arogā te sivīnañca anāmayaṃ.
|
6344. Sau khi nhìn thấy vị Vessantara ấy,
các lãnh tụ xứ Ceta đã đi đến gần, nức nở (nói rằng): “Tâu bệ
hạ, phải chăng ngài được an khang? Phải chăng ngài được vô sự?
Phải chăng phụ thân của ngài được vô bệnh, và xứ Sivi được vô
sự? |
253-254. Vương tộc Ce-ta đến yết kiến ngài
Tất cả đều khóc lóc, thở than hoài:
- Chúng thần kính chào ngài, tâu Chúa thượng,
Chúng thần tin ngài an khang, thịnh vượng.
Còn giang sơn cùng với đại phụ vương
Mong ngài đem mọi tin tức cát tường. |
6345. Ko te balaṃ mahārāja ko nu te
rathamaṇḍalaṃ,
anassako arathako dīghamaddhānamāgato,
kacci nāmittehi pakato anuppattosimaṃ disaṃ.
|
6345. Tâu đại vương, quân đội của ngài
đâu? Cỗ vương xa của ngài đâu rồi? Ngài đã đi đường xa đến không
có ngựa, không có cỗ xe. Phải chăng ngài đã bị các kẻ thù tấn
công, rồi ngài đã đến được địa phương này?” |
255-256. Quân sĩ của ngài đâu, tâu Chúa
tể,
Và ở đâu chiếc vương xa oai vệ?
Không ngựa xe, ngài cất bước hành trình,
Có phải chăng ngài đi đến một mình
Vì đã bị đám quân thù đánh bại? |
6346. Kusalaṃ ceva me sammā atho sammā
anāmayaṃ,
atho pitā arogo me sivīnañca anāmayaṃ.
|
6346. “Này các thân hữu, tôi được an
khang. Này các thân hữu, tôi được vô sự. Còn phụ thân của tôi
được vô bệnh, và xứ Sivi được vô sự. |
257. Xin cám ơn các ngài đầy ưu ái,
Hãy bình tâm: ta thịnh vượng, khang an,
Về phụ vương và quốc độ giang sơn
Ta có đủ tin lành đem thông cáo. |
6347. Ahaṃ hi kuñjaraṃ dappaṃ īsādantaṃ
urūḷhavaṃ,
khettaññuṃ sabbayuddhānaṃ sabbasetaṃ gajuttamaṃ.
|
6347, 6348, 6349. Bởi vì tôi đã bố thí đến
các vị Bà-la-môn con voi thông minh, có ngà như cán cày, xứng
đáng để cỡi, biết được địa thế của mọi chiến trường, con voi
hạng nhất, toàn màu trắng, được choàng lên tấm len màu vàng cam,
đã phát dục, có (khả năng) nghiền nát đối phương, có ngà, có cây
quạt lông đuôi bò, màu trắng, tương tự như núi Kelāsa, có chiếc
lọng màu trắng, có tấm đệm ngồi, có y sĩ chăm sóc, có viên quản
tượng, là phương tiện di chuyển cao quý dành để chuyên chở đức
vua. |
258. Ta đã tặng con voi là quốc bảo
Có ngà dài, toàn trắng, thật tốt lành,
Ðã bao lần thắng trận lúc giao tranh. |
6348. Paṇḍukambalasañchannaṃ pabhinnaṃ
sattumaddanaṃ,
dantiṃ savāḷavījaniṃ setaṃ kelāsasādisaṃ.
|
259. Với quạt đuôi trâu rừng và ngọc
thạch,
Ðã dẫm tan bao đám quân thù địch.
Thật hung hăng, dài thẳng tắp đôi ngà,
Trắng ngần như núi tuyết Ke-là-sa. |
6349. Sasetacchattaṃ saupatheyyaṃ
sāthabbanaṃ sahatthipaṃ,
aggayānaṃ rājavāhiṃ brāhmaṇānaṃ adāsahaṃ.
|
260. Lọng trắng, cân đai xứng ngôi chúa
thượng,
Với đám quân hầu cùng người quản tượng,
Bảo vật này ta đã lấy phát phân. |
6350. Tasmiṃ me sivayo kuddhā pitā ca
upahato mano,
avaruddhati maṃ rājā vaṅkaṃ gacchāmi pabbataṃ,
okāsaṃ sammā jānātha vane yattha vasāmase.
|
6350. Các người dân xứ Sivi giận dữ với
tôi về việc này, và phụ hoàng có ý bực mình. Đức vua ép buộc
tôi, và tôi đi đến núi Vaṅka. Này các thân hữu, hãy tìm cho một
khoảng trống ở khu rừng mà chúng tôi có thể cư ngụ.” |
261 -262. Vì thế toàn dân ta đã hận sân,
Và vương phụ xem đây là lầm lỗi.
Do việc kia, ta bị ngài xua đuổi,
Bây giờ ta đi đến Vạn-cổ Sơn,
Xin các ngài cho biết chỗ náu nương. |
6351. Svāgatante mahārāja atho te
adurāgataṃ,
issarosi anuppatto yaṃ idhatthi pavedaya.
|
6351. “Tâu đại vương, chào mừng ngài đã
ngự đến, và việc ngài đã đi đến không gặp khó khăn! Ngài hãy
biết rằng ngài là vị chúa tể đã đạt đến vị thế dành cho ngài ở
nơi này. |
263. Xin đừng nghi ngờ, cung nghênh Chúa
thượng,
Xin ngự trị đây, tùy nghi thọ hưởng, |
6352. Sākaṃ bhisaṃ madhuṃ maṃsaṃ suddhaṃ
sālinamodanaṃ,
paribhuñja mahārāja pāhuno nosi āgato.
|
6352. Tâu đại vương, xin ngài hãy thọ dụng
rau cải, ngó sen, mật ong, thịt, cơm gạo lúa
sāli thuần khiết. Ngài đã đến
và là khách của chúng tôi.” |
264. Dùng mật ong, cỏ thuốc, thịt, gạo
ngon
Chọn món nào trắng nhất, loại cao lương,
Tùy thánh ý, ngài sẽ là khách quý. |
Trang 394: |
Trang 395:
|
6353. Paṭiggahitaṃ yaṃ dinnaṃ sabbassa
agghiyaṃ kataṃ,
avaruddhati maṃ rājā vaṅkaṃ gacchāmi pabbataṃ,
okāsaṃ sammā jānātha vane yattha vasāmase.
|
6353. “Hãy để tôi nhận lãnh vật bố thí quý
giá đã được làm ra của tất cả các vị. Nhưng đức vua ép buộc tôi,
và tôi sẽ đi đến núi Vaṅka. Này các thân hữu, hãy tìm cho một
khoảng trống ở khu rừng mà chúng tôi có thể cư ngụ.” |
265-266. Ðây ta nhận quà trao từ các vị,
Xin cảm ơn về thiện chí tràn đầy,
Nhưng phụ vương đã tống xuất giờ đây
Ta đi đến vùng núi đồi Vạn-cổ,
Xin các ngài chỉ ta nơi cư trú. |
6354. Idheva tāva acchassu cetaraṭṭhe
rathesabha,
yāva cetā gamissanti rañño santika yācituṃ,
nijjhāpetuṃ mahārājaṃ sivīnaṃ raṭṭhavaḍḍhanaṃ.
|
6354. “Tâu đấng thủ lãnh xa binh, xin ngài
hãy ở lại ngay tại nơi này, ở đất nước Ceta, trong lúc các người
dân xứ Ceta sẽ đi đến để yêu cầu trực tiếp với đức vua, để giải
bày với đại vương, bậc làm hưng thịnh đất nước Sivi. |
267. Xin Ðại vương ở lại xứ Ce-ta
Cho đến khi dâng sớ tấu đức vua
Si-vi quốc điều chúng thần biết được! |
6355. Taṃ taṃ cetā purakkhatvā patītā
laddhapaccayā,
parivāretvāna gacchanti evaṃ jānāhi khattiya.
|
6355. Sau khi tôn vinh ngài đây, được sung
sướng với nhân duyên đã đạt, các người dân xứ Ceta sẽ tập hợp
lại và sẽ ra đi, tâu vị Sát-đế-lỵ, xin ngài nhận biết như vậy.” |
268. Lúc ấy dân đi theo ngài lũ lượt
Hộ tống ngài, đầy tin tưởng hân hoan,
Ðiều này thần xin thông báo Ðại vương. |
6356. Mā vo ruccittha gamanaṃ rañño
santika yācituṃ,
nijjhāpetuṃ mahārājaṃ rājā tattha na issaro.
|
6356. “Chớ vui thích việc ra đi của các vị
để yêu cầu trực tiếp với đức vua, để giải bày với đại vương. Đức
vua ở nơi ấy không phải là vị chúa tể. |
269. Ta không muốn nhờ các ngài dâng sớ
Trình phụ vương nơi đây ta cư trú,
Trong việc này, ngài không phải vua đâu,
Ta e rằng ngài không có quyền cao. |
6357. Accuggatā hi sivayo balatthā negamā
ca ye,
te padhaṃsetumicchanti rājānaṃ mama kāraṇā.
|
6357. Các đạo quân và các thị dân xứ Sivi
quả thật vô cùng giận dữ. Bọn họ muốn truất phế vua bởi vì việc
làm của tôi.” |
270. Triều thần và dân thị thành căm phẫn
Tụ họp nhau, mọi người đầy kích động
Bởi vì ta, chúng có thể hại vua. |
6358. Sace esā pavattettha raṭṭhasmiṃ
raṭṭhavaḍḍhana,
idheva rajjaṃ kārehi cetehi parivārito.
|
6358. “Nếu việc đó đã xảy ra ở đất nước
ấy, tâu vị làm hưng thịnh đất nước, xin ngài hãy trị vì vương
quốc ngay tại nơi này, ngài được các người dân xứ Ceta ủng hộ.
|
271. Nếu trong xứ kia có thể xảy ra
Một sự việc đầy kinh hoàng như thế,
Ngài được dân xứ Ce-ta hộ vệ,
Xin ở đây và làm bậc Ðại vương. |
6359. Iddhaṃ phītañcidaṃ raṭṭhaṃ iddho
janapado mahā,
matiṃ karohi tvaṃ deva rajjassamanusāsituṃ.
|
6359. Đất nước này giàu có và phồn thịnh,
là xứ sở giàu có và rộng lớn. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy thực hiện
ý định chỉ đạo vương quốc.” |
272. Ðất nước này đang thịnh vượng, phú
cường
Với dân chúng thật hào hùng, vĩ đại,
Cầu xin ngài hãy quyết tâm ở lại
Với chúng thần và cai trị quốc gia. |
6360. Na me chando mati atthi
rajjassamanusāsituṃ,
pabbājitassa raṭṭhasmā cetaputtā suṇātha me.
|
6360. “Hỡi các con dân xứ Ceta, hãy lắng
nghe tôi. Tôi đã bị trục xuất ra khỏi đất nước, tôi không có ước
muốn hay ý định chỉ đạo vương quốc. |
273. - Hãy nghe ta! Các vương tử Ce-ta
Ta không có ý mong cầu ở lại,
Vì ta đi như một người bị đuổi,
Chẳng đến đây cầm quyền lực quân vương, |
6361. Atuṭṭhā sivayo assu balatthā negamā
ca ye,
pabbājitassa raṭṭhasmā cetā rajjebhisecayuṃ.
|
6361. Các đạo quân và các thị dân xứ Sivi
có thể không vui, nếu các người dân xứ Ceta làm lễ phong vương
cho kẻ đã bị trục xuất ra khỏi đất nước. |
274. Dân Si-vi tất cả sẽ bất bằng
Biết các ngài tôn ta làm Thiên tử,
Trong khi ta bị đày ra khỏi xứ. |
6362. Asammodiyampi vo assa accantaṃ mama
kāraṇā,
sivīnaṃ bhaṇḍanañcāpi viggaho me na ruccati.
|
6362. Sẽ có sự bất hòa trầm trọng giữa các
vị bởi vì việc làm của tôi, và còn có sự gây gỗ của những người
dân xứ Sivi; sự cãi vã không được tôi ưa thích. |
275. Nếu các ngài muốn thực hiện điều này,
Sẽ là điều thật bất hạnh từ đây:
Gây tranh chấp với Si-vi dân chúng,
Ta không thích đấu tranh và căm hận. |
6363. Athassa bhaṇḍanaṃ ghoraṃ sampahāro
anappako,
ekassa kāraṇā mayhaṃ hiṃseyyuṃ bahuke jane.
|
6363. Rồi sẽ có sự gây gỗ khủng khiếp, sự
xung đột không phải là ít. Bởi vì việc làm của một mình tôi mà
nhiều người có thể bị hãm hại. |
|
Trang 396: |
Trang 397:
|
6364. Paṭiggahitaṃ yaṃ dinnaṃ sabbassa
agghiyaṃ kataṃ,
avaruddhati maṃ rājā vaṅkaṃ gacchāmi pabbataṃ,
okāsaṃ sammā jānātha vane yattha vasāmase.
|
6364. Hãy để tôi nhận lãnh vật bố thí quý
giá đã được làm ra của tất cả các vị. Nhưng đức vua ép buộc tôi,
và tôi sẽ đi đến núi Vaṅka. Này các thân hữu, hãy tìm cho một
khoảng trống ở khu rừng mà chúng tôi có thể cư ngụ.” |
276-277. Ðây ta nhận quà do các vị trao
Xin cám ơn thiện chí biết dường nào,
Nhưng từ nay vua đuổi ta khỏi xứ,
Ta ra đi đến vùng đồi Vạn-cổ,
Xin các ngài hãy nói rõ cho ta,
Một nơi đâu có thể gọi là nhà. |
6365. Taggha te mayamakkhāma yathāpi
kusalā tathā,
rājisī yattha sammanti āhutaggī samāhitā.
|
6365. “Đương nhiên, chúng tôi thông báo
cho ngài tùy theo khả năng. Hãy để cho các vị ẩn sĩ của hoàng
gia được an ổn ở nơi mà các ngọn lửa tế thần đã được tập trung
lại. |
278. - Vâng, chúng thần xin trình tâu Chúa
tể
Làm cách nào một vị vua xuất thế
Nhờ lửa thiêng được an tịnh, tốt lành,
Mọi sự đều trôi êm ả, thanh bình. |
6366. Esa selo mahārāja pabbato
gandhamādano,
yattha tvaṃ saha puttehi saha bhariyāya vacchasi.
|
6366. Tâu đại vương, kia là ngọn núi đá
Gandhamādana, là nơi mà ngài cùng với hai con và người vợ sẽ cư
ngụ.” |
279. Gan-dha-mà, tâu Ðại vương, núi đá
Là nơi ngài cùng vợ con cư trú. |
6367. Taṃ cetā anusāsiṃsu assunettā
rudammukhā,
ito gaccha mahārāja ujuṃ yenuttarāmukho.
|
6367. Các người dân xứ Ceta với cặp mắt ứa
lệ, với khuôn mặt đầy nước mắt, đã chỉ dẫn cho vị ấy rằng: “Tâu
đại vương, từ đây, ngày hãy đi thẳng, về phía hướng Bắc. |
280. Dân Ce-ta với vẻ mặt thảm sầu
Tất cả đều tuôn chảy những dòng châu,
Khuyên Ðại vương đi thẳng đường phương Bắc,
Nơi các đỉnh núi non cao chất ngất. |
6368. Atha dakkhisi bhaddante vipulaṃ nāma
pabbataṃ,
nānādumagaṇākiṇṇaṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ.
|
6368. Thưa ngài, rồi ngài sẽ nhìn thấy
ngọn núi tên Vipula, có các cây cối khác loại mọc dày đặc, có
bóng râm mát mẻ, làm thích ý. |
281. Nơi kia ngài thấy núi Vi-pu-la,
(Cầu phúc lành đi sát cạnh vương gia),
Ðầy lạc thú với nhiều cây xanh ngắt
Ðang đổ xuống dưới kia bao bóng mát. |
6369. Tamatikkamma bhaddante atha dakkhisi
āpakaṃ,
nadiṃ ketumatiṃ nāma gambhīraṃ girigabbharaṃ.
|
6369, 6370. Sau khi đã vượt qua nơi ấy,
thưa ngài, rồi ngài sẽ nhìn thấy chỗ nước xoáy, có dòng sông tên
là Ketumatī sâu thẳm, chảy ra từ hang núi, đông đúc với những
loài cá lớn vảy, có bến tắm xinh đẹp, và có nhiều nước. Ngài hãy
tắm, uống nước, và thư giãn tại nơi ấy cùng với các con. |
282. Khi đến nơi, ngài sẽ thấy bên mình
(Cầu chúc ngài lần nữa được phúc lành)
Ke-tu-ma, dòng nước sâu thăm thẳm
Tuôn chảy ra từ ngọn đồi vô tận. |
6370. Puthulomamacchākiṇṇaṃ supatitthaṃ
mahodikaṃ,
tattha nahātvā pivitvā ca assāsetvā ca puttake.
|
283. Ðầy cá, tôm, nơi trú ngụ bình an,
Dòng nước sâu kia tuôn chảy tràn lan,
Ngài sẽ uống, tắm, chơi cùng con cái. |
6371. Atha dakkhisi bhaddante nigrodhaṃ
madhuvipphalaṃ,
rammake sikhare jātaṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ.
|
6371. Thưa ngài, rồi ngài sẽ nhìn thấy cây
sung có trái ngọt đã được mọc lên ở đỉnh đồi đáng yêu, có bóng
râm mát mẻ, làm thích ý. |
284. Và nơi kia, trên ngọn đồi khả ái,
Bóng mát che, ngài sẽ thấy trĩu đầy
Trái cây thơm như mật ngọt ngào thay,
Thật hùng vĩ một cây đa đại thọ. |
6372. Atha dakkhisi bhaddante nālikaṃ nāma
pabbataṃ,
nānādijagaṇākiṇṇaṃ selaṃ kimpurisāyutaṃ.
|
6372. Thưa ngài, rồi ngài sẽ nhìn thấy
ngọn núi tên là Nālika được đông đúc với những bầy chim khác
loại, là tảng núi đá được loài nhân điểu lui tới. |
285. Ngài sẽ thấy núi Na-li-ka nọ
Và đó là vùng đất của quỷ thần,
Nơi bầy chim cất tiếng hót hòa âm,
Nhiều ma quái, lắm sơn thần ẩn nấp. |
6373. Tassa uttarapubbena mucalindo nāma
so saro,
puṇḍarīkehi sañchanno setasogandhiyehi ca.
|
6373. Về phía đông bắc của tảng núi đá, hồ
nước ấy có tên là Mucalinda, được bao phủ bởi các bông sen trắng
và bởi các bông súng trắng. |
286. Từ đó đi xa hơn về phía Bắc
Là đến hồ tên gọi Mu-ca-linh
Bao phủ đầy loài sen súng trắng xanh. |
6374. So vanaṃ meghasaṅkāsaṃ dhuvaṃ
haritasaddalaṃ,
sīhovāmisapekkhīva vanasaṇḍaṃ vigāhaya,
puppharukkhehi sañchannaṃ phalarukkhehi cūhabhaṃ.
|
6374. Ngài đây, tựa như con sư tử có sự
quan sát con mồi, đã đi sâu vào khu rừng rậm, là khu rừng tương
tự như đám mây, thường xuyên có lớp cỏ xanh bao phủ, được bao
phủ bởi cả hai loại: các cây cho hoa và các cây ăn trái. |
287-288. Kế đó cánh rừng dày như mây phủ,
Bước chân lên giống như trên thảm cỏ,
Cây đầy hoa và trái nặng trĩu cành
Ở trên đầu che bóng mát tàng xanh,
Hãy vào đó: sự rình mồi mong ngóng
Bắt con thịt và ăn tươi nuốt sống. |
Trang 398: |
Trang 399:
|
6375. Tattha bindussarā vaggu nānāvaṇṇā
bahū dijā,
kūjantamupakūjanti utusampupphite dume.
|
6375. Tại nơi ấy, ở thân cây đã được nở rộ
hoa lúc vào mùa, nhiều con chim có màu sắc khác nhau có giọng
hót tròn trịa, có âm thanh ngọt ngào, cất tiếng hót hòa theo con
chim đang hót. |
289. Nơi kia khi rừng nở rộ ngàn hoa,
Nghe rạt rào muôn vạn tiếng chim ca,
Tiếng líu lo ở khắp nơi đây đó
Của bao cánh chim rừng màu rực rỡ. |
6376. Gantvā girividuggānaṃ nadīnaṃ
pabhavāni ca,
so dakkhasi pokkharaṇiṃ karañjakakudhāyutaṃ.
|
6376, 6377. Sau khi đi đến các khe núi
hiểm trở và các ngọn nguồn của những dòng sông, ngài sẽ nhìn
thấy hồ sen có mọc nhiều loại cây
karañja và cây kakudha,
được đông đúc với những loài cá lớn vảy, có bến tắm xinh đẹp, có
nhiều nước, có bốn cạnh bằng nhau, tốt lành, không có mùi khó
chịu. |
290. Nếu ngài đi theo ngọn thác dần dần
Cho đến khi lên tận chốn suối nguồn,
Ngài sẽ thấy một hồ hoa sen phủ
Với các loài hoa chen nhau đua nở. |
6377. Puthulomamacchākiṇṇaṃ supatitthaṃ
mahodikaṃ,
samañca caturassañca sādhuṃ appaṭigandhiyaṃ.
|
291. Ðầy cá tôm, nơi trú ngụ an thân
Dòng nước kia sâu thăm thẳm vô cùng
Bền vững, thanh bình, tỏa mùi thơm dịu,
Chẳng hơi nồng nặc làm ta khó chịu, |
6378. Tassā uttarapubbena paṇṇasālaṃ
amāpaya,
paṇṇasālaṃ amāpetvā uñchācariyāya īhatha.
|
6378. Về phía đông bắc của hồ nước ấy,
ngài hãy tạo dựng gian nhà lá. Sau khi đã tạo dựng gian nhà lá,
ngài hãy cố gắng trong việc thu nhặt củ quả để mưu sinh.
|
292. Nơi kia ngài xây dựng một thảo đường
Hơi nghiêng về một chút hướng Bắc phương,
Và từ am tranh ngài sắp xây cất,
Ngài hãy bước lên đường tìm lương thực. |
Vanappavesanakhaṇḍaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Phẩm Đi Vào Rừng được
hoàn tất. |
6379. Ahū vāsī kaliṅgesu jūjako nāma
brāhmaṇo,
tassāsi daharā bhariyā nāmenāmittatāpanā.
|
6379. Có lão Bà-la-môn tên Jūjaka cư ngụ ở
xứ Kaliṅga. Ông ấy có người vợ trẻ tên là Amittatāpanā. |
293. Ngày xưa ở Kà-lin-ga,
Jù-jà-ka chính tên Bà-la-môn,
Sống đây với vợ còn son
A-mit-ta ấy vẫn còn xuân xanh. |
6380. Tā naṃ tattha gatāvocuṃ
nadīudakahārikā,
thiyo naṃ paribhāsiṃsu samāgantvā kutūhalā.
|
6380. Các phụ nữ đội nước ở ngôi làng ấy,
sau khi đi đến dòng sông, đã nói về nàng ấy. Những người nữ có
tánh bộp chộp, sau khi tụ tập lại, đã mắng nhiếc nàng ấy rằng:
|
294. Bọn đàn bà nọ mang bình
Xuống sông chửi rủa chính danh của nàng,
Cố làm ô nhục hồng nhan,
Cả bầy tụ tập, dọc ngang quây quần: |
6381. Amittā nūna te mātā amitto nūna te
pitā,
ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu evaṃ dahariyaṃ satiṃ.
|
6381. “Mẹ của cô chắc chắn là không thương
cô, cha của cô chắc chắn là không thương cô. Họ đã gã cô cho lão
già, trong khi cô đang còn trẻ như vậy. |
295. - Mẹ cô quả thật "cừu nhân",
Và cha cô nữa cũng đồng "oan gia"
Ðể cho một lão già nua
Cưới xin vợ trẻ như cô nõn nường! |
6382. Ahitaṃ vata te ñātī mantayiṃsu
rahogatā,
ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu evaṃ dahariyaṃ satiṃ.
|
6382. Các thân quyến của cô quả thật không
có lợi ích! Họ đã kín đáo bàn bạc. Họ đã gã cô cho lão già,
trong khi cô đang còn trẻ như vầy. |
296. Nhà cô mưu kế gì chăng,
Âm mưu hèn hạ bạo tàn xấu xa!
Ép duyên cô gái còn tơ
Gả cho ông lão già nua lòm khòm. |
6383. Dukkaraṃ vata te ñātī mantayiṃsu
rahogatā,
ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu evaṃ dahariyaṃ satiṃ.
|
6383. Các thân quyến của cô quả thật có
hành động sai trái! Họ đã kín đáo bàn bạc. Họ đã gã cô cho lão
già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy. |
|
6384. Pāpakaṃ vata te ñātī mantayiṃsu
rahogatā,
ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu evaṃ dahariyaṃ satiṃ.
|
6384. Các thân quyến của cô quả thật là
độc ác! Họ đã kín đáo bàn bạc. Họ đã gã cô cho lão già, trong
khi cô đang còn trẻ như vầy. |
|
6385. Amanāpaṃ vata te ñātī mantayiṃsu
rahogatā,
ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu evaṃ dahariyaṃ satiṃ.
|
6385. Các thân quyến của cô quả thật không
được vừa ý! Họ đã kín đáo bàn bạc. Họ đã gã cô cho lão già,
trong khi cô đang còn trẻ như vầy. |
|
Trang 400: |
Trang 401:
|
6386. Amanāpavāsaṃ vasasi jiṇṇena patinā
saha,
yā tvaṃ vasasi jiṇṇassa matante jīvitā varaṃ.
|
6386. Cô sống cuộc sống không được vừa ý
với người chồng già nua. Cô đây sống với lão già, cái chết đối
với cô còn quý hơn mạng sống. |
297. Đời cô quả thật chán chường
Trong khi cô vẫn còn đang nõn nà,
Kết duyên với một lão già,
Ôi thôi, chết quách cũng là tốt hơn! |
6387. Na hi nūna tuyhaṃ kalyāṇi pitā mātā
ca sobhane,
aññaṃ bhattāraṃ vindiṃsu ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu,
evaṃ dahariyaṃ satiṃ.
|
6387. Này mỹ nữ, này người đẹp, phải chăng
cha và mẹ đã không tìm kiếm cho cô người chồng khác? Họ đã gã cô
cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy. |
298. Hỡi cô xinh đẹp, rõ ràng
Mẹ cha cô quả bất nhân quá chừng,
Nếu như con gái còn xuân
Họ không tìm được một chàng rể xinh. |
6388. Duyyiṭṭhaṃ te navamiyaṃ akataṃ
aggihuttakaṃ,
ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu evaṃ dahariyaṃ satiṃ.
|
6388. Việc tế lễ vào ngày mồng chín của cô
sẽ được cúng hiến qua loa, việc tế thần lửa của cô sẽ không được
thực hiện. Họ đã gã cô cho lão già, trong khi cô đang còn trẻ
như vầy. |
299. Lễ dâng lửa, lễ tế sinh
Sau ngày sinh nhật hóa thành uổng công,
Nếu như cô gái còn xuân
Bị đưa làm vợ một ông già khòm. |
6389. Samaṇe brāhmaṇe nūna
brahmacariyaparāyaṇe,
sā tvaṃ loke abhisapi sīlavante bahussute,
yā tvaṃ vasasi jiṇṇassa evaṃ dahariyaṃ satiṃ.
|
6389. Phải chăng cô đây, ở thế gian, đã sỉ
vả các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn có sự nương tựa vào Phạm
hạnh, có giới hạnh, có kiến thức? (Kết quả là) cô đây sống với
lão già, trong khi cô đang còn trẻ như vầy. |
300-301. Hẳn nhà khổ hạnh La-môn
Hay là ẩn sĩ đa văn, thiện hiền,
Không còn cấu uế trần duyên
Bị cô phỉ báng rủa nguyền hay chăng?
Nếu như cô gái còn xuân
Bị đưa làm vợ một ông già khòm. |
6390. Na dukkhaṃ ahinā daṭṭhaṃ na dukkhaṃ
sattiyā hataṃ,
tañca dukkhañca tippañca yaṃ passe jiṇṇakaṃ patiṃ.
|
6390. Bị rắn cắn không khổ, bị gươm đâm
không khổ, nhưng khổ sở và đau đớn khi nhìn thấy người chồng già
nua. |
302. Như dao đâm thật đau lòng,
Như là nọc rắn cháy nồng đốt thiêu,
Song còn đau khổ hơn nhiều
Khi nhìn ông lão tiêu điều tả tơi! |
6391. Natthi khiḍḍā natthi ratī jiṇṇena
patinā saha,
natthi allāpasallāpo jagghitampi na sobhati.
|
6391. Không có sự vui đùa, không có sự
khoái lạc cùng với người chồng già nua, không có chuyện trò trao
đổi, thậm chí nụ cười cũng không rạng rỡ. |
303. Với chồng đã quá già rồi
Còn gì thích thú vui cười nữa đâu?
Chuyện trò chẳng chút vui nào,
Khi cười, lão cũng nhăn nheo khó nhìn! |
6392. Yadā ca daharo daharā mantayanti
rahogatā,
sabbesaṃ sokā nassanti ye keci hadayanissitā.
|
6392. Vào lúc chàng trai và cô gái chuyện
trò ở nơi vắng vẻ, tất cả các nỗi sầu muộn ẩn náu ở trong tim
của hai người đều tiêu tan. |
304. Gái trai độ tuổi thanh niên,
Sống cùng nhau chốn tư riêng thắm nồng
Dứt ngay mọi nỗi đau buồn
Vẫn còn tiềm ẩn trong lòng vấn vương. |
6393. Daharā tvaṃ rūpavatī purisānaṃ
abhipatthitā,
gaccha ñātikule accha kiṃ jiṇṇo ramayissati.
|
6393. Cô trẻ trung, có sắc đẹp, được các
nam nhân mong ước. Cô hãy bỏ đi và hãy ở nhà của các thân quyến,
lão già sẽ tạo được điều gì vui sướng?” |
305. Cô là con gái còn xuân
Xinh tươi, được đám đàn ông mơ hoài,
Thế sao ông lão già rồi
Làm cô thích thú? Hãy lui về nhà! |
6394. Na te brāhmaṇa gacchāmi nadiṃ
udakahāriyā,
thiyo maṃ paribhāsanti tayā jiṇṇena brāhmaṇa.
|
6394. “Này ông Bà-la-môn, tôi không đi đến
dòng sông mang nước về cho ông nữa. Này ông Bà-la-môn, các người
đàn bà mắng nhiếc tôi bởi vì ông già cả.” |
306. Tôi không lấy nước về nhà,
Ðằng kia một đám đàn bà cười tôi,
Vì chồng tôi quá già rồi,
Họ luôn chế nhạo lúc tôi ra ngoài. |
6395. Mā me tvaṃ akarā kammaṃ mā me
udakamāhari,
ahaṃ udakamāhissaṃ mā bhoti kupitā ahu.
|
6395. “Nàng chớ làm công việc cho tôi nữa,
chớ mang nước về cho tôi nữa. Tôi sẽ mang nước về. Phu nhân chớ
có nổi giận.” |
307. Nàng không cần lấy nước hoài,
Nàng không cần phục vụ tôi thế này.
Nàng ôi, đừng giận dỗi vầy,
Vì tôi sẽ lấy nước thay cho nàng. |
6396. Nāhaṃ tamhi kule jātā yaṃ tvaṃ
udakamāhare,
evaṃ brāhmaṇa jānāhi na te vacchāmahaṃ ghare.
|
6396. “Ở gia tộc mà tôi sanh ra không có
việc ông phải đi mang nước về. Tôi sẽ không ở trong nhà của ông
nữa, này ông Bà-la-môn, ông hãy biết như vậy. |
308. Chàng đi lấy nước? Không màng!
Ðó không phải cách thông thường thế gian.
Tôi xin nói thật rõ ràng:
Nếu chàng làm vậy, tôi chàng chia tay. |
6397. Sace me dāsaṃ dāsiṃ vā nānayisassi
brāhmaṇa,
evaṃ brāhmaṇa jānāhi na te vacchāmi santike.
|
6397. Này ông Bà-la-môn, nếu ông không dẫn
về đứa tôi trai hoặc đứa tớ gái cho tôi, tôi sẽ không ở bên cạnh
ông nữa, này ông Bà-la-môn, ông hãy biết như vậy.” |
309. Ngoại trừ mua một nô tài,
Hoặc là tỳ nữ làm ngay việc này,
Tôi xin nói rõ chàng hay:
Tôi thề, không ở lại đây với chàng. |
Trang 402:
|
Trang 403:
|
6398. Natthi me sippaṭṭhānaṃ vā dhanaṃ
dhaññañca brāhmaṇiṃ,
kutohaṃ dāsaṃ dāsiṃ vā ānayissāmi bhotiyā,
ahaṃ bhotiṃ upaṭṭhissaṃ mā bhoti kupitā ahu.
|
6398. “Này nữ Bà-la-môn, tôi không có căn
bản nghề nghiệp, tài sản, hoặc lúa gạo, từ đâu tôi sẽ dẫn về đứa
tôi trai hoặc đứa tớ gái cho phu nhân? Tôi sẽ phục vụ phu nhân.
Phu nhân chớ có nổi giận.” |
310. Làm sao mua nổi tiểu đồng?
Tôi không nghề ngỗng, bạc vàng, thóc ngô.
Thôi đừng giận dỗi, liễu bồ,
Tôi đi làm việc gia nô của nàng. |
6399. Ehi te ahamakkhissaṃ yathā me
vacanaṃ sutaṃ,
esa vessantaro rājā vaṅke vasati pabbate.
|
6399. “Ông hãy đến, tôi sẽ thuật lại cho
ông y như lời nói tôi đã nghe được: Vị vua Vessantara ấy cư ngụ
ở núi Vaṅka. |
311. Giờ tôi muốn nói với chàng
Những lời nghe được dân làng nói ra:
Ðằng kia trên đỉnh Vam-ka
Có vì vua Ves-san-ta lưu đày. |
6400. Taṃ tvaṃ gantvāna yācassu dāsaṃ
dāsiṃ ca brāhmaṇa,
so te dassati yācito dāsaṃ dāsiñca khattiyo.
|
6400. Này ông Bà-la-môn, ông hãy đi đến và
cầu xin vị ấy đứa tôi trai và đứa tớ gái. Được cầu xin, vị
Sát-đế-lỵ ấy sẽ cho đứa tôi trai và đứa tớ gái đến ông.” |
312. Giờ chàng hãy vội đi ngay,
Xin ngài cho được một tay tiểu đồng,
Vương gia chắc chắn bằng lòng
Ban chàng những thứ chàng mong ước mà. |
6401. Jiṇṇohamasmi abalo dīgho caddhā
suduggamo,
mā bhotī paridevesī mā ca tvaṃ vimanā ahu,
ahaṃ bhotiṃ upaṭṭhissaṃ mā bhoti kupitā ahu.
|
6401. “Tôi già cả, yếu sức, và đoạn đường
đi thì dài, vô cùng hiểm trở. Xin phu nhân chớ than vãn, và xin
phu nhân chớ có ưu tư. Tôi sẽ phục vụ phu nhân. Phu nhân chớ có
nổi giận.” |
313 - 314. Tôi đây lụ khụ quá già,
Lòng e lắm nỗi đường xa gập ghềnh,
Xin đừng than khóc buồn tình,
Nay tôi chẳng có thân mình dẻo dai,
Nhưng đứng giận dỗi, nàng ôi,
Tôi nguyền làm việc chính tôi sẵn lòng. |
6402. Yathā agantvā saṅgāmaṃ ayuddhova
parājito,
evameva tuvaṃ brahme agantvāva parājito.
|
6402. “Giống như người chưa đi đến chiến
trường, còn chưa chiến đấu, mà đã bị thua trận, tương tự y như
thế, này ông Bà-la-môn, ông còn chưa đi mà đã đầu hàng. |
315. Chàng sao chẳng khác tên quân
Trước khi ra trận đầu hàng, lý do?
Và chàng đành phải chịu thua
Trước khi ra trận và so thử tài? |
6403. Sace me dāsaṃ dāsiṃ vā nānayissasi
brāhmaṇa,
evaṃ brāhmaṇa jānāhi na te vacchāmahaṃ ghare,
amanāpaṃ te karissāmi taṃ te dukkhaṃ bhavissati.
|
6403. Này ông Bà-la-môn, nếu ông không dẫn
về đứa tôi trai hoặc đứa tớ gái cho tôi, tôi sẽ không ở trong
nhà của ông nữa, này ông Bà-la-môn, ông hãy biết như vậy. Tôi sẽ
làm điều không vừa ý đối với ông, điều ấy sẽ là nỗi khổ đau cho
ông. |
316 - 317. Ngoại trừ mua một nô tài,
Hoặc là tỳ nữ làm ngay việc này.
Tôi xin nói rõ chàng hay
Tôi thề không ở lại đây với chàng,
Chuyện này quả thật đáng buồn,
Ðó là một chuyện đau thương cho chàng. |
6404. Nakkhatte utupabbesu yadā maṃ
dakkhasilaṅkataṃ,
aññehi saddhiṃ ramamānaṃ taṃ te dukkhaṃ bhavissati.
|
6404. Vào những dịp lễ hội theo thời tiết
liên quan đến các vì tinh tú, lúc ông nhìn thấy tôi, đã được
trang điểm, đang vui sướng cùng với những người nam khác, điều
ấy sẽ là nỗi khổ đau cho ông. |
318. Nhìn tôi hạnh phúc ngập tràn
Trong tay của một tình lang khác rồi,
Áo quần lộng lẫy thắm tươi,
Theo mùa thay đổi, trăng trời chuyển luân. |
6405. Adassanena mayhaṃ te jiṇṇassa
paridevato,
bhīyo vaṅkā ca palitā bahū hessanti brāhmaṇa.
|
6405. Trong khi ông bị già nua và than vãn
do việc không nhìn thấy tôi, này ông Bà-la-môn, lưng sẽ còng hơn
và nhiều sợi tóc bạc sẽ xuất hiện.” |
319. Khi chàng năm tháng tàn dần,
Còn tôi vắng bóng, chàng buồn khóc than,
Tóc chàng sẽ bạc trắng ngần,
Mặt chàng sẽ gấp bội phần nếp nhăn! |
6406. Tato so brāhmaṇo bhīto brāhmaṇiyā
vasānugo,
aṭṭito kāmarāgena brāhmaṇiṃ etadabravī.
|
6406. Do đó, lão Bà-la-môn ấy bị sợ hãi,
bị khốn khổ bởi sự luyến ái trong các dục, có sự phục tùng người
nữ Bà-la-môn, đã nói với người nữ Bà-la-môn điều này: |
320. Và bây giờ lão La-môn
Lòng đầy sợ hãi phục tuân ý nàng,
Bị nàng hành hạ nát tan,
Ta nghe lão phải vội vàng nói năng: |
6407. Pātheyyaṃ me karohi tvaṃ saṅkulyā
saguḷāni ca,
madhupiṇḍikā ca sukatāyo sattubhattañca brāhmaṇi.
|
6407. “Này nữ Bà-la-môn, nàng hãy chuẩn bị
lương thực đi đường cho tôi gồm các kẹo mè và các bánh bột
đường, các cục mật đã được khéo làm và giỏ thức ăn. |
321. - Cho tôi thực phẩm đi đường,
Làm cho tôi bánh mật ngon ngọt ngào,
Làm thêm lương thực khô nào,
Bánh mì lúa mạch nướng mau trên lò. |
6408. Ānayissaṃ methunake ubhe
dāsakumārake,
te taṃ paricarissanti rattindivamatanditā.
|
6408. Tôi sẽ dẫn về hai đứa trẻ trai làm
nô lệ có cùng dòng dõi với nàng. Chúng sẽ hầu cận nàng ngày đêm
không biếng nhác.” |
322. Thế rồi một cặp gia nô
Có cùng đẳng cấp với cô đem về,
Bọn này mệt mỏi chẳng hề,
Ngày đêm phục vụ cận kề ái nương. |
6409. Idaṃ vatvā brahmabandhu paṭimuñci
upāhanā,
tato so mantayitvāna bhariyaṃ katvā padakkhiṇaṃ.
|
6409. Sau khi nói lời này, lão Bà-la-môn
đã mang đôi giày vào. Sau đó, lão ấy đã dặn dò và đi nhiễu quanh
người vợ. |
323. Việc này xong, lão La-môn
Mang giày rồi lại đứng lên tức thì
Ði vòng quanh ả nữ nhi
Nghiêng về phía hữu chia ly vợ mình. |
Trang 404:
|
Trang 405:
|
6410. Pakkāmi so ruṇṇamukho brāhmaṇo
sahitabbato,
sivīnaṃ nagaraṃ phītaṃ dāsapariyesanaṃ caraṃ.
|
6410. Với khuôn mặt đẫm lệ, với dáng vẻ
đạo sĩ khổ hạnh, lão Bà-la-môn ấy, trong khi thực hiện việc tìm
kiếm tôi tớ, đã đi đến thành phố phồn thịnh của xứ Sivi. |
324. Ra đi khoác áo tu hành
Lệ rơi lả tả quanh vành mắt y,
Vội vàng đến nước Si-vi,
Kinh đô trù phú tìm về gia nô. |
6411. So tattha gantvā avaca ye tatthāsuṃ
samāgatā,
kuhiṃ vessantaro rājā kattha passemu khattiyaṃ.
|
6411. Sau khi đi đến nơi ấy, lão Bà-la-môn
ấy đã nói với những người đã tụ tập tại nơi ấy rằng: “Đức vua
Vessantara ở đâu? Chúng tôi có thể tìm gặp vị Sát-đế-lỵ ở nơi
nào?” |
325-326. Lão đi đến tận nơi xa,
Hỏi thăm dân chúng vào ra quây quần:
- Xin cho tôi biết Ðại vương
Ves-san-ta ấy tìm phương hướng nào? |
6412. So jano taṃ avacāsi ye tatthāsuṃ
samāgatā,
tumhehi brahme pakato atidānena khattiyo,
pabbājito sakā raṭṭhā vaṅke vasati pabbate.
|
6412. Đám dân chúng ấy, những người đã tụ
tập tại nơi ấy, đã nói với lão ấy rằng: “Này Bà-la-môn, bị các
ngươi quấy rầy với sự bố thí quá mức, vị Sát-đế-lỵ đã bị trục
xuất ra khỏi đất nước của mình và cư ngụ ở núi Vaṅka. |
Ðáp ngay cho lão đôi câu,
Ðám đông tụ họp cùng nhau trả lời:
327. - Ngài đành phải chịu tàn đời
Chỉ vì bố thí lũ tồi như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi
Ra ngoài xứ sở, đến đồi Vam-ka. |
6413. Tumhehi brahme pakato atidānena
khattiyo,
ādāya puttadārañca vaṅke vasati pabbate.
|
6413. Này Bà-la-môn, bị các ngươi quấy rầy
với sự bố thí quá mức, vị Sát-đế-lỵ đã mang theo vợ con và cư
ngụ ở núi Vaṅka.” |
328. Ngài đành phải chịu tiêu ma
Chỉ vì bố thí lũ tà như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
Ðem con vợ đến ở đồi Vam-ka. |
6414. So codito brāhmaṇiyā brāhmaṇo
kāmagiddhimā,
aghaṃ taṃ patisevittha,
vane vāḷamigākiṇṇe khaggadīpinisevite.
|
6414. Bị thúc giục bởi nữ Bà-la-môn, lão
Bà-la-môn ấy, có sự tham đắm dục vọng, đã theo đuổi sự sai lầm
ấy, ở trong khu rừng đông đúc các thú dữ, được lai vãng bởi loài
tê giác và loài báo. |
329. Lão kia bị vợ rầy la
Do niềm tham dục bùng ra hoành hành,
Chuộc sai lầm ở rừng xanh
Nơi loài hổ báo thường rình mồi săn. |
6415. Ādāya beluvaṃ daṇḍaṃ aggihuttaṃ
kamaṇḍaluṃ,
so pāvisi brahāraññaṃ yattha assosi kāmadaṃ.
|
6415. Mang theo cây gậy bằng gỗ
beluva, chiếc muỗng tế thần
lửa, và cái bình đựng nước, lão ấy đã đi vào khu rừng rộng lớn,
nơi lão đã nghe về vị bố thí theo ước muốn. |
330. Tay cầm gậy, bát xin ăn,
Muỗng làm tế lễ, vào rừng hoang sơ,
Nơi đây là chốn ẩn cư
Của người bố thí đúng như ý mình. |
6416. Taṃ paviṭṭhaṃ brahāraññaṃ kokā naṃ
parivārayuṃ,
vikkandi so vippanaṭṭho dūre panthā apakkami.
|
6416. Khi lão ấy đã đi vào khu rừng rộng
lớn, các con chó sói đã vây quanh lão ấy. Lão đã kêu thét lên.
Bị lạc lối, lão ấy càng đi ra xa khỏi con đường. |
331. Một khi vào tận rừng xanh
Từng bầy chó sói vây quanh con đường,
Nhảy quàng xiêng lão La-môn,
Rồi đi hốt hoảng lạc đường nào hay. |
6417. Tato so brāhmaṇo gantvā bhogaluddo
asaññato,
vaṅkassoharaṇe naṭṭho,
[sunakhehi parivārito rukkhasmiñca nisinnova];
imā gāthā abhāsatha.
|
6417. Sau đó, lão Bà-la-môn ấy, bị tham
đắm của cải, không tự kiềm chế, đã lạc mất con đường dẫn đến núi
Vaṅka. [Bị những con chó vây quanh, lão đã ngồi ở trên cây.] Lão
đã nói lên những lời kệ này: |
332. La-môn lắm dục vọng này,
Lòng tham buông thả, thấy ngay lạc loài
Ðường lên Vạn - cổ mất rồi,
Bắt đầu thăm hỏi những lời dò la: |
6418. Ko rājaputtaṃ nisabhaṃ
jayantamaparājitaṃ,
bhaye khemassa dātāraṃ ko me vessantaraṃ vidū.
|
6418. “Người nào cho ta biết về vị thái tử
hạng nhất, bậc chiến thắng (tâm bỏn xẻn), không bị khuất phục?
Người nào cho ta biết về Vessantara, vị bố thí sự bình an cho kẻ
bị sợ hãi? |
333. -Ai cho biết Ves-san-ta,
Ông hoàng chiến thắng mọi vua trên đời,
Người ban an lạc đúng thời,
Vị vua vĩ đại, hùng oai trên trần? |
6419. Yo yācataṃ patiṭṭhāsi bhūtānaṃ
dharaṇīriva,
dharaṇūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.
|
6419. Người nào cho ta biết về Vessantara,
vị đại vương ví như quả đất? Người này là nơi nâng đỡ của những
kẻ đang cầu xin, tựa như quả đất là nơi nâng đỡ của các chúng
sanh. |
334. Nơi an trú kẻ cầu ân,
Như đất lành với muôn dân sinh thành?
Nào ai sẽ nói cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh, hùng cường? |
6420. Yo yācataṃ gatī āsi savantīnaṃva
sāgaro,
udadhūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.
|
6420. Người nào cho ta biết về Vessantara,
vị đại vương ví như biển cả? Người này là điểm đến của những kẻ
đang cầu xin, tựa như đại dương là điểm đến của các dòng sông. |
335. Mọi người mong muốn cầu ân
Tìm ngài như biển mọi sông đổ vào,
Nào ai nói với ta mau
Ves-san-ta Chúa tối cao hùng cường? |
6421. Kalyāṇatitthaṃ sucimaṃ sītūdakaṃ
manoramaṃ,
puṇḍarīkehi sañchannaṃ yuttaṃ kiñjakkhareṇunā,
rahadūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.
|
6421. Người nào cho ta biết về Vessantara,
vị đại vương ví như hồ nước, có bến tắm xinh đẹp, trong sạch, có
nước mát, làm thích ý, được che phủ bởi các bông sen trắng, được
gắn liền với tua nhụy và phấn hoa? |
336 - 337. Như hồ lạc thú an toàn,
Nước trong mát lạnh ngập tràn nhấp nhô,
Súng sen giăng trải lô xô,
Ngó tơ bao phủ mặt hồ lặng thinh,
Nào ai sẽ bảo cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh hùng cường? |
Trang 406:
|
Trang 407:
|
6422. Assatthaṃva pathe jātaṃ sītacchāyaṃ
manoramaṃ,
santānaṃ vissametāraṃ kilantānaṃ paṭiggahaṃ,
tathūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.
|
6422. Tựa như cây sung mọc ở đường lộ, có
bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt
mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta
biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy? |
338 - 339. Như cây sung lớn bên đường,
Mọc lên làm chốn nghỉ chân an toàn
Dành cho lữ khách nhọc nhằn
Vội vàng đi đến dưới tàn lá xanh,
Nào ai sẽ bảo cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh hùng cường? |
6423. Nigrodhaṃva pathe jātaṃ sītacchāyaṃ
manoramaṃ,
santānaṃ vissametāraṃ kilantānaṃ paṭiggahaṃ,
tathūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.
|
6423. Tựa như cây đa mọc ở đường lộ, có
bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt
mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta
biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy? |
|
6424. Ambaṃ iva pathe jātaṃ sītacchāyaṃ
manoramaṃ,
santānaṃ vissametāraṃ kilantānaṃ paṭiggahaṃ,
tathūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.
|
6424. Tựa như cây xoài mọc ở đường lộ, có
bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt
mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta
biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy? |
340 - 341. Như xoài, hoặc cây bàng
Mọc làm thành chốn bên đường nghỉ chân
Dành cho lữ khách nhọc nhằn
Vội vàng đi đến dưới tàn lá xanh,
Nào ai sẽ báo cho mình
Ves-san-ta Chúa quang vinh hùng cường? |
6425. Sālaṃ iva pathe jātaṃ sītacchāyaṃ
manoramaṃ,
santānaṃ vissametāraṃ kilantānaṃ paṭiggahaṃ,
tathūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.
|
6425. Tựa như cây
sāla mọc ở đường lộ, có bóng
mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt mỏi,
là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta biết
về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy? |
|
6426. Dumaṃ iva pathe jātaṃ sītacchāyaṃ
manoramaṃ,
santānaṃ vissametāraṃ kilantānaṃ paṭiggahaṃ,
tathūpamaṃ mahārājaṃ ko me vessantaraṃ vidū.
|
6426. Tựa như cội cây mọc ở đường lộ, có
bóng mát, làm thích ý, là nơi nghỉ dưỡng của những người bị mệt
mỏi, là nơi tiếp đón những người bị mệt nhọc, người nào cho ta
biết về Vessantara, vị đại vương ví như thế ấy? |
|
6427. Evañca me vilapato paviṭṭhassa
brahāvane,
ahaṃ jānanti yo vajjā nandiṃ so janaye mamaṃ.
|
6427. Và trong lúc than van như vậy, ta đã
đi vào khu rừng rộng lớn. Người nào có thể nói rằng: ‘Tôi biết
(chỗ ngụ của Vessantara),’ người ấy tạo ra nỗi vui mừng cho ta.’ |
342. Nào ai nghe tiếng ta than
Chung quanh toàn cả rừng hoang hãi hùng?
Lòng ta xiết đỗi vui mừng
Nếu ai cho biết vương quân nơi nào. |
6428. Evañca me vilapato paviṭṭhassa
brahāvane,
ahaṃ jānanti yo vajjā (vessantaranivesanaṃ ),
tāya so ekavācāya pasave puññaṃ anappakaṃ.
|
6428. Và trong lúc than van như vậy, ta đã
đi vào khu rừng rộng lớn. Người nào có thể nói rằng: ‘Tôi biết
(chỗ ngụ của Vessantara),’ với một lời nói ấy, người ấy có thể
tạo nên phước báu không phải là ít.” |
343. Chung quanh toàn cả rừng sâu,
Ai nghe ta thở than nào có hay?
Hân hoan hạnh phúc lắm thay
Nếu ai cho biết ngài rày nơi nao? |
6429. Tassa ceto paṭissosi araññe luddako
caraṃ,
tumhehi brahme pakato atidānena khattiyo,
pabbājito sakā raṭṭhā vaṅke vasati pabbate.
|
6429. Có gã thợ săn người xứ Ceta đang đi
trong rừng đã đáp lại lão ấy rằng: “Này Bà-la-môn, bị các ngươi
quấy rầy với sự bố thí quá mức, vị Sát-đế-lỵ đã bị trục xuất ra
khỏi đất nước của mình và cư ngụ ở núi Vaṅka. |
344 - 345. Thợ săn ngang dọc rừng hoang,
Lắng nghe lời lão thở than, nói rằng:
- Ngài đành phải chịu tiêu vong
Chỉ vì bố thí những phường như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
Ra ngoài xứ sở đến đồi Vam-ka! |
6430. Tumhehi brahme pakato atidānena
khattiyo,
ādāya puttadārañca vaṅke vasati pabbate.
|
6430. Này Bà-la-môn, bị các ngươi quấy rầy
với sự bố thí quá mức, vị Sát-đế-lỵ đã mang theo vợ con và cư
ngụ ở núi Vaṅka. |
346. Ngài đành phải chịu tiêu ma
Chỉ vì bố thí lũ tà như ngươi,
Ngài vừa bị đuổi đi rồi,
Ðem vợ con đến ở đồi Vam-ka. |
6431. Akiccakārī dummedho raṭṭhā
vivanamāgato,
rājaputtaṃ gavesanto bako macchamivodake.
|
6431. Kẻ ngu muội, không có làm phận sự
gì, đã rời khỏi đất nước đi vào rừng tìm kiếm vị thái tử, tựa
như con cò đang tìm bắt cá ở vũng nước. |
347. Ðồ ngu vô dụng quả là,
Nếu ngươi mong muốn bỏ nhà ra đây,
Ðể tìm vương tử rừng này
Như con hạc kiếm cá bầy giữa sông. |
Trang 408:
|
Trang 409:
|
6432. Tassa tyāhaṃ na dassāmi jīvitaṃ idha brāhmaṇa,
ayaṃ hi te mayā nunno saro pāssati lohitaṃ.
|
6432. Này Bà-la-môn, ta sẽ không ban cho
lão đây còn mạng sống ở nơi này, bởi vì mũi tên này, được ta bắn
ra, sẽ uống máu của lão. |
348. Thế thì đây, hỡi tôn ông,
Mạng kia của lão, ta không tha vầy,
Tên ta sẽ hút máu đầy
Khi ta bắn nó từ cây cung dài. |
6433. Siro te vajjhayitvāna hadayaṃ chetvā sabandhanaṃ,
panthasakuṇaṃ yajissāmi tuyhaṃ maṃsena brāhmaṇa.
|
6433. Mũi tên, sau khi giết chết lão, sẽ
cắt đứt trái tim cùng với thớ thịt. Này Bà-la-môn, ta sẽ cúng tế
loài chim ở con đường bằng thịt của lão. |
349. Rồi ta sẽ chẻ đầu ngươi,
Xé tim gan ấy tức thời tại đây,
Như chim cúng lễ thần cây,
Ta làm thịt lão giờ đây tế thần. |
6434. Tuyhaṃ maṃsena medena matthakena ca brāhmaṇa,
āhutiṃ paggahessāmi chetvāna hadayaṃ tava.
|
6434. Này Bà-la-môn, ta sẽ cắt đứt trái
tim của lão, rồi dâng lên làm vật cúng tế cùng với phần thịt,
phần mỡ, và cái đầu của lão. |
350. Rồi ta lấy thịt, mỡ, gân,
Lấy đầu, tim lão đủ phần thiếu chi,
Lão thành tế vật tức thì
Ngay khi lão mới ra đi lìa dời. |
6435. Taṃ me suyiṭṭhaṃ suhutaṃ tuyhaṃ maṃsena brāhmaṇa,
na ca tvaṃ rājaputtassa bhariyaṃ putte ca nessasi.
|
6435. Này Bà-la-môn, khi trái tim ấy đã
khéo được hiến dâng, đã khéo được cúng tế cùng với thịt của lão,
lão sẽ không dẫn đi vợ và các con của vị thái tử.” |
451. Lão là lễ vật đáng mời,
Lễ dâng đàn tế tuyệt vời ước mong,
Về sau lão chẳng còn hòng
Tìm đường hãm hại vợ con của ngài. |
6436. Avajjho brāhmaṇo dūto cetaputta suṇohi me,
tasmā hi dūtaṃ na hananti esa dhammo sanantano.
|
6436. “Này cậu trai xứ Ceta, hãy lắng nghe
ta. Vị Bà-la-môn là người sứ giả, không được giết hại. Chính vì
thế, người ta không giết sứ giả; điều này là quy luật cổ xưa. |
352. Sứ thần ai cũng kiêng oai,
Không ai được phép giết người sứ quân,
Ðây là qui luật ngàn năm,
Nếu ông muốn, hãy chú tâm nghe này: |
6437. Nijjhattā sivayo sabbe pitā naṃ daṭṭhumicchati,
mātā ca dubbalā tassa acirā cakkhūni jīyare.
|
6437. Mọi người dân Sivi đã suy nghĩ lại.
Phụ hoàng muốn gặp vị ấy, và mẫu hậu của ngài ấy yếu sức, không
bao lâu nữa cặp mắt sẽ hư hoại. |
353. Thần dân hối hận lắm thay,
Vua cha thương nhớ suốt ngày lo âu,
Mẹ ngài mòn mỏi ưu sầu,
Mắt bà đang hóa ra mau mờ dần. |
6438. Tesāhaṃ pahito dūto cetaputta suṇohi me,
rājaputtaṃ nayissāmi yadi jānāsi saṃsa me.
|
6438. Ta là người sứ giả đã được họ phái
đi. Này cậu trai xứ Ceta, hãy lắng nghe ta. Ta sẽ đưa vị thái tử
đi. Nếu ngươi biết, ngươi hãy chỉ cho ta.” |
354. Ðến đây ta chính sứ thần
Ðem về Chúa tể Ves-san-ta này,
Hãy nghe, cho lão biết vầy
Nơi đâu có thể tìm ngài Chúa công. |
6439. Piyassa me piyo dūto puṇṇapattaṃ dadāmi te,
imañca madhuno tumbaṃ migasatthiñca brāhmaṇa,
tañca te desamakkhissaṃ yattha sammati kāmado.
|
6439. “Lão là vị sứ giả yêu quý của người
mà ta yêu quý. Này Bà-la-môn, ta sẽ cho lão được thành tựu trọn
vẹn, cùng với hũ mật ong này và đùi thịt nai. Ta sẽ nói cho lão
về khu vực ấy, nơi mà vị bố thí theo ước muốn cư ngụ.” |
355-356. Ta yêu vương tử, sứ thần,
Và đây ta có để phần tặng ông
Món quà thân thiện đón mừng:
Ðùi nai cùng hũ mật ong ngọt ngào;
Ân nhân tìm kiếm cách nào
Ta đây sẽ nói làm sao bây giờ. |
Jūjakapabbaṃ niṭṭhitaṃ.
|
Đoạn Về Bà-la-môn Jūjaka
được hoàn tất. |
6440. Esa selo mahābrahme pabbato gandhamādano,
yattha vessantaro rājā saha puttehi sammati.
|
6440. “Này vị Bà-la-môn vĩ đại, kia là
ngọn núi đá Gandhamādana, là nơi đức vua Vessantara cư ngụ cùng
với hai con. |
357. Ðạo sĩ ôi, núi đằng xa,
Gan-dha-mà ấy chính là Hương Sơn,
Nơi Ves-san-ta Ðại vương
Hiện đang sống với vợ con một đoàn. |
6441. Dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadañca masaṃ jaṭaṃ,
cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.
|
6441. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng
Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y
phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa. |
358. Với y của bậc La-môn,
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng. |
6442. Ete nīlā padissanti nānāphaladharā dumā,
uggatā abbhakūṭaṃ va nīlā añjanapabbatā.
|
6442. Những nơi màu xanh ngắt được nhìn
thấy kia là những giống cây mang các trái khác loại, và những
ngọn núi của giống cây añjana,
có màu xanh um, được vươn lên tận đỉnh của đám mây. |
359. Cây đằng xa đó, kìa trông,
Trĩu cành sai quả xanh um sườn đồi,
Trong khi đỉnh núi cao vời
Thẫm đen đến tận mây trời ẩn thân. |
Trang 410:
|
Trang 411:
|
6443. Dhavassakaṇṇā khadirā sālā
phandanamāluvā,
sampavedhanti vātena sakiṃ pītāva māṇavā.
|
6443. Các loại cây
dhava, cây long thọ, cây nhục
quế, cây sāla, các giống dây
leo run rẩy, đung đưa theo làn gió, tựa như những chàng trai trẻ
lảo đảo một khi đã uống say. |
360. Bụi sal, tai ngựa, cát đằng,
Cùng nhiều cây khác nhẹ nhàng chuyển rung
Khác nào một đám túy ông
Lắc lư trong gió, người trông thấy hoài. |
6444. Upari dumapariyāyesu saṃgītiyova
sūyare,
najjuhā kokilasaṅghā sampatanti dumā dumaṃ.
|
6444. Ở phía trên những hàng cây, tựa như
có những cuộc hòa nhạc được nghe tiếng. Các con chim
najjuha, các bầy chim cu cu
(líu lo) bay nhảy từ cây này sang cây khác. |
361. Trên cao các dãy cây trời
Bầy chim hòa nhạc đồng thời ca vang,
Naj-ju, cu gáy từng đàn
Chuyền từ cây nọ nhẹ nhàng lướt nhanh. |
6445. Avhayanteva gacchantaṃ
sākhāpaṇṇasameritā,
ramayanteva āgantuṃ modayanti nivāsinaṃ,
yattha vessantaro rājā saha puttehi sammati.
|
6445. Các chiếc lá của những cành cây được
lay động tựa như mời gọi người đang đi đến, tựa như làm cho
khách đi đến được vui thích, khiến người trú ngụ được hài lòng;
nơi ấy đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con. |
362-363. Chen nhau giữa đám lá cành
Chim mời khách lạ, hoan nghênh đón mừng,
Làm vui lòng mọi thế nhân
Tìm nhà an trú giữa rừng hoang sơ,
Nơi kia cùng với con thơ,
Ves-san-ta chúa ẩn cư xuất trần. |
6446. Dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadañca
masañjaṭaṃ,
cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.
|
6446. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng
Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y
phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa. |
364. Với y của bậc La-môn
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng. |
6447. Ambā kapitthā panasā sālā jambū
vibhītakā,
harītakī āmalakā assatthā badarāni ca.
|
6447. (Ở tại nơi này) có các cây xoài, các
cây táo rừng, các cây mít, các cây
sāla, các cây mận, các cây
vibhītaka, các cây harītakī,
các cây āmalakā, các cây sung,
và các cây táo ta. |
365. Hồng đào, xoài mít thơm nồng,
Mận mơ đủ loại lòng thòng, Sà-la,
Tin-dook vàng ánh, cây đa,
Cùng nhiều cây khác hiện ra cây bàng. |
6448. Cāru timbarukkhā cettha nigrodhā ca
kapitthanā,
madhu madhukā thevanti nīce pakkā cudumbarā.
|
6448. Và ở tại nơi này có các cây
timba xinh đẹp, các cây đa, và
các cây táo rừng, các cây madhuka
có vị ngọt chiếu sáng, và các cây sung có trái chín ở chỗ thấp. |
366. Lắm cây sung, vả trên ngàn
Toàn thân mọc thấp, chín thơm ngọt ngào, |
6449. Pārevatā bhaveyyā ca muddikā ca
madhutthikā,
madhuṃ anelakaṃ tattha sakamādāya bhuñjare.
|
6449. Các cây
pārevata, các cây chuối có trái dài, các cây nho, và các
tổ mật ong. Tại nơi ấy, có thể tự mình lấy mật ong tinh khiết và
thọ dụng. |
Chà là, nho tuyệt diệu sao,
Tổ ong mật, hãy ăn vào thỏa thuê. |
6450. Aññettha pupphitā ambā aññe
tiṭṭhanti domilā,
aññe āmā ca pakkā ca bhekavaṇṇā tadūbhayaṃ.
|
6450. Ở tại nơi này, có một số cây xoài đã
được trổ bông, một số khác tồn tại và đã được kết trái, một số
khác có trái còn non và đã chín, cả hai (loại trái còn non và đã
chín) có màu sắc như của con nhái. |
367. Vài cây xoài mới trổ hoa,
Vài cây có trái nhú ra đúng mùa,
Một vài trái đã chín vừa,
Trái xanh như ếch, trái chưa chín vàng. |
6451. Athettha heṭṭhā puriso ambapakkāni
gaṇhati,
āmāni ceva pakkāni vaṇṇagandharasuttame.
|
6451. Và ở nơi này, con người đứng ở bên
dưới hái những trái xoài chín. Những trái chín và luôn cả những
trái còn non là hạng nhất về màu sắc, mùi thơm, và hương vị. |
368. Người nào đứng dưới cây rừng
Hái bao nhiêu quả cây dâng đón mời,
Sắc hương, mùi vị tuyệt vời,
Dù chưa chín, hoặc chín rồi đều phô. |
6452. Ateva me acchariyaṃ hiṅkāro
paṭibhāti maṃ,
devānamiva āvāso sobhati nandanūpamo.
|
6452. Quả thật là điều quá sức kỳ diệu đối
với tôi! Tiếng kêu ‘Ủa’ lóe lên ở tôi. Chỗ ngụ chiếu sáng như là
của chư Thiên, tương tự khu vườn Nandana. |
369. Ôi! Làm ta phải la to
Khi nhìn cảnh tượng bao la, phi thường
Khác nào khung cảnh thiên đường,
Nơi thần tiên ở, khu vườn Lạc hoan. |
6453. Vibhedikā nāḷikerā khajjurīnaṃ
brahāvane,
mālāva ganthitā ṭhanti dhajaggāneva dissare,
nānāvaṇṇehi pupphehi nabhaṃ tārācitāmiva.
|
6453. Ở khu rừng rộng lớn của những cây
chà là, có các cây lá cọ và các cây dừa đứng thẳng, tựa như
những tràng hoa đã được kết lại, được nhìn thấy tựa như những
cây cờ hiệu, với những bông hoa có nhiều màu sắc khác nhau tựa
như các chòm sao điểm tô bầu trời. |
370-371. Cọ, dừa, thốt nốt tràn lan
Trên cao nguyên của núi ngàn hoang sơ,
Muôn hoa dăng chuỗi kết tua
Khác nào lễ hội ngọn cờ tung cao,
Hoa kia có đủ sắc màu
Giống như ngàn vạn vì sao điểm trời. |
6454. Kuṭajī kuṭṭhatagarā pāṭaliyo ca
pupphitā,
punnāgā giripunnāgā koviḷārā ca pupphitā.
|
6454. Các cây
kuṭaji, các cây kuṭṭha,
các cây tagara, và các cây
pāṭalī đã được trổ hoa. Các
cây nguyệt quế, các cây nguyệt quế núi, và các cây
koviḷārā đã được trổ hoa. |
372. Gụ, đàn hương mọc khắp nơi
Cùng nhiều cây khác không lời diễn ra,
Cây dâu, cây dẻ, phượng hoa
Mọc dày chi chít chen đua la đà. |
Trang 412:
|
Trang 413:
|
6455. Uddālakā somarukkhā agarubhalliyo
bahū,
puttajīvā ca kakudhā asanā cettha pupphitā.
|
6455. Các cây bả đậu, các cây
soma, các cây kỳ nam, và các
cây bhallī là có nhiều. Các
cây puttajīva, các cây
kakudha, và các cây
asana ở nơi này đã được trổ
hoa. |
|
6456. Kuṭajā salalā nīpā kosambalabujā
dhavā,
sālā ca pupphitā tattha palālakhalasannibhā.
|
6456. Các cây
kuṭaja, các cây salala,
các cây nīpa, các cây
kosamba, các cây sa kê, các
cây dhava, và các cây
sāla đã được trổ hoa ở tại nơi
ấy, tương tự như những đống rơm. |
|
6457. Tassāvidūre pokkharaṇī bhūmibhāge
manorame,
padumuppalasañchannā devānamiva nandane.
|
6457. Không xa khu rừng ấy, ở vùng đất làm
cho thích ý, có một cái hồ được che phủ bởi các giống sen hồng
và sen xanh, tựa như (hồ nước Nandā) ở khu vườn Nandana của chư
Thiên. |
373. Gần bên có một cái hồ,
Súng sen xanh trắng tràn bờ phủ lên,
Khác nào vườn các thần tiên
Chính tên là cảnh Lạc Viên trên trời. |
6458. Athettha puppharasamattā kokilā
mañjubhāṇikā,
abhinādenti pavanaṃ utusampupphite dume.
|
6458. Rồi ở nơi này, tại thân cây đã được
nở rộ hoa lúc vào mùa, các con chim cu cu có giọng hót du dương,
bị ngất ngây bởi mật của các bông hoa, làm vang động khu rừng. |
374. Sơn ca, cu gáy hót hoài
Làm cho khắp mọi sườn đồi âm vang,
Ðắm say vì các hoa ngàn
Nở ra theo đúng mùa màng quanh năm. |
6459. Bhassanti makarandehi pokkhare
pokkhare madhū,
athettha vātā vāyanti dakkhiṇā atha pacchimā,
padumakiñjakkhareṇūhi okiṇṇo hoti assamo.
|
6459. Những giọt mật với các bụi phấn hoa
nhỏ xuống ở mỗi chiếc lá sen. Rồi ở nơi này, có các làn gió thổi
từ hướng nam rồi từ hướng tây; khu ẩn cư được rải rắc bởi bụi
phấn từ tua nhụy của các hoa sen. |
375-376. Hãy nhìn mật ngọt âm thầm
Rơi rơi từng giọt trên tàn sen thưa,
Và nghe ngọn gió đong đưa
Lướt đi nhè nhẹ từ bờ tây nam
Ðến khi tất cả phấn hương
Ðược mang theo gió tỏa lan ngát trời. |
6460. Thūlā siṅghāṭakā cettha saṃsādiyā
pasādiyā,
macchakacchapavyāviddhā bahū cettha mupayānakā,
madhuṃ bhiṃsehi savati khīraṃ sappi mulālihi.
|
6460. Ở nơi này, có các cây
siṅghāṭaka thô kệch, các giống
lúa tự nhiên saṃsādiyā và
pasādiyā. Và ở nơi này, có
nhiều con cua di chuyển cùng với các con cá và rùa. Có mật ngọt
tiết ra từ các củ sen, rồi sữa và bơ lỏng tiết ra từ các rễ sen. |
377-378. Biết bao dâu, lúa chín muồi
Mọc quanh vùng ấy thường rơi xuống hồ,
Từng đàn cua, cá, trạnh, rùa
Phóng vào tìm kiếm say sưa miệt mài,
Mật rơi như thể sữa tươi,
Như bơ từ đám hoa cười mênh mang. |
6461. Surabhi taṃ vanaṃ vāti
nānāgandhasameritaṃ,
sammaddateva gandhena pupphasākhāhi taṃ vanaṃ,
bhamarā pupphagandhena samantāmabhināditā.
|
6461. Có mùi thơm ngát thổi vào khu rừng
ấy, hòa quyện cùng với các hương thơm khác loại. Khu rừng ấy
dường như làm cho con người say đắm với hương thơm, với những
cành hoa. Các con ong kêu vo ve ở khắp các nơi bởi mùi thơm của
các bông hoa. |
379. Từng làn gió nhẹ đưa ngang
Cỏ cây đủ loại mùi hương diệu huyền,
Hình như rừng rậm quanh miền
Ðắm say với đám hoa trên núi đồi.
380-381. Bầy ong bay lượn khắp nơi
Vo ve quanh quẩn theo mùi hoa thơm, |
6462. Athettha sakuṇā santi nānāvaṇṇā bahū
dijā,
modanti saha bhariyāhi aññamaññaṃ pakūjino.
|
6462. Rồi ở nơi này, còn có những con
chim, gồm nhiều loài chim có các màu sắc khác nhau. Chúng vui
đùa cùng với các con chim mái, hót líu lo với nhau. |
Bầy chim đủ sắc bay cùng
Líu lo, chiêm chiếp trong lòng hân hoan
Nhiều chim cùng bạn lượn vòng: |
6463. Nandikā jīvaputtā ca jīvaputtā ca
piyā ca no,
piyā puttā piyā nandā dijā pokkharaṇīgharā.
|
6463. Có bốn loài chim làm tổ cạnh hồ
nước, có bốn tiếng hót khác nhau, chúc mừng vị Vessantara sống
vui vẻ, hạnh phúc cùng với hai con yêu dấu. |
382. - Chích chích, chép chép, vui mừng
biết bao!
Chim kêu ríu rít lao xao:
- Bạn yêu, bạn quý, bạn trao ân tình! |
6464. Mālāva ganthitā ṭhanti dhajaggāneva
dissare,
nānāvaṇṇehi pupphehi kusalehi sugandhikā,
yattha vessantaro rājā saha puttehi sammati.
|
6464. Tựa như những tràng hoa đã được kết
lại đứng thẳng, tựa như những cây cờ hiệu được nhìn thấy, với
những bông hoa có nhiều màu sắc khác nhau được kết lại khéo léo
bởi các tay thợ thiện xảo, nơi ấy đức vua Vessantara cư ngụ cùng
với hai con. |
383 - 384. Muôn hoa dăng chuỗi viền quanh
Như khi cờ xí tung hoành lượn bay,
Hoa đầy màu sắc đẹp thay,
Hương thơm ngào ngạt thoảng bay xa gần,
Nơi kia cùng với đàn con,
Ves-san-ta Chúa ẩn thân xuất trần. |
6465. Dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadaṃ ca
masañjaṭaṃ,
cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.
|
6465. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng
Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y
phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.” |
385. Với y của bậc La- môn,
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng. |
Trang 414:
|
Trang 415:
|
6466. Idañca me sattubhattaṃ madhunā
paṭisaṃyutaṃ,
madhupiṇḍikā ca sukatāyo sattubhattaṃ dadāmi te.
|
(Lời Bà-la-môn Jūjaka)
6466. “Đây là phần ăn lúa mạch của ta, đã
được trộn đều với mật ong, và các cục mật ong đã khéo được vo
lại. Ta biếu ngươi phần ăn lúa mạch của ta.” |
386. Nhận đây bánh lúa mạch non
Thảy đều được nhúng mật ong ngọt ngào.
Nhiều viên bánh mật khéo sao,
Ta nay đem biếu ông nào ăn đi. |
6467. Tuyheva sambalaṃ hotu nāhaṃ icchāmi
sambalaṃ,
itopi brahme gaṇhāhi gaccha brahme yathāsukhaṃ.
|
6467. “Hãy để lại phần ăn đi đường cho
chính ông. Tôi không cần phần ăn đi đường. Này vị Bà-la-môn, ông
hãy bắt đầu từ đây. Này vị Bà-la-môn, ông hãy đi một cách thoải
mái. |
387. Cám ơn, tôi chẳng cần gì,
Giữ phần lương thực mà đi đường dài.
Lấy thêm lương thực tôi mời,
Rồi xin Ðạo sĩ đến nơi ông cần. |
6468. Ayaṃ ekapadī eti ujuṃ gacchati
assamaṃ,
isīpi accuto tattha paṅkadanto rajassiro,
dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadañca masañjaṭaṃ.
|
6468. Lối đi bộ này đi đến, đi thẳng đến
khu ẩn cư. Tại nơi ấy, còn có vị ẩn sĩ Accuta, có răng bị đóng
bợn, có đầu lấm bụi, đang khoác vào bộ dạng Bà-la-môn, mang móc
câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện. |
388. Thẳng lên về phía thảo đường,
Lộ trình nơi ấy dẫn ông đến nhà
Ẩn nhân là Ac-ca-ta,
Răng đen, đầu bẩn, ly gia xuất trần. |
6469. Cammavāsī chamā seti jātavedaṃ
namassati,
taṃ tvaṃ gantvāna pucchassu so te maggaṃ pavakkhati.
|
6469. Vị ấy, mặc y phục da thú, nằm trên
đất, tôn thờ thần lửa. Ông hãy đi đến và hỏi vị ấy. Vị ấy sẽ chỉ
đường cho ông.” |
389 - 390. Với y của bậc La-môn,
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng.
Ðến kia, và hỏi con đường,
Rồi ngài sẽ chỉ cho tường, Tôn ông. |
6470. Idaṃ sutvā brahmabandhu cetaṃ katvā
padakkhiṇaṃ,
udaggacitto pakkāmi yenāsi accuto isi.
|
6470. Nghe xong điều này, vị thân quyến
của đấng Brahmā đã đi nhiễu quanh người thợ săn xứ Ceta, rồi với
tâm phấn khởi, đã khởi hành đi đến nơi vị ẩn sĩ Accuta đang ở. |
391. Ðiều này nghe được vừa xong,
Lão quay bên phải, đi vòng Ce-ta,
Rồi đi tìm Ac-ca-ta,
Con tim rộn rã chan hòa hân hoan. |
Cūḷavanavaṇṇanā niṭṭhitā.
|
Phần Mô Tả Khu Rừng Nhỏ
được hoàn tất. |
6471. Gacchanto so bhāradvājo addasa
accutaṃ isiṃ,
disvāna taṃ bhāradvājo sammodi isinā saha.
|
6471. Trong lúc đang đi, lão (Jūjaka) dòng
họ Bhāradvāja ấy đã nhìn thấy vị ẩn sĩ Accuta. Sau khi nhìn thấy
vị ấy, lão Bhāradvāja đã tỏ ra thân thiện với vị ẩn sĩ ấy rằng: |
392. Jù-ja-ka tiến thẳng đường
Ðến khi lão đã bước gần thảo am,
Vào nơi ẩn sĩ trú thân,
Như vầy lão vội ân cần hỏi thăm: |
6472. Kaccinnu bhoto kusalaṃ kacci bhoto
anāmayaṃ,
kacci uñchena yāpesi kacci mūlaphalā bahū.
|
6472. “Thưa ngài, phải chăng ngài được an
khang? Thưa ngài, phải chăng ngài được vô sự? Phải chăng ngài
nuôi sống bằng việc thu nhặt? Phải chăng có nhiều rễ củ và trái
cây? |
393. - Ta tin rằng, hỡi Thánh nhân,
Ngài thường thịnh vượng, an khương mọi bề,
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ quả tràn trề ẩn am. |
6473. Kacci ḍaṃsā ca makasā ca appameva
siriṃsapā,
vane vāḷamigākiṇṇe kacci hiṃsā na vijjati.
|
6473. Phải chăng có rất ít ruồi, muỗi, và
các loài bò sát? Phải chăng không có sự hãm hại ở khu rừng đông
đúc các loài thú dữ?” |
394. Ngài nay có bị phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài?
Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
Chẳng hay ngài tránh mọi loài được chăng? |
6474. Kusalañceva me brahme atho brahme
anāmayaṃ,
atho uñchena yāpemi atho mūlaphalā bahū.
|
(Lời vị ẩn sĩ Accuta)
6474. “Thưa vị Bà-la-môn, tôi được an
khang. Và thưa vị Bà-la-môn, tôi được vô sự. Tôi nuôi sống bằng
việc thu nhặt. Rễ củ và trái cây có nhiều. |
395. Cám ơn ngài, hỡi La-môn,
Ta nay thịnh vượng, an khương mọi bề,
Với bao thóc lúa thu về,
Và bao củ quả tràn trề ẩn am. |
6475. Atho ḍaṃsā ca makasā ca appameva
siriṃsapā,
vane vāḷamigākiṇṇe hiṃsā mayhaṃ na vijjati.
|
6475. Có rất ít ruồi, muỗi, và các loài bò
sát. Không có sự hãm hại đến với tôi ở khu rừng đông đúc các
loài thú dữ. |
396. Ta không phải chịu phiền lòng
Vì loài rắn rít, bọ ong quấy hoài,
Hoặc bầy dã thú tìm mồi,
Ta đây tránh được mọi loài, Tôn ông. |
6476. Bahūni cassa pūgāni assame vasato
mama,
nābhijānāmi uppannaṃ ābādhaṃ amanoramaṃ.
|
6476. Và có nhiều cây cau cho tôi đây khi
tôi sống ở khu ẩn cư. Tôi không biết đến bệnh tật không thích ý
đã được sanh khởi. |
397. Biết bao nhiêu tháng năm ròng
Mà ta đã sống trong vùng đất đây,
Những gì bệnh tật xưa nay,
Ta không hề thấy ở đây khi nào. |
6477. Svāgataṃ te mahābrahme atho te
adurāgataṃ.
anto pavisa bhaddante pāde pakkhālayassu te.
|
6477. Thưa vị Bà-la-môn vĩ đại, chào mừng
ngài đã đến và việc đi đến tốt lành của ngài. Thưa ngài, xin
ngài hãy đi vào bên trong. Xin ngài hãy rửa sạch hai bàn chân
của ngài. |
398. Bà-la-môn hỡi, kính chào!
Mừng duyên hạnh ngộ đưa vào chốn đây.
Xin vào, ta chúc cầu may,
Và xin hãy rửa chân tay của ngài. |
6478. Tindukāni piyālāni madhuke
kāsumāriyo,
phalāni khuddakappāni bhuñja brahme varaṃ varaṃ.
|
6478. Thưa vị Bà-la-môn, có các loại trái
cây tinduka,
piyāla,
madhuka,
kāsumārī ngọt như mật ong, xin
ngài hãy thưởng lãm các trái ngon nhất. |
399. Pi-yal, tin-dook lá cây,
Kà-su-ma quả ngọt thay nồng nàn,
Trái cây như thể mật ong
Chọn ngay hạng nhất, La-môn, ăn nào. |
Trang 416:
|
Trang 417:
|
6479. Idampi pānīyaṃ sītaṃ ābhataṃ
girigabbharā,
tato piva mahābrahme sace tvaṃ abhikaṅkhasi.
|
6479. Cũng có nước uống mát lạnh này được
mang lại từ hang núi, thưa vị Bà-la-môn vĩ đại, xin ngài hãy
uống nước từ nơi ấy nếu ngài muốn.” |
400. Nước này lấy tự hang sâu
Ẩn mình dưới một đồi cao trong rừng,
Xin mời, hỡi bậc Thánh nhân,
Uống vào cho thỏa tấm lòng ước mong. |
6480. Paṭiggahītaṃ yaṃ dinnaṃ sabbassa
agghiyaṃ kataṃ,
sañjayassa sakaṃ puttaṃ sivīhi vippavāsitaṃ,
tamahaṃ dassanamāgato yadi jānāsi saṃsa me.
|
6480. “Vật bố thí quý giá của tất cả các
vị làm ra đã được ta nhận lãnh. Có người con trai ruột của đại
vương Sañjaya đã bị lưu đày bởi những người dân xứ Sivi. Ta đi
đến để gặp vị ấy; nếu ngài biết, xin ngài hãy chỉ cho ta.” |
401-402. Tôi xin nhận vật ngài ban,
Và xin nhận lễ cúng dường, Tôn ông.
Tôi tìm con của vương quân
Sañ-ja-ya bị lưu vong lâu rày,
Dân Si-vi phán lệnh đày,
Xin cho tôi biết nơi ngài ẩn thân. |
6481. Na bhavaṃ eti puññatthaṃ sivirājassa
dassanaṃ,
maññe bhavaṃ patthayati rañño bhariyaṃ patibbataṃ.
|
6481. “Ngài đi đến gặp đức vua xứ Sivi
không có mục đích tốt lành. Tôi nghĩ rằng ngài ước ao người vợ
chung thủy của đức vua. |
403. Ông tìm Si-vi Ðại vương
Mà không có ý thiện lương trong đầu,
Chắc ông cố ý mong cầu
Chiếm vương phi của ngài đâu khó gì. |
6482. Maññe kaṇhājinaṃ dāsiṃ jāliṃ dāsañca
icchasi,
athavā tayo mātāputte araññā netumāgato,
na tassa bhogā vijjanti dhanaṃ dhaññañca brāhmaṇa.
|
6482. Tôi nghĩ rằng ngài muốn Kaṇhājinā là
tớ gái và Jāli là tôi trai. Hay là ngài đã đi đến để đưa ba mẹ
con rời khỏi khu rừng. Thưa vị Bà-la-môn, các của cải, tài sản,
và lúa gạo của vị vua ấy không thấy có.” |
404-405. Kan-hà cùng với Jà-li
Làm gia nô với nữ tỳ nhà ông,
Hay ông tìm mẹ lẫn con
Nếu ông có thể cầu ơn vua này,
Ngài không lạc thú gì đây,
Cũng không thực phẩm, tiền tài, Tôn ông. |
6483. Akuddharūpāhaṃ bhoto nāhaṃ
yācitumāgato,
sādhu dassanamariyānaṃ sannivāso sadā sukho.
|
6483. “Thưa ngài đạo sĩ, ta không có dáng
vẻ giận dữ, ta không đi đến để cầu xin. Việc nhìn thấy các bậc
thánh thiện là tốt đẹp. Việc cộng trú (với họ) luôn luôn an lạc.
|
406. Tôi không có ý bất lương,
Cũng không đến để cầu mong ơn ngài.
Song nhìn người thiện tuyệt vời,
Vui thay sống với các người thiện lương. |
6484. Adiṭṭhapubbo sivirājā sivīhi
vippavāsito,
tamahaṃ dassanamāgato yadi jānāsi saṃsa me.
|
6484. Từ khi đức vua xứ Sivi bị lưu đày
bởi những người dân xứ Sivi, ta chưa được gặp lại. Ta đi đến để
gặp vị ấy; nếu ngài biết, xin ngài hãy chỉ cho ta.” |
407. Tôi chưa từng thấy quân vương,
Chính ngài đã bị thần dân lưu đày.
Tôi mong diện kiến vua này,
Xin ông cho biết nơi ngài ẩn cư. |
6485. Esa selo mahābrahme pabbato
gandhamādano,
yattha vessantaro rājā saha puttehi sammati.
|
6485. “Thưa vị Bà-la-môn vĩ đại, kia là
ngọn núi đá Gandhamādana, là nơi đức vua Vessantara cư ngụ cùng
với hai con. |
408. Ðạo sĩ ôi, núi đằng xa
Gan-dha-mà ấy chính là Hương Sơn,
Nơi Ves-san-ta Ðại vương
Hiện đang sống với vợ con một đoàn. |
6486. Dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadañca
masaṃ jaṭaṃ,
cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.
|
6486. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng
Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y
phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa. |
409. Với y của bậc La-môn,
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào,
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng. |
6487. Ete nīlā padissanti nānāphaladharā
dumā,
uggatā abbhakūṭāva nīlā añjanapabbatā.
|
6487. Những nơi màu xanh ngắt được nhìn
thấy kia là những giống cây mang các trái khác loại, và những
ngọn núi của giống cây añjana,
có màu xanh um, được vươn lên tận đỉnh của đám mây. |
|
6488. Dhavassakaṇṇā khadirā sālā
phandanamāluvā,
sampavedhanti vātena sakiṃ pītāva māṇavā.
|
6488. Các loại cây
dhava, cây long thọ, cây nhục
quế, cây sāla, các giống dây
leo run rẩy, đung đưa theo làn gió, tựa như những chàng trai trẻ
lảo đảo một khi đã uống say. |
|
6489. Upari dumapariyāyesu saṃgītiyova
sūyare,
najjuhā kokilasaṅghā sampatanti dumā dumaṃ.
|
6489. Ở phía trên những hàng cây, tựa như
có những cuộc hòa nhạc được nghe tiếng. Các con chim
najjuha, các bầy chim cu cu
(líu lo) bay nhảy từ cây này sang cây khác. |
|
6490. Avhayanteva gacchantaṃ
sākhāpattasameritā,
ramayanteva āgantuṃ modayanti nivāsinaṃ,
yattha vessantaro rājā saha puttehi sammati.
|
6490. Các chiếc lá của những cành cây được
lay động tựa như mời gọi người đang đi đến, tựa như làm cho
khách đi đến được vui thích, khiến người trú ngụ được hài lòng;
nơi ấy đức vua Vessantara cư ngụ cùng với hai con. |
|
Trang 418:
|
Trang 419:
|
6491. Dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadañca
masaṃ jaṭaṃ,
cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.
|
6491. Vị ấy đang khoác lên bộ dạng
Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y
phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa. |
|
6492. Karerimālā vitatā bhūmibhāge
manorame,
saddalāharitā bhūmi na tatthuddhaṃsate rajo.
|
6492. Những chùm hoa
kareri lan rộng ở vùng đất làm
cho thích ý. Mặt đất xanh tươi màu cỏ mới; tại nơi ấy không có
bụi bặm bốc lên. |
410. Tàn cây tiêu nọ, thấy không,
Ở trên mảnh đất tiên thần khác đâu,
Bụi không hề thổi lên cao,
Cỏ kia xanh mãi chẳng bao giờ tàn. |
6493. Mayūragīvasaṅkāsā
tūlaphassasamūpamā,
tiṇāni nātivattanti samantā caturaṅgulā.
|
6493. Các cọng cỏ (có màu sắc) giống như
cái cổ của loài chim công, (mềm mại) tương tự như sự xúc chạm
với bông gòn, và không vươn lên quá bốn ngón tay ở xung quanh. |
411. Cỏ xanh tựa cổ chim công,
Sờ vào êm dịu nhu bông khác nào,
Mọc không quá bốn tấc cao,
Lúc nào cũng vậy, không bao giờ nhiều. |
6494. Ambā jambū kapitthā ca nīce pakkā
udumbarā,
paribhogehi rukkhehi vanaṃ taṃ rativaḍḍhanaṃ.
|
6494. Các trái xoài, mận đỏ, táo rừng, và
các trái sung chín muồi ở chỗ thấp bên dưới. Với các giống cây
sản xuất ra hoa quả, khu rừng ấy là nơi làm tăng trưởng niềm
thích thú. |
412. Ka-pi, xoài, mận hồng đào,
Chùm sung lủng lẳng không cao, chín muồi,
Mọi cây có quả tốt tươi,
Mọc lên trong cánh rừng đồi xinh sao. |
6495. Veḷuriyavaṇṇūpanibhaṃ
macchagumbanisevitaṃ,
suciṃ sugandhaṃ salilaṃ āpo tatthapi sandati.
|
6495. Ở tại nơi ấy, cũng có dòng nước trôi
chảy với nước trong sạch, có mùi thơm, tương tự màu sắc của ngọc
bích, được lai vãng bởi những đàn cá. |
413. Trong veo dòng suối ngọt ngào
Xanh như ngọc bích rì rào chảy ngang,
Tung tăng cá lội từng đàn,
Vui đùa lên xuống khe ngàn lượn quanh. |
6496. Tassāvidūre pokkharaṇī bhūmibhāge
manorame,
padumuppalasañchannā devānamiva nandane.
|
6496. Không xa khu rừng ấy, ở vùng đất làm
cho thích ý, có một cái hồ được che phủ bởi các giống sen hồng
và sen xanh, tựa như (hồ nước Nandā) ở khu vườn Nandana của chư
Thiên. |
414. Hồ nằm trong cảnh hữu tình
Với bao sen trắng sen xanh kế gần,
Khác nào ở chốn thiên cung,
Trong vườn Hoan lạc trên tầng trời xa. |
6497. Tīṇi uppalajātāni tasmiṃ sarasi
brāhmaṇa,
vicitra nīlānekāni setā lohitakāni ca.
|
6497. Thưa vị Bà-la-môn, ở trong hồ nước
ấy có ba giống hoa sen với nhiều màu sắc: một số màu xanh, một
số màu trắng, và một số màu đỏ. |
415. Có ba chủng loại liên hoa
Trong hồ khoe sắc cho ta thấy nào,
Sắc màu thay đổi biết bao
Xanh lơ, đỏ sẫm, trắng sao trắng ngần. |
6498. Khomā ca tattha padumā
setasogandhikehi ca,
kalambakehi sañchanno mucalindo nāma so saro.
|
6498. Các hoa sen ở tại nơi ấy tựa như vải
sợi len. Hồ nước ấy có tên là Mucalinda, được che phủ bởi các
loài sen trắng, súng trắng, và cây
kalamba. |
416. Hoa kia êm dịu như bông,
Hoa sen xanh thẫm, trắng ngần đua chen,
Nhiều cây cỏ khác mọc lên,
Mu-ca-lin chính là tên của hồ. |
6499. Athettha padumā phullā apariyantāva
dissare,
gimhā hemantikā phullā jaṇṇutagghā upattharā.
|
6499. Rồi ở nơi này, các hoa sen nở rộ
được nhìn thấy như là vô số kể. Chúng nở rộ vào mùa nóng, vào
mùa lạnh; chúng vươn cao đến đầu gối, và che lấp phần ở bên
dưới. |
417. Ông nhìn hoa nở thật to,
Nơi kia vô số chen đua lục hồng,
Mùa hè hay dẫu mùa đông
Ðều cao đến tận gối ông đây này. |
6500. Surabhī sampavāyanti vicittā
pupphasanthatā,
bhamarā pupphagandhena samantāmabhināditā.
|
6500. Có những hương thơm tỏa ra bao trùm
các bông hoa nhiều màu sắc. Các con ong kêu vo ve ở khắp các nơi
bởi mùi thơm của các bông hoa. |
418. Hoa nhiều màu sắc đẹp thay
Theo làn gió nhẹ hương bay dịu dàng,
Rồi ông nghe tiếng rộn ràng
Của bầy ong đến theo làn hương đưa. |
6501. Athettha udakantasmiṃ rukkhā
tiṭṭhanti brāhmaṇa,
kadambā pāṭalī phullā kovilārā ca pupphitā.
|
6501. Rồi ở nơi này, thưa vị Bà-la-môn, có
những giống cây sống ở trong nước. Các cây
kadamba, các cây
pāṭalī nở rộ, và các cây
kovilāra đã được trổ hoa. |
419. Chung quanh bến nước bờ hồ
Ðứng thành một dãy lô xô tiếp liền,
Kìa cây gụ, nọ hoa kèn,
Ka-dam-ba ngất nghểu lên cao hoài. |
6502. Aṅkolā kaccikārā ca pārijaññā ca
pupphitā,
vāraṇasāyanā rukkhā mucalindamabhito saraṃ.
|
6502. Các cây
aṅkola, các cây kaccikāra,
và các cây pārijañña đã được
trổ hoa. Có những cây vāraṇa
và sāyana ở hai bên bờ hồ
Mucalinda. |
|
6503. Sirīsā setapārīsā sādhu vāyanti
padmakā,
nigguṇḍī sirinigguṇḍī asanā cettha pupphitā.
|
6503. Các cây keo, các cây
setapārīsa, các cây
padmaka tỏa ra làn gió tốt
lành. Các cây nigguṇḍī, các
cây sirinigguṇḍī, và các cây
asana ở nơi ấy được đã được
trổ hoa. |
|
Trang 420:
|
Trang 421:
|
6504. Paṃgurā vakulā sālā sobhañjanā ca
pupphitā,
ketakā kaṇikārā ca kaṇaverā ca pupphitā.
|
6504. Các cây
paṃgura, các cây vakula,
các cây sāla, và các cây
sobhañjana đã được trổ hoa.
Các cây ketaka, các cây
kaṇikāra, và các cây
kaṇavera đã được trổ hoa. |
|
6505. Ajjunā ajjukaṇṇā ca mahānāmā ca
pupphitā,
sampupphitaggā tiṭṭhanti pajjalanteva kiṃsukā.
|
6505. Các cây
ajjuna, các cây ajjukaṇṇa,
và các cây mahānāma đã được
trổ hoa. Các cây kiṃsuka đứng
thẳng, với các ngọn đã được trổ hoa trọn vẹn, tựa như đang cháy
sáng. |
|
6506. Setapaṇṇī sattapaṇṇā kadaliyo
kusumbharā,
dhanutakkārī pupphehi siṃsapāvaraṇehi ca.
|
6506. Các cây
setapaṇṇi, các cây thất diệp, các cây chuối, các cây
kusumbhara, các cây
dhanu, các cây
takkārī, cùng với các cây
siṃsapā và các cây
varaṇa có các bông hoa. |
420. Loài hoa sáu cánh khoe tươi,
Nhiều cây hoa khác cùng cười rộ ra;
Lùm cây rậm rạp quanh hồ
Thảy đều đứng lặng để cho ta nhìn. |
6507. Acchivā sabalā rukkhā sallakiyo ca
pupphitā,
setagerū ca tagarā maṃsikuṭṭhā kulāvarā.
|
6507. Các cây
acchiva, các cây sabala,
các cây sallakī, các cây
setageru, các cây
tagara, các cây
maṃsi, các cây
kuṭṭha, và các cây kulāvara
đã được trổ hoa. |
421. Cây kia đủ mọi dáng hình,
Hoa kia đua nở đẹp xinh đủ màu,
Các lùm cây rậm biết bao
Chen nhau cao thấp đón chào mắt ta. |
6508. Daharā ca rukkhā vuddhā ca akuṭilā
cettha pupphitā,
assamaṃ ubhato ṭhanti agyāgāraṃ samantato.
|
6508. Các cây mới lớn và các cổ thụ ở nơi
này không bị cong queo, đã trổ hoa, mọc ở cả hai bên của khu ẩn
cư, xung quanh ngôi nhà thờ lửa. |
422. Từng làn gió nhẹ hương đưa
Từ rừng hoa trắng, xanh lơ, đỏ hường,
Mọc lên quanh chốn thảo đường,
Nơi kia ngọn lửa được ươm nóng bừng. |
6509. Athettha udakantasmiṃ bahujāto
phajjaṇiko,
muggatiyo karatiyo sevālasiṃsakaṃ bahū.
|
6509. Rồi ở nơi này, các cây
phajjaṇika được sanh trưởng
nhiều ở trong nước, có các loại cây họ đậu như
muggati và
karati, có nhiều rong rêu và
loài thủy thảo siṃsaka. |
423. Chung quanh bờ nước kế gần
Nhiều cây cỏ mọc quây quần thiết thân, |
6510. Uddāpavantaṃ ulluḷitaṃ makkhikā
hiṃgujālakā,
dāsīmakacako cettha bahū nīcekalambakā.
|
6510. Nước hồ được bao bọc bởi các bờ đất
và bị xao động bởi gió. Có các loài ong tên gọi là
hiṃgujāla. Và ở nơi này, có
các cây dāsīma và các cây
kacaka, có nhiều cây
kalamba nhỏ thấp. |
Cỏ cây vẫn cứ rung rung
Trong khi vang vọng tiếng ong thầm thì. |
6511. Eḷambarakasañchannā rukkhā tiṭṭhanti
brāhmaṇa,
sattāhaṃ dhāriyamānānaṃ gandho tesaṃ na chijjati.
|
6511. Thưa vị Bà-la-môn, các cây còn sống
được bao phủ bởi giống dây leo
eḷambaraka; hương thơm của chúng được lưu lại bảy ngày.
|
|
6512. Ubhato saraṃ mucalindaṃ pupphā
tiṭṭhanti sobhanā,
indīvarehi sañchannaṃ vanaṃ taṃ upasobhitaṃ,
aḍḍhamāsaṃ dhāriyamānānaṃ gandho tesaṃ na chijjati.
|
6512. Các bông hoa xinh đẹp tồn tại ở hai
bên hồ Mucalinda. Được bao phủ bởi các loài hoa súng xanh, khu
rừng ấy trở nên rạng rỡ; hương thơm của chúng được lưu lại nửa
tháng. |
424. Mùi hương của vạn hoa kia
Mọc lên khắp chốn bờ khe, suối, hồ
Luyến lưu bên bạn lâu xa
Nếu như bạn giữ hai ba tuần liền. |
6513. Nīlapupphī setavārī pupphitā
girikaṇṇikā,
kaṭerukehi sañchannaṃ vanaṃ taṃ tulasīhi ca.
|
6513. Các loài dây leo
nīlapupphī,
setavārī,
girikaṇṇikā đã được trổ hoa,
Khu rừng ấy được bao phủ bởi các cây
kaṭeruka và các bụi cây tulasī. |
|
6514. Saddammateva gandhena pupphasākhāhi
taṃ vanaṃ,
bhamarā pupphagandhena samantāmabhināditā.
|
6514. Khu rừng ấy dường như làm cho con
người say đắm với hương thơm, với những cành hoa. Các con ong
kêu vo ve ở khắp các nơi bởi mùi thơm của các bông hoa. |
|
Trang 422:
|
Trang 423:
|
6515. Tīṇikakkārujātāni tasmiṃ sarasi
brāhmaṇa,
kumbhamattāni cekāni murajamattāni tā ubho.
|
6515. Thưa vị Bà-la-môn, có ba loại dây bí
đã mọc lên ở cái hồ nước ấy. Và một số có trái lớn bằng chậu
nước, hai loại kia có trái lớn bằng cái trống con. |
425. Ba loài bầu, bí hiển nhiên
Mọc lên giữa hồ sen thế này,
Quả bằng bình nước trong tay,
Quả kia thật lớn sánh tày trống canh. |
6516. Athettha sāsapo bahuko nādiyo
haritāyuto,
asī tālāva tiṭṭhanti chejjā indīvarā bahū.
|
6516. Rồi ở nơi này, có nhiều cây cải, cây
tỏi màu xanh, cây asī tựa như
cây thốt nốt sinh trưởng; có nhiều hoa súng xanh có thể ngắt
(bằng tay). |
426. Tỏi, hành, hạt cải, súng xanh
Muôn hoa nở rộ trên cành dễ thương.
Hoa lài, ngào ngạt trầm hương,
Cát đằng rậm rạp vấn vương cây hoài. |
6517. Apphoṭā suriyavallī ca kāḷiyā
madhugandhiyā,
asokā mudayantī ca vallibho khuddapupphiyo.
|
6517. (Có các loài dây leo như) cây
apphoṭā, cây
suriyavallī, cây
kāḷiyā, cây
madhugandhiya, cây
asoka, cây
mudayantī, cây
vallibha, và cây
khuddapupphiya. |
|
6518. Koraṇḍakā anojā ca pupphitā
nāgavallikā,
rukkhamāruyha tiṭṭhanti phullā kiṃsukavalliyo.
|
6518. Các bụi cây
koraṇḍaka, cây
anojā, các loài dây leo
nāgā và
vallikā đã được trổ hoa. Các
loài dây leo kiṃsuka đã leo
lên thân cây rồi sinh trưởng, và nở rộ hoa. |
|
6519. Kaṭeruhā ca vāsantī yūthikā
madhugandhiyo,
nīliyā sumanā bhaṇḍī sobhati padumuttaro.
|
6519. Các cây
kaṭeruha, cây vāsantī,
cây yūthikā, cây
madhugandhiya, cây
nīliyā, cây hoa nhài trâu, cây
bhaṇḍī, cây
padumuttara rạng ngời rực rỡ.
|
|
6520. Pāṭalī samuddakappāsi kaṇikārā ca
pupphitā,
hemajālāva dissanti rucirā aggisikhūpamā.
|
6520. Các cây hoa kèn, cây
samuddakappāsi, và cây
kaṇikārā đã trổ hoa, được nhìn
thấy tựa như tấm lưới bằng vàng, sáng lấp lánh tương tự ngọn
lửa. |
427. Ngọt ngào thay khóm hoa lài,
Cây chàm, bông vải, nhiều loài hữu danh,
Hoa kèn, rau diếp mọc quanh
Khác nào ngọn lửa vàng hanh nắng trời. |
6521. Yāni kāni ca pupphāni
thalajānudakāni ca,
sabbāni tattha dissanti evaṃ rammo mahodadhi.
|
6521. Bất cứ những loài hoa nào đã sinh
trưởng ở đất liền và ở trong nước, tất cả đều được nhìn thấy ở
tại nơi ấy; hồ Mucalinda chứa đựng khối nước lớn đáng yêu như
vậy. |
428. Thưa vâng, mỗi loại hoa tươi
Mọc ra trong nước hay trồi đất lên
Chung quanh hồ nước thần tiên
Hãy nhìn chúng sống đua chen quây quần. |
6522. Athassā pokkharaṇiyā pahūtā
vārigocarā,
rohitā naḷapī siṅgū kumbhilā makarā susū.
|
6522. Rồi hồ nước này có nhiều loài thủy
tộc, như là cá rohita, cá
naḷapī, cá
siṅgu, cá sấu, cá kiếm, và cá
susu. |
429. Nơi kia bầy sấu vẫy vùng,
Mọi loài thủy tộc ẩn thân chốn này.
Những đàn hươu đỏ thường ngày
Cùng nhiều thú khác tìm đây nước nguồn. |
6523. Madhū ca madhulaṭṭhī ca tālīsā ca
piyaṅgukā,
unnakā bhaddamuttā ca satapupphā ca lolupā.
|
6523. Mật ong, cây cam thảo, và cây
tālīsa, cây
piyaṅguka, cây
unnaka, cây
bhaddamutta, cây
satapuppha, và cây
lolupa. |
|
6524. Surabhī ca rukkhā tagarā pahūtā
tuṅgavaṇṭakā,
padmakā naradā kuṭṭhā jhāmakā ca hareṇukā.
|
6524. Và các loại cây có mùi thơm là vô số
như cây tagara, cây
tuṅgavaṇṭaka, cây
padmaka, cây
narada, cây
kuṭṭha, cây
jhāmaka, và cây
hareṇukā. |
|
6525. Haliddakā gandhasilā hiriverā ca
guggulā,
vibhedikā corakā kuṭṭhā kappurā ca kaliṅgu ca.
|
6525. Các cây nghệ, các loại đá thơm, và
các cây hirivera, cây
guggula, cây
vibhedikā, cây
coraka, cây
kuṭṭha, cây long não, cây
kaliṅgu. |
430. Nghệ vàng, long não, cỏ hương,
Hạt thơm, cam thảo thân vươn cao ngồng. |
6526. Athettha sīhavyagghā ca purisālū ca
hatthiyo,
eṇeyyā pasadā ceva rohiccā sarabhā migā.
|
6526. Rồi ở nơi này, có các con sư tử, các
con cọp, các nữ Dạ-xoa mặt lừa, các con voi, các con sơn dương,
các con hoẵng, và có cả các con hươu, các con nai rừng. |
431. Nơi kia sư tử, voi rừng,
Cọp vằn tìm kiếm bạn lòng dấu yêu,
Từng bầy hươu đỏ, hươu sao,
Chó hoang, nai hoẵng dáng cao lẹ làng. |
Trang 424:
|
Trang 425:
|
6527. Koṭṭhusuṇā sulopī ca tuliyā
naḷasannibhā,
camarī calanī laṅghī jhāpitā makkaṭā picu.
|
6527. Hai loài chó: chó
koṭṭhu và chó
suṇa, các con nai nhỏ, chồn
bay, sóc, bò mộng, hai loài nai: nai
calanī và nai laṅghī,
ba loài khỉ: khỉ jhāpitā, khỉ
makkaṭā, và khỉ
picu. |
432. Chồn bay, trâu yak, linh dương,
Những bầy lớn nhỏ khỉ rừng lao xao,
Gấu, bò, mãnh thú biết bao,
Từng đàn dồn dập đi vào dọc ngang. |
6528. Kakkaṭā katamāyā ca ikkā goṇasirā
bahū,
khaggā varāhā nakulā kāḷakettha bahūtaso.
|
6528. Hai loài nai lớn: nai
kakkaṭa và nai
katamāya, gấu, trâu rừng là có
nhiều, tê ngưu, heo rừng, cáo, và sóc đen là vô số ở nơi này. |
|
6529. Mahisā soṇā sigālā ca pampakā ca
samantato,
ākuccā pacalākā ca citrakā cāpi dīpiyo.
|
6529. Các con trâu rừng, chó nhà, chó
rừng, và các con vượn ở khắp nơi; các con kỷ đà, tắc kè, nai
đốm, và cả các con báo. |
433. Tê ngưu, sóc nhỏ, chuột hoang,
Chó săn, trâu nước, giả-can, heo rừng,
Tắc kè, beo gấm, sói lang,
Thỏ rừng, chồn nhỏ từng đàn ra vô. |
6530. Pelakā ca vighāsādā sīhā
kokanisātakā,
aṭṭhapādā ca morā ca bhassarā ca kukutthakā.
|
6530. Các con thỏ rừng, diều hâu, sư tử,
chim quạ, gà lôi, nai, chim công, thiên nga trắng, và chim trĩ.
|
|
6531. Caṅkorā kukkuṭā nāgā aññamaññaṃ
pakūjino,
bakā balākā najjuhā dindibhā kuñjavādikā.
|
6531. Các con gà gô, gà rừng, các con voi
cất tiếng hót đối đáp qua lại; có các chim cò, chim diệc, gà
nước, chim le le, chim kuñja,
và chim vādika. |
|
6532. Vyagghīnasā lohapiṭṭhā pampakā
jīvajīvakā,
kapiñjarā tittirāyo kulāvā paṭikuttakā.
|
6532. Các chim ưng, chim diều hâu đỏ, chim
pampaka, chim
jīvajīvaka, chim
kapiñjara, chim đa đa, chim
kulāva, và chim
paṭikuttaka. |
|
6533. Maddālakā celakedu
bhaṇḍutittiranāmakā,
celābakā piṅgulāyo godhakā aṅgahetukā.
|
6533. Các con chim
maddālaka, chim
celakedu, chim
bhaṇḍu, và chim tên đa đa,
chim celābaka, chim
piṅgulā, chim
godhaka, và chim
aṅgahetuka. |
434. Ðủ loài rắn, nhện giăng tơ,
Ðủ loài chim chóc líu lo trên cành,
Tạo nên đủ loại âm thanh
Trong khi chiêm chiếp lượn quanh lòng vòng. |
6534. Karaviyā ca vaggā ca uhuṅkārā ca
kukkuhā,
nānādijagaṇākiṇṇaṃ nānāsaranikujjitaṃ.
|
6534. Các con chim
karaviya, chim
vagga, chim cú mèo, chim ưng
biển. (Khu rừng) được đông đúc với những bầy chim khác loại, líu
lo với nhiều giọng hót khác nhau. |
|
6535. Athettha sakuṇā santi nīlakā
mañjubhāṇakā,
modanti sabha bhariyāhi aññamaññaṃ pakūjino.
|
6535. Rồi ở nơi này, có những con chim màu
lục sẫm có tiếng hót du dương; chúng vui đùa với những con chim
mái, cất tiếng hót đối đáp qua lại. |
|
6536. Athettha sakuṇā santi dijā
mañjussarā sitā,
setacchakūṭā bhadrakkhā aṇḍajā citrapekkhuṇā.
|
6536. Rồi ở nơi này, có những con chim là
loài lưỡng sanh có âm giọng du dương đều đều, có cặp mắt đẹp với
đuôi mắt màu trắng, có chùm lông đuôi nhiều màu sắc. |
|
6537. Athettha sakuṇā santi dijā
mañjussarā sitā,
sikhaṇḍinīlagīvāhi aññamaññaṃ pakūjino.
|
6537. Rồi ở nơi này, có những con chim là
loài lưỡng sanh có âm giọng du dương đều đều, là những con chim
công với những cái cổ màu lục, cất tiếng hót đối đáp qua lại. |
|
6538. Kukutthakā kulīrakā koṭṭhā
pokkharasātakā,
kāḷāmeyyā balīyakkhā kadambā suvasāḷikā.
|
6538. Các con chim trĩ, chim
kulīraka, chim gõ kiến, chim
pokkharasātaka, chim
kāḷāmeyya, chim
balīyakkha, chim
kadamba, chim két, và chim
sāḷika. |
|
Trang 426:
|
Trang 427:
|
6539. Haliddā lohitā setā athettha naḷakā
bahū,
vāraṇā hiṅgurājā ca kadambā sucikokilā.
|
6539. Rồi ở nơi này, các con chim
naḷaka màu vàng nghệ, màu đỏ,
màu trắng là có nhiều, chim vāraṇa,
chim hiṅgurāja, chim
kadamba, chim két, và chim cu
cu. |
|
6540. Ukkusā kurarā haṃsā āṭā
parivadantikā,
pākahaṃsā atibalā najjuhā jīvajīvakā.
|
6540. Các con chim ưng, chim ó biển, chim
thiên nga, chim bồ nông, chim
parivadantika, chim pākahaṃsa
vô cùng mạnh mẽ, chim najjuha,
và chim jīvajīvaka. |
435. Diều hâu, cú, diệc, gà rừng,
Sơn ca với tiếng du dương đồng hòa,
Trĩ, ưng, công với thiên nga,
Hạc, chim lưng đỏ hòa ca bạn tình. |
6541. Pārevaṭā ravihaṃsā cakkavākā
nadīcarā,
vāraṇābhirudā rammā ubho kālūpakūjino.
|
6541. Các con chim bố câu, chim
ravihaṃsa, chim hồng hạc, chim
nadīcara, chim
vāraṇa với tiếng kêu đáng yêu,
cất lên tiếng hót vào cả hai thời điểm (ban ngày và ban đêm). |
|
6542. Athettha sakuṇā santi nānāvaṇṇā bahū
dijā,
modanti saha bhariyāhi aññamaññaṃ pakūjino.
|
6542. Rồi ở nơi này, có nhiều con chim là
các loài lưỡng sanh với nhiều màu sắc khác nhau; chúng vui đùa
cùng những con chim mái, cất tiếng hót đối đáp qua lại. |
436. Nơi kia dịu ngọt âm thanh
Sắc màu rực rỡ dáng hình chim muông:
Cổ xanh, mào trắng, lục hồng
Như công, vỗ cánh phập phồng bay lên. |
6543. Athettha sakuṇā santi nānāvaṇṇā bahū
dijā,
sabbe mañjūni kūjanti mucalindamabhito saraṃ.
|
6543. Rồi ở nơi này, có nhiều con chim là
các loài lưỡng sanh với nhiều màu sắc khác nhau, tất cả bọn
chúng hót lên những điệu nhạc du dương ở hai bên bờ hồ
Mucalinda. |
437. Sao ta cố kể ngàn tên
Ðủ từng chi tiết chẳng quên thế này?
Hãy suy đủ loại chim bay,
Và đem chúng lại thêm đầy thơ ta. |
6544. Athettha sakuṇā santi karavīyā nāma
te dijā,
modanti sabha bhariyāhi aññamaññaṃ pakūjino.
|
6544. Rồi ở nơi này, có những con chim là
loài lưỡng sanh tên gọi karaviya;
chúng vui đùa cùng những con chim mái, cất tiếng hót đối đáp qua
lại. |
|
6545. Athettha sakuṇā santi karavīyā nāma
te dijā,
sabbe mañjūni kūjanti mucalindamabhito saraṃ.
|
6545. Rồi ở nơi này, có những con chim là
loài lưỡng sanh tên gọi karaviya;
tất cả bọn chúng hót lên những điệu nhạc du dương ở hai bên bờ
hồ Mucalinda. |
438. Cả đàn chim chóc đồng hòa
Du dương ngàn khúc hoan ca tưng bừng,
Ngập tràn đầy giữa khoảng không
Hồ Mu-ca với tiếng ồn vui tai... |
6546. Eṇeyyapasadākiṇṇaṃ nāgasaṃsevitaṃ
vanaṃ,
nānālatāhi sañchannaṃ kadalīmigasevitaṃ.
|
6546. Khu rừng đông đúc với các con sơn
dương, các con hoẵng, được tới lui bởi các con voi, được che phủ
bởi những loài dây leo khác nhau, được lai vãng bởi các con nai
kadali. |
439. Khu rừng có đủ loài voi,
Linh dương, các loại hươu nai thiếu gì.
Lòng thòng từ các cây kia
Cát đằng to lớn từng bè quấn ngang. |
6547. Athettha sāsapo bahuko nīvāro varako
bahu,
sālī akaṭṭhapāko ca ucchu tattha anappako.
|
6547. Rồi ở nơi này, có nhiều cây cải,
nhiều lúa mọc hoang và đậu varaka,
lúa sāli đơm hạt không phải
cày bừa và cây mía ở nơi ấy không phải là ít. |
440. Nơi kia hạt cải, mía đường,
Nhiều loài thóc gạo mọc vươn cao dày.
Ðậu, mè, dược thảo quý thay
Sẵn sàng cung cấp đủ đầy khách thăm. |
6548. Ayaṃ ekapadī eti ujuṃ gacchati
assamaṃ,
khudaṃ pipāsaṃ aratiṃ tattha patto na vindati,
yattha vessantaro rājā saha puttehi sammati.
|
6548. Lối đi bộ này đi đến, đi thẳng đến
khu ẩn cư. Người đã đạt đến nơi ấy không tìm thấy sự đói, sự
khát, và sự bất mãn, là nơi đức vua Vessantara cư ngụ cùng với
hai con. |
441-442. Ðằng kia có lối đường mòn
Ðưa ông đến chốn ẩn thân của ngài.
Nơi kia đói khát không ai,
Cũng không hề thấy mảy may chán chường.
Nơi kia cùng với các con.
Ves-san-ta bậc Ðại vương lánh trần. |
6549. Dhārento brāhmaṇaṃ vaṇṇaṃ āsadañca
masaṃ jaṭaṃ,
cammavāsī chamā seti jātavedaṃ namassati.
|
6549. Vị ấy đang khoác vào bộ dạng
Bà-la-môn, mang móc câu và muỗng tế thần lửa, tóc bện, mặc y
phục da thú, nằm trên đất, tôn thờ thần lửa.” |
443. Với y của bậc La-môn,
Bát, thìa, tóc bện, đạo nhân khác nào.
Khoác thêm một tấm da vào,
Ngài nằm trên đất, châm cao lửa hồng. |
6550. Idaṃ sutvā brahmabandhu isiṃ katvā
padakkhiṇaṃ,
udaggacitto pakkāmi yattha vesasantaro ahu.
|
6550. Nghe được điều này, lão Bà-la-môn đã
đi nhiễu quanh vị ẩn sĩ, rồi với tâm phấn khởi, đã khởi hành đi
đến nơi vị Vessantara đang ở. |
444. Việc này khi đã nghe xong,
Quanh ngài bên phải, lão vòng bước ra,
Ði tìm vua Ves-san-ta
Tâm hồn rộn rã chan hòa niềm vui.
Câu chuyện
547 |
Mahāvanavaṇṇanā niṭṭhitā.
|
Phần Mô Tả Khu Rừng Lớn
được hoàn tất. |
<Trang trước> |
<Trang Kế> |