|
TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 42
PHẬT SỬ
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda (Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader) |
|||
|
TẠNG KINH - TIỂU BỘPHẬT SỬ
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!
Chương Con Đường Kinh Hành Bằng Châu Báu
1. Khi ấy, vị Phạm Thiên Sahampati chúa tể của thế gian đă chắp tay thỉnh cầu đức Phật rằng: “Ở đây có những chúng sanh có bản chất ít bị ô nhiễm,[1] xin Ngài hăy v́ ḷng bi mẫn thuyết giảng Giáo Pháp đến hạng chúng sanh này.
2. Ngài là vị đă thành tựu toàn vẹn trí tuệ và đức hạnh (Minh Hạnh Túc) như thế ấy, là đấng Quang Minh có thân mạng cuối cùng, là đức Như Lai không người sánh kịp; ḷng bi mẫn đối với tất cả chúng sanh đă sanh khởi đến Ngài.”
3. (Đức Phật đă quán rằng:) “Bởi v́ chư thiên và đám người này không biết được đức Phật đấng Tối Thượng Nhân này là như thế nào, (không biết được) năng lực của thần thông và năng lực của trí tuệ là như thế nào, (không biết được) Phật lực của đấng tế độ chúng sanh là như thế nào.
4. Bởi v́ chư thiên và đám người này không biết được đức Phật đấng Tối Thượng Nhân này là như thế nầy, (không biết được) năng lực của thần thông và năng lực của trí tuệ là như thế nầy, (không biết được) Phật lực của đấng tế độ chúng sanh là như thế nầy.
5. Như vậy, ta sẽ thị hiện Phật lực tối thượng. Ta sẽ làm hiện ra con đường kinh hành được trang hoàng bằng châu báu ở trên không trung.”[2]
6. Chư thiên thuộc địa cầu, thuộc cơi Tứ Đại Thiên Vương, thuộc cơi Đạo Lợi, thuộc cơi Dạ Ma, thuộc cơi Đẩu Suất, thuộc cơi Hóa Lạc Thiên, thuộc cơi Tha Hóa Tự Tại, luôn cả đoàn tùy tùng của đấng Brahma nữa cũng hoan hỷ và đă tạo nên tiếng ḥ reo vang dội.
7. Khi ấy, sau khi chứng kiến điều kỳ diệu phi thường, quả địa cầu cùng với các cơi trời đă được chiếu sáng, các khoảng không gian bao la ở giữa các cơi thế giới không c̣n bị bao trùm, và bóng tối đen dầy đặc đă bị tiêu tan.
8. Ánh sáng chói lọi rực rỡ đă hiện ra bên dưới, bên trên, chiều ngang, và chiều dọc ở giữa các hạng thiên nhân, càn-thát-bà, nhân loại, và quỷ sứ ở cả hai nơi: ở thế gian này và ở thế giới khác.
9. Được chư thiên và nhân loại cúng dường, bậc Đạo Sư, đấng Tối Thượng của chúng sanh, nhà Lănh Đạo không ai vượt trội, vị có đại oai lực, có trăm tướng mạo về phước báu đă thị hiện điều kỳ diệu phi thường.
10. Khi được thỉnh cầu bởi vị thiên nhân cao quư, bậc Hữu Nhăn ấy, đấng Tối Thượng Nhân, vị Lănh Đạo Thế Gian, sau khi quán xét về điều lợi ích đă làm hiện ra con đường kinh hành được hoàn thành khéo léo và được thực hiện bằng tất cả các loại châu báu.
11. Đức Thế Tôn đă thuần thục về ba điều kỳ diệu là: thần thông, tài thuyết giảng, và sự giáo hóa. Đấng Lănh Đạo Thế Gian đă làm hiện ra con đường kinh hành được hoàn thành khéo léo và đă được thực hiện bằng tất cả các loại châu báu.
12. Ở tại mười ngàn thế giới, Ngài đă thị hiện theo tuần tự những con đường kinh hành làm bằng châu báu giống như các cột trụ ở ngọn núi Sineru tối thắng.
13. Sau khi vượt qua mười ngàn thế giới, đấng Chiến Thắng đă tạo ra con đường kinh hành làm toàn bằng vàng ở bên cạnh con đường kinh hành làm bằng châu báu.
14. Cả hai con đường đều tương đương, được lót nền bằng vàng miếng. Các lan can đều toàn bằng vàng đă được thực hiện ở cả hai bên.
15. Được thực hiện bằng các loại châu báu, được rải rắc lớp cát là ngọc ma-ni và ngọc trai, con đường chiếu sáng khắp cả các phương giống như ánh mặt trời đă mọc lên.
16. Trong việc đi kinh hành ấy, bậc Toàn Giác, đấng Chiến Thắng sáng suốt rực rỡ với ba mươi hai tướng trạng cao quư, đă đi kinh hành ở con đường kinh hành.
17. Tất cả chư thiên đă tụ hội lại rải rắc xuống bông hoa Mạn-đà-la, hoa sen, hoa san hô thuộc cơi trời (tán thán) về việc đi kinh hành (của đức Phật).
18. Hội chúng chư thiên thuộc mười ngàn thế giới đă hoan hỷ chiêm ngưỡng đức Phật. Trong lúc kính lễ, họ hớn hở, mừng rỡ, vui sướng, quỳ mọp người xuống.
19. Chư thiên ở cơi Đạo Lợi, cơi Dạ Ma, luôn cả cơi Đẩu Suất, chư thiên ở cơi Hóa Lạc Thiên và chư thiên ở cơi Tha Hóa Tự Tại chiêm ngưỡng vị Lănh Đạo Thế Gian với tâm phấn khởi hân hoan.
20. Cùng với chư thiên, các hạng Càn-thát-bà, nhân loại, quỷ sứ, các loài rồng, thiên điểu, luôn cả loài Kim-sỉ-điểu,[3] nh́n thấy đấng tế độ chúng sanh có ḷng bi mẫn ấy giống như mặt trăng tṛn đă mọc lên ở ngay trên bầu trời.
21. Chư thiên ở các cơi Quang Âm Thiên, Biến Tịnh Thiên, Quảng Quả Thiên, và Vô Tưởng Thiên với trang phục bằng vải vóc vô cùng tinh khiết thanh bạch đứng chắp tay.
22. Hơn nữa, các vị c̣n rắc xuống bông hoa Mạn-đà-la năm màu được trộn lẫn với bột phấn gỗ đàn hương và vung vẫy các tấm vải ở trên không trung (ca ngợi rằng): “Ôi Đấng Chiến Thắng, bậc có ḷng bi mẫn tế độ chúng sanh.
23. Ngài là vị thầy, là ngọn cờ, là biểu hiện, là trụ cột của chúng sanh, là nơi chốn nâng đỡ, là ngọn đèn (là ḥn đảo),[4] là bậc tối thượng của loài hai chân.”
24. (Với vẻ) hớn hở, mừng rỡ, vui sướng, chư thiên có đại thần lực thuộc mười ngàn thế giới vây quanh lại tỏ sự tôn kính.
25. Với tâm tư hớn hở tín thành, các thiên nhân và các tiên nữ cúng dường những bông hoa ngũ sắc đến bậc Nhân Ngưu.
26. (Được) tín thành, có tâm tư hớn hở, hội chúng chư thiên chiêm ngưỡng vị ấy và cúng dường những bông hoa ngũ sắc đến bậc Nhân Ngưu (tán thán rằng):
27. “Ôi thật là điều kỳ diệu, phi thường, khiến lông dựng đứng ở trên thế gian! Điều kỳ diệu khiến lông dựng đứng giống như việc này trước đây chưa từng xảy ra!”
28. Sau khi nh́n thấy điều kỳ diệu ở trên bầu trời, các thiên nhân ấy đă ngồi xuống ở cung điện của chính mỗi một vị và nở nụ cười vang vang.
29. Các vị ngự ở không trung và ngự ở trên đất liền, các vị ngự ở các ngọn cỏ và đường đi chắp tay lên nghiêng ḿnh kính lễ (với vẻ) hớn hở, mừng rỡ, vui sướng.
30. Ngay cả các loài rồng trường thọ có phước báu và đại thần lực cũng vui sướng lễ bái và cúng dường đến bậc Tối Thượng Nhân.
31. Sau khi nh́n thấy điều kỳ diệu ở trên bầu trời, các vị xướng lên những bài đồng ca ở khoảng không gian trên bầu trời và tŕnh tấu những chiếc trống da.
32. Sau khi nh́n thấy điều kỳ diệu ở trên bầu trời, nhiều vị cũng đă biểu diễn các tù và vỏ ốc, có các phèng la nữa, và luôn cả những chiếc trống con ở trên không trung (tán thán rằng):
33. “Quả nhiên, điều phi thường khiến lông dựng đứng đă sanh khởi đến chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta đạt được sự thành tựu lợi ích bền vững. Thời điểm của chúng ta đă đến rồi.”
34. Khi nghe rằng: “Đức Phật!” niềm phỉ lạc đă tức thời sanh khởi đến các vị ấy. Họ đă đứng yên, chắp tay, thốt lên rằng: “Đức Phật! Đức Phật!”
35. Và ở trên không trung, nhiều hạng chúng sanh chắp tay, thốt lên lời tán thán, ca ngợi, cổ vũ, reo ḥ.
36. Các vị ca hát, ḥ hét, tấu nhạc, vỗ tay, và nhảy múa. Hơn nữa, các vị c̣n rắc xuống bông hoa ngũ sắc, bông hoa Mạn-đà-la được trộn lẫn với bột phấn gỗ đàn hương (tán dương rằng):
37. “Hỡi đấng Đại Hùng, giống như dấu hiệu bánh xe ở hai bàn chân của Ngài là được tô điểm với ngọn cờ, lưỡi tầm sét, huy hiệu, hộp bột phấn, và gậy móc câu.
38. Không có ai tương đương về dáng vóc, về giới, về định, về tuệ. Ngài tương đương với các bậc không thể sánh bằng về sự giải thoát và về việc chuyển vận bánh xe Chánh Pháp.
39. Sức mạnh tự nhiên trong cơ thể của Ngài là sức mạnh của mười con voi. Không ai sánh bằng Ngài về năng lực thần thông trong việc chuyển vận bánh xe Chánh Pháp.
40. Các vị hăy kính lễ bậc Đại Hiền Triết, đấng Từ Bi, vị Chúa Tể Thế Gian đă được thành tựu tất cả các đức hạnh và đă đạt được toàn bộ các yếu tố như thế ấy.
41. Ngài xứng đáng tất cả các sự tôn kính, ca tụng, đảnh lễ, tán dương, lễ bái, và cúng dường.
42. Bạch đấng Đại Hùng, bất cứ những ai nên được đảnh lễ, những ai xứng đáng sự đảnh lễ ở trên thế gian, Ngài là vị đứng đầu tất cả. Người bằng Ngài không có.”
43. Vị Sāriputta có đại trí tuệ, thông thạo về định và thiền, chiêm ngưỡng đấng Lănh Đạo Thế Gian dầu đang đứng ở núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu).[5]
44. Vị ấy nh́n thấy đấng Nhân Ngưu trông giống như cây Sālā chúa nở hoa đều khắp, tương tợ như mặt trăng ở trên bầu trời, y như là mặt trời lúc chính ngọ.
45. Vị ấy nh́n thấy đấng Lănh Đạo sáng suốt, rực rỡ ánh sáng hào quang trông giống như cây trụ đèn đang cháy rực, tương tợ như mặt trời hừng đông đă ló dạng.
46. Sāriputta đă tức thời tựu hội lại năm trăm vị tỳ khưu là những vị có các lậu hoặc đă tận, không c̣n ô nhiễm, có các phận sự đă được hoàn thành như thế ấy (nói rằng):
47. “Đức Phật đă làm hiện rơ điều kỳ diệu tên là ‘Sự phô bày thế giới.’ Chúng ta cũng sẽ đi đến nơi ấy và chúng ta sẽ đảnh lễ đấng Chiến Thắng.
48. Hăy đến, tất cả chúng ta sẽ đi. Chúng ta sẽ hỏi đấng Chiến Thắng. Chúng ta sẽ xua tan mối hoài nghi sau khi nh́n thấy đấng Lănh Đạo Thế Gian.”
49. Sau khi đáp lại rằng: “Lành thay!” các vị thông thái ấy, có các căn được hộ tŕ, đă cầm lấy y và b́nh bát rồi mau chóng đi đến.
50. Cùng với các vị Lậu Tận đă được rèn luyện trong sự rèn luyện tối thượng, không c̣n ô nhiễm, bậc đại trí tuệ Sāriputta đă đi đến bằng thần thông.
51. Được tháp tùng bởi các vị tỳ khưu ấy, vị có hội chúng đông Sāriputta đă đi đến bằng thần thông, trông như vị thiên nhân đang chói sáng ở trên không trung.
52. Sau khi ngăn lại tiếng tằng hắng và sự khịt mũi, các vị có đức hạnh đă tiến đến gần bậc Toàn Giác với sự kính cẩn, thận trọng.
53. Sau khi đến gần, các vị nh́n thấy đấng Lănh Đạo Thế Gian, bậc tự ḿnh chứng ngộ, vị sáng suốt, đă ngự lên ở trên không trung trông tợ như mặt trăng ở trên bầu trời.
54. Các vị nh́n thấy đấng Lănh Đạo Thế Gian tương tợ như là cây trụ đèn đang cháy rực, như là tia chớp ở trên không trung, như là mặt trời lúc chính ngọ.
55. Toàn bộ năm trăm vị tỳ khưu nh́n thấy đấng Lănh Đạo Thế Gian giống như là hồ nước sâu thẳm không bị chao động, như là đóa hoa sen đang nở rộ.
56. Hớn hở, mừng rỡ, vui sướng, các vị đă chắp tay lên và trong lúc kính lễ các vị quỳ xuống ở dấu hiệu bánh xe (nơi bàn chân) của bậc Đạo Sư.
57. Vị có đại trí tuệ Sāriputta, thiện xảo về định và thiền, được xem như tương đương với loài hoa Koraṇḍa, đảnh lễ đấng Lănh Đạo Thế Gian.
58. Vị có đại thần lực Moggallāna, vang động như là đám mây đen, được xem như tương đương với đóa sen xanh, là không ai sánh bằng về năng lực thần thông.
59. C̣n vị trưởng lăo Mahākassapa tương tợ vàng tinh luyện, được công nhận là vị đứng đầu trong đức hạnh đầu-đà, được (chư thiên và nhân loại) tán dương, đă được bậc Đạo Sư khen ngợi.
60. Đứng đầu trong số các vị có thiên nhăn là Anuruddha, có đồ chúng đông đảo, hạng nhất trong hàng quyến thuộc của đức Thế Tôn, đang đứng không xa.
61. Upāli là vị rành rẽ về sự phạm tội, về sự không phạm tội, về việc sám hối tội, được công nhận là vị đứng đầu về Luật, đă được bậc Đạo Sư khen ngợi.
62. Vị ẩn sĩ con trai của bà Mantānī, phân tích ư nghĩa vi tế và bén nhạy, đứng đầu các vị Pháp sư, có đồ chúng, được nổi tiếng với tên là Puṇṇa.[6]
63. Biết được tâm của các vị ấy, đấng Mâu Ni là vị thiện xảo về sự so sánh, là đấng Đại Hùng, là vị dứt trừ sự nghi hoặc, đă thuyết giảng về đức hạnh của bản thân:
64. “Có bốn điều không thể tính đếm được và không biết được điểm tận cùng của các điều ấy: Tập hợp các chúng sanh, bầu không gian, các cơi thế giới vô biên, trí tuệ vô lượng của chư Phật; những điều này là không thể biết rơ.
65. Có phải sự biến hóa thần thông của ta là điều kỳ diệu ở thế gian? C̣n có nhiều sự việc khác nữa là kỳ diệu, phi thường, khiến lông dựng đứng.
66. Vào lúc ta ở tại cung trời Đẩu Suất, khi ấy ta có tên là Santusita. Các vị thuộc mười ngàn thế giới đă tụ hội lại chắp tay thỉnh cầu ta rằng:
67. ‘Hỡi bậc Đại Hùng, giờ là thời điểm của Ngài. Hăy sanh vào bụng mẹ. Trong khi giúp cho thế gian luôn cả chư thiên vượt qua, Ngài sẽ giác ngộ đạo lộ Bất Tử.’
68. Lúc ta hạ sanh vào bụng (mẹ) sau khi đă mạng chung từ cơi trời Đẩu Suất, khi ấy mười ngàn thế giới và quả đất rúng động.
69. Khi ta rời khỏi bụng mẹ với sự giác tỉnh, mười ngàn thế giới đă rúng động, thốt lên tiếng ‘Lành thay!’
70. Không ǵ sánh bằng việc nhập thai của ta. Từ việc sanh ra, trong việc ra đi cao cả, trong việc tự ḿnh giác ngộ, và trong việc chuyển vận bánh xe Chánh Pháp, ta là vị đứng đầu.”
71. (Chư thiên đă thốt lên rằng): “Ôi Tính chất vĩ đại về đức hạnh của chư Phật là điều kỳ diệu ở trên đời!” Khi ấy, mười ngàn thế giới đă rúng động sáu cách.[7] Và có ánh sáng vĩ đại đă xuất hiện. Là điều phi thường khiến lông dựng đứng!
72. Và vào khoảng thời gian ấy, trong lúc hiện ra cho thế gian luôn cả chư thiên chiêm ngưỡng, đức Thế Tôn, bậc Tối Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, bậc Chiến Thắng đă đi kinh hành bằng thần thông.
73. Ngay trong lúc đang đi kinh hành ở đường kinh hành, đấng Lănh Đạo Thế Gian đă thuyết giảng. Như thể (đang đi) ở trên con đường kinh hành (có chiều dài) bốn cánh tay, Ngài không quay ngược trở lại (khi đang) ở vào khoảng giữa (con đường).[8]
74. Sāriputta, là vị có đại trí tuệ, thiện xảo về định và thiền, đă đạt đến sự toàn hảo về trí tuệ, hỏi bậc Lănh Đạo Thế Gian rằng:
75. “Bạch đấng Đại Hùng, bậc Nhân Ngưu, lời phát nguyện của Ngài là như thế nào? Bạch đấng Sáng Suốt, sự giác ngộ tối thượng đă được Ngài mong mỏi vào thời gian nào?
76. Bố thí, (tŕ) giới, xuất ly, trí tuệ, tinh tấn là như thế nào? Nhẫn nại, chân thật, quyết định, từ ái, hành xả là như thế nào?
77. Bạch đấng Lănh Đạo thế gian sáng suốt, theo Ngài mười pháp toàn hảo là như thế nào? Thế nào là pháp toàn hảo bậc trên được tṛn đủ? Thế nào là pháp toàn hảo bậc tối thượng?”
78. Được vị ấy hỏi, Ngài đă trả lời với giọng nói ngọt ngào (như giọng hót) của loài chim Karavīka (ca-lăng-tần-già) làm mát mẻ con tim, làm hoan hỷ thế gian luôn cả chư thiên.
79. Bằng trí tuệ hướng về các kiếp sống trước đây, Ngài đă giảng giải về Pháp đă được chư Phật quá khứ là các đấng Chiến Thắng thuyết giảng, về lịch sử đă được truyền thừa theo tuần tự chư Phật, là điều lợi ích cho thế gian luôn cả chư thiên.
80. (Đức Phật đă nói rằng:) “(Lịch sử ấy) là điều làm sanh lên niềm hoan hỷ vui mừng, là sự nhổ lên mũi tên sầu muộn, là việc thành tựu tất cả các sự chứng đạt, các ngươi hăy chú tâm lắng nghe ta.
81. (Lịch sử ấy) là điều làm tiêu tan các sự đắm say, là sự xua đi các nỗi buồn rầu, là việc hoàn toàn thoát khỏi luân hồi, là đạo lộ tiêu diệt tất cả khổ đau, các ngươi hăy nghiêm trang theo dơi.”
Dứt Chương Con Đường Kinh Hành Bằng Châu Báu.
--ooOoo-- Phần Nói về Sumedha
1. Vào thuở bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp,[9] có thành phố tên Amara là đáng nh́n, xinh xắn.
2. (Thành phố này) dồi dào thức ăn nước uống và nhộn nhịp với mười loại âm thanh như tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng trống, tiếng tù và vỏ ốc, tiếng xe cộ, và c̣n được giới thiệu về thức ăn nước uống: “Xin hăy nhai, xin hăy uống.”
3. Thành phố được đầy đủ về mọi yếu tố và thành tựu tất cả hoạt động về nghề nghiệp, có đầy đủ bảy loại châu báu, đông đảo với đủ hạng người, thịnh vượng tợ như thành phố của chư thiên, là nơi cư ngụ của những người có được thiện nghiệp.
4. Vị Bà-la-môn tên Sumedha ở thành phố Amaravatī là có được nhiều koṭi tiền tích lũy, có dồi dào về tài sản và lúa gạo.
5. Là vị chuyên về phúng tụng, nắm vững chú thuật, thông thạo ba bộ Vệ Đà, đă đạt đến sự toàn hảo về khoa tướng số, về truyền thuyết, và về phận sự chánh yếu.
6. Khi ấy, sau khi ngồi xuống ở nơi thanh vắng ta đă suy nghĩ như vầy: “Sự tái sanh, sự tiêu hoại của xác thân là khổ. Sự mê mờ, sự chết, sự đày đọa của sự già là khổ.
7. Và trong khi luôn có trạng thái sanh, trạng thái già, trạng thái bệnh hoạn, ta sẽ tầm cầu sự không già, sự không chết, sự an ổn, Niết Bàn.
8. Hay là ta nên từ bỏ tấm thân hôi thối chất chứa đầy các loại chất phế thải này và trở thành người không vướng bận, không mong cầu?
9. Đạo lộ ấy là có và sẽ xuất hiện. Đạo lộ ấy không thể không có gốc gác. Ta sẽ tầm cầu đạo lộ ấy để hoàn toàn giải thoát khỏi hữu.
10. Cũng giống như khi khổ đau được t́m thấy th́ điều gọi là an lạc cũng được t́m thấy, tương tợ như thế khi hữu được t́m thấy th́ phi hữu cũng là điều nên được mong mỏi.
11. Cũng giống như khi sự nóng được t́m thấy th́ điều khác là sự lạnh cũng được t́m thấy, tương tợ như thế khi ba loại lửa (tham, sân, si) được t́m thấy th́ Niết Bàn cũng là điều nên được mong mỏi.
12. Cũng giống như khi điều ác được t́m thấy th́ điều thiện cũng được t́m thấy, tương tợ y như thế khi sanh được t́m thấy th́ vô sanh cũng là điều nên được mong mỏi.
13. Giống như người bị dính phẩn nh́n thấy hồ nước đầy mà không t́m đến hồ nước ấy, th́ việc sai trái ấy không phải là của hồ nước.
14. Tương tợ như vậy, khi hồ nước Bất Tử được t́m thấy cho việc gột rửa bợn nhơ phiền năo, người không t́m đến hồ nước ấy th́ điều sai trái không phải là của hồ nước Bất Tử.
15. Giống như người bị vây hăm xung quanh bởi những kẻ đối nghịch, khi con đường thoát ra được t́m thấy, người ấy không tẩu thoát th́ việc sai trái ấy không phải là của con đường.
16. Tương tợ như vậy, người bị vây hăm toàn diện bởi phiền năo, khi đạo lộ thánh thiện được t́m thấy, người không chịu t́m đến đạo lộ ấy th́ điều sai trái không phải là của đạo lộ thánh thiện.
17. Cũng giống như người bị bệnh, khi vị thầy thuốc được t́m thấy, người không để cho (vị thầy thuốc) chữa trị căn bệnh ấy th́ việc sai trái ấy không phải là của vị thầy thuốc.
18. Tương tợ như vậy, người bị khổ đau, bị hành hạ toàn diện bởi những căn bệnh phiền năo (nhưng) không chịu t́m đến vị thầy th́ điều sai trái ấy không phải là của vị thầy hướng dẫn.
19. Cũng giống như người sau khi rủ bỏ thây chết ghê tởm vướng ở cổ có thể đạt đến an lạc, sống tự tại, theo ư muốn.
20. Tương tợ y như thế, sau khi từ bỏ tấm thân hôi thối tập hợp đủ loại chất phế thải này, ta có thể trở thành người không vướng bận, không mong cầu.
21. Giống như những người nam hoặc nữ sau khi thải bỏ phẩn ở nhà tiêu rồi ra đi không vướng bận, không mong cầu.
22. Tương tợ y như thế, sau khi từ bỏ tấm thân được chất chứa đủ loại phế thải này ta sẽ ra đi giống như người sau khi đă đi tiêu th́ (rời khỏi) nhà xí.
23. Cũng giống như những chủ nhân sau khi quăng bỏ con thuyền cũ kỹ, ră rời, có sự ṛ rỉ nước, th́ ra đi không c̣n vướng bận, không mong cầu.
24. Tương tợ y như thế, sau khi từ bỏ tấm thân có chín khiếu thường xuyên tiết ra chất dơ này, ta sẽ ra đi giống như những chủ nhân quăng bỏ con thuyền đă bị vỡ tan.
25. Giống như người mang theo hàng hóa đi cùng bọn trộm cướp, sau khi nhận thấy nỗi lo sợ bởi việc cướp giật hàng hóa, liền tách biệt ra đi.
26. Tương tợ y như thế, thân này được ví tương đương với kẻ cướp lớn, ta sẽ chối bỏ thân này và ra đi, thoát khỏi nỗi sợ hăi về việc bị cướp đoạt thiện pháp.”
27. Sau khi suy nghĩ như thế, ta đă bố thí của cải hàng trăm koṭi[10] đến những người có nơi nương tựa lẫn những người không nơi nương tựa rồi đă đi đến Hy-mă-lạp sơn.
28. Ở không xa Hy-mă-lạp sơn, có ngọn núi tên Dhammaka là khu ẩn cư khéo được tạo lập dành cho ta có ngôi nhà lá khéo được xây dựng.[11]
29. Nơi ấy ta đă tạo ra đường kinh hành không phạm vào năm điều sai trái.[12] Ta đă đạt được năng lực của thắng trí hội đủ tám đức tính.[13]
30. Ở nơi ấy ta đă quăng bỏ tấm vải choàng liên quan đến chín điều sai trái.[14] Ta đă mặc y phục vỏ cây có được mười hai đức tính.[15]
31. Ta đă từ bỏ ngôi nhà lá dính líu tám điều sai trái.[16] Ta đi đến ngụ ở gốc cây có được mười đức tính.[17]
32. Ta đă hoàn toàn từ bỏ mễ cốc đă được gieo đă được trồng. Ta đă thọ dụng trái cây rơi rụng được hội đủ vô số đức tính.
33. Tại nơi ấy, ta đă ra sức nỗ lực trong việc ngồi, đứng, đi kinh hành. Ta đă đạt được năng lực của thắng trí trong thời gian bảy ngày.
34. Như thế, khi ta đạt được sự thành tựu (năm thắng trí, ngũ thông) và trở nên tự tại trong pháp tu tập (của đạo sĩ), th́ đấng Chiến Thắng tên Dīpaṅkara, vị Lănh Đạo Thế Gian, đă hiện khởi.
35. Đắm ch́m trong sự thỏa thích của thiền, ta đă không chứng kiến bốn điều báo hiệu về sự nhập thai, đản sanh, giác ngộ, và thuyết giảng Giáo Pháp.
36. (Những người dân) ở khu vực biên địa, sau khi thỉnh mời đức Như Lai, đă dọn sạch sẽ con đường ngự đến của Ngài với tâm trí hớn hở.
37. Vào lúc bấy giờ, sau khi rời khỏi khu ẩn cư của bản thân, ta, khi ấy, vừa đi ở trên không trung vừa chỉnh lại bộ y phục bằng vỏ cây.
38. Nh́n thấy dân chúng tràn ngập niềm phấn khởi, hớn hở, mừng rỡ, vui sướng, ta đă từ không trung đáp xuống rồi lập tức hỏi mọi người rằng:
39. “Đông đảo dân chúng được hớn hở, mừng rỡ, vui sướng, tràn ngập niềm phấn khởi. Đạo lộ, con đường, lối đi, ngơ vào được dọn sạch sẽ cho ai vậy?”
40. Được ta hỏi, họ đă đáp rằng: “Đức Phật, bậc Tối Thượng ở thế gian, đấng Chiến Thắng, vị Lănh Đạo Thế Gian tên là Dīpaṅkara đă hiện khởi. Đạo lộ, con đường, lối đi, ngơ vào được dọn sạch sẽ cho vị ấy.”
41. Khi nghe rằng: “Đức Phật,” pháp hỷ đă sanh khởi đến ta ngay lập tức. Ta đă bày tỏ tâm hoan hỷ, thốt lên rằng: “Đức Phật! Đức Phật!”
42. Đứng tại nơi ấy, với tâm trí phấn chấn, hớn hở, ta đă suy nghĩ: “Ta sẽ gieo các nhân lành ở nơi đây (đức Phật). Đương nhiên chớ để thời khắc trôi đi” (rồi nói rằng):
43. “Nếu các người dọn sạch sẽ v́ đức Phật. Xin các người hăy nhường cho tôi một khu vực. Tôi cũng sẽ dọn sạch sẽ con đường, lối đi, ngơ vào.”
44. Rồi họ đă nhường cho ta dọn sạch sẽ con đường ở một khu vực. Khi ấy, ta làm sạch sẽ con đường trong lúc nghĩ tưởng đến “Đức Phật! Đức Phật!”
45. Khi khu vực của ta c̣n chưa hoàn tất, bậc Đại Hiền Triết, đấng Chiến Thắng Dīpaṅkara, cùng với bốn trăm ngàn vị Lậu Tận không c̣n ô nhiễm có sáu thắng trí (lục thông) như thế ấy, đă bước lên con đường.
46. Nhiều người di chuyển từ phía đối diện, họ vỗ kêu những chiếc trống. Chư thiên và nhân loại vui mừng đă thốt lên tiếng “Lành thay!”
47. Chư thiên ngắm nh́n loài người. Và loài người cũng nh́n ngắm chư thiên. Cả hai nhóm ấy cũng đă chắp tay lên đi theo sau đức Như Lai.
48. Chư thiên với nhạc khí cơi trời, loài người với nhạc khí của nhân gian, cả hai nhóm ấy vừa tŕnh tấu vừa đi theo sau đức Như Lai.
49. Chư thiên di chuyển trên bầu trời ở trong không gian rải rắc hoa Mạn-đà-la, hoa sen, hoa san hô của cơi trời xuống hướng này hướng nọ.
50. Loài người di chuyển ở trên bề mặt trái đất ném các bông hoa Chăm-pa, bông hoa Salala, bông hoa Nīpa, bông hoa Nāga, Punnāga, và Ketaka tỏa khắp các phương.
51. Tại nơi ấy, sau khi xơa tóc, ta đă trải ra bộ y phục vỏ cây và da thú ở trên băi bùn lầy, rồi ta đă nằm sấp xuống (nói rằng):
52. “Xin đức Phật hăy bước lên (người) con. Xin Ngài cùng các đệ tử hăy tiến bước. Xin các vị chớ bước đi ở chỗ ấy trong bùn lầy; (việc này) sẽ đem lại sự lợi ích cho con.”
53. Khi đang nằm ở trên mặt đất, tư tưởng như vầy đă khởi đến ta: “(Nếu) mong muốn, ta có thể thiêu đốt các phiền năo của ta trong ngày hôm nay.
54. Ta có được ǵ ở đây khi chứng đắc Giáo Pháp theo phương thức không được tiếng tăm? Ta nên thành tựu quả vị Toàn Tri và trở thành đức Phật ở thế gian có cả chư thiên.
55. Ta có được ǵ khi là người biết được sức mạnh (của bản thân) lại vượt qua chỉ một ḿnh? Ta nên thành tựu quả vị Toàn Tri và giúp cho thế gian luôn cả chư thiên vượt qua.
56. Với hành động hướng thượng này của ta đă được thực hiện đến bậc Tối Thượng Nhân, ta sẽ thành tựu quả vị Toàn Tri và sẽ giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.
57. Sau khi cắt đứt gịng chảy luân hồi và phá hủy ba cơi (tái sanh), ta sẽ ngự lên con thuyền Chánh Pháp và sẽ giúp cho thế gian luôn cả chư thiên vượt qua.”
58. Sự phát nguyện được thành tựu nhờ vào sự tổng hợp của tám pháp: Bản thân là loài người, thành tựu nam căn, có chủng tử, nh́n thấy bậc Đạo Sư, là vị xuất gia, hội đủ đức hạnh, có hành động hướng thượng, và ḷng ước muốn.[18]
59. Đấng Thông Suốt Thế Gian Dīpaṅkara, vị thọ nhận các vật cúng dường, đă đứng kề cận đỉnh đầu của ta và đă nói lời này:
60. “Các ngươi hăy nh́n người đạo sĩ tóc bện có khổ hạnh cao tột này. Trong vô lượng kiếp tính từ thời điểm này, (người này) sẽ trở thành vị Phật ở thế gian.
61. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).
62. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).
63. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.
64. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.[19]
65. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.
66. Kolita và Upatissa không c̣n lậu hoặc, tham ái đă ĺa, có tâm an tịnh và định tĩnh, sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu.
67. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu.
68. (Hai vị) không c̣n lậu hoặc, tham ái đă ĺa, có tâm an tịnh và định tĩnh. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’
69. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”[20]
70. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”
71. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):
72. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.
73. Giống như những người băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.
74. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”
75. Đấng Thông Suốt Thế Gian Dīpaṅkara, vị thọ nhận các vật cúng dường, đă công bố về hành động của ta rồi đă đi nhiễu quanh ta.[21]
76. Các vị Thích tử hiện diện ở tại nơi ấy đă đi nhiễu quanh (ta). Chư thiên, nhân loại, và các A-tu-la đă đảnh lễ (ta) rồi ra đi.
77. Khi vị Lănh Đạo Thế Gian cùng hội chúng đă đi khỏi tầm nh́n của ta, khi ấy ta đă từ chỗ nằm vươn dậy rồi xếp vào thế kiết già.
78. Khi ấy, ta được an lạc với sự an lạc, được vui sướng với sự vui sướng, và trong khi được tràn ngập với pháp hỷ, và ta đă xếp vào tư thế kiết già.
79. Sau khi ngồi xuống với tư thế kiết già, khi ấy ta đă suy nghĩ như vầy: “Được tự tại trong pháp thiền, ta đă đạt đến sự toàn hảo về thắng trí.
80. Ở trong (mười) ngàn thế giới, các ẩn sĩ ngang bằng với ta là không có. Không có vị nào bằng về các phép thần thông. Ta đă đạt được sự an lạc như thế ấy.”
81. Với tư thế kiết già của ta, cư dân ở mười ngàn thế giới đă phát ra lời nói vang dội rằng: “Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
82. Trước đây, những điềm báo hiệu nào đă được thể hiện khi các vị Bồ Tát xếp vào tư thế kiết già cao quư, những điều ấy được thể hiện ngày hôm nay.
83. Sự lạnh lẽo được biến đi và sự nóng nảy được lắng dịu. Những điều ấy được thể hiện ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
84. Mười ngàn thế giới không có tiếng động và không bị chộn rộn. Những điều ấy được thể hiện ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
85. Các cơn gió lớn ngừng thổi, các gịng nước ngừng chảy. Những điều ấy được thể hiện ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
86. Các bông hoa mọc ở trên đất và mọc ở trong nước, tất cả lập tức nở hoa. Tất cả những bông hoa ấy cũng được nở ra ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
87. Và nếu là những dây leo hay là những cây cối th́ lập tức trở thành trĩu nặng những quả. Tất cả các cây ấy cũng được kết trái ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
88. Ở trên không trung và ở đất liền, các châu báu lập tức rực sáng. Các châu báu ấy cũng rực sáng ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
89. Các loại nhạc cụ của loài người và của cơi trời lập tức tấu nhạc. Cả hai loại nhạc cụ ấy cũng tŕnh tấu ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
90. Những bông hoa các loại đă lập tức rơi xuống từ bầu trời. Chúng cũng được thể hiện ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
91. Đại dương lùi ra xa, mười thế giới rúng động. Cả hai việc ấy cũng ầm ĩ ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
92. Mười ngàn ngọn lửa ở các địa ngục lập tức được dập tắt. Các ngọn lửa ấy cũng được dập tắt ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
93. Mặt trời không bị u ám, tất cả các ngôi sao được nh́n thấy. Các việc ấy cũng được thể hiện ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
94. Dầu không có mưa nhưng nước lập tức được phun lên từ mặt đất. Nước ấy cũng được phun lên từ mặt đất ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
95. Các cḥm sao, các v́ tinh tú chiếu sáng ở trên ṿm trời. Cḥm sao Visākhā được liên kết với mặt trăng; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
96. Các loài thú ở hang, các loài thú ở hốc rời khỏi chỗ ngụ của chúng. Chúng cũng chối từ chỗ ngụ ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
97. Không có sự không vui thích ở các chúng sanh, họ lập tức trở nên hớn hở. Tất cả bọn họ cũng hớn hở ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
98. Tật bịnh được giảm thiểu và nạn đói được tiêu trừ. Các điều ấy cũng được thể hiện ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
99. Khi ấy, tham dục trở nên nhỏ nhoi, sân hận si mê được tiêu trừ. Tất cả các điều ấy cũng đă biến mất ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
100. Khi ấy, nỗi sợ hăi không hiện diện. Điều ấy cũng được thể hiện ngày hôm nay. Với hiện tướng ấy, chúng tôi biết được chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
101. Bụi bặm không bốc lên phía bên trên. Điều ấy cũng được thể hiện ngày hôm nay. Với hiện tướng ấy, chúng tôi biết được chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
102. Mùi khó chịu biến đi. Mùi hương của cơi trời tỏa đến. Hương thơm ấy cũng tỏa ra ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
103. Tất cả chư thiên đều hiện ra ngoại trừ các vị ở cơi vô sắc. Tất cả các vị ấy cũng được nh́n thấy ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
104. Cho đến các nơi gọi là địa ngục, toàn bộ lập tức được nh́n thấy. Tất cả các nơi ấy cũng được nh́n thấy ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
105. Khi ấy, các bức tường thành, các cánh cửa, và các tảng đá không c̣n là các vật chướng ngại. Ngày hôm nay, chúng cũng đều trở thành những khoảng không; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
106. Sự chết và sự tái sanh không xảy ra vào thời khắc ấy. Chúng không được nh́n thấy ngày hôm nay; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.
107. Hăy nỗ lực tinh tấn một cách bền bĩ. Chớ có quay lui, hăy tiến bước. Chúng tôi cũng biết rơ điều này; chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.”
108. Nghe được lời nói của cả hai là của đức Phật và của (chư thiên) mười ngàn thế giới, khi ấy ta trở nên hớn hở, mừng rỡ, vui sướng, và đă suy nghĩ như vầy:
109. “Chư Phật, các đấng Chiến Thắng không có nói hai lời, không có lời nói rồ dại. Chư Phật không có sự dối trá, chắc chắn ta sẽ trở thành vị Phật.
110. Giống như cục đất được ném ở khoảng không th́ chắc chắn rơi xuống đất, tương tợ y như thế lời nói của chư Phật là chắc chắn và có cơ sở. Chư Phật không có sự dối trá, chắc chắn ta sẽ trở thành vị Phật.
111. Cũng giống như sự chết của tất cả chúng sanh là chắc chắn và có cơ sở, tương tợ y như thế lời nói của chư Phật tối thượng là chắc chắn và có cơ sở. Chư Phật không có sự dối trá, chắc chắn ta sẽ trở thành vị Phật.
112. Giống như khi đêm tàn đă đến th́ có sự mọc lên của mặt trời là điều chắc chắn, tương tợ y như thế lời nói của chư Phật tối thượng là chắc chắn và có cơ sở. Chư Phật không có sự dối trá, chắc chắn ta sẽ trở thành vị Phật.
113. Giống như tiếng rống của con sư tử khi rời khỏi chỗ nằm là điều chắc chắn, tương tợ y như thế lời nói của chư Phật tối thượng là chắc chắn và có cơ sở. Chư Phật không có sự dối trá, chắc chắn ta sẽ trở thành vị Phật.
114. Giống như việc hạ sanh của các sản phụ là điều chắc chắn, tương tợ y như thế lời nói của chư Phật tối thượng là chắc chắn và có cơ sở. Chư Phật không có sự dối trá, chắc chắn ta sẽ trở thành vị Phật.
115. Vậy, ta hăy xem xét các pháp tạo thành quả vị Phật từ nơi này và từ nơi này, ở bên trên (cơi trời), ở bên dưới (cơi nhân loại), và các phương hướng cho đến tận bản thể của các pháp ấy.”
116. Khi ấy, trong lúc xem xét ta đă nhận ra pháp thứ nhất là sự toàn hảo về bố thí (bố thí ba-la-mật), là đạo lộ thênh thang đă được thực hành bởi các vị đại ẩn sĩ tiền bối.
117. Ngươi hăy củng cố và thọ tŕ cho được pháp thứ nhất này. Ngươi hăy đạt đến sự toàn hảo về bố thí nếu ngươi muốn đạt được quả vị Giác Ngộ.
118. Cũng giống như cái chum được chứa đầy đă bị úp ngược lại bởi bất cứ người nào th́ tuôn nước ra không c̣n dư sót, hoàn toàn không giữ lại ở trong đó.
119. Tương tợ y như thế, khi nh́n thấy những người cầu xin dầu hèn, sang, hay trung b́nh, ngươi hăy cho ra vật thí không chừa lại ví như cái chum đă được úp ngược.
120. Nhưng các pháp tu thành Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác cũng là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.
121. Khi ấy, trong lúc xem xét ta đă nhận ra pháp thứ nh́ là sự toàn hảo về giới đă được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.
122. Ngươi hăy củng cố và thọ tŕ cho được pháp thứ nh́ này. Ngươi hăy đạt đến sự toàn hảo về giới nếu ngươi muốn đạt được Giác Ngộ.
123. Cũng giống như con ḅ mộng có cái đuôi bị vướng vào bất cứ vật ǵ thà chấp nhận cái chết ở tại nơi ấy chứ không làm đứt cái đuôi.
124. Tương tợ y như thế, ngươi hăy làm tṛn đủ các giới luật trong bốn lănh vực,[22] hăy luôn luôn ǵn giữ vẹn toàn giới luật giống như là con ḅ mộng hộ tŕ cái đuôi vậy.
125. Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa cũng là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.
126. Khi ấy, trong lúc xem xét ta đă nhận ra pháp thứ ba là sự toàn hảo về xuất ly đă được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.
127. Ngươi hăy củng cố và thọ tŕ cho được pháp thứ ba này. Ngươi hăy đạt đến sự toàn hảo về xuất ly nếu ngươi muốn đạt được quả vị Giác Ngộ.
128. Giống như người sống đă lâu ở trong nhà tù, bị hành hạ khổ sở, không khởi lên ḷng ái luyến đối với nơi ấy mà tầm cầu chỉ mỗi sự tự do.
129. Tương tợ y như thế, ngươi hăy nh́n tất cả các cơi tái sanh (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) như là các nhà tù. Hăy hướng về xuất ly nhắm đến sự hoàn toàn giải thoát khỏi các cơi.
130. Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa cũng là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.
131. Khi ấy, trong lúc xem xét ta đă nhận ra pháp thứ tư là sự toàn hảo về trí tuệ đă được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.
132. Ngươi hăy củng cố và thọ tŕ cho được pháp thứ tư này. Ngươi hăy đạt đến sự toàn hảo về trí tuệ nếu ngươi muốn đạt được quả vị Giác Ngộ.
133. Cũng giống như vị tỳ khưu trong khi đi khất thực không bỏ qua các gia đ́nh dầu hèn, sang, hay trung lưu, và đạt được phương tiện sinh sống như thế ấy.
134. Tương tợ y như thế, trong khi vấn hỏi người có trí tuệ vào mọi thời điểm, ngươi sẽ đạt đến sự toàn hảo về trí tuệ và sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.
135. Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa cũng là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.
136. Khi ấy, trong lúc xem xét ta đă nhận ra pháp thứ năm là sự toàn hảo về tinh tấn đă được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.
137. Ngươi hăy củng cố và thọ tŕ cho được pháp thứ năm này. Ngươi hăy đạt đến sự toàn hảo về tinh tấn nếu ngươi muốn đạt được quả vị Giác Ngộ.
138. Cũng giống như con sư tử, vua các loài thú, trong khi ngồi, đứng, đi tới lui, có sự tinh tấn không uể oải và có tâm cảnh giác vào khi ấy.
139. Tương tợ y như thế, ở tại tất cả các cơi tái sanh ngươi hăy nỗ lực sự tinh tấn bền vững, sau khi đạt đến sự toàn hảo về tinh tấn ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.
140. Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa cũng là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.
141. Khi ấy, trong lúc xem xét ta đă nhận ra pháp thứ sáu là sự toàn hảo về nhẫn nại đă được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.
142. Ngươi hăy củng cố và thọ tŕ cho được pháp thứ sáu này. Với tâm trí không chao động ở trong pháp ấy, ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.
143. Cũng giống như trái đất chịu đựng tất cả các vật quăng bỏ, cả sạch sẽ lẫn dơ dáy, không tỏ ra bực bội hay thích thú.
144. Tương tợ y như thế, ngươi cũng hăy chấp nhận sự trọng vọng hoặc khinh khi của tất cả, sau khi đạt đến sự toàn hảo về nhẫn nại ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.
145. Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa cũng là các pháp làm chín muồi quả vị Giác Ngộ.
146. Khi ấy, trong lúc xem xét ta đă nhận ra pháp thứ bảy là sự toàn hảo về chân thật đă được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.
147. Ngươi hăy củng cố và thọ tŕ cho được pháp thứ bảy này. Không có nói hai lời trong pháp này (th́) ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.
148. Cũng giống như (ngôi sao) Osadhī, có trạng thái cân bằng ở tại thế gian luôn cả các cơi trời, không đi lệch ra ngoài quỹ đạo vào thời điểm trong năm hoặc mùa tiết.
149. Tương tợ y như thế, chớ đi lệch ra khỏi đường lối của các sự thật, sau khi đạt đến sự toàn hảo về chân thật ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.
150. Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa cũng là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.
151. Khi ấy, trong lúc xem xét ta đă nhận ra pháp thứ tám là sự toàn hảo về quyết định đă được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.
152. Ngươi hăy củng cố và thọ tŕ cho được pháp thứ tám này. Sau khi trở nên không c̣n giao động trong pháp này ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.
153. Cũng giống như ḥn núi đá bền vững, khéo được kết cấu, đứng yên tại chính vị trí của nó, không rung động v́ những cơn gió dữ dội.
154. Tương tợ y như thế, ngươi cũng hăy luôn luôn không chao đảo trong sự quyết định, sau khi đạt được sự toàn hảo về quyết định ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.
155. Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa cũng là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.
156. Khi ấy, trong lúc xem xét ta đă nhận ra pháp thứ chín là sự toàn hảo về từ ái đă được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.
157. Ngươi hăy củng cố và thọ tŕ cho được pháp thứ chín này. Hăy là người không ai sánh bằng về ḷng từ ái nếu ngươi muốn đạt được quả vị Giác Ngộ.
158. Cũng giống như nước tẩy sạch bụi bặm cáu ghét, và đem lại sự mát mẻ cho những người hiền và những kẻ ác một cách b́nh đẳng.
159. Tương tợ y như thế, ngươi hăy phát triển tâm từ ái một cách b́nh đẳng đối với người thân hay kẻ nghịch. Sau khi đạt được sự toàn hảo về từ ái ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.
160. Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa cũng là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.
161. Khi ấy, trong lúc xem xét ta đă nhận ra pháp thứ mười là sự toàn hảo về hành xả đă được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.
162. Ngươi hăy củng cố và thọ tŕ cho được pháp thứ mười này. Được cân bằng và trở nên vững chải, ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.
163. Cũng giống như trái đất b́nh thản đối với vật dơ vật sạch đă được ném xuống, không phạm vào cả hai điều là giận dữ hay ưu đăi ấy.
164. Tương tợ y như thế, ngươi hăy luôn luôn giữ trạng thái cân bằng đối với lạc và khổ, sau khi đạt đến sự toàn hảo về hành xả ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.
165. Các pháp làm chín muồi sự giác ngộ ở thế gian chỉ có chừng ấy, không có pháp nào khác hơn thế nữa. Ngươi hăy thiết lập bền vững trong các pháp ấy.
166. Trong khi ta đang suy nghiệm các pháp này về bản thể, tính chất, và đặc điểm, do oai lực của các pháp quả đất và mười ngàn thế giới đă rúng động.
167. Quả đất lay động gào thét như là máy ép mía bị khuấy rối. Máy ép dầu có bánh xe rung chuyển như thế nào th́ trái đất rung động như thế ấy.
168. Cho đến nhóm người ở tại nơi dâng cúng vật thực đến đức Phật, trong lúc run rẩy họ bị choáng váng rồi nằm dài trên mặt đất tại nơi ấy.
169. Hàng ngàn hũ đựng nước và nhiều trăm chiếc lu va chạm lẫn nhau bị vỡ tan, bị nghiền nát ở tại nơi ấy.
170. Với tâm trí lo âu, sợ hăi, hoảng hốt, hồi hộp, bối rối, dân chúng đă tụ hội lại rồi đi đến gặp (đức Phật) Dīpaṅkara (hỏi rằng):
171. “Điều ǵ sẽ xảy ra ở thế gian? Là điều tốt hay điều xấu? Toàn bộ thế gian bị khuấy động, xin bậc Hữu Nhăn hăy xua tan điều ấy.”
172. Khi ấy, bậc Đại Hiền Triết Dīpaṅkara đă giải thích rơ cho họ rằng: “Hăy yên tâm. Chớ có hoảng hốt về việc động đất này.
173. Người mà hôm nay ta đă công bố sẽ trở thành vị Phật ở thế gian, người ấy suy nghiệm về pháp đă được thực hành bởi các đấng Chiến Thắng thời quá khứ.
174. Trong khi vị ấy đang suy nghiệm về pháp là nền tảng của chư Phật không có thiếu sót, v́ thế trái đất này với mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên đă rúng động.”
175. Sau khi lắng nghe lời nói của đức Phật, lập tức tâm (mọi người) được lắng dịu. Tất cả đă đến gần ta rồi cũng đă đảnh lễ lần nữa.
176. Sau khi đă thọ tŕ đức hạnh của chư Phật và lập tâm kiên cố, khi ấy ta đă cúi lạy (đức Phật) Dīpaṅkara và đă từ chỗ ngồi đứng dậy.
177. Với những bông hoa, cả hai hạng chư thiên và nhân loại rải rắc bông hoa của cơi trời và của loài người xuống Sumedha đang từ chỗ ngồi đứng dậy.
178. Và cả hai hạng chư thiên và nhân loại ấy phát biểu lời chúc tốt lành rằng: “Lời phát nguyện của ngài thật vĩ đại. Mong rằng ngài sẽ đạt được điều ấy theo như ước muốn.
179. Mong rằng tất cả các điều rủi ro được xa lánh. Mong rằng sầu năo, bệnh tật được tiêu trừ. Mong rằng sự nguy hiểm đừng xảy đến cho ngài. Ngài hăy mau mau đạt đến quả vị Giác Ngộ tối thượng.
180. Cũng giống như cây cho hoa nở hoa khi đến mùa, tương tợ y như thế, hỡi Đức Phật Anh Hùng, xin ngài hăy trổ hoa với trí tuệ của vị Phật.
181. Giống như bất cứ những vị nào là Toàn Giác đều đă làm tṛn đủ sự toàn hảo của mười pháp, tương tợ y như thế, hỡi đấng Đại Hùng, xin ngài hăy làm tṛn đủ sự toàn hảo của mười pháp.
182. Giống như bất cứ những vị nào là Toàn Giác đă giác ngộ ở khuôn viên cội Bồ Đề, tương tợ y như thế, hỡi đấng Đại Hùng, xin ngài hăy giác ngộ ở cội Bồ Đề của đấng Chiến Thắng.
183. Giống như bất cứ những vị nào là Toàn Giác đă chuyển vận bánh xe Chánh Pháp, tương tợ y như thế, hỡi đấng Đại Hùng, xin ngài hăy chuyển vận bánh xe Chánh Pháp.
184. Giống như mặt trăng vào ngày rằm là thanh khiết và chiếu sáng, tương tợ y như thế, ngài đă được vẹn toàn, xin ngài hăy chiếu sáng mười ngàn thế giới.
185. Giống như mặt trời được thoát khỏi thần Rāhu[23] th́ vô cùng rạng rỡ với nguồn năng lượng, tương tợ y như thế sau khi thoát ra khỏi thế gian xin ngài hăy tỏa sáng với sự vinh quang.
186. Giống như mọi con sông đều chảy xuôi về biển cả, tương tợ như thế các thế gian luôn cả chư thiên xuôi ḍng trong sự hiện diện của Ngài.”
178. Khi ấy, được họ tán dương và ca ngợi, vị ấy đă thọ tŕ mười pháp. Và trong khi làm tṛn đủ các pháp ấy, vị ấy đă tiến vào khu rừng thẳm.
Dứt phần nói về Sumedha.
--ooOoo--
1. Lịch Sử Đức Phật Dīpaṅkara
1. Lúc bấy giờ, sau khi đă dâng vật thực đến đấng Lănh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng (tỳ khưu), họ đă đi đến nương nhờ (quy y) bậc Đạo Sư Dīpaṅkara ấy.
2. Đức Như Lai đă an trú người này vào việc đi đến nương nhờ (quy y), người kia vào năm giới, người khác vào mười giới.
3. Ngài ban cho vị này tư cách Sa-môn trong bốn quả vị tối thượng. Ngài ban cho vị kia tuệ phân tích thuộc về các pháp không ǵ sánh kịp.
4. Đấng Nhân Ngưu ban cho người này tám tầng thiền quư báu, ban tặng cho người kia ba minh, sáu thắng trí (lục thông).
5. Bậc Đại Hiền Triết ấy đă giáo huấn đám đông bằng phương thức ấy. Nhờ vậy, Giáo Pháp của đấng Lănh Đạo Thế Gian đă được phổ biến rộng răi.
6. Vị có tên Dīpaṅkara, có quai hàm lớn vai rộng, giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua, giúp cho họ hoàn toàn thoát khỏi khổ cảnh.
7. Sau khi nh́n thấy chúng sanh có thể giác ngộ dầu ở cách trăm ngàn do-tuần, bậc Đại Hiền Triết đi đến trong khoảnh khắc và giác ngộ người ấy.
8. Trong sự lănh hội lần thứ nhất, đức Phật đă giác ngộ một trăm koṭi (1 tỷ) vị. Trong sự lănh hội lần thứ nh́, bậc Lănh Đạo đă giác ngộ chín mươi koṭi (chín trăm triệu) vị.
9. Và khi đức Phật thuyết giảng Giáo Pháp ở tại cung trời, đă có sự lănh hội lần thứ ba là của chín mươi ngàn koṭi (chín trăm tỷ) vị.
10. Bậc Đạo Sư Dīpaṅkara có ba lần tụ hội. Cuộc tụ hội lần thứ nhất là của một trăm ngàn koṭi (một ngàn tỷ, một triệu triệu) vị.
11. Hơn nữa, khi đấng Chiến Thắng sống biệt cư tại đỉnh núi Nārada, một trăm koṭi bậc Lậu Tận không c̣n ô nhiễm đă tụ hội lại.
12. Vào thời gian đấng Đại Hùng ngự ở ngọn núi Sudassana, bậc Đại Hiền Triết đă hành lễ Pavāraṇā[24] với chín mươi ngàn koṭi vị.
13. Vào lúc bấy giờ, ta là đạo sĩ bện tóc có khổ hạnh cao tột, đi lại ở trên không trung, toàn hảo về năm thắng trí.
14. Đă có sự lănh hội Giáo Pháp của mười ngàn, hai mươi ngàn vị. Sự lănh hội của một hai vị là không kể đến theo cách thức tính toán.
15. Khi ấy, Giáo Pháp vô cùng thanh tịnh của đức Thế Tôn Dīpaṅkara đă được phát triển, thành công, và phổ biến rộng răi đến số đông người.
16. Bốn trăm ngàn vị Lục Thông có đại thần lực luôn luôn tề tựu xung quanh bậc Thông Suốt Thế Gian Dīpaṅkara.
17. Vào lúc bấy giờ, những ai từ bỏ bản thể nhân loại c̣n là những bậc Hữu Học có tâm trí chưa được thành đạt, những người ấy bị chê trách.
18. Nhờ vào các vị A-la-hán có các lậu hoặc đă tận không c̣n ô nhiễm như thế ấy, lời tuyên thuyết được khéo léo đươm hoa luôn luôn sáng chói.
19. Thành phố có tên là Rammavatī, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Sudeva, người mẹ của đấng Đạo Sư Dīpaṅkara tên là Sumedhā.
20. Đấng Chiến Thắng đă ở giữa gia đ́nh trong mười ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời gọi tên là Haṃsā, Koñcā, và Mayūrā.
21. Có ba trăm ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Padumā. Con trai tên là Usabhakkhandha.
22. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đă ra đi bằng phương tiện voi và đă ra sức nỗ lực mười tháng không thiếu sót.
23. Sau khi thực hành hạnh nỗ lực, bậc Hiền Triết đă giác ngộ bằng tâm. Bậc Đại Hiền Triết Dīpaṅkara đă được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu.
24. Bậc Đại Hùng, đấng Chiến Thắng oai lực, có bánh xe (Chánh Pháp) được chuyển vận tại tu viện Nandā. Ngồi ở gốc cây Sirisa, Ngài đă khuất phục hàng ngoại đạo.
25. Sumaṅgala và Tissa đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đạo Sư Dīpaṅkara tên là Sāgata.
26. Nandā và luôn cả Sunandā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là “Pipphalī.”
27. Tapussa và Bhallika đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Sirimā và Soṇā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ của bậc Đạo Sư Dīpaṅkara.
28. Cao tám mươi cánh tay,[25] vị Đại Hiền Triết Dīpaṅkara sáng ngời như cây cột đèn, như là cây Sālā chúa đă được trổ hoa.
29. Tuổi thọ của vị Đại Ẩn Sĩ ấy là một trăm ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.
30. Ngài đă làm rạng rỡ Chánh Pháp và đă giúp cho dân chúng vượt qua. Sau khi rực cháy như là khối lửa, Ngài cùng với các vị Thinh Văn đă Niết Bàn.
31. Thần thông ấy, danh tiếng ấy, và các bánh xe châu báu ấy ở hai bàn chân, tất cả đều hoàn toàn biết mất; phải chăng tất cả các hành là trống không?
32. Đấng Chiến Thắng, bậc Đạo Sư Dīpaṅkara đă Niết Bàn tại tu viện Nandā. Bảo tháp của đấng Chiến Thắng dành cho vị ấy có chiều cao ba mươi sáu do-tuần là ở ngay tại nơi ấy.”
Lịch sử đức Phật Dīpaṅkara là phần thứ nhất.
--ooOoo--
2. Lịch Sử Đức Phật Koṇḍañña
1. Sau (đức Phật) Dīpaṅkara, vị Lănh Đạo tên Koṇḍañña có vinh quang vô tận, danh tiếng vô cùng, không thể đo lường, khó thể đạt đến.
2. Vị ấy được ví như trái đất về sự kham nhẫn, như biển cả về giới hạnh, như núi Meru về thiền định, như bầu trời về trí tuệ.
3. V́ lợi ích của tất cả chúng sanh, đức Phật luôn luôn giảng giải bài giảng về Căn Quyền, về Lực, về các Chi Phần đưa đến Giác Ngộ, về Đạo Lộ, về Chân Lư.
4. Trong khi đấng Lănh Đạo Thế Gian Koṇḍañña đang chuyển vận bánh xe Chánh Pháp, đă có sự lănh hội lần thứ nhất là của một trăm ngàn koṭi vị.
5. Về sau vào lúc khác, trong khi thuyết giảng ở cuộc tụ hội của loài người và chư thiên, đă có sự lănh hội lần thứ nh́ là của chín chục ngàn koṭi vị.
6. Trong khi khuất phục các ngoại đạo, lúc ấy đức Phật đă thuyết giảng Giáo Pháp; đă có sự lănh hội Giáo Pháp của tám chục ngàn koṭi vị.
7. Bậc Đại Ẩn Sĩ Koṇḍañña đă có ba lần tụ hội gồm các vị Lậu Tận, không c̣n ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như thế ấy.
8. Cuộc hội tụ thứ nhất gồm có một trăm ngàn koṭi vị, thứ nh́ gồm có một ngàn koṭi vị, thứ ba gồm có chín mươi koṭi vị.
9. Vào lúc bấy giờ, ta là vị Sát-đế-lỵ tên Vijitāvī. Ta thể hiện quyền thống trị từ đầu này đến đầu kia của biển cả.
10. Ta đă làm hài ḷng một trăm ngàn koṭi vị đại ẩn sĩ không c̣n ô nhiễm cùng với đấng Lănh Đạo Tối Thắng của thế gian bằng vật thực tuyệt hảo.
11. Đức Phật ấy, đấng Lănh Đạo Thế Gian Koṇḍañña, cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong vô lượng kiếp tính từ thời điểm này, (người này) sẽ trở thành vị Phật ở thế gian.
12. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).
13. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).
14. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.
15. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.
16. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.
17. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.
18. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’
19. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”
20. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”
21. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):
22. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.
23. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.
24. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”
25. Sau khi nghe được lời nói của vị ấy, ta đă tăng thêm niềm tín tâm. Trong khi làm hoàn mỹ cho chính mục đích ấy,[26] ta đă dâng lên đấng Chiến Thắng vương quốc rộng lớn. Sau khi từ bỏ vương quốc rộng lớn, ta đă xuất gia trong sự chứng minh của vị ấy.
26. Sau khi học tập toàn bộ Kinh và luôn cả Luật tức là Giáo Pháp của bậc Đạo Sư gồm chín thể loại, ta đă làm rạng rỡ Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng.
27. Trong khi sống không xao lăng trong Giáo Pháp ấy trong khi ngồi, đứng, đi kinh hành, sau khi làm toàn hảo các thắng trí, ta đă đi đến thế giới của Phạm Thiên.
28. Thành phố có tên là Rammavatī, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Sunanda, người mẹ của vị Đại Ẩn Sĩ Koṇḍañña tên là Sujātā.
29. Vị ấy đă ở giữa gia đ́nh mười ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Suci, Suruci, và Subha.
30. Có ba trăm ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Rucidevī. Con trai tên là Vijitasena.
31. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đă ra đi bằng phương tiện cỗ xe và đă ra sức nỗ lực mười tháng không thiếu sót.
32. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, bậc Tối Thượng Nhân, đấng Đại Hùng Koṇḍañña đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở khu rừng lớn của chư thiên.
33. Bhadda và luôn cả Subhadda đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Koṇḍañña tên là Anuruddha.
34. Tissā và Upatissā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của vị Đại Ẩn Sĩ Koṇḍañña là giống cây Sālā tốt lành (sāla-kalyāṇika).
35. Soṇa và Upasoṇa đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Nandā và luôn cả Sirimā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.
36. Cao tám mươi tám cánh tay (40 mét), bậc Đại Hiền Triết ấy sáng ngời tợ như mặt trăng,[27] giống như mặt trời lúc chính ngọ.
37. Tuổi thọ được biết là kéo dài đến một trăm ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.
38. Trái đất được điểm tô với những bậc Lậu Tận không c̣n ô nhiễm giống như là bầu trời được tô điểm bởi các v́ tinh tú, và vị ấy đă rạng rỡ như thế.
39. Các bậc long tượng ấy là vô lượng, không bị dao động, khó thể đạt đến. Sau khi thị hiện giống như là tia chớp, các vị có danh tiếng vĩ đại ấy đă Niết bàn.
40. Thần thông ấy và (thiền) định đă được phát triển toàn diện bằng trí tuệ của đấng Chiến Thắng là vô song, tất cả đều hoàn toàn biết mất; phải chăng tất cả các hành là trống không?
41. Đức Phật Koṇḍañña, bậc có niềm vinh quang, đă Niết Bàn tại tu viện Canda. Ngôi bảo tháp đẹp đẽ (dành cho vị ấy) đă được dựng lên cao bảy do-tuần ở ngay tại nơi ấy.
Lịch sử đức Phật Koṇḍañña là phần thứ nh́.
--ooOoo--
3. Lịch Sử Đức Phật Maṅgala
1. Sau (đức Phật) Koṇḍañña, vị Lănh Đạo tên là Maṅgala đă hủy diệt bóng tối ở thế gian và nâng cao ngọn đuốc Chánh Pháp.
2. Hào quang của vị ấy là vô song, vượt trội các đấng Chiến Thắng khác, tiêu diệt ánh sáng mặt trăng mặt trời, và rọi sáng mười ngàn thế giới.
3. Đức Phật ấy cũng đă giảng giải về bốn Chân Lư cao quư tối thượng. Những ai đă uống chất tinh túy của Chân Lư, những vị ấy xua tan bóng tối mịt mùng.
4. Sau khi đạt đến quả vị Giác Ngộ vô song, trong buổi thuyết giảng Giáo Pháp lần đầu tiên, đă có sự lănh hội lần thứ nhất của một trăm ngàn koṭi vị.
5. Đức Phật đă thuyết giảng Giáo Pháp ở cung điện của vị Chúa Trời. Khi ấy đă có sự lănh hội lần thứ nh́ của chín trăm ngàn koṭi vị.
6. Khi đức Chuyển Luân Vương Sunanda đi đến gặp đấng Toàn Giác, khi ấy đấng Toàn Giác đă gióng tiếng trống cao quư tối thượng của Giáo Pháp.
7. Và khi ấy, những người tùy tùng của (đức vua) Sunanda gồm có chín mươi koṭi vị. Tất cả những người ấy không thiếu sót ai đă trở thành tỳ khưu theo h́nh thức gọi đến.[28]
8. Vị Đại Ẩn Sĩ Maṅgala đă có ba lần tụ hội. Cuộc hội tụ thứ nhất gồm có một trăm ngàn koṭi vị.
9. Lần thứ nh́ gồm có một ngàn koṭi vị. Lần thứ ba gồm có chín mươi koṭi vị. Khi ấy, là cuộc hội tụ của các bậc Lậu Tận không c̣n ô nhiễm.
10. Vào lúc bấy giờ, ta là Bà-la-môn tên Suruci, là vị tŕ tụng, nắm vững chú thuật, thành thạo ba bộ Vệ Đà.
11. Ta đă đi đến gặp và đă quy y bậc Đạo Sư ấy. Ta đă cúng dường hương thơm và tràng hoa đến hội chúng có bậc Toàn Giác đứng đầu. Sau khi cúng dường hương thơm và tràng hoa, ta đă làm hài ḷng (các vị) với món gavapāna.[29]
12. Vị Phật ấy, đấng Tối Thượng Nhân Maṅgala, cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong vô lượng kiếp tính từ thời điểm này, người này sẽ trở thành vị Phật.
13. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).
14. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).
15. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.
16. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.
17. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.
18. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.
19. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’
20. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”
21. Sau khi nghe được lời nói này của bậc Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”
22. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):
23. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.
24. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.
25. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”
26. Nghe được lời nói của vị ấy, ta đă tăng thêm niềm tín tâm. Ta đă quyết định sự thực hành tối thắng để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.
27. Khi ấy, trong lúc đang tăng trưởng niềm hoan hỷ đối với việc đạt đến quả vị Toàn Giác cao quư, ta đă cúng dường ngôi nhà của ta đến đức Phật và đă xuất gia trong sự chứng minh của vị ấy.
28. Sau khi học tập toàn bộ Kinh và luôn cả Luật tức là Giáo Pháp của bậc Đạo Sư gồm chín thể loại, ta đă làm rạng rỡ Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng.
29. Trong khi sống không xao lăng trong Giáo Pháp ấy, sau khi tu tập pháp hành của Phạm Thiên và làm toàn hảo các thắng trí, ta đă đi đến thế giới của Phạm Thiên.
30. Thành phố có tên là Uttara, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Uttara, người mẹ của vị Đại Ẩn Sĩ Maṅgala tên là Uttarā.
31. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh trong chín ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Yasavā, Sucimā, và Sirimā.
32. Có đầy đủ ba mươi ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Yasavatī. Con trai tên là Sīvala.
33. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đă ra đi bằng phương tiện ngựa và đă ra sức nỗ lực tám tháng không thiếu sót.
34. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Lănh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng Maṅgala, đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở khu rừng Siri cao quư tối thượng.
35. Sudeva và Dhammasena đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Maṅgala tên là Pālita.
36. Sīvalā và Asokā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi là “Cây Nāga.”
37. Nanda và luôn cả Visākha đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Anulā và luôn cả Sutanā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.
38. Bậc Đại Hiền Triết cao tám mươi tám ratana.[30] Từ thân vị ấy phát ra hàng trăm ngàn ánh hào quang.
39. Tuổi thọ được biết là kéo dài đến chín mươi ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.
40. Cũng giống như sóng ở biển, không thể nào tính đếm chúng được; tương tợ y như thế, các Thinh Văn của Ngài không thể nào tính đếm các vị ấy được.
41. Trong khi bậc Toàn Giác, đấng Lănh Đạo Thế Gian Maṅgala c̣n hiện tiền, vào khi ấy không có cái chết vẫn c̣n phiền năo ở trong Giáo Pháp của vị ấy.
42. Sau khi đă nâng đỡ ngọn đuốc Chánh Pháp, sau khi đă giúp cho đại chúng vượt qua, sau khi rực cháy như là cây cột khói, vị có danh tiếng lớn lao ấy đă Niết Bàn.
43. Sau khi đă chỉ cho thế gian luôn cả chư thiên thấy được bản chất cơ bản của các hành, (vị ấy) đă phát cháy như là khối lửa, tương tợ như mặt trời đă lặn.
44. Đức Phật Maṅgala đă Niết Bàn tại công viên tên là Vessara. Ngôi bảo tháp của đấng Chiến Thắng dành cho vị ấy đă được dựng lên cao ba mươi do-tuần ở ngay tại nơi ấy.
Lịch sử đức Phật Maṅgala là phần thứ ba.
--ooOoo--
4. Lịch Sử Đức Phật Sumana
1. Sau (đức Phật) Maṅgala, vị Lănh Đạo tên Sumana là bậc Tối Thượng của tất cả chúng sanh, không ai sánh bằng về tất cả các pháp (giới, định, tuệ).
2. Khi ấy ở thành phố Mekhala, Ngài đă gióng lên tiếng trống bất tử được liên kết với những hồi tù và Giáo Pháp là lời giáo huấn của đấng Chiến Thắng gồm chín thể loại.
3. Sau khi chiến thắng các phiền năo, đấng Đạo Sư ấy đă đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng và đă tạo lập thành phố là thành phố Chánh Pháp cao quư tối thượng.
4. Vị ấy đă tạo ra con đường lớn không bị cách khoảng, không khúc khuỷu, thẳng tắp, dài và rộng, (ấy là) Tứ Niệm Xứ cao quư tối thượng.
5. Nơi đó, ở tại con đường Ngài đă trưng bày bốn quả vị Sa-môn, bốn tuệ phân tích, sáu thắng trí, và tám thiền chứng.
6. Những ai không dễ duôi, (tâm) không bị ngăn trở, có được sự hổ thẹn tội lỗi và sự tinh tấn, chính những người ấy đạt được các đức hạnh cao quư này một cách dễ dàng.
7. Như thế bằng phương thức ấy, bậc Đạo Sư, trong lúc nâng đỡ đại chúng, đă giác ngộ trước tiên một trăm ngàn koṭi vị.
8. Trong thời điểm đấng Đại Hùng đă giáo huấn các đồ chúng ngoại đạo, là lúc thuyết giảng Giáo Pháp lần thứ nh́, một trăm ngàn koṭi người đă lănh hội.
9. Vào lúc chư thiên và nhân loại có sự đồng ḷng nhất trí đă vấn câu hỏi về sự Tịch Diệt và luôn cả sự nghi ngờ ở trong tâm nữa.
10. Khi ấy, cũng vào dịp thuyết giảng Giáo Pháp giải thích rơ ràng về sự Tịch Diệt, đă có sự lănh hội lần thứ ba là của chín mươi ngàn koṭi vị.
11. Bậc Đại Ẩn Sĩ Sumana đă có ba lần tụ hội gồm các vị Lậu Tận không c̣n ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như thế ấy.
12. Khi đức Thế Tôn đă trải qua mùa (an cư) mưa, vào ngày lễ Pavāraṇā đă được công bố, đức Như Lai đă hành lễ Pavāraṇā cùng với một trăm ngàn koṭi vị.
13. Sau đó vào lúc khác, khi các vị không c̣n ô nhiễm đă tụ hội ở ngọn núi Kañcana, đă có cuộc hội tụ thứ nh́ của chín mươi ngàn koṭi vị.
14. Khi Chúa Trời Sakka đi đến chiêm ngưỡng đức Phật, đă có cuộc hội tụ thứ ba của tám mươi ngàn koṭi vị.
15. Vào lúc bấy giờ, ta là vị Long Vương tên Atula, có đại thần lực, có sự tích lũy các thiện pháp được dồi dào.
16. Khi ấy, sau khi rời khỏi long cung ta đă cùng thân quyến phục vụ đấng Chiến Thắng cùng với hội chúng bằng các nhạc cụ thiên đ́nh của loài rồng.
17. Ta đă làm hài ḷng một trăm ngàn koṭi vị với thức ăn và nước uống. Sau khi dâng mỗi một vị hai xấp vải, ta đă quy y vị ấy.
18. Đức Phật ấy, đấng Lănh Đạo Thế Gian Sumana, cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong vô lượng kiếp tính từ thời điểm này, người này sẽ trở thành vị Phật.
19. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).
20. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).
21. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.
22. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề tối thắng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.
23. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.
24. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.
25. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’
26. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”
27. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”
28. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):
29. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.
30. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.
31. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”
32. Nghe được lời nói của vị ấy, ta đă tăng thêm niềm tín tâm. Ta đă quyết định sự thực hành tối thắng để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.
33. Thành phố có tên là Mekhala, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Sudatta, người mẹ của vị Đại Ẩn Sĩ Sumana tên là Sirimā.
34. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh chín ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Canda, Sucanda, và Vaṭaṃsa.
35. Có sáu mươi ba trăm ngàn (sáu triệu ba trăm ngàn) phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Vataṃsikā. Con trai tên là Anupama.
36. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đă ra đi bằng phương tiện voi và đă ra sức nỗ lực mười tháng không thiếu sót.
37. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Lănh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng Sumana đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở thành phố Mekhala cao quư tối thượng.
38. Saraṇa và Bhāvitatta đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Sumana tên là Udena.
39. Soṇā và Upasoṇā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Đức Phật ấy, vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng, cũng đă giác ngộ cũng ở cội cây Nāga.
40. Varuṇa và Saraṇa đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Cālā và Upacālā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.
41. Vươn lên đến chín mươi cánh tay (45 mét) về chiều cao, đức Phật ấy tỏa sáng mười ngàn thế giới tợ như kim loại vàng quư giá.
42. Tuổi thọ được biết là kéo dài đến chín mươi ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.
43. Sau khi đă giúp cho vượt qua những người xứng đáng được vượt qua và đă giác ngộ những người xứng đáng được giác ngộ, đấng Toàn Giác đă Vô Dư Niết Bàn ví như mặt trăng (vua của các v́ sao) đă lặn.
44. Đức Phật ấy là không ǵ sánh được và các vị tỳ khưu ấy là các bậc Lậu Tận. Sau khi thị hiện ánh sáng vô song, các vị có danh tiếng lớn lao ấy đă Niết Bàn.
45. Trí tuệ vô song ấy và các châu báu không ǵ so sánh ấy, tất cả đều hoàn toàn biết mất; phải chăng tất cả các hành là trống không?
46. Đức Phật Sumana, bậc có danh tiếng, đă Niết Bàn tại tu viện Aṅgāra. Ngôi bảo tháp của đấng Chiến Thắng dành cho vị ấy đă được dựng lên cao bốn do-tuần ở ngay tại nơi ấy.
Lịch sử đức Phật Sumana là phần thứ tư.
--ooOoo--
[1] apparajakkha (appa-raja-akkha): ít bị ô nhiễm, dịch sát từ sẽ là “mắt có ít bụi.” [2] Thời điểm đức Phật thuyết giảng Buddhavaṃsa - Phật Sử: Vào mùa an cư mưa thứ nhất, đức Phật ngự ở vườn nai, Isipitana (Bārāṇasī) và tế độ 5 vị Aññakoṇḍañña (Kiều Trần Như). Sau khi mùa mưa chấm dứt, đức Phật đă đi đến Uruvelā và trong ba tháng ở tại nơi ấy đă tế độ nhóm một ngàn đạo sĩ tóc bện của ba anh em Kassapa. Sau đó, Ngài đă ngự đến thành Rājagaha (Vương Xá) và trú ở đây hai tháng. Như vậy, năm tháng đă trôi qua và mùa lạnh đă hoàn toàn chấm dứt. Lúc ấy, sứ giả của đức vua Suddhodana (Tịnh Phạn) là Kāḷudāyi đă đi đến gặp đức Phật để nhắn lời thỉnh mời. Và trong tháng Phagguna (tháng 2 hoặc 3 Dương Lịch), đức Phật đă suy nghĩ đến việc trở về thành Kapila. Thời gian di chuyển của đức Phật từ thành Rājagaha đến thành Kapila là hai tháng. Tại đó, đức Phật đă thị hiện song thông và thuyết giảng bài kinh này (BvA. 3-4). [3] Kim-sỉ-điểu là nghĩa của từ kinnarā được thấy ở Tạng Thái, Miến, Anh thay v́ rakkhasā ở ḍng thứ nh́ (v́ có hai chữ rakkhasā được dùng ở câu kệ này). [4] Chú giải ghi nghĩa của dīpa theo cả hai cách: ngọn đèn và ḥn đảo, BvA. 38. [5] Ngài Sāriputta nh́n thấy đức Phật đang thị hiện thần thông ở Sāvatthi (khoảng cách giữa hai địa điểm ước lượng khoảng 650 ki-lô-mét). [6] Puṇṇa Mantāniputta, con trai nữ Bà-la-môn Mantānī, BvA. 51; là vị đệ nhất về thuyết Pháp (xem Kinh Trạm Xe, Trung Bộ Kinh I, bài kinh 24). [7] Sáu cách là: trái đất ở trong mười ngàn thế giới đă nghiêng từ đông sang tây, từ tây sang đông, từ bắc qua nam, từ nam qua bắc, từ trung tâm ra bên ngoài, từ bên ngoài vào trung tâm, BvA. 56. [8] Con đường kinh hành này nối dài từ thế giới ở phía đông sang đến thế giới ở phía tây. Và đức Phật đă đi kinh hành từ đầu đường phía bên này sang đến điểm cuối con đường ở phía bên kia chứ không quay ngược trở lại lúc đang đi ở vào khoảng giữa, BvA. 57. [9] Bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp (kappe ca satasahasse ca caturo ca asaṅkhiye): Về định nghĩa của từ a-tăng-kỳ (asaṅkheyya), đa số các tài liệu giải thích đều cho trích dẫn ở Aṅguttaranikāya - Bộ Tăng Chi: “Này các Tỷ-kheo, có bốn vô lượng của kiếp (kappassa asaṅkheyyāni) này. Thế nào là bốn? 1/- Khi kiếp chuyển thành, này các Tỷ-kheo, thật không dễ ǵ để ước tính có bao nhiêu năm như vậy, có nhiều trăm năm như vậy, có nhiều ngàn năm như vậy. Có nhiều trăm ngàn năm như vậy. 2/- Khi kiếp đă chuyển thành và dừng lại, này các Tỷ-kheo, thật không dễ ǵ ước tính như vậy. 3/- Khi kiếp chuyển hoại, này các Tỷ-kheo, thật không dễ ǵ ước tính có nhiều năm như vậy ... như vậy. 4/- Khi kiếp đă chuyển hoại và dừng lại, này các Tỷ-kheo, thật không dễ ǵ ước tính ... như vậy. Này các Tỷ-kheo, có bốn vô lượng của kiếp này.” Theo định nghĩa này, asaṅkheyya (a-tăng-kỳ) là một đơn vị đo thời gian và bốn asaṅkheyya (a-tăng-kỳ) thành, trụ, hoại, không sẽ tạo thành một kappa (kiếp). Theo ngữ cảnh của Buddhavaṃsa, định nghĩa asaṅkheyya (a-tăng-kỳ) như trên xem không được thích hợp lắm. Trong ngữ cảnh này, bản thân chúng tôi nghĩ rằng asaṅkheyya có thể là con số đếm theo nghĩa đơn thuần của asaṅkheyya là một con số rất lớn không thể đếm được. Và lời giải thích chúng tôi t́m thấy không phải ở BvA. mà ở CpA. với lời giải thích của Chú Giải Sư Dhammapāla: “Ở đây, asaṅkheyya là không có khả năng để đếm, không thể tính đếm được, có ư nghĩa là vượt quá sự tính đếm.” Ngài Dhammapāla c̣n giải thích rơ thêm: “Ư nghĩa ở đây là bốn lần không thể đếm được (bốn a-tăng-kỳ) của các đại kiếp cọng thêm một trăm ngàn đại kiếp” (trang 12). Như vậy “bốn a-tăng-kỳ cọng thêm một trăm ngàn” là một con số có giá trị vô cùng lớn. Kiếp (kappa) là đơn vị tính thời gian, là đại kiếp (mahākappa), không phải kiếp của tuổi thọ (āyukappa) (BvA. 65). Như thế, thời gian kéo dài của một kiếp sẽ là bao lâu? Chú Giải Sư Dhammapāla trích dẫn lời đức Phật giải thích cho các tỳ khưu rằng: “Một kiếp (kappa) là không thể tính chừng ấy năm, hoặc chừng ấy trăm năm, hoặc chừng ấy ngàn năm, hoặc chừng ấy trăm ngàn năm (CpA. 11). Trong Samyuttanikāya, đức Phật đă cho ví dụ khi giải thích vấn đề này: “ Ví như, này Tỷ-kheo, có một ḥn núi đá lớn, một do tuần bề dài, một do tuần bề rộng, một do tuần bề cao, không có khe hở, không có lỗ hổng, một tảng đá thuần đặc. Rồi một người đến, cứ sau một trăm năm lại lau ḥn đá ấy một lần với tấm vải kàsi. Này Tỷ-kheo, ḥn núi đá lớn ấy được làm như vậy có thể đi đến đoạn tận, đoạn diệt mau hơn là một kiếp.” Hoặc “Ví như, này Tỷ-kheo, có một thành bằng sắt, dài một do tuần, rộng một do tuần, cao một do tuần, chứa đầy hột cải cao như chóp khăn đầu. Một người từ nơi chỗ ấy, sau mỗi trăm năm lấy ra một hột cải. Này Tỷ-kheo, đống hột cải ấy được làm như vậy, có thể đi đến đoạn tận, đoạn diệt mau hơn là một kiếp.”[9] Như vậy, khoảng thời gian kéo dài chỉ riêng của một kiếp thôi cũng đă vượt quá khả năng suy nghĩ của con người. [10] 1 koṭi = 1o triệu, 100 koṭi = 1 tỷ, hàng trăm koṭi = nhiều tỷ. [11] Do thiên tử Vissakamma thực hiện theo lệnh của Chúa Trời Sakka, BvA. 75. [12] Năm điều sai trái của đường kinh hành là: cứng không bằng phẳng, cây mọc ở bên trong, lợp dày, quá chật hẹp, quá rộng. Đường kinh hành nên dài 60 ratana, rộng 1.5 ratana (15 mét và 37.5 cm) (BvA. 75-6). [13] Tám đức tính của thắng trí là: tâm được định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không bợn nhơ, dứt khỏi tùy phiền năo, trạng thái nhu nhuyến thích hợp cho hành động, vững vàng, bất động (BvA. 76). [14] Chín điều sai trái của việc sử dụng tấm vải choàng là: có giá trị, trạng thái phụ thuộc vào người khác, mau dơ khi sử dụng và khi bị dơ phải giặt rồi nhuộm màu lại, trạng thái sờn cũ do sử dụng và khi bị sờn cũ phải mạng vá lại, khó đạt được khi tầm cầu, không thích hợp cho vị xuất gia làm ẩn sĩ, được phổ biến đối với các kẻ thù nghịch và phải lo ǵn giữ để khỏi bị trộm cắp, là đồ trang sức khi mặc vào, có dục vọng lớn lao khi mặc đi đường (BvA. 76). [15] Mười hai đức tính của việc mặc y phục vỏ cây là: có giá trị thấp, không phụ thuộc vào người khác, có thể tự tay làm lấy, khi bị sờn cũ do sử dụng không cần phải may vá, không phải sợ trộm cắp, dễ dàng thực hiện khi có nhu cầu, thích hợp cho vị xuất gia làm ẩn sĩ, không được xem là vật trang sức, có ước muốn nhỏ nhoi về y phục, trạng thái thoải mái lúc sử dụng, vỏ cây đạt được dễ dàng, trạng thái thản nhiên khi y phục vỏ cây bị mất (BvA. 76-7). [16] Tám điều sai trái của việc cư ngụ ở ngôi nhà là: thành tựu do nhiều công sức, việc thường xuyên quan tâm đến, cỏ, lá, đất sét, v.v..., thức giấc vào ban đêm nghĩ rằng: “Chỗ ngụ bị cũ kỷ” khiến tâm không định, cơ thể yếu đuối v́ được ngăn cách với thời tiết nóng lạnh, nguyên nhân của việc che giấu điều bị chê trách (v́ nghĩ rằng): “Đi vào nhà rồi có thể làm bất cứ điều ǵ xấu xa,” việc ǵn giữ của cải (nghĩ rằng): “Cái này là của ta,” có người cùng sống chung trong nhà, có nhiều sự chung đụng với các loài rận rệp, bọ chét, thằn lằn, v.v... (BvA. 77). [17] Mười đức tính của việc ngụ ở cội cây là: ít bị bận rộn, (nghĩ rằng): “Chỉ việc đi đến rồi cư ngụ,” không phạm tội lỗi do dễ dàng đạt được, thường xuyên sanh khởi sự nghĩ tưởng về vô thường khi nh́n sự biến đổi h́nh thức của lá cây, không bỏn xẻn về chỗ ngụ, không thuận tiện làm việc xấu xa (nghĩ rằng): “Bị xấu hổ trong khi làm điều xấu xa ở nơi ấy,” không phải ǵn giữ, sống chung với chư thiên, việc từ bỏ mái che, an lạc trong việc thọ dụng, không lo lắng khi đi đến mọi nơi v́ việc dễ dàng có được chỗ ngụ ở gốc cây (BvA. 77). [18] Đây là lời giải bày cụ thể về những điều kiện đầu tiên cần phải có của một vị Bồ Tát để đạt được sự chú nguyện (vyākaraṇa) về việc chắc chắn được thành tựu quả vị Phật Toàn Giác trong ngày vị lai: Trước hết, vị Bồ Tát phải có sự phát nguyện ban đầu (abhinīhāra), và lời phát nguyện ban đầu chỉ có hiệu quả khi nào vị Bồ Tát hội đủ tám điều kiện: 1/- Bản thân là loài người, 2/- Là người nam thành tựu nam căn, 3/- Có chủng tử (có khả năng chứng đắc quả vị A-la-hán trong kiếp sống ấy), 4/- Nh́n thấy bậc Đạo Sư (phải sanh vào lúc vị Phật đang c̣n tại tiền), 5/- Là vị xuất gia (sống đời ẩn sĩ), 6/- Hội đủ đức hạnh (chứng đắc về thiền và thần thông), 7/- Có hành động hướng thượng (đến vị Phật đương thời), 8/- Và có ḷng ước muốn theo đuổi thực hành hạnh nguyện (Chương I: câu kệ 58). Vị Bồ Tát cần phải thể hiện hành động hướng thượng (adhikāra) đến đức Phật đương thời và được vị Phật ấy chú nguyện (I: 59-69). Kế đến, vị Bồ Tát cần quán xét về bản thân (I: 79-80) và các pháp tu tập cần phải thực hành để đạt đến quả vị Phật cao quư (I: 115-165) là: Trong thời gian dài đăng đẳng kế tiếp, trải qua không biết là bao nhiêu kiếp sống trôi nổi luân hồi, vị Bồ Tát cần phải đạt đến sự toàn hảo về mười pháp (10 pháp ba-la-mật) là: bố thí, tŕ giới, xuất ly, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, từ ái, và hành xả . Hơn nữa, mức độ của sự thực hành mười pháp này là vị Bồ Tát phải đạt đến sự toàn hảo tối thượng (paramatthapāramī) là sẵn sàng hy sinh mạng sống bản thân để hoàn thành pháp toàn hảo ấy. Từ câu kệ 60-69 là lời chú nguyện của đức Phật Dīpaṅkara cho Bồ Tát Sumedha. Lời chú nguyện này sẽ được 23 vị Phật kế tiếp lập lại để chú nguyện cho vị Bồ Tát tiền thân của đức Phật Gotama. [19] Các vị Phật đă giác ngộ ở tại gốc cây nào, giống cây ấy được gọi là cây Bồ Đề (bodhirukkha), nghĩa là cây của sự Giác Ngộ (Bồ Đề là từ dịch âm của bodhi có nghĩa là trí giác ngộ). Như vậy, nên hiểu rằng tên gọi cây Bồ Đề là tên gọi chung, c̣n mỗi cội cây Bồ Đề của từng vị Phật đều có tên gọi riêng. Ví dụ đức Phật Thích Ca đă chứng ngộ Phật Quả ở dưới cội cây có tên là Assattha, đức Phật Dīpaṅkara là cội cây tên Pipphalī, đức Phật Koṇḍañña là cội cây Sālā, v.v... [20] Dịch theo từ sẽ là: “Tuổi thọ của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.” V́ tuổi thọ của đức Phật Gotama chỉ là tám mươi năm nên đă được dịch như trên. [21] Dịch theo từ sẽ là “rồi đă nâng bàn chân phải lên” thay v́ “đă hướng vai phải nhiễu quanh.” Chú Giải đề cập cả hai cách dịch, BvA. 99. [22] Bốn lănh vực của giới là: thu thúc trong giới bổn Pātimokkha, thu thúc các giác quan, nuôi mạng thanh tịnh, và liên quan đến các vật dụng, BvA. 106. [23] Hiện tượng nhật thực được giải thích theo truyền thuyết Ấn Độ là mặt trời bị thần Rāhu nuốt lấy (ND). [24] Lễ Pavāraṇā thường được tiến hành vào ngày rằm tháng 9 Âm lịch sau khi đă hoàn tất ba tháng an cư mùa mưa. Các vị tỳ khưu tụ hội lại và thỉnh cầu hội chúng chỉ dạy về những điều Giới Luật mà các thành viên của hội chúng đă nhận thấy, nghe được, hoặc có hoài nghi về bản thân vị thỉnh cầu đă vi phạm trong thời gian qua. [25] 80 hattha (cánh tay) = 40 mét (1 hattha = 0.50 mét, ND). [26] Là tṛn đủ pháp toàn hảo về bố thí nhằm mục đích thành tựu quả vị Phật, BvA. 139. [27] uḷurāja: vị vua của các v́ tinh tú, tức là mặt trăng (ND). [28] Đức Phật chỉ gọi “ehi bhikkhu = Này tỳ khưu hăy đến” th́ vị được gọi tự nhiên có tóc được cạo sạch, mặc y mang b́nh bát, tướng mạo giống như các vị tỳ khưu đă tu lâu năm vậy. Nhiều vị sẽ được gọi là “etha bhikkhavo = Này các tỳ khưu hăy đến” (ND). [29] ganapāna được thực hiện từ bốn thứ mật ong, đường mật, bột, và bơ lỏng nấu chung lại, c̣n được gọi tên là catumadhurabhojana = món ăn gồm bốn thứ mật, BvA. 149-50. [30] 22 mét, 1 ratana =25cm (ND).
|
|||