Trang Chính

Trang Các Bản Dịch Mới

Font VU-Times

 

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 42

 

PHẬT SỬ

 

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

(Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

5. Lịch Sử Đức Phật Revata

 

1. Sau (đức Phật) Sumana, có vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Revata là vô song, tối thượng, không có tương đương, không ǵ sánh được.

 

2. Được thỉnh cầu bởi đấng Phạm Thiên, vị ấy cũng đă giảng giải Giáo Pháp, định nghĩa về (năm) Uẩn, (mười tám) Giới chưa từng được chuyển vận ở tam giới.

 

3. Trong sự thuyết giảng Giáo Pháp của vị ấy, đă có ba lần lănh hội. Sự lănh hội lần thứ nhất là không thể nói được bằng cách tính đếm.

 

4. Vào lúc bậc Hiền Triết Revata chỉ dạy đức vua Arindama, khi ấy đă có sự lănh hội lần thứ nh́ là của một ngàn koṭi vị.

 

5. Sau khi xuất ra khỏi thiền tịnh bảy ngày, đấng Nhân Ngưu đă chỉ dạy về các quả vị tối thượng cho một trăm koṭi chư thiên và nhân loại.

 

6. Bậc Đại Ẩn Sĩ Revata đă có ba lần tụ hội gồm các vị Lậu Tận không c̣n ô nhiễm, đă khéo giải thoát như thế ấy.

 

7. Các vị đi đến vào lần đầu tiên là vượt quá phương thức tính đếm. Cuộc hội tụ thứ nh́ gồm có một trăm ngàn koṭi vị.

 

8. Người phụ trợ trong việc chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) của đức Phật là không ai sánh bằng về trí tuệ. Lúc bấy giờ, vị ấy bị bệnh và đă đạt đến t́nh trạng bấp bênh về mạng sống.

 

9. Khi ấy, các vị hiền triết đă đi đến để thăm hỏi bệnh t́nh của vị ấy; đă có cuộc hội tụ thứ ba của một trăm ngàn koṭi vị A-la-hán.

 

10. Vào lúc bấy giờ, ta là vị Bà-la-môn tên Atideva. Ta đă đi đến gặp đức Phật Revata. Ta đă quy y vị ấy.

 

11. Sau khi ca tụng giới, định, và đức hạnh tối thắng về tuệ của vị ấy, ta đă dâng lên thượng y phù hợp với khả năng.

 

12. Đức Phật ấy, đấng Lănh Đạo Thế Gian Revata, cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong vô lượng kiếp tính từ thời điểm này, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

13. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

14. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

15. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

16. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

17. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

18. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

19. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’

 

20. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

21. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

22. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

23. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

24. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

25. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

26. Nghe được lời nói của vị ấy, ta đă tăng thêm niềm tín tâm. Ta đă quyết định sự thực hành tối thắng để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

27. Cũng vào khi ấy, ta đă nhớ lại và làm cho tăng trưởng pháp của chư Phật (nghĩ rằng): “Điều ǵ ta đă phát nguyện th́ ta sẽ đem lại điều ấy.”[1]

 

28. Thành phố có tên là Sudhaññavatī, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Vipula, người mẹ của vị Đại Ẩn Sĩ Revata tên là Vipulā.

 

29. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh trong sáu ngàn năm. Ba ṭa lâu đài tuyệt vời đă được trang hoàng Sudassana, Ratanagghi, và Āveḷa là đă được phát sanh lên do thiện nghiệp.

 

30. Có ba mươi ba ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân (người vợ) tên là Sudassanā. Con trai tên là Varuṇa.

 

31. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đă ra đi bằng phương tiện xe và đă ra sức nỗ lực bảy tháng không thiếu sót.

 

32. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Lănh Đạo Thế Gian, đấng Chiến Thắng, bậc Đại Hùng Revata có oai lực đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở tại khu vườn Varuṇa.

 

33. Varuṇa và Brahmadeva đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Maṅgala tên là Sambhava.

 

34. Bhaddā và luôn cả Subhaddā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Khi ấy, đức Phật ấy, vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng, cũng đă giác ngộ ở cội cây Nāga.

 

35. Paduma và luôn cả Kuñjara đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Sirimā và luôn cả Yasavatā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

36. Vươn lên đến tám mươi cánh tay (40 mét) về chiều cao, đức Phật ấy tỏa sáng khắp cả các phương như là cây cờ hiệu của thần Inda đă được dựng lên.

 

37. Ṿm hào quang tối thắng phát xuất từ cơ thể của vị ấy tỏa ra xung quanh một do-tuần dầu là ban ngày hay ban đêm.

 

38. Tuổi thọ được biết là kéo dài đến sáu mươi ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

 

39. Sau khi thị hiện Phật lực, Ngài đă giảng giải pháp Bất Tử ở thế gian và đă Niết Bàn không c̣n chấp thủ tợ như ngọn lửa đă cạn nguồn nhiên liệu.

 

40. Và thân thể như là châu báu ấy, Giáo Pháp không ǵ tương đương ấy, tất cả đều hoàn toàn biết mất; phải chăng tất cả các hành là trống không?

 

41. Đức Phật Revata, bậc có danh tiếng, vị Đại Hiền Triết ấy đă Niết Bàn. Đă có sự phân tán xá-lợi từ xứ sở ấy đến khắp các nơi.

 

Lịch sử đức Phật Revata là phần thứ năm.

 

--ooOoo--

 

 

6. Lịch Sử Đức Phật Sobhita

 

1. Sau (đức Phật) Revata, vị Lănh Đạo tên Sobhita là định tĩnh, có tâm thanh tịnh, không kẻ sánh bằng, không người đối thủ.

 

2. Ở tại ngôi nhà của ḿnh, đấng Chiến Thắng ấy đă chuyển đổi tâm trí, đă đạt đến sự Giác Ngộ hoàn toàn, và đă chuyển vận bánh xe Chánh Pháp.

 

3. Từ phía dưới là từ địa ngục Avīci và từ phía trên là từ cơi trời cao nhất, trong cuộc thuyết giảng Giáo Pháp đă có một tập thể (tụ hội) ở khoảng giữa của hai nơi này.

 

4. Đấng Toàn Giác đă chuyển vận bánh xe Chánh Pháp ở tại hội chúng ấy. Đă có sự lănh hội lần thứ nhất là không thể nói được bằng cách tính đếm.

 

5. Về sau vào lúc khác, trong khi thuyết giảng ở cuộc hội tụ của chư thiên, đă có sự lănh hội lần thứ nh́ là của chín chục ngàn koṭi vị.

 

6. Vào lần khác nữa, có vị vương tử ḍng Sát-đế-lỵ tên Jayasena sau khi cho trồng trọt khu vườn đă cống hiến đến đức Phật trong dịp ấy.

 

7. Trong khi công bố sự hiến dâng của vị ấy, bậc Hữu Nhăn đă thuyết giảng Giáo Pháp. Khi ấy, đă có sự lănh hội lần thứ ba là của một ngàn koṭi vị.

 

8. Bậc Đại Ẩn Sĩ Sobhita đă có ba lần tụ hội gồm có các vị Lậu Tận, không c̣n ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như thế ấy.

 

9. Đức vua tên Uggata ấy dâng cúng vật thí đến đấng Tối Thượng Nhân. Trong lần cúng dường ấy, một trăm koṭi vị A-la-hán đă tụ hội lại.

 

10. Vào lần khác nữa, có nhóm người thuộc đoàn thể dâng cúng vật thí đến đấng Tối Thượng Nhân. Khi ấy, đă có cuộc hội tụ thứ nh́ của chín mươi koṭi vị.

 

11. Vào lúc đấng Chiến Thắng giáng trần sau khi đă cư ngụ ở cơi trời, khi ấy đă có cuộc hội tụ thứ ba của tám mươi koṭi vị.

 

12. Vào lúc bấy giờ, ta là vị Bà-la-môn tên Sujāta. Khi ấy, ta đă làm hài ḷng đức Phật cùng các vị Thinh Văn bằng thức ăn nước uống.

 

13. Đức Phật ấy, đấng Lănh Đạo Thế Gian Sobhita, cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong vô lượng kiếp tính từ thời điểm này, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

14. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

15. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

16. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

17. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

18. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

19. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

20. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’

 

21. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

22. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

23. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

24. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

25. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

26. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

27. Lắng nghe lời nói của vị ấy, ta trở nên mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn. Ta đă thực hiện sự nỗ lực tích cực nhằm theo đuổi chính mục đích ấy.

 

28. Thành phố có tên là Sudhamma, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Sudhamma, người mẹ của vị Đại Ẩn Sĩ Sobhita tên là Sudhammā.

 

29. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh chín ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Kumuda, Kalīra, và Paduma.

 

30. Có bảy mươi ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Makhilā. Con trai tên là Sīha.

 

31. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, bậc Tối Thượng Nhân đă ra đi bằng ṭa lâu đài[2] và đă thực hành sự nỗ lực bảy ngày. Và khi ấy trong lúc giác ngộ, đức Phật ấy đă giác ngộ ở cội cây Nāga.

 

32. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Lănh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng Sobhita đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở vườn thượng uyển Sudhamma tuyệt vời.

 

33. Asama và Sunetta đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Sobhita tên là Anoma. Nakulā và Sujātā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu.

 

34. Ramma và luôn cả Sudatta đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Nakulā và luôn cả Cittā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

35. Cao năm mươi tám ratana (14 mét rưỡi), vị Đại Hiền Triết chiếu sáng tất cả các phương như là mặt trời mọc.

 

36. Giống như khu rừng lớn nở rộ hoa tỏa hương với các hương thơm khác loại, tương tợ y như thế lời tuyên thuyết của vị ấy tỏa hương với các hương thơm của giới.

 

37. Cũng giống như biển cả không thể được thỏa măn bởi sự ngắm nh́n, tương tợ y như thế lời tuyên thuyết của vị ấy không thể được thỏa măn bởi sự lắng nghe.

 

38. Tuổi thọ được biết là kéo dài đến chín mươi ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

 

39. Sau khi đă ban lời giáo huấn và nhắc nhở các chúng sanh c̣n lại,[3] vị ấy cùng với các bậc Thinh Văn đă phát cháy giống như ngọn lửa rồi đă Niết Bàn.

 

40. Đức Phật ấy là vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng, và các vị Thinh Văn ấy là đă thành tựu các năng lực, tất cả đều hoàn toàn biết mất; phải chăng tất cả các hành là trống không?

 

41. Đức Phật Sobhita, đấng Toàn Giác cao quư đă Niết Bàn tại tu viện Sīha. Đă có sự phân tán xá-lợi từ xứ sở ấy đến khắp các nơi.

 

Lịch sử đức Phật Sobhita là phần thứ sáu.

 

--ooOoo--

 

 

7. Lịch Sử Đức Phật Anomadassī

 

1. Sau (đức Phật) Sobhita, đấng Toàn Giác Anomadassī là đấng Tối Thượng Nhân có danh tiếng vô lường, có oai lực khó mà vượt trội.

 

2. Sau khi cắt đứt tất cả các sự trói buộc và hủy diệt (nghiệp tái sanh ở) ba cơi, vị ấy đă thuyết giảng cho chư thiên và loài người về Đạo Lộ đưa đến việc không c̣n luân hồi.

 

3. Vị ấy không chao động ví như biển cả, khó thể đạt đến như là ngọn núi, không có điểm cuối cùng ví như bầu không gian, và đă nở hoa như là cây Sālā chúa.

 

4. Chỉ với sự nh́n thấy đức Phật ấy là chúng sanh khởi lên hoan hỷ. Sau khi lắng nghe lời nói đang diễn giải, họ đạt được Bất Tử.

 

5. Khi ấy, sự lănh hội về Giáo Pháp của vị ấy là thành công và đạt được số lượng. Hàng trăm koṭi (chúng sanh) đă lănh hội trong cuộc thuyết giảng Giáo Pháp lần thứ nhất.

 

6. Về sau vào lúc khác, trong khi đang đổ xuống những cơn mưa Giáo Pháp trong cuộc thuyết giảng Giáo Pháp lần thứ nh́, tám chục koṭi (chúng sanh) đă lănh hội.

 

7. Về sau vào lúc khác, khi đang đổ xuống cơn mưa (Giáo Pháp) và ngay trong lúc đang làm hài ḷng chúng sanh, đă có sự lănh hội lần thứ ba là của bảy mươi tám koṭi vị.

 

8. Và bậc Đại Ẩn Sĩ ấy cũng đă có ba lần tụ hội gồm các vị đă đạt đến năng lực của các thắng trí và đă được đơm hoa trong sự giải thoát.

 

9. Khi ấy, đă có cuộc tụ hội của tám trăm ngàn vị có sự tham đắm si mê đă được đoạn tận và có tâm thanh tịnh như thế ấy.

 

10. Lần hội tụ thứ nh́ là của bảy trăm ngàn vị không c̣n ô nhiễm, thoát khỏi bụi trần, có sự an tịnh như thế ấy.

 

11. Lần hội tụ thứ ba là của sáu trăm ngàn vị đă đạt đến năng lực của các thắng trí, có sự nỗ lực cao, đă chứng Niết Bàn.

 

12. Vào lúc bấy giờ, ta là loài Dạ-xoa có đại thần lực, là chúa tể cai quản nhiều koṭi dạ-xoa.

 

13. Khi ấy, ta cũng đă đi đến gặp bậc Đại Ẩn Sĩ, đức Phật cao quư ấy, và đă làm hài ḷng đấng Lănh Đạo Thế Gian cùng hội chúng bằng cơm nước.

 

14. Khi ấy, bậc Hiền Triết ấy, có nhăn quan thanh tịnh, cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong vô lượng kiếp tính từ thời điểm này, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

15. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

16. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

17. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

18. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

19. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

20. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

21. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’

 

22. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

23. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

24. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

25. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

26. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

27. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

28. Nghe được lời nói của vị ấy, ta trở nên mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn, đă quyết định sự thực hành tối thắng để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

29. Thành phố có tên là Candavatī, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Yasavā, người mẹ của bậc Đạo Sư Anomadassī tên là Yasodharā.

 

30. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh trong mười ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Siri, Upasiri, và Sirivaḍḍha.

 

31. Có hai mươi ba ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Sirimā. Con trai tên là Upavāna.

 

32. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đă ra đi bằng kiệu khiêng và đă ra sức nỗ lực mười tháng không thiếu sót.

 

33. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Đại Hiền Triết, đấng Đại Hùng Anomadassī ấy, đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở tại công viên Sudassana.

 

34. Nisabha và Anoma đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đạo Sư Anomadassī tên là Varuṇa.

 

35. Sundarī và Sumanā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là “Ajjuna.”

 

36. Nandivaḍḍha và Sirivaḍḍha đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Uppalā và luôn cả Padumā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

37. Bậc Đại Hiền Triết cao năm mươi tám ratana (14 mét rưỡi). Hào quang của vị ấy phát ra như là ánh mặt trời mọc.

 

38. Tuổi thọ được biết là kéo dài đến một trăm ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

 

39. Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng đă được rạng rỡ, lời tuyên thuyết khéo được đơm hoa nhờ vào các vị A-la-hán đă ly tham ái, không c̣n ô nhiễm như thế ấy.

 

40. Bậc Đạo Sư có danh tiếng vô lượng ấy và hai vị (Thinh Văn hàng đầu) vô song ấy, tất cả đều hoàn toàn biết mất; phải chăng tất cả các hành là trống không?

 

41. Đấng Chiến Thắng, bậc Đạo Sư Anomadassī đă Niết Bàn tại tu viện Dhamma. Ngôi bảo tháp của đấng Chiến Thắng dành cho vị ấy có chiều cao hai mươi lăm (do-tuần) ở ngay tại nơi ấy.

 

Lịch sử đức Phật Anomadassī là phần thứ bảy.

 

--ooOoo--

 

 

8. Lịch Sử Đức Phật Paduma

 

1. Sau (đức Phật) Anomadassī, đấng Toàn Giác, bậc Tối Thượng Nhân tên Paduma là không kẻ sánh bằng, không người đối thủ.

 

2. Giới của vị ấy là không ai sánh bằng, định là không có giới hạn, trí tuệ cao quư là không thể tính đếm, và giải thoát là không có tương đương.

 

3. Cũng vào lúc chuyển vận bánh xe Chánh Pháp của vị có oai lực vô song ấy, đă có ba cuộc lănh hội là sự xua đuổi đi bóng đêm mù mịt.

 

4. Ở sự lănh hội lần thứ nhất, đức Phật đă giác ngộ một trăm koṭi vị. Ở sự lănh hội lần thứ nh́, bậc Thông Minh đă giác ngộ chín mươi koṭi vị.

 

5. Và vào lúc đức Phật Paduma giáo huấn người con trai của ḿnh, khi ấy đă có sự lănh hội lần thứ ba là của tám chục koṭi vị.

 

6. Bậc Đại Ẩn Sĩ Paduma đă có ba lần tụ hội. Cuộc hội tụ thứ nhất là của một trăm ngàn koṭi vị.

 

7. Vào dịp tiến hành lễ Kaṭhina, khi y Kaṭhina được phát sanh, các vị tỳ khưu đă may y để giao cho vị Tướng Quân Chánh Pháp.

 

8. Khi ấy, ba trăm ngàn vị đă tụ hội lại. Các vị tỳ khưu ấy là không c̣n ô nhiễm, có sáu thắng trí, có đại thần lực, không bị khuất phục.

 

9. Cũng vào dịp khác, đấng Nhân Ngưu ấy đă vào mùa (an cư) mưa ở trong rừng. Khi ấy, đă có cuộc hội tụ của hai trăm ngàn vị.

 

10. Vào lúc bấy giờ, ta là con sư tử chúa tể của các loài thú. Ta đă nh́n thấy đấng Chiến Thắng đang thực hành hạnh độc cư ở trong rừng.

 

11. Ta đă đê đầu đảnh lễ ở chân (của đức Phật) rồi đă đi nhiễu quanh vị ấy, sau đó đă rống lên ba lần rồi đă phục vụ đấng Chiến Thắng bảy ngày.

 

12. Sau khi xuất khỏi bảy ngày nhập thiền cao quư, đức Như Lai dụng tâm suy xét rồi đă triệu tập một koṭi (mười triệu) vị tỳ khưu.

 

13. Khi ấy, ở giữa các vị (tỳ khưu) ấy, đấng Đại Hùng ấy cũng đă chú nguyện rằng: “Trong vô lượng kiếp tính từ thời điểm này, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

14. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

15. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

16. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

17. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề tối thắng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

18. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

19. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

20. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’

 

21. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

22. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

23. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

24. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

25. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

26. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

27. Nghe được lời nói của vị ấy, ta đă tăng thêm niềm tín tâm. Ta đă quyết định sự thực hành tối thắng để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

28. Thành phố có tên là Campaka, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Asama, người mẹ của vị Đại Ẩn Sĩ Paduma tên là Asamā.

 

29. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh trong mười ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Uttara, Vasu, và Yasuttara.

 

30. Và có ba mươi ba ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Uttarā. Con trai tên là Ramma.

 

31. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đă ra đi bằng phương tiện xe và đă ra sức nỗ lực tám tháng không thiếu sót.

 

32. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Lănh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng Paduma đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở tại công viên Dhanañja tuyệt vời.

 

33. Sāla và Upasāla đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Paduma tên là Varuṇa.

 

34. Rādhā và luôn cả Surādhā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi là “Soṇa vĩ đại.”

 

35. Bhiyya và luôn cả Asama đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Rucī và Nandirāmā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

36. Vị Đại Hiền Triết ấy cao năm mươi tám ratana (14.5 mét). Hào quang không ǵ sánh bằng của vị ấy chiếu sáng tất cả các phương.

 

37. Ánh sánh của mặt trăng, ánh sáng của mặt trời, ánh sáng của châu báu và ngọc ma-ni đắt giá, tất cả các loại ánh sáng ấy đều bị tiêu tan khi sánh cùng hào quang tối thượng của đấng Chiến Thắng.

 

38. Tuổi thọ được biết là kéo dài đến một trăm ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

 

39. Sau khi đă giác ngộ những chúng sanh có tâm trí đă được chín muồi không thiếu sót (người nào), sau khi chỉ dạy những người c̣n lại vị ấy cùng các vị Thinh Văn đă Niết Bàn.

 

40. Ví như con rắn bỏ đi lớp da già cỗi, ví như cây cối rủ bỏ lá úa tàn, vị ấy sau khi buông bỏ các hành đă Niết Bàn tương tợ như ngọn lửa đă được dập tắt.

 

41. Bậc Đạo Sư Paduma, đấng Chiến Thắng cao quư đă Niết Bàn tại tu viện Dhamma. Đă có sự phân tán xá-lợi từ xứ sở ấy đến khắp các nơi.

 

Lịch sử đức Phật Paduma là phần thứ tám.

 

--ooOoo--

 

 

9. Lịch Sử Đức Phật Nārada

 

1. Sau (đức Phật) Paduma, có đấng Toàn Giác, bậc Tối Thượng Nhân tên Nārada là không kẻ sánh bằng, không người đối thủ.

 

2. Đức Phật ấy, người con trai trưởng yêu quư của vị Chuyển Luân Vương, có sự trang sức với ṿng hoa bằng ngọc trai đă đi (bộ) đến công viên.

 

3. Ở tại nơi ấy có cội cây lẫy lừng danh tiếng, tuyệt đẹp, to lớn, thanh khiết. Sau khi đi đến nơi ấy, vị ấy đă ngồi xuống ở dưới cội cây Soṇa vĩ đại.

 

4. Ở tại nơi ấy, trí tuệ cao quư, vô biên, (sắc bén) tợ kim cương đă được sanh khởi. Nhờ đó, vị ấy đă khảo sát các hành theo lối ngửa lên và theo lối úp xuống.

 

5. Ở tại nơi ấy, vị ấy đă xua đi tất cả phiền năo không c̣n dư sót, đă đạt đến quả vị hoàn toàn Giác Ngộ và mười bốn trí tuệ của vị Phật.[4]

 

6. Sau khi đạt đến quả vị Toàn Giác, vị ấy đă chuyển vận bánh xe Chánh Pháp. Đă có sự lănh hội lần thứ nhất là của một trăm ngàn koṭi (một ngàn tỷ, một triệu triệu) vị.

 

7. Trong lúc huấn luyện Long Vương Mahādoṇa, bậc Đại Hiền Triết đă thể hiện điều kỳ diệu ấy (song thông) cho thế gian luôn cả chư thiên nh́n thấy.

 

8. Lúc bấy giờ, trong lần giảng giải Giáo Pháp ấy cho chư thiên và nhân loại, chín chục ngàn koṭi (chín trăm tỷ) vị đă vượt qua tất cả các mối nghi hoặc.

 

9. Vào thời điểm đấng Đại Hùng giáo giới người con trai của ḿnh, đă có sự lănh hội lần thứ ba là của tám chục ngàn koṭi (tám trăm tỷ) vị.

 

10. Bậc Đại Ẩn Sĩ Nārada đă có ba lần tụ hội. Cuộc hội tụ thứ nhất là của một trăm ngàn koṭi vị.

 

11. Vào lúc đức Phật giảng giải về đức hạnh của chư Phật có cả phần duyên khởi, khi ấy chín chục ngàn koṭi vị không c̣n ô nhiễm đă tụ hội lại.

 

12. Vào lúc con rồng Verocana dâng cúng vật thí đến bậc Đạo Sư, khi ấy tám mươi trăm ngàn (tám triệu) người con trai của đấng Chiến Thắng đă tụ hội lại.

 

13. Vào lúc bấy giờ, ta là đạo sĩ tóc bện, có khổ hạnh cao tột, đi lại ở trên không trung, toàn hảo về năm thắng trí.

 

14. Khi ấy, sau khi làm hài ḷng vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng cùng với hội chúng và đoàn tháp tùng bằng cơm nước, ta đă cúng dường gỗ đàn hương.

 

15. Đức Phật, đấng Lănh Đạo Thế Gian Nārada ấy cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong vô lượng kiếp tính từ thời điểm này, (người này) sẽ trở thành vị Phật ở thế gian.

 

16. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

17. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

18. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

19. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

20. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

21. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

22. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’

 

23. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

24. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

25. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

26. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

27. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

28. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

29. Nghe được lời nói của vị ấy, ta đă khiến tâm được mừng rỡ bội phần. Ta đă quyết định sự thực hành tối thắng để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

30. Thành phố có tên là Dhaññavatī, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Sudeva, người mẹ của vị Đại Ẩn Sĩ Nārada tên là Anomā.

 

31. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh chín ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Jita, Vijita, và Vijitābhirāma.

 

32. Có bốn mươi ba ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Vijitasenā. Con trai tên là Nanduttara.

 

33. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, vị Lănh Đạo thế gian đă ra đi bằng sự đi bộ (sự đi bằng bàn chân) và đă thực hành hạnh nỗ lực bảy ngày.

 

34. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Lănh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng Nārada đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở công viên Dhanañjaya tuyệt vời.

 

35. Bhaddasāla và Jitamitta đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Nārada tên là Vāseṭṭha.

 

36. Uttarā và luôn cả Phaggunī đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi là “Soṇa vĩ đại.”

 

37. Uggarinda và Vasabha sẽ là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Indīvarī và Undī sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

38. Cao tám mươi tám ratana (22 mét), bậc Đại Hiền Triết ấy chiếu sáng mười ngàn thế giới tương tợ như cột trụ bằng vàng có gắn tràng hoa.

 

39. Khi ấy, thân thể có ánh sáng hào quang của vị ấy chiếu ra các phương liên tục ngày dêm và tỏa sáng (xung quanh) một do-tuần.

 

40. Vào lúc bấy giờ, được tràn ngập bởi hào quang của đức Phật, những người ở xung quanh một do-tuần không ai thắp sáng các ngọn đèn đuốc.

 

41. Tuổi thọ được biết là kéo dài đến chín mươi ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

 

42. Giống như bầu trời được trang điểm và chói sáng bởi các v́ sao, tương tợ như thế ấy Giáo Pháp của vị ấy rạng rỡ nhờ vào các vị A-la-hán.

 

43. Sau khi đă thiết lập vững chắc cây cầu Chánh Pháp để giúp vượt qua ḍng chảy luân hồi đối với số người c̣n lại đă đạt được (đạo quả Hữu Học), đấng Nhân Ngưu ấy đă Niết Bàn.

 

44. Đức Phật ấy là vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng, và các bậc Lậu Tận ấy là có oai lực vô song, tất cả đều hoàn toàn biết mất; phải chăng tất cả các hành là trống không?

 

45. Đấng Chiến Thắng hàng đầu Nārada đă Niết Bàn tại thành phố Sudassana. Ngôi bảo tháp cao quư của đấng Chiến Thắng đă được dựng lên cao bốn do-tuần ở ngay tại nơi ấy.

 

Lịch sử đức Phật Nārada là phần thứ chín.

 

--ooOoo--

 

10. Lịch Sử Đức Phật Padumuttara

  

1. Sau (đức Phật) Nārada, có đấng Toàn Giác, bậc Tối Thượng Nhân tên Padumuttara là không bị chao động, tương tợ như biển cả.

 

2. Và đức Phật đă sanh lên vào kiếp Maṇḍa ấy.[5] Chúng sanh đă sanh lên trong kiếp ấy là vô cùng tốt lành.[6]

 

3. Trong khi đức Thế Tôn Padumuttara thuyết giảng Giáo Pháp lần thứ nhất, đă có sự lănh hội Giáo Pháp của một trăm ngàn koṭi vị.

 

4. Về sau vào lúc khác nữa, trong lúc đổ xuống cơn mưa (Pháp) khiến cho các hạng chúng sanh được hài ḷng, đă có sự lănh hội lần thứ nh́ là của ba mươi bảy trăm ngàn koṭi (ba triệu bảy trăm ngàn) vị.

 

5. Vào thời điểm đấng Đại Hùng đi đến gặp (người cha là) Ānanda, Ngài đă đi đến trong sự hiện diện của người cha và đă gióng lên tiếng trống Bất Tử.

 

6. Khi tiếng trống Bất Tử đă được gióng lên và trong khi cơn mưa Pháp Bảo đang rơi xuống, đă có sự lănh hội lần thứ ba là của năm mươi trăm ngàn koṭi (năm triệu) vị.

 

7. Đức Phật là vị giáo giới, là vị làm cho hiểu rơ, là vị giúp cho tất cả chúng sanh vượt qua, là vị thiện xảo về thuyết giảng; Ngài đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

 

8. Bậc Đạo Sư Padumuttara đă có ba lần tụ hội. Cuộc hội tụ thứ nhất là của một trăm ngàn koṭi vị.

 

9. Khi đức Phật, vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng, cư ngụ ở tại ngọn núi Vebhāra, đă có cuộc hội tụ thứ nh́ của chín mươi ngàn koṭi vị.

 

10. Hơn nữa, trong khi ra đi du hành từ các làng mạc, thị trấn, và quốc độ, đă có cuộc hội tụ thứ ba của tám mươi ngàn koṭi vị.

 

11. Vào lúc bấy giờ, ta là vị lănh chúa tên Jaṭila. Ta đă cúng dường vải cùng với bữa ăn đến hội chúng (tỳ khưu) có bậc Toàn Giác đứng đầu.

 

 12. Đức Phật ấy, ngồi giữa hội chúng, cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong một trăm ngàn kiếp tính từ thời điểm này, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

13. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

14. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

15. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

16. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

17. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

18. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

19. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.

 

20. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

21. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

22. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

23. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

24. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

25. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

26. Nghe được lời nói của vị ấy, ta đă quyết định sự thực hành tối thắng. Ta đă thực hiện sự nỗ lực vô cùng bền bĩ để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

27. Khi ấy, tất cả các người ngoại đạo bị ruồng bỏ trở nên hốt hoảng, có tâm trí chán nản. Đối với bọn họ, không c̣n có người nào phục vụ. Mọi người xua đuổi họ ra khỏi quốc độ.

 

28. Tất cả đă tụ hội lại tại nơi ấy và đă đi đến gặp đức Phật (nói rằng): “Bạch đấng Đại Hùng, ngài là vị lănh đạo. Hỡi bậc Hữu Nhăn, ngài hăy là chốn nương nhờ.”

 

29. Bậc có ḷng thương xót, đấng Bi Mẫn, vị tầm cầu lợi ích cho tất cả chúng sanh đă an trú vào năm giới cấm cho tất cả những người ngoại đạo đă đi đến (với Ngài).

 

30. Như thế, Giáo Pháp đă không bị pha trộn, không c̣n các ngoại đạo, và được tô điểm bởi các vị A-la-hán ở vào trạng thái thu thúc như thế ấy.

 

31. Thành phố có tên là Haṃsavatī, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Ānanda, người mẹ của vị Đại Ẩn Sĩ Padumuttama tên là Sujātā.

 

32. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh mười ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Naravāhana, Yasa, và Yasavatti.

 

33. Có bốn mươi ba ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Vasuladattā. Con trai tên là Uttara.

 

34. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, bậc Tối Thượng Nhân đă ra đi bằng ṭa lâu đài và đă thực hành hạnh nỗ lực bảy ngày.

 

35. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Hướng Đạo, đấng Đại Hùng Padumuttara đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở công viên tuyệt vời Mithila.

 

36. Devala và Sujāta đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đạo Sư Padumuttara tên là Sumana.

 

37. Amitā và luôn cả Asamā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là “Salala.”

 

38. Vitiṇṇa và luôn cả Tissa đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Haṭṭhā và luôn cả Vicittā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

39. Đạt đến năm mươi tám ratana (14 mét rưỡi) về chiều cao, đấng Đại Hiền Triết với ba mươi hai tướng trạng cao quư tương tợ như cột trụ bằng vàng có gắn tràng hoa.

 

40. Các tường thành, cửa lớn, vách đất, cây cối, mỏm đá ở xung quanh mười hai do-tuần không có che khuất vị ấy.

 

41. Tuổi thọ được biết là kéo dài đến một trăm ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

 

42. Sau khi đă giúp cho nhiều người vượt qua, sau khi đă cắt đứt tất cả các điều nghi hoặc, vị ấy đă rực cháy như là khối lửa rồi đă Niết Bàn cùng với các vị Thinh Văn.

 

43. Đức Phật, đấng Chiến Thắng Padumuttara đă Niết Bàn tại tu viện Nandā. Ngôi bảo tháp cao quư dành cho vị ấy có chiều cao mười hai do-tuần ở ngay tại nơi ấy.

 

Lịch sử đức Phật Padumuttara là phần thứ mười.

 

--ooOoo--

 

 

11. Lịch Sử Đức Phật Sumedha

 

1. Sau (đức Phật) Padumuttara, có bậc Lănh Đạo tên Sumedha là đấng Hiền Triết tối thượng của toàn thể thế giới, có oai lực nỗi bật, khó thể đạt đến.

 

2. Có cặp mắt an tịnh, khuôn mặt đầy đặn, (thân h́nh) cao lớn, ngay thẳng, hùng dũng, là người tầm cầu lợi ích cho tất cả chúng sanh, (vị ấy) đă giúp cho nhiều người thoát khỏi sự trói buộc.

 

3. Khi đă thành tựu toàn vẹn quả vị Giác Ngộ tối thượng, đức Phật đă chuyển vận bánh xe Chánh Pháp ở tại thành phố Sudassana.

 

4. Trong việc thuyết giảng Giáo Pháp của vị ấy, đă có ba sự lănh hội. Sự lănh hội lần thứ nhất là của một trăm ngàn koṭi vị.

 

5. Hơn nữa vào lần khác, đấng Chiến Thắng ấy đă thuần phục Dạ-xoa Kumbhakaṇṇa. Đă có sự lănh hội lần thứ nh́ là của chín chục ngàn koṭi (chín trăm tỷ) vị.

 

6. Hơn nữa vào lần khác, bậc có danh tiếng vô hạn đă giảng giải về bốn Chân Lư. Đă có sự lănh hội lần thứ ba là của tám chục ngàn koṭi (tám trăm tỷ) vị.

 

7. Bậc Đại Ẩn Sĩ Sumedha đă có ba lần tụ hội gồm các vị Lậu Tận không c̣n ô nhiễm có tâm thanh tịnh như thế ấy.

 

8. Vào lúc đấng Chiến Thắng ngự đến thành phố Sudassana, khi ấy một trăm koṭi (một tỷ) vị tỳ khưu là các bậc Lậu Tận đă tụ hội lại.

 

9. Hơn nữa vào lần khác, lúc tiến hành lễ (dâng y) Kaṭhina cho các vị tỳ khưu ở tại Devakūṭa, khi ấy đă có cuộc hội tụ thứ nh́ của chín chục koṭi vị.

 

10. Hơn nữa vào lần khác, lúc đấng Thập Lực đi du hành, khi ấy đă có cuộc hội tụ thứ ba của tám chục koṭi vị.

 

11. Vào lúc bấy giờ, ta là người thanh niên Bà-la-môn tên Uttara. Tài sản đă được tích lũy trong nhà của ta là tám mươi koṭi (tám trăm triệu).

 

12. Sau khi đă cúng dường toàn bộ tất cả đến đấng Lănh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng (tỳ khưu), ta đă đi đến nương nhờ vị ấy và đă hứng thú với việc xuất gia.

 

13. Trong khi thể hiện sự tùy hỷ (phước báu), đức Phật ấy cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong ba chục ngàn kiếp, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

14. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

15. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

16. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

17. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

18. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

19. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

20. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’

 

21. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

22. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

23. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

24. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

25. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

26. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

27. Nghe được lời nói của vị ấy, ta đă tăng thêm niềm tín tâm. Ta đă quyết định sự thực hành tối thắng để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

28. Sau khi học tập toàn bộ Kinh và luôn cả Luật tức là Giáo Pháp của bậc Đạo Sư gồm chín thể loại, ta đă làm rạng rỡ Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng.

 

29. Trong khi sống không xao lăng trong Giáo Pháp ấy vào lúc ngồi, đứng, đi kinh hành, sau khi làm toàn hảo các thắng trí, ta đă đi đến thế giới của Phạm Thiên.

 

30. Thành phố có tên là Sudassana, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Sudatta, người mẹ của bậc Đại Ẩn Sĩ Sumedha tên là Sudattā.

 

31. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh trong chín ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Sucandanaka, Koñca, và Sirivaḍḍha.

 

32. Có ba lần mười sáu ngàn (bốn mươi tám ngàn) phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Sumanā. Con trai tên là Punabbasumitta.

 

33. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đă ra đi bằng phương tiện voi và đă ra sức nỗ lực tám tháng không thiếu sót.

 

34. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Lănh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng Sumedha, đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở tại công viên Sudassana tuyệt vời.

 

35. Saraṇa và Sabbakāma đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Sumedha tên là Sāgara.

 

36. Rāmā và luôn cả Surāmā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là “Cây Nīpa vĩ đại.”

 

37. Uruvela và luôn cả Yasava đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Yasodharā và Sirimā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

38. Cao tám mươi tám ratana (22 mét), bậc Đại Hiền Triết chiếu sáng tất cả các phương tợ như mặt trăng ở giữa tập thể các v́ sao.

 

39. Giống như viên ngọc ma-ni của vị Chuyển Luân Vương chiếu sáng một do tuần, tương tợ y như thế, ngọc quư của vị ấy tỏa sáng một do-tuần ở xung quanh.[7]

 

40. Tuổi thọ được biết là kéo dài đến chín chục ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

 

41. (Giáo Pháp) này đă được hưng thịnh nhờ vào các vị A-la-hán tốt lành, đă thành tựu tam minh, sáu thắng trí, và năng lực như thế ấy.

 

42. Tất cả các vị ấy đều có danh tiếng vô hạn, đă được giải thoát, không c̣n tái sanh. Sau khi thị hiện ánh sáng của trí tuệ, tất cả các vị có danh tiếng lớn lao ấy đă Niết Bàn.

 

43. Đức Phật, đấng Chiến Thắng cao quư Sumedha đă Niết Bàn tại tu viện Medha. Đă có sự phân tán xá-lợi từ xứ sở ấy đến khắp các nơi.

 

Lịch sử đức Phật Sumedha là phần thứ mười một.

 

--ooOoo--

 

 

12. Lịch Sử Đức Phật Sujāta

 

1. Cũng chính trong kiếp Maṇḍa ấy,[8] có vị Lănh Đạo tên Sujāta là có hàm sư tử, vai rộng, không thể đo lường, khó thể đạt đến.

 

2. Không bợn nhơ và tinh khiết như mặt trăng, huy hoàng như mặt trời, luôn chói sáng với sự vinh quang, đấng Toàn Giác rạng rỡ như thế ấy.

 

3. Sau khi thành tựu toàn vẹn quả vị Giác Ngộ tối thượng, đấng Toàn Giác đă chuyển vận bánh xe Chánh Pháp ở tại thành phố Sumaṅgala.

 

4. Trong khi đấng Lănh Đạo Thế Gian Sujāta thuyết giảng Giáo Pháp cao quư vào dịp thuyết giảng Giáo Pháp lần thứ nhất, tám mươi koṭi (tám trăm triệu) vị đă lănh hội.

 

5. Khi vị có danh tiếng vô lượng Sujāta vào mùa (an cư) mưa ở cơi trời, đă có sự lănh hội lần thứ nh́ là của ba mươi bảy trăm ngàn (ba triệu bảy trăm ngàn).

 

6. Vào lúc (đức Phật) Sujāta, vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng, đi đến gặp người cha, đă có sự lănh hội lần thứ ba là của sáu mươi trăm ngàn (sáu triệu).

 

7. Bậc Đại Ẩn Sĩ Sujāta đă có ba lần tụ hội gồm các vị Lậu Tận không c̣n ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như thế ấy.

 

8. Trong số các vị đă đạt đến năng lực của các thắng trí, không c̣n tái sanh vào cơi này cơi khác, các vị ấy (với số lượng) sáu trăm ngàn đă tụ hội lại là lần thứ nhất.

 

9. Vào lần khác nữa, trong cuộc tụ hội vào dịp đấng Chiến Thắng từ cơi trời hạ thế, đă có cuộc hội tụ lần thứ nh́ của năm chục trăm ngàn (năm triệu) vị.

 

10. Vị Thinh Văn hàng đầu của vị ấy, khi đi đến gặp đấng Nhân Ngưu bậc Toàn Giác, đă đi đến với bốn trăm ngàn vị (là lần thứ ba).

 

11. Vào lúc bấy giờ, ta là vị lănh chúa ở bốn ḥn đảo, là vị Chuyển Luân Vương có năng lực lớn lao, di chuyển ở trên không trung.

 

12. Sau khi chứng kiến điều kỳ diệu ở thế gian, (là việc) phi thường, khiến lông dựng đứng, ta đă đi đến và đảnh lễ đấng Lănh Đạo Thế Gian Sujāta ấy.

 

13. Sau khi đă dâng lên vương quốc rộng lớn gồm bốn ḥn đảo và bảy vật báu tối thắng đến đức Phật, ta đă xuất gia trong sự chứng minh của vị ấy.

 

14. Những người hộ tự ở trong xứ sở, sau khi gom góp phẩm vật đă đem lại đồ dùng thiết yếu, vật trải nằm lót ngồi, dâng lên hội chúng tỳ khưu.

 

15. Khi ấy, vị Chúa Tể trong mười ngàn thế giới cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong ba mươi ngàn kiếp, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

16. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

17. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

18. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

19. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

20. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

21. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

22. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’

 

23. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

24. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

25. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

26. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

27. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

28. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

29. Nghe được lời nói của vị ấy, ta đă sanh khởi niềm hoan hỷ bội phần. Ta đă quyết định sự thực hành tột bực để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

30. Sau khi học tập toàn bộ Kinh và luôn cả Luật tức là Giáo Pháp của bậc Đạo Sư gồm chín thể loại, ta đă làm rạng rỡ Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng.

 

31. Trong khi sống không xao lăng trong Giáo Pháp ấy, sau khi tu tập thiền Phạm Thiên và đạt đến sự toàn hảo trong các thắng trí, ta đă đi đến thế giới của Phạm Thiên.

 

32. Thành phố có tên là Sumaṅgala, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Uggata, người mẹ của vị Đại Ẩn Sĩ Sujāta tên là Pabhāvatī.

 

33. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh chín ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Sirī, Upasirī, và Nandā.

 

34. Có hai mươi ba ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Sirinandā. Con trai tên là Upasena.

 

35. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đă ra đi bằng phương tiện ngựa và đă ra sức nỗ lực chín tháng không thiếu sót.

 

36. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Lănh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng Sujāta đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở công viên tuyệt vời Sumaṅgala.

 

37. Sudassana và Sudeva đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Sujāta tên là Nārada.

 

38. Nāgā và Nāgasamālā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi là Mahāvelu (cây tre vĩ đại).

 

39. Và cây tre ấy có thân đặc, không có bọng, rậm lá, là loại cây thẳng đuột, to lớn, đáng nh́n, xinh xắn.

 

40. Giống cây ấy có một thân, khi đă phát triển th́ được phân thành các nhánh từ thân ấy như là chùm lông đuôi của chim công được buộc chặt lại; giống cây ấy xinh đẹp như thế.

 

41. Không có các gai ở cây ấy và cũng không có lỗ bọng lớn, cành cây x̣e rộng, không thưa thớt, bóng râm dày đặc, xinh xắn.

 

42. Sudatta và luôn cả Citta đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Subhaddā và luôn cả Padumā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

43. Với chiều cao năm mươi ratana (12.5 m), đấng Chiến Thắng ấy đạt đến sự cao quư về mọi mặt và thành tựu tất cả các đức hạnh.

 

44. Tương đương với các loại hào quang không thể sánh bằng, hào quang của vị ấy tỏa sáng xung quanh. Vị ấy là vô lượng, vô song, với các sự so sánh đối chiếu không có người tương tợ.

 

45. Tuổi thọ được biết là kéo dài đến chín mươi ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đă giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

 

46. Cũng giống như các làn sóng ở biển cả, giống như các v́ sao ở bầu trời, tương tợ như thế, lúc bấy giờ lời tuyên thuyết (của đức Phật ấy) được tô điểm nhờ vào các vị A-la-hán.

 

47. Đức Phật ấy, vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng, và các đức hạnh vô song ấy, tất cả đều hoàn toàn biết mất; phải chăng tất cả các hành là trống không?

 

48. Đức Phật, đấng Chiến Thắng cao quư Sujāta đă Niết Bàn tại tu viện Sīla. Ngôi bảo tháp được dựng lên cao ba gāvuta (tương đương 12 km) dành cho bậc Đạo Sư ở ngay tại nơi ấy.

 

Lịch sử đức Phật Sujāta là phần thứ mười hai.

 

--ooOoo--

 

 

13. Lịch Sử Đức Phật Piyadassī

 

1. Sau (đức Phật) Sujāta, đấng Lănh Đạo Thế Gian Piyadassī là vị tự ḿnh chứng ngộ, khó thể đạt đến, tương đương với các vị không thể sánh bằng, có danh tiếng vĩ đại.

 

2. Có danh tiếng vô hạn, đức Phật ấy cũng chiếu sáng tợ như mặt trời. Sau khi hủy diệt tất cả bóng tối, Ngài đă chuyển vận bánh xe Chánh Pháp.

 

3. Đối với vị có oai lực vô song ấy, cũng đă có ba sự lănh hội. Sự lănh hội lần thứ nhất là của một trăm ngàn koṭi vị.

 

4. Thiên Vương Sudassana đă thuận theo tà kiến. Trong khi xua tan tà kiến của vị ấy, bậc Đạo Sư đă thuyết giảng Chánh Pháp.

 

5. Cuộc tụ hội của các hạng chúng sanh là vô song. Khi ấy, đám đông đă tụ hội lại. Đă có sự lănh hội lần thứ nh́ là của chín mươi ngàn koṭi vị.

 

6. Vào lúc bậc Điều Khiển nhân loại huấn luyện con voi Doṇamukha, đă có sự lănh hội lần thứ ba là của tám mươi ngàn koṭi vị.

 

7. Vị Piyadassī ấy cũng đă có ba lần tụ hội. Cuộc hội tụ thứ nhất là của một trăm ngàn koṭi vị.

 

8. Sau đó vào lúc khác, chín mươi koṭi vị hiền triết đă hội họp chung lại với nhau. Ở cuộc hội tụ thứ ba, đă có tám mươi koṭi vị.

 

9. Vào lúc bấy giờ, ta là người thanh niên Bà-la-môn tên Kassapa, là vị tŕ tụng, nắm vững chú thuật, thành thạo ba bộ Vệ Đà.

 

10. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, ta đă sanh khởi niềm tin. Với một trăm ngàn koṭi (đồng tiền) ta đă tạo lập tu viện cho hội chúng.

 

11. Sau khi dâng cúng tu viện đến vị ấy, ta trở nên mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn, đă tạo lập sự vững chăi trong việc nương nhờ và đă thọ tŕ năm giới.

 

12. Đức Phật ấy, ngồi giữa hội chúng, cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong mười tám trăm (một ngàn tám trăm) kiếp, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

13. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

14. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

15. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

16. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

17. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

18. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

19. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’

 

20. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

21. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

22. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

23. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

24. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

25. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

26. Nghe được lời nói của vị ấy, ta đă tăng thêm niềm tín tâm. Ta đă quyết định sự thực hành tối thắng để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

27. Thành phố có tên là Sudhañña, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Sudatta, người mẹ của đấng Đạo Sư Piyadassī tên là Sucandā.

 

28. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh trong chín ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Sunimmala, Vimala, và Giribrahā.

 

29. Có ba mươi ba ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Vimalā. Con trai là Kañcanāvela.

 

30. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, bậc Tối Thượng Nhân đă ra đi bằng phương tiện xe và đă thực hành sự nỗ lực sáu tháng.

 

31. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, bậc Đại Hiền Triết, đấng Đại Hùng Piyadassī đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) tại công viên Usabha xinh đẹp.

 

32. Pālita và Sabbadassī đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của đấng Đạo Sư Piyadassī tên là Sobhita.

 

33. Sujātā và Dhammadinnā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là “Kakudha.”

 

34. Sandhaka và Dhammaka đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Visākhā và Dhammadinnā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

35. Có danh tiếng vô hạn, với ba mươi hai tướng trạng cao quư, và chiều cao tám mươi cánh tay (80 x 0.5 = 40 m), đức Phật ấy được nh́n thấy như là cây Sālā chúa.

 

36. Không có ánh sáng của ngọn lửa, của mặt trăng hay mặt trời, tương tợ như hào quang của bậc Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng ấy.

 

37. Tuổi thọ của vị ấy cũng dài như là (tuổi thọ) của các hàng thiên nhân. Bậc Hữu Nhăn đă tồn tại ở thế gian chín mươi ngàn năm.

 

38. Đức Phật ấy, vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng, luôn cả các đức hạnh vô song ấy, tất cả đều hoàn toàn biết mất; phải chăng tất cả các hành là trống không?

 

39. Đấng Hiền Triết cao quư Piyadassī ấy đă Niết Bàn tại tu viện Assattha. Ngôi bảo tháp của đấng Chiến Thắng dành cho vị ấy đă được dựng lên cao ba do-tuần ở ngay tại nơi ấy.

 

Lịch sử đức Phật Piyadassī là phần thứ mười ba.

 

--ooOoo--

 

 

14. Lịch Sử Đức Phật Atthadassī

 

1. Cũng chính trong kiếp Maṇḍa ấy,[9] bậc Nhân Ngưu Atthadassī sau khi hủy diệt bóng đêm mịt mù đă đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng.

 

2. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị ấy đă chuyển vận bánh xe Chánh Pháp và đă làm hài ḷng thế gian mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên bằng sự Bất Tử.

 

3. Đối với đấng Lănh Đạo Thế Gian ấy, cũng đă có ba sự lănh hội. Sự lănh hội lần thứ nhất là của một trăm ngàn koṭi vị.

 

4. Vào lúc đức Phật Atthadassī đi du hành ở cơi trời, đă có sự lănh hội lần thứ nh́ là của một trăm ngàn koṭi vị.

 

5. Vào dịp khác nữa, khi đức Phật thuyết giảng trong sự hiện diện của người cha, đă có sự lănh hội lần thứ ba là của một trăm ngàn koṭi vị.

 

6. Và bậc Đại Ẩn Sĩ ấy đă có ba lần tụ hội gồm các vị Lậu Tận không c̣n ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như thế ấy.

 

7. Cuộc hội tụ thứ nhất là của chín mươi tám ngàn koṭi vị. Cuộc hội tụ thứ nh́ là của tám mươi tám ngàn koṭi vị.

 

8. Cuộc hội tụ thứ ba là của bảy mươi tám ngàn koṭi (bảy trăm tám mươi tỷ) vị đại ẩn sĩ đă hoàn toàn giải thoát khỏi chấp thủ, không c̣n ô nhiễm.

 

9. Vào lúc bấy giờ, ta là vị đạo sĩ tóc bện có sự khổ hạnh cao tột tên là Susima, được xem là hạng nhất ở trên trái đất.

 

10. Sau khi mang từ thế giới chư thiên bông hoa Mạn-đà-la, hoa sen, hoa san hô của cơi trời, ta đă cúng dường đến đấng Toàn Giác.

 

11. Đức Phật ấy, bậc đại hiền triết Atthadassī, cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong mười tám trăm (một ngàn tám trăm) kiếp, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

12. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

13. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

14. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

15. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

16. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

17. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

18. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’

 

19. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

20. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

21. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

22. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

23. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

24. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

25. Nghe được lời nói của vị ấy, ta trở nên mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn, đă quyết định sự thực hành tối thắng để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

26. Thành phố có tên là Sobhaṇa, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Sāgara, người mẹ của bậc Đạo Sư Atthadassī tên là Sudassanā.

 

27. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh mười ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Amaragiri, Suragiri, và Girivāhana.

 

28. Có ba mươi ba ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Visākhā. Con trai tên là Sela.

 

29. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đă ra đi bằng phương tiện ngựa và đă ra sức nỗ lực trong tám tháng không thiếu sót.

 

30. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị có danh tiếng lớn lao, đấng Đại Hùng, bậc Nhân Ngưu Atthadassī đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở công viên Anoma.

 

31. Santa và Upasanta đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đạo Sư Atthadassī tên là Abhaya.

 

32. Dhammā và luôn cả Sudhammā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là “Campaka.”

 

33. Nakula và luôn cả Nisabha đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Makilā và Sunandā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

34. Cao tám mươi ratana (20 mét), được vẹn toàn như là mặt trăng (chúa của các v́ sao), đức Phật ấy, vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng, sáng chói như là cây Sālā chúa.

 

35. Hàng trăm koṭi hào quang tự nhiên của vị ấy luôn luôn tỏa rộng một do-tuần ở khắp mười phương, bên trên và bên dưới.

 

36. Đức Phật ấy, bậc Nhân Ngưu, đấng Hiền Triết tối thượng của tất cả chúng sanh, bậc Hữu Nhăn cũng đă tồn tại ở thế gian một trăm ngàn năm.

 

37. Sau khi thị hiện hào quang vô song và đă chiếu sáng thế gian luôn cả chư thiên, vị ấy cũng đạt đến hiện trạng vô thường tương tợ như ngọn lửa cạn nguồn nhiên liệu.

 

38. Đấng Chiến Thắng cao quư Atthadassī đă Niết Bàn tại tu viện Anoma. Đă có sự phân tán xá-lợi từ xứ sở ấy đến khắp các nơi.

 

Lịch sử đức Phật Atthadassī là phần thứ mười bốn.

 

--ooOoo--

 

 

15. Lịch Sử Đức Phật Dhammadassī

  

1. Cũng chính trong kiếp Maṇḍa ấy, vị có danh tiếng lớn lao Dhammadassī đă xua tan bóng đêm tăm tối và chiếu sáng thế gian luôn cả các cơi trời.

 

2. Cũng trong việc chuyển vận bánh xe Chánh Pháp của vị có oai lực vô song ấy, đă có sự lănh hội lần thứ nhất là của một trăm ngàn koṭi vị.

 

3. Vào lúc đức Phật Dhammadassī hướng dẫn vị ẩn sĩ Sañjaya, khi ấy đă có sự lănh hội lần thứ nh́ là của chín chục koṭi vị.

 

4. Vào lúc (Chúa Trời) Sakka cùng với tùy tùng đi đến gặp bậc Hướng Đạo, khi ấy đă có sự lănh hội lần thứ ba là của tám chục koṭi vị.

 

5. Đấng Thiên Nhân của chư thiên ấy cũng đă có ba lần tụ hội gồm các vị Lậu Tận không c̣n ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như thế ấy.

 

6. Lúc đức Phật Dhammadassī vào mùa (an cư) mưa ở Saraṇa, khi ấy đă có cuộc hội tụ thứ nhất của một ngàn koṭi vị.

 

7. Vào lần khác nữa, lúc đức Phật từ cơi trời đi đến cơi nhân loại, khi ấy cũng đă có cuộc hội tụ thứ nh́ của một trăm koṭi vị.

 

8. Vào lần khác nữa, lúc đức Phật giảng giải về các đức hạnh là các pháp đầu-đà, khi ấy đă có cuộc hội tụ thứ ba của tám mươi koṭi vị.

 

9. Vào lúc bấy giờ, ta là (Chúa Trời) Sakka, (có danh hiệu là) Purindada. Ta đă cúng dường hương thơm của cơi trời, tràng hoa, nhạc cụ (đến đức Phật).

 

10. Lúc bấy giờ, đức Phật ấy ngồi ở giữa chư thiên cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong mười tám trăm (một ngàn tám trăm) kiếp, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

11. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

12. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

13. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

14. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

15. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

16. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

17. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’

 

18. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

19. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

20. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

21. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

22. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

23. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

24. Nghe được lời nói của vị ấy, ta đă tăng thêm niềm tín tâm. Ta đă thực hiện sự nỗ lực tối thắng để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

25. Thành phố có tên là Saraṇa, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Saraṇa, người mẹ của bậc Đạo Sư Dhammadassī tên là Sunandā.

 

26. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh tám ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Araja, Viraja, và Sudassana.

 

27. Có bốn mươi ba ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Vicitolī. Con trai tên là Puññavaḍḍhana.

 

28. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, bậc Tối Thượng Nhân đă ra đi bằng ṭa lâu đài và đă thực hành hạnh nỗ lực bảy ngày.

 

29. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, bậc Nhân Ngưu, đấng Đại Hùng, vị Tối Thượng Nhân Dhammadassī đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở Migadāya (vườn nai).

 

30. Paduma và Phussadeva đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đạo Sư Dhammadassī tên là Sunetta.

 

31. Khemā và Saccanāmā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi là “Bimbijāla.”

 

32. Subhadda và luôn cả Kaṭissaha sẽ là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Sāliyā và Valiyā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

33. Cao tám mươi cánh tay (40 mét), đức Phật ấy, vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng, nổi bật trong mười ngàn thế giới nhờ vào oai lực.

 

34. Tợ như cây Sālā chúa nở rộ bông, giống như tia sét ở trên bầu trời, như là mặt trời lúc chính ngọ, khi ấy vị ấy đă chiếu sáng như thế.

 

35. Mạng sống (tuổi thọ) của vị có oai lực vô song ấy cũng tương tợ (như loài người), bậc Hữu Nhăn đă tồn tại ở thế gian một trăm ngàn năm.

 

36. Sau khi đă thị hiện hào quang và làm cho Giáo Pháp không c̣n ô nhiễm, vị ấy cùng với các Thinh Văn đă Niết Bàn tương tợ như mặt trăng đă lặn ở trên bầu trời.

 

37. Đấng Đại Hùng Dhammadassī đă Niết Bàn tại tu viện Kesa. Ngôi bảo tháp cao quư được dựng lên cao ba do-tuần dành cho chính vị ấy ở ngay tại nơi ấy.

 

Lịch sử đức Phật Dhammadassī là phần thứ mười lăm.

 

--ooOoo--

 

 

16. Lịch Sử Đức Phật Siddhattha

 

1. Sau (đức Phật) Dhammadassī, bậc Lănh Đạo Thế Gian Siddhattha đă tiêu diệt tất cả tăm tối như là mặt trời đă mọc lên ở không trung.

 

2. Sau khi đạt được quả vị Toàn Giác, vị ấy cũng đă làm cơn mưa với đám mây Chánh Pháp giúp cho thế gian luôn cả chư thiên vượt qua, và tế độ thế gian luôn cả chư thiên chứng ngộ Niết Bàn.

 

3. Đối với vị có oai lực vô song ấy, cũng đă có ba sự lănh hội. Sự lănh hội lần thứ nhất là của một trăm ngàn koṭi vị.

 

4. Cũng vào dịp khác nữa, vào lúc Ngài gióng lên tiếng trống ở Bhīmaratha (quốc độ của sự kinh hoàng), khi ấy đă có sự lănh hội lần thứ nh́ là của chín mươi koṭi vị.

 

5. Vào lúc đức Phật, bậc Tối Thượng Nhân ấy, thuyết giảng Giáo Pháp ở Vebhāra, khi ấy đă có sự lănh hội lần thứ ba là của chín mươi koṭi vị.

 

6. Và bậc Tối Thượng của loài người ấy cũng đă có ba lần tụ hội gồm các vị Lậu Tận không c̣n ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như thế ấy:

 

7. Đây là ba số liệu về việc hội tụ của các vị không c̣n ô nhiễm: của một trăm koṭi vị, của chín mươi (koṭi) vị, và của tám mươi koṭi vị.

 

8. Vào lúc bấy giờ, ta là vị đạo sĩ khổ hạnh tên Maṅgala có oai lực cao tột, khó có ai vượt trội, đă thành tựu thiền định và năng lực của các thắng trí.

 

9. Sau khi mang lại trái cây từ cây Jambu,[10] ta đă dâng đến (đức Phật) Siddhattha. Sau khi nhận lănh, bậc Toàn Giác đă nói lên lời này:

 

10. “Các ngươi hăy nh́n vị đạo sĩ khổ hạnh tóc bện có khổ hạnh cao tột này. Trong chín mươi bốn kiếp tính từ thời điểm này, người này sẽ trở thành vị Phật

 

11. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

12. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

13. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

14. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

15. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

16. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

17. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’

 

18. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

19. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

20. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

21. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

22. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

23. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

24. Nghe được lời nói của vị ấy, ta đă tăng thêm niềm tín tâm. Ta đă quyết định sự thực hành tối thắng để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

25. Thành phố có tên là Vebhāra, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Udena, người mẹ của bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha tên là Suphassā.

 

26. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh trong mười ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Kokā, Suppalā, và Kokanadā.

 

27. Có ba lần mười sáu ngàn (bốn mươi tám ngàn) phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Sumanā. Con trai tên là Anupama.

 

28. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đă ra đi bằng phương tiện kiệu khiêng và đă ra sức nỗ lực mười tháng không thiếu sót.

 

29. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Lănh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng, bậc Tối Thượng Nhân Siddhattha đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở tại Migadāya (vườn nai).

 

30. Sambala và Sumitta đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha tên là Revata.

 

31. Sīvalā và Surāmā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi là “Kaṇikāra.”

 

32. Suppiya và Samudda đă là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Rammā và luôn cả Surammā đă là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

33. Vươn lên bầu trời (chiều cao) sáu mươi ratana (15 mét), đức Phật ấy chiếu sáng mười ngàn thế giới tương tợ như cột trụ bằng vàng có gắn tràng hoa.

 

34. Đức Phật ấy, vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng, là bậc vô song, không người đối địch. Bậc Hữu Nhăn cũng đă tồn tại ở thế gian một trăm ngàn năm.

 

35. Sau khi thị hiện hào quang tuyệt vời và giúp cho các môn đồ đơm hoa kết trái. Sau khi đă được rạng rỡ với sự chứng ngộ, vị ấy cùng với các Thinh Văn đă Niết Bàn.

 

36. Đức Phật Siddhattha, đấng Hiền Triết cao quư đă Niết Bàn tại tu viện Anoma. Ngôi bảo tháp cao quư dành cho vị ấy đă được dựng lên cao bốn do-tuần ở ngay tại nơi ấy.

 

Lịch sử đức Phật Siddhattha là phần thứ mười sáu.

 

--ooOoo--

 

 

17. Lịch Sử Đức Phật Tissa

 

1. Sau (đức Phật) Siddhattha, bậc Lănh Đạo hàng đầu của thế gian Tissa là không ai sánh bằng, không người đối địch, có oai lực vô biên, có danh vọng vô lường.

 

2. Sau khi đă xua tan bóng đen tăm tối và chiếu sáng thế gian luôn cả các cơi trời, vị có ḷng thương xót, đấng Đại Hùng, bậc Hữu Nhăn đă hiện khởi ở thế gian.

 

3. Cũng có thần thông vô song, giới và định vô song, sau khi đạt đến sự toàn hảo về mọi phương diện, vị ấy đă chuyển vận bánh xe Chánh Pháp.

 

4. Đức Phật ấy đă công bố lời diễn thuyết thanh tịnh ở trong mười ngàn thế giới. Hàng trăm koṭi vị đă lănh hội trong cuộc thuyết giảng Giáo Pháp lần thứ nhất.

 

5. Lần thứ nh́ là của chín mươi ngàn koṭi vị. Lần thứ ba là của sáu mươi ngàn koṭi vị. Khi ấy, Ngài đă giúp cho nhân loại và chư thiên đă tề tựu lại được giải thoát khỏi các sự trói buộc.

 

6. Bậc Lănh Đạo hàng đầu của thế gian Tissa cũng đă có ba lần tụ hội gồm các vị Lậu Tận không c̣n ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như thế ấy.

 

7. Đă có cuộc hội tụ thứ nhất của một trăm ngàn bậc Lậu Tận. Đă có cuộc hội tụ thứ nh́ của chín chục trăm ngàn (chín triệu) vị.

 

8. Đă có cuộc hội tụ thứ ba của tám chục trăm ngàn (tám triệu) bậc Lậu Tận, không c̣n ô nhiễm, đă nở hoa trong sự giải thoát.

 

9. Vào lúc bấy giờ, ta là vị Sát-đế-lỵ tên Sujāta. Sau khi buông bỏ tài sản lớn lao, ta đă xuất gia làm ẩn sĩ.

 

10. Khi ta đă xuất gia, đấng Lănh Đạo Thế Gian đă xuất hiện. Sau khi nghe được tiếng nói rằng: “Đức Phật!” khi ấy phỉ lạc đă phát khởi ở ta.

 

11. Sau khi nắm lấy hoa Mạn-đà-la, hoa sen, hoa san hô của cơi trời bằng cả hai tay, ta đă vội vă đi đến.

 

12. Ta đă cầm lấy bông hoa ấy và đặt lên đỉnh đầu của đấng Chiến Thắng, bậc Lănh Đạo hàng đầu của thế gian Tissa đang được vây quanh bởi bốn thành phần.[11]

 

13. Khi ấy, ngồi giữa mọi người đức Phật ấy cũng đă chú nguyện cho ta rằng: “Trong chín mươi hai kiếp tính từ thời điểm này, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

14. Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

15. Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

16. Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy thọ thực món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quư đă được dọn sẵn.

 

17. Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề, bậc Vô Thượng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

18. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

19. Kolita và Upatissa sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng ấy.

 

20. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’

 

21. Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) nam thí chủ hộ độ hàng đầu. Uttarā và Nandamātā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

 

22. Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại vui mừng (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

23. Họ thốt lên những tiếng reo ḥ, vỗ tay, và nở nụ cười. Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

24. “Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lănh Đạo Thế Gian này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

25. Giống như những người đang băng ngang gịng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua gịng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

26. Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này th́ chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

27. Nghe được lời nói của vị ấy, ta đă tăng thêm niềm tín tâm. Ta đă quyết định sự thực hành tối thắng để làm tṛn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

28. Thành phố có tên là Khemaka, vị vua ḍng Sát-đế-lỵ tên là Janasandha, người mẹ của bậc Đại Ẩn Sĩ Tissa tên là Padumā.

 

29. Vị ấy đă sống ở giữa gia đ́nh bảy ngàn năm. Có ba ṭa lâu đài tuyệt vời là Guhā, Selanāri, Nisabhā.

 

30. Có đầy đủ ba mươi ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Subhaddā. Con trai tên là Ānanda.

 

31. Sau khi nh́n thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đă ra đi bằng phương tiện ngựa và đă ra sức nỗ lực tám tháng không thiếu sót.

 

32. Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, bậc Lănh Đạo hàng đầu của thế gian Tissa, đấng Đại Hùng đă chuyển vận bánh xe (Chánh Pháp) ở khu rừng tuyệt vời Yasavatī.

 

33. Brahmadeva và Udaya đă là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Tissa tên là Samaṅga.

 

34. Phussā và luôn cả Sudattā đă là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là “Asana.”

 

35. Sambala và luôn cả Sirīsẽ là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Kīsāgotamī và Upasenā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

36. Cao sáu mươi ratana (15 mét), đức Phật, đấng Chiến Thắng ấy, không có vị tương đương, không có ai sánh bằng, được nh́n thấy như là núi Hy-mă-lạp.

 

37. Tuổi thọ của vị có oai lực vô song ấy là tối thắng.[12] Bậc Hữu Nhăn đă tồn tại ở thế gian một trăm ngàn năm.

 

38. Sau khi đă thọ hưởng danh vọng lớn lao, tối thượng, cao quư, nhất hạng, vị ấy đă rực cháy như là khối lửa rồi đă Niết Bàn cùng với các vị Thinh Văn.

 

39. Tương tợ như đám mây (biến mất) bởi làn gió, như là làn sương (biến mất) bởi mặt trời, như là bóng tối (biến mất) bởi ngọn đèn, vị ấy cùng với các Thinh Văn đă Niết Bàn.

 

40. Đức Phật, đấng Chiến Thắng cao quư Tissa đă Niết Bàn tại tu viện Nanda. Ngôi bảo tháp của đấng Chiến Thắng dành cho vị ấy đă được dựng lên cao ba do-tuần ở ngay tại nơi ấy.

 

Lịch sử đức Phật Tissa là phần thứ mười bảy.

 

--ooOoo--

 

 


 

[1] Ư nói đến quả vị Phật, BvA. 165.

[2] Ṭa lâu đài bay lên không trung đưa vị Bồ Tát đến gần cội cây Bồ Đề để thực hành khổ hạnh và sau đó chứng đắc quả vị Toàn Giác, BvA. 166-7.

[3] Nghĩa là chưa đạt đến sự thấu triệt Chân Lư, BvA. 171.

[4] Mười bốn trí tuệ của vị Phật gồm có 8 trí về Đạo Quả và sáu trí không phổ thông đến các Thinh Văn là: trí biết được khuynh hướng ngũ ngầm của chúng sanh (āsayānusayañāṇaṃ), trí biết được năng lực của người khác (indriyaparopariya-ñāṇaṃ), trí thị hiện song thông (yamakapāṭihāriyañāṇaṃ), trí thể nhập đại bi (mahākaruṇā-samāpattiñāṇaṃ), trí toàn tri (sabbaññutaññāṇaṃ), trí không chướng ngại (anāvaraṇañāṇaṃ) (BvA. 185).

[5] Đức Phật Padumuttara sanh vào sārakappa (kiếp chỉ có một vị Phật), nhưng có tánh chất như là maṇḍakappa (kiếp có hai vị Phật) v́ thành tựu nhiều đức hạnh; đo đó được gọi là maṇḍakappa, BvA. 191.

Sự phân loại của kappa (kiếp): Có hai loại kappa (kiếp):

1/ Suñña-kappa (kiếp trống không) tức là kiếp không có đức Phật Toàn Giác, đức Phật Độc Giác, hoặc vị Chuyển Luân Vương xuất hiện, nghĩa là kiếp không có những nhân vật có đức hạnh sanh lên.

2/ Và a-suñña-kappa (kiếp không trống không) là có năm hạng: sāra-kappa (có một vị Phật Toàn Giác xuất hiện), maṇḍa-kappa (có hai ...), vara-kappa (có ba ...), sāramaṇḍa-kappa (có bốn ...), và bhadda-kappa (có năm vị Phật Toàn Giác xuất hiện); nhiều vị Phật hơn nữa trong một kiếp là không có.

[6] Chú Giải ghi như sau: ussannakusalāti upacitapuññā = “vô cùng tốt lành” nghĩa là “đă tích lũy được nhiều phước báu,” BvA. 191.

[7] Nghĩa là hào quang từ cơ thể của vị ấy tỏa sáng khoảng không gian có bán kính là một do-tuần ở chung quanh, BvA. 201-2.

[8] Kiếp Maṇḍa (maṇḍakappa) là kiếp có hai vị Phật xuất hiện. Trường hợp này là đức Phật Sumedha và đức Phật Sujāta, BvA. 202.

[9] Maṇḍakappa là kiếp có hai vị Phật xuất hiện. Kiếp này có đến ba vị Phật xuất hiện là Piyadassī, Atthadassī, và Dhammadassī lẽ ra phải gọi là varakappa; điều này đă được đề cập ở phần Chú Giải Lịch Sử Đức Phật Padumuttara, BvA. 216.

[10] Trái Jambu là trái mận đỏ, đào đỏ (ND).

[11] Bốn thành phần là Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, gia chủ, và Sa-môn, BvA. 236.

[12] Tuổi thọ là một trăm ngàn năm, không quá dài và không quá ngắn, BvA. 231.

 

 

   
 

| 00 | 01 | 02 | 03 |

 
 

<Mục Lục><Đầu Trang>