|
TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 02
PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU tập II ẤN BẢN 2013 Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda (Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader) |
|||
|
TẠNG LUẬT - TIỂU BỘPHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU tập II
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!
6. CHƯƠNG PĀCITTIYA
Bạch chư đại đức, chín mươi hai điều pācittiya này được đưa ra đọc tụng.
6. 1. PHẨM NÓI DỐI
6. 1. 1. ĐIỀU HỌC VỀ NÓI DỐI
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, Hatthaka con trai ḍng Sakya[1] nói năng tráo trở. Trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo, vị ấy phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố t́nh nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời. Những người ngoại đạo phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao Hatthaka con trai ḍng Sakya trong khi nói chuyện với chúng tôi lại phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố t́nh nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời?”
2. Các tỳ khưu đă nghe được những người ngoại đạo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă đi đến gặp Hatthaka con trai ḍng Sakya, sau khi đến đă nói với Hatthaka con trai ḍng Sakya điều này: - “Này đại đức Hatthaka, nghe nói trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo, đại đức phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố t́nh nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời, có đúng không vậy?” - “Này các đại đức, những người ngoại đạo ấy cần bị đánh bại bằng bất cứ cách nào, sự chiến thắng là không bao giờ được dành cho bọn họ.” Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao Hatthaka con trai ḍng Sakya trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo lại phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố t́nh nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời?”
3. Sau đó, khi đă khiển trách Hatthaka con trai ḍng Sakya bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi Hatthaka con trai ḍng Sakya rằng: - “Này Hatthaka, nghe nói trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo, ngươi phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố t́nh nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, v́ sao trong khi nói chuyện với những người ngoại đạo, ngươi lại phủ nhận rồi thừa nhận, thừa nhận rồi phủ nhận, tránh né điều này bằng điều khác, cố t́nh nói dối, sau khi hẹn ước lại không giữ lời vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin. Này kẻ rồ dại, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đă có đức tin.”
4. Sau đó, khi đă khiển trách vị tỳ khưu ấy bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đă chê bai về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức Ngài đă ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài ḥa, sự đoạn giảm, sự ra sức nỗ lực. Ngài đă nói Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế th́ Ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu v́ mười điều lợi ích: Nhằm sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đă có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi cố t́nh nói dối th́ phạm tội pācittiya.”
5. Cố t́nh nói dối nghĩa là lời nói, tiếng nói, cách nói, lời phát biểu, sự biểu hiện bằng lời nói của vị có ư định lừa dối có tám cách không thánh thiện là: Không thấy (nói rằng): “Tôi đă thấy,” không nghe (nói rằng): “Tôi đă nghe,” không cảm giác (nói rằng): “Tôi đă cảm giác,” không nhận thức (nói rằng): “Tôi đă nhận thức,” đă thấy (nói rằng): “Tôi đă không thấy,” đă nghe (nói rằng): “Tôi đă không nghe,” đă cảm giác (nói rằng): “Tôi đă không cảm giác,” đă nhận thức (nói rằng): “Tôi đă không nhận thức.”
Không thấy nghĩa là không được thấy bởi mắt. Không nghe nghĩa là không được nghe bởi tai. Không cảm giác nghĩa là không được ngửi bởi mũi, (và) không được nếm bởi lưỡi, (và) không được xúc chạm bởi thân. Không nhận thức nghĩa là không được nhận thức bởi ư. Đă thấy nghĩa là đă được thấy bởi mắt. Đă nghe nghĩa là đă được nghe bởi tai. Đă cảm giác nghĩa là đă được ngửi bởi mũi, (hoặc) đă được nếm bởi lưỡi, (hoặc) đă được xúc chạm bởi thân. Đă nhận thức nghĩa là đă được nhận thức bởi ư.
Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă thấy” về điều đă không thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói.”
Với bốn yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă thấy” về điều đă không thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói,” đă che giấu quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă thấy” về điều đă không thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói,” đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă thấy” về điều đă không thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói,” đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă thấy” về điều đă không thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói,” đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.
Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă nghe” về điều đă không nghe ―(như trên)― “Tôi đă cảm giác” về điều đă không cảm giác ―(như trên)― “Tôi đă nhận thức” về điều đă không nhận thức bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói.”
Với bốn yếu tố, ―(như trên)― Với năm yếu tố, ―(như trên)― Với sáu yếu tố, ―(như trên)― Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă nghe” về điều đă không nghe ―(như trên)― “Tôi đă cảm giác” về điều đă không cảm giác ―(như trên)― “Tôi đă nhận thức” về điều đă không nhận thức bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói,” đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.
Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă thấy và đă nghe” về điều đă không thấy bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă thấy và đă cảm giác” về điều đă không thấy bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă thấy và đă nhận thức” về điều đă không thấy bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă thấy, đă nghe, và đă cảm giác” về điều đă không thấy ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă thấy, đă nghe, và đă nhận thức” về điều đă không thấy ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă thấy, đă nghe, đă cảm giác, và đă nhận thức” về điều đă không thấy bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă nghe và đă cảm giác” về điều đă không nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nghe và đă nhận thức” về điều đă không nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nghe và đă thấy” về điều đă không nghe bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă nghe, đă cảm giác, và đă nhận thức” về điều đă không nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nghe, đă cảm giác, và đă thấy” về điều đă không nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nghe, đă cảm giác, đă nhận thức, và đă thấy” về điều đă không nghe bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă cảm giác và đă nhận thức” về điều đă không cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă cảm giác và đă thấy” về điều đă không cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă cảm giác và đă nghe” về điều đă không cảm giác bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă cảm giác, đă nhận thức, và đă thấy” về điều đă không cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă cảm giác, đă nhận thức, và đă nghe” về điều đă không cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă cảm giác, đă nhận thức, đă thấy, và đă nghe” về điều đă không cảm giác ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă nhận thức và đă thấy” về điều đă không nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nhận thức và đă nghe” về điều đă không nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nhận thức và đă cảm giác” về điều đă không nhận thức bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă nhận thức, đă thấy, và đă nghe” về điều đă không nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nhận thức, đă thấy, và đă cảm giác” về điều đă không nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nhận thức, đă thấy, đă nghe, và đă cảm giác” về điều đă không nhận thức bị phạm tội pācittiya ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă không thấy” về điều đă thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói.” Với bốn yếu tố, ―(như trên)― Với năm yếu tố, ―(như trên)― Với sáu yếu tố, ―(như trên)― Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă không thấy” về điều đă thấy bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói,” đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.
Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă không nghe” về điều đă nghe ―(như trên)― “Tôi đă không cảm giác” về điều đă cảm giác ―(như trên)― “Tôi đă không nhận thức” về điều đă nhận thức bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói.” Với bốn yếu tố, ―(như trên)― Với năm yếu tố, ―(như trên)― Với sáu yếu tố, ―(như trên)― Với bảy yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă không nghe” về điều đă nghe ―(như trên)― “Tôi đă không cảm giác” về điều đă cảm giác ―(như trên)― “Tôi đă không nhận thức” về điều đă nhận thức bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói,” đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.
Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă nghe” về điều đă thấy ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă cảm giác” về điều đă thấy ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nhận thức” về điều đă thấy bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă nghe và đă cảm giác” về điều đă thấy ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nghe và đă nhận thức” về điều đă thấy ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nghe, đă cảm giác, và đă nhận thức” về điều đă thấy bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă cảm giác” về điều đă nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nhận thức” về điều đă nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă thấy” về điều đă nghe bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă cảm giác và đă nhận thức” về điều đă nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă cảm giác và đă thấy” về điều đă nghe ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă cảm giác, đă nhận thức, và đă thấy” về điều đă nghe bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă nhận thức” về điều đă cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă thấy” về điều đă cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nghe” về điều đă cảm giác bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă nhận thức và đă thấy” về điều đă cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nhận thức và đă nghe” về điều đă cảm giác ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nhận thức, đă thấy và đă nghe” về điều đă cảm giác bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá:”Tôi đă thấy” về điều đă nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă nghe” về điều đă nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă cảm giác” về điều đă nhận thức bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― Với ba yếu tố, vị cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă thấy và đă nghe” về điều đă nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă thấy và đă cảm giác” về điều đă nhận thức ―(như trên)― Với ba yếu tố, ... “Tôi đă thấy, đă nghe, và đă cảm giác” về điều đă nhận thức bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị có hoài nghi về điều đă thấy, không tin điều đă thấy, không nhớ về điều đă thấy, quên điều đă thấy lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă thấy và đă nghe” bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă thấy và đă nghe, đă cảm giác, và đă nhận thức” bị phạm tội pācittiya: ―(như trên)― vị có hoài nghi về điều đă nghe, không tin điều đă nghe, không nhớ về điều đă nghe, quên điều đă nghe ―(như trên)― vị có hoài nghi về điều đă cảm giác, không tin điều đă cảm giác, không nhớ về điều đă cảm giác, quên điều đă cảm giác ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị có hoài nghi về điều đă nhận thức, không tin điều đă nhận thức, không nhớ về điều đă nhận thức, quên điều đă nhận thức lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă nhận thức và đă thấy” ―(như trên)― quên điều đă nhận thức ... “Tôi đă nhận thức và đă nghe” ―(như trên)― quên điều đă nhận thức ... “Tôi đă nhận thức và đă cảm giác” ―(như trên)― quên điều đă nhận thức ... “Tôi đă nhận thức, đă thấy, và đă nghe” ―(như trên)― quên điều đă nhận thức ... “Tôi đă nhận thức, đă thấy, đă nghe, và đă cảm giác” bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói.”
Với bốn yếu tố, ―(như trên)― Với năm yếu tố, ―(như trên)― Với sáu yếu tố, ―(như trên)― Với bảy yếu tố, ... quên điều đă nhận thức lại cố t́nh nói điều dối trá: “Tôi đă nhận thức, đă thấy, đă nghe, và đă cảm giác” bị phạm tội pācittiya: Trước đó, vị ấy khởi ư rằng: “Ta sẽ nói điều dối trá,” trong khi nói (biết rằng): “Ta đang nói điều dối trá,” đă nói xong (biết rằng): “Điều dối trá đă được ta nói,” đă che giấu quan điểm, đă che giấu điều mong mỏi, đă che giấu điều khao khát, đă che giấu ư định.
Vị nói không suy nghĩ, vị nói theo thói quen ― Nói không suy nghĩ nghĩa là nói vội (nói nhanh). Nói theo thói quen nghĩa là (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nói điều này’ lại nói điều khác ― vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về nói dối là thứ nhất.
--ooOoo--
6. 1. 2. ĐIỀU HỌC VỀ NÓI LỜI MẮNG NHIẾC
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi căi cọ với các tỳ khưu hiền thiện đă mắng nhiếc các tỳ khưu hiền thiện theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo ḍng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh tật, theo đặc điểm, theo phiền năo, theo sự vi phạm, lại c̣n chửi rủa và khinh bỉ bằng sự sỉ vả hạ tiện. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)―, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi căi cọ với các tỳ khưu hiền thiện lại mắng nhiếc các tỳ khưu hiền thiện theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo ḍng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh tật, theo đặc điểm, theo phiền năo, theo sự vi phạm, lại c̣n chửi rủa và khinh bỉ bằng sự sỉ vả hạ tiện?”
2. Sau đó, khi đă khiển trách các tỳ khưu nhóm Lục Sư bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi trong khi căi cọ với các tỳ khưu hiền thiện đă mắng nhiếc các tỳ khưu hiền thiện theo sự sanh ra, ―(như trên)―lại c̣n chửi rủa và khinh bỉ bằng sự sỉ vả hạ tiện, có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi trong khi căi cọ với các tỳ khưu hiền thiện lại mắng nhiếc các tỳ khưu hiền thiện theo sự sanh ra, ―(như trên)― lại c̣n chửi rủa và khinh bỉ bằng sự sỉ vả hạ tiện? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
3. - Này các tỳ khưu, vào thời trước đây ở thành Takkasilā có người Bà-la-môn nọ có con ḅ mộng tên là Nandivisāla. Này các tỳ khưu, khi ấy con ḅ mộng Nandivisāla đă nói với người Bà-la-môn ấy điều này: “Này Bà-la-môn, hăy đi và hăy đánh cá với nhà phú thương một ngàn (nói rằng): Con ḅ mộng của chúng tôi sẽ lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.” Này các tỳ khưu, sau đó người Bà-la-môn ấy đă đánh cá với nhà phú thương một ngàn (nói rằng): “Con ḅ mộng của chúng tôi sẽ lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.” Này các tỳ khưu, sau đó người Bà-la-môn ấy đă nối liền một trăm xe kéo lại với nhau rồi máng con ḅ mộng Nandivisāla vào và đă nói điều này: “Này đồ xạo, hăy kéo đi. Này đồ xạo, hăy lôi đi.” Này các tỳ khưu, khi ấy con ḅ mộng Nandivisāla đă đứng yên ngay tại chỗ ấy. Này các tỳ khưu, khi ấy người Bà-la-môn ấy bị thua một ngàn nên đă rầu rĩ.
4. Này các tỳ khưu, khi ấy con ḅ mộng Nandivisāla đă nói với người Bà-la-môn ấy điều này: “Này Bà-la-môn, v́ sao ngươi lại rầu rĩ vậy?” “Này ông ḅ, bởi v́ do ông mà ta đă bị thua một ngàn như thế.” “Này Bà-la-môn, v́ sao ngươi lại bôi xấu ta bằng cách nói đồ xạo (trong khi) ta là kẻ không xạo? Này Bà-la-môn, ngươi hăy đi và hăy đánh cá với nhà phú thương hai ngàn (nói rằng): ‘Con ḅ mộng của chúng tôi sẽ lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.’ Và chớ có bôi xấu ta bằng cách nói đồ xạo (trong khi) ta là kẻ không xạo.” Này các tỳ khưu, sau đó người Bà-la-môn ấy đă đánh cá với nhà phú thương hai ngàn (nói rằng): “Con ḅ mộng của chúng tôi sẽ lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.”
5. Này các tỳ khưu, sau đó người Bà-la-môn ấy sau khi nối liền một trăm xe kéo lại với nhau rồi đă máng con ḅ mộng Nandivisāla vào và đă nói điều này: “Này bạn hiền, hăy kéo đi. Này bạn hiền, hăy lôi đi.” Này các tỳ khưu, khi ấy con ḅ mộng Nandivisāla đă lôi đi một trăm xe kéo được nối liền với nhau.
6. Nên nói chỉ toàn lời ḥa nhă, không nói lời không ḥa nhă vào bất cứ lúc nào. (Con ḅ) đă lôi đi gánh hàng nặng cho người nói lời ḥa nhă, và đă đạt được tài sản cho người ấy, và nhờ thế nó đă được hoan hỷ.
Này các tỳ khưu, ngay từ thời ấy sự chửi rủa và sự khinh bỉ đă không làm ta hài ḷng, th́ hiện nay điều ǵ khiến cho sự chửi rủa và sự khinh bỉ sẽ làm ta hài ḷng? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi nói lời mắng nhiếc th́ phạm tội pācittiya.”
7. Lời mắng nhiếc nghĩa là mắng nhiếc theo mười biểu hiện: theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo ḍng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh tật, theo đặc điểm, theo phiền năo, theo sự vi phạm, và bằng sự sỉ vả.
8. Sự sanh ra nghĩa là có hai sự sanh ra: sự sanh ra thấp kém và sự sanh ra cao quư. Sự sanh ra thấp kém nghĩa là sự sanh ra của hạng cùng đinh, sự sanh ra của hạng đan tre, sự sanh ra của hạng thợ săn, sự sanh ra của hạng làm xe, sự sanh ra của hạng hốt rác; sự sanh ra ấy gọi là sự sanh ra thấp kém. Sự sanh ra cao quư là sự sanh ra của hạng Sát-đế-lỵ và sự sanh ra của Bà-la-môn; sự sanh ra ấy gọi là sự sanh ra cao quư.
9. Tên gọi nghĩa là có hai loại tên gọi: tên gọi thấp kém và tên gọi cao quư. Tên gọi thấp kém nghĩa là tên Avakaṇṇaka, Javakaṇṇaka, Dhaniṭṭhaka, Saviṭṭhaka, Kulavaḍḍhaka, hoặc là (tên gọi) bị khinh bỉ, bị chê bai, bị ghê tởm, bị xem thường, không được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; tên gọi ấy gọi là tên gọi thấp kém. Tên gọi cao quư nghĩa là được gắn liền với từ Buddha (đức Phật), được gắn liền với từ Dhamma (Giáo Pháp), được gắn liền với từ Saṅgha (Hội Chúng), hoặc là (tên gọi) không bị khinh bỉ, không bị chê bai, không bị ghê tởm, không bị xem thường, được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; tên gọi ấy gọi là tên gọi cao quư.
10. Ḍng họ nghĩa là có hai loại ḍng họ: ḍng họ thấp kém và ḍng họ cao quư. Ḍng họ thấp kém nghĩa là ḍng họ Kosiya, ḍng họ Bhāradvāja, hoặc là (ḍng họ) bị khinh bỉ, bị chê bai, bị ghê tởm, bị xem thường, không được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; ḍng họ ấy gọi là ḍng họ thấp kém. Ḍng họ cao quư nghĩa là ḍng họ Gotama, ḍng họ Moggallāna, ḍng họ Kaccāna, ḍng họ Vāseṭṭha, hoặc là (ḍng họ) không bị khinh bỉ, không bị chê bai, không bị ghê tởm, không bị xem thường, được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; ḍng họ ấy gọi là ḍng họ cao quư.
11. Công việc nghĩa là có hai loại công việc: công việc thấp kém và công việc cao quư. Công việc thấp kém nghĩa là công việc của thợ mộc, công việc hốt dọn bông hoa, hoặc là (công việc) bị khinh bỉ, bị chê bai, bị ghê tởm, bị xem thường, không được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; công việc ấy gọi là công việc thấp kém. Công việc cao quư nghĩa là việc đồng áng, việc thương buôn, việc chăn ḅ, hoặc là (công việc) không bị khinh bỉ, không bị chê bai, không bị ghê tởm, không bị xem thường, được tôn trọng trong những xứ sở ấy; công việc ấy gọi là công việc cao quư.
12. Nghề nghiệp nghĩa là có hai loại nghề nghiệp: nghề nghiệp thấp kém và nghề nghiệp cao quư. Nghề nghiệp thấp kém nghĩa là nghề đan tre, nghề làm gốm, nghề thợ dệt, nghề thuộc da, nghề hớt tóc, hoặc là (nghề nghiệp) bị khinh bỉ, bị chê bai, bị ghê tởm, bị xem thường, không được tôn trọng ngay trong những xứ sở ấy; nghề nghiệp ấy gọi là nghề nghiệp thấp kém. Nghề nghiệp cao quư nghĩa là nghề quản lư, nghề kế toán, nghề thư kư, hoặc là (nghề nghiệp) không bị khinh bỉ, không bị chê bai, không bị ghê tởm, không bị xem thường, được tôn trọng trong những xứ sở ấy; nghề nghiệp ấy gọi là nghề nghiệp cao quư.
13. Tất cả các bệnh tật là thấp kém, tuy nhiên bệnh tiểu đường là cao quư.
14. Đặc điểm nghĩa là có hai đặc điểm: đặc điểm thấp kém và đặc điểm cao quư. Đặc điểm thấp kém nghĩa là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng; đặc điểm ấy gọi là đặc điểm thấp kém. Đặc điểm cao quư nghĩa là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng; đặc điểm ấy gọi là đặc điểm cao quư.
15. Tất cả các phiền năo là thấp kém.
16. Tất cả các sự vi phạm (āpatti) là thấp kém. Tuy nhiên, sự vi phạm vào ḍng Thánh (quả vị Nhập Lưu) và sự tự ḿnh vi phạm (sự chứng đạt) là cao quư.[2]
17. Sự sỉ vả nghĩa là có hai sự sỉ vả: sự sỉ vả thấp kém và sự sỉ vả cao quư. Sự sỉ vả thấp kém nghĩa là (nói rằng): “Ngươi là con lạc đà, ngươi là con cừu, ngươi là con ḅ , ngươi là con lừa, ngươi là loài thú, ngươi đi địa ngục, không có cơi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi,” đệm vào tiếng ‘ya,’[3] hoặc đệm vào tiếng ‘bha,’ hoặc gọi là ‘kāṭa’ đối với người nam và ‘koṭacikā’ đối với người nữ; sự sỉ vả ấy gọi là sự sỉ vả thấp kém. Sự sỉ vả cao quư nghĩa là (nói rằng): “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cơi trời chờ đợi ngươi;” sự sỉ vả ấy gọi là sự sỉ vả cao quư.
18. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có sự sanh ra) thấp kém là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là hạng cùng đinh, ngươi là hạng đan tre, ngươi là hạng thợ săn, ngươi là hạng làm xe, ngươi là hạng hốt rác;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
19. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có sự sanh ra) cao quư là hạng Sát-đế-lỵ, hạng Bà-la-môn rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là hạng cùng đinh, ngươi là hạng đan tre, ngươi là hạng thợ săn, ngươi là hạng làm xe, ngươi là hạng hốt rác;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
20. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có sự sanh ra) thấp kém là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là Sát-đế-lỵ, ngươi là Bà-la-môn;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
21. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có sự sanh ra) cao quư là hạng Sát-đế-lỵ, hạng Bà-la-môn rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là Sát-đế-lỵ, ngươi là Bà-la-môn;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
22. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có tên gọi) thấp kém là Avakaṇṇaka, là Javakaṇṇaka, là Dhaniṭṭhaka, là Saviṭṭhaka, là Kulavaḍḍhaka rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là Avakaṇṇaka, ngươi là Javakaṇṇaka, ngươi là Dhaniṭṭhaka, ngươi là Saviṭṭhaka, ngươi là Kulavaḍḍhaka;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
23. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có tên gọi) cao quư là Buddharakkhita, là Dhammarakkhita, là Saṅgharakkhita rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là Avakaṇṇaka, ngươi là Javakaṇṇaka, ngươi là Dhaniṭṭhaka, ngươi là Saviṭṭhaka, ngươi là Kulavaḍḍhaka;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
24. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có tên gọi) thấp kém là Avakaṇṇaka, là Javakaṇṇaka, là Dhaniṭṭhaka, là Saviṭṭhaka, là Kulavaḍḍhaka rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là Buddharakkhita, ngươi là Dhammarakkhita, ngươi là Saṅgharakkhita;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
25. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có tên gọi) cao quư là Buddharakkhita, là Dhammarakkhita, là Saṅgharakkhita, rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là Buddharakkhita, ngươi là Dhammarakkhita, ngươi là Saṅgharakkhita;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
26. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có ḍng họ) thấp kém là Kosiya, là Bhāradvāja rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là Kosiya, ngươi là Bhāradvāja;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
27. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có ḍng họ) cao quư là Gotama, là Moggallāna, là Kaccāna, là Vāseṭṭha rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là Kosiya, ngươi là Bhāradvāja;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
28. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có ḍng họ) thấp kém là Kosiya, là Bhāradvāja rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là Gotama, ngươi là Moggallāna, ngươi là Kaccāna, ngươi là Vāseṭṭha;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
29. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có ḍng họ) cao quư là Gotama, là Moggallāna, là Kaccāna, là Vāseṭṭha rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là Gotama, ngươi là Moggallāna, ngươi là Kaccāna, ngươi là Vāseṭṭha;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
30. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có công việc) thấp kém là thợ mộc, người hốt dọn bông hoa rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là thợ mộc, ngươi là người hốt dọn bông hoa;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
31. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có công việc) cao quư là nông phu, thương buôn, người chăn ḅ rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là thợ mộc, ngươi là người hốt dọn bông hoa;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
32. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có công việc) thấp kém là thợ mộc, người hốt dọn bông hoa rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là nông phu, ngươi là thương buôn, ngươi là người chăn ḅ;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
33. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có công việc) cao quư là nông phu, thương buôn, người chăn ḅ rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là nông phu, ngươi là thương buôn, ngươi là người chăn ḅ;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
34. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có nghề nghiệp) thấp kém là nghề đan tre, nghề làm gốm, nghề thợ dệt, nghề thuộc da, nghề hớt tóc rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là thợ đan tre, ngươi là thợ làm gốm, ngươi là thợ dệt, ngươi là thợ thuộc da, ngươi là thợ hớt tóc;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
35. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có nghề nghiệp) cao quư là quản lư, kế toán, thư kư rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là thợ đan tre, ngươi là thợ làm gốm, ngươi là thợ dệt, ngươi là thợ thuộc da, ngươi là thợ hớt tóc;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
36. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có nghề nghiệp) thấp kém là thợ đan tre, thợ làm gốm, thợ dệt, thợ thuộc da, thợ hớt tóc rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là quản lư, ngươi là kế toán, ngươi là thư kư;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
37. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có nghề nghiệp) cao quư là quản lư, kế toán, thư kư rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là quản lư, ngươi là kế toán, ngươi là thư kư;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
38. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có bệnh tật) thấp kém là bệnh cùi, bệnh mụt nhọt, bệnh chàm, bệnh lao phổi, bệnh động kinh rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là người bệnh cùi, ngươi là người bệnh mụt nhọt, ngươi là người bệnh chàm, ngươi là người bệnh lao phổi, ngươi là người bệnh động kinh;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
39. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có bệnh tật) cao quư là bệnh tiểu đường rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là người bệnh cùi, ngươi là người bệnh mụt nhọt, ngươi là người bệnh chàm, ngươi là người bệnh lao phổi, ngươi là người bệnh động kinh;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
40. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có bệnh tật) thấp kém là bệnh cùi, bệnh mụt nhọt, bệnh chàm, bệnh lao phổi, bệnh động kinh rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là người bệnh tiểu đường;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
41. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có bệnh tật) cao quư là bệnh tiểu đường rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là người bệnh tiểu đường;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
42. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có đặc điểm) thấp kém là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là quá cao, ngươi là quá lùn, ngươi là quá đen, ngươi là quá trắng;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
43. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có đặc điểm) cao quư là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là quá cao, ngươi là quá lùn, ngươi là quá đen, ngươi là quá trắng;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
44. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có đặc điểm) thấp kém là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là không quá cao, ngươi là không quá lùn, ngươi là không quá đen, ngươi là không quá trắng;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
45. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có đặc điểm) cao quư là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là không quá cao, ngươi là không quá lùn, ngươi là không quá đen, ngươi là không quá trắng;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
46. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có nội tâm) thấp kém bị tham khuấy nhiễu, bị sân khuấy nhiễu, bị si khuấy nhiễu rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi bị tham khuấy nhiễu, ngươi bị sân khuấy nhiễu, ngươi bị si khuấy nhiễu;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
47. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có nội tâm) cao quư là có tham đă ĺa, có sân đă ĺa, có si đă ĺa rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi bị tham khuấy nhiễu, ngươi bị sân khuấy nhiễu, ngươi bị si khuấy nhiễu;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
48. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có nội tâm) thấp kém bị tham khuấy nhiễu, bị sân khuấy nhiễu, bị si khuấy nhiễu rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi có tham đă ĺa, ngươi có sân đă ĺa, ngươi có si đă ĺa;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
49. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có nội tâm) cao quư là có tham đă ĺa, có sân đă ĺa, có si đă ĺa rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi có tham đă ĺa, ngươi có sân đă ĺa, ngươi có si đă ĺa;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
50. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có sự vi phạm) thấp kém là vi phạm tội pārājika, vi phạm tội saṅghādisesa, vi phạm tội thullaccaya, vi phạm tội pācittiya, vi phạm tội pāṭidesanīya, vi phạm tội dukkaṭa, vi phạm tội dubbhāsita rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi đă vi phạm tội pārājika, ngươi đă vi phạm tội saṅghādisesa, ngươi đă vi phạm tội thullaccaya, ngươi đă vi phạm tội pācittiya, ngươi đă vi phạm tội pāṭidesanīya, ngươi đă vi phạm tội dukkaṭa, ngươi đă vi phạm tội dubbhāsita;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
51. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có sự vi phạm) cao quư là vi phạm vào ḍng Thánh (quả vị Nhập Lưu) rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi đă vi phạm tội pārājika, ―(như trên)― ngươi đă vi phạm tội dubbhāsita;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
52. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có sự vi phạm) thấp kém là vi phạm tội pārājika, ―(như trên)― vi phạm tội dubbhāsita rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi đă vi phạm vào ḍng Thánh (Ngươi là bậc Nhập Lưu);” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
53. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (có sự vi phạm) cao quư là vi phạm vào ḍng Thánh (quả vị Nhập Lưu) rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi đă vi phạm vào ḍng Thánh (Ngươi là bậc Nhập Lưu);” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
54. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém là con lạc đà, con cừu, con ḅ, con lừa, loài thú, người địa ngục rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là con lạc đà, ngươi là con cừu, ngươi là con ḅ, ngươi là con lừa, ngươi là loài thú, ngươi đi địa ngục, không có cơi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
55. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) cao quư là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là con lạc đà, ngươi là con cừu, ngươi là con ḅ, ngươi là con lừa, ngươi là loài thú, ngươi đi địa ngục, không có cơi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
56. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém là con lạc đà, con cừu, con ḅ, con lừa, loài thú, người địa ngục rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cơi trời chờ đợi ngươi;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
57. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) cao quư là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cơi trời chờ đợi ngươi;” vị nói th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
58. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
59. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là Sát-đế-lỵ, là Bà-la-môn;” vị nói th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
60. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị tên là Avakaṇṇaka, là Javakaṇṇaka, là Dhaniṭṭhaka, là Saviṭṭhaka, là Kulavaḍḍhaka;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị tên là Buddharakkhita, là Dhammarakkhita, là Saṅgharakkhita;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị ḍng họ là Kosiya, là Bhāradvāja;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị ḍng họ là Gotama, là Moggallāna, là Kaccāna, là Vāseṭṭha;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là thợ mộc, người hốt dọn bông hoa;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là nông phu, thương buôn, người chăn ḅ;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là thợ đan tre, thợ làm gốm, thợ dệt, thợ thuộc da, thợ hớt tóc;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là quản lư, kế toán, thư kư;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là người bệnh cùi, người bệnh mụt nhọt, người bệnh chàm, người bệnh lao phổi, người bệnh động kinh;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là người bệnh tiểu đường;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị bị tham khuấy nhiễu, bị sân khuấy nhiễu, bị si khuấy nhiễu;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị có tham đă ĺa, có sân đă ĺa, có si đă ĺa;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị đă vi phạm tội pārājika,” vị nói th́ ―(như trên)― đă vi phạm tội dubbhāsita;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị đă vi phạm vào ḍng Thánh (Ở đây, có một số vị là các bậc Nhập Lưu);” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là con lạc đà, con cừu, con ḅ, con lừa, loài thú, người địa ngục, không có cơi trời cho những người ấy, khổ cảnh chờ đợi những người ấy;” vị nói th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
61.Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cơi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
62. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói. ―(như trên)―
63. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cơi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
64. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói th́ ―(như trên)― “Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cơi trời chờ đợi chúng tôi;” vị nói th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
65. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ người chưa tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự thấp kém rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) cao quư rồi nói theo sự thấp kém rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự cao quư rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) cao quư là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cơi trời chờ đợi ngươi;” vị nói th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
66. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cơi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
67. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói th́ ―(như trên)― “Có lẽ những người này là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cơi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
68. Vị đă tu lên bậc trên có ư định chửi rủa, có ư định khinh bỉ, có ư định làm xấu hổ người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói th́ ―(như trên)― “Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cơi trời chờ đợi chúng tôi;” vị nói th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
69. Vị đă tu lên bậc trên không có ư định chửi rủa, không có ư định khinh bỉ, không có ư định hạ nhục, có ư muốn đùa giỡn vị đă tu lên bậc trên (có sự sanh ra) thấp kém là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là hạng cùng đinh, ngươi là hạng đan tre, ngươi là hạng thợ săn, ngươi là hạng làm xe, ngươi là hạng hốt rác;” vị nói th́ phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.
70. Vị đă tu lên bậc trên không có ư định chửi rủa, không có ư định khinh bỉ, không có ư định hạ nhục, có ư muốn đùa giỡn vị đă tu lên bậc trên (có sự sanh ra) cao quư là hạng Sát-đế-lỵ, hạng Bà-la-môn rồi nói theo sự thấp kém rằng: “Ngươi là hạng cùng đinh, ngươi là hạng đan tre, ngươi là hạng thợ săn, ngươi là hạng làm xe, ngươi là hạng hốt rác;” vị nói th́ phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.
71. Vị đă tu lên bậc trên không có ư định chửi rủa, không có ư định khinh bỉ, không có ư định hạ nhục, có ư muốn đùa giỡn vị đă tu lên bậc trên (có sự sanh ra) thấp kém là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là hạng Sát-đế-lỵ, ngươi là hạng Bà-la-môn;” vị nói th́ phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.
72. Vị đă tu lên bậc trên không có ư định chửi rủa, không có ư định khinh bỉ, không có ư định hạ nhục, có ư muốn đùa giỡn vị đă tu lên bậc trên (có sự sanh ra) cao quư là hạng Sát-đế-lỵ, hạng Bà-la-môn rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là hạng Sát-đế-lỵ, ngươi là hạng Bà-la-môn;” vị nói th́ phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.
73. Vị đă tu lên bậc trên không có ư định chửi rủa, không có ư định khinh bỉ, không có ư định hạ nhục, có ư muốn đùa giỡn vị đă tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự thấp kém rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) cao quư rồi nói theo sự thấp kém rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự cao quư rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) cao quư rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cơi trời chờ đợi ngươi;” vị nói th́ phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.
74. Vị đă tu lên bậc trên không có ư định chửi rủa, không có ư định khinh bỉ, không có ư định hạ nhục, có ư muốn đùa giỡn vị đă tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cơi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói th́ phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.
75. Vị đă tu lên bậc trên không có ư định chửi rủa, không có ư định khinh bỉ, không có ư định hạ nhục, có ư muốn đùa giỡn vị đă tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói th́ ―(như trên)― “Có lẽ những người này là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư;” vị nói th́ phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.
76. Vị đă tu lên bậc trên không có ư định chửi rủa, không có ư định khinh bỉ, không có ư định hạ nhục, có ư muốn đùa giỡn vị đă tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói th́ ―(như trên)― “Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cơi trời chờ đợi chúng tôi;” vị nói th́ phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.
77. Vị đă tu lên bậc trên không có ư định chửi rủa, không có ư định khinh bỉ, không có ư định hạ nhục, có ư muốn đùa giỡn người chưa tu lên bậc trên (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự thấp kém rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) cao quư rồi nói theo sự thấp kém rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) thấp kém rồi nói theo sự cao quư rằng ―(như trên)― (bằng sự sỉ vả) cao quư rồi nói theo sự cao quư rằng: “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cơi trời chờ đợi ngươi;” vị nói th́ phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.
78. Vị đă tu lên bậc trên không có ư định chửi rủa, không có ư định khinh bỉ, không có ư định hạ nhục, có ư muốn đùa giỡn người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Ở đây, có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói th́ ―(như trên)― “Ở đây, có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cơi trời chờ đợi những người ấy;” vị nói th́ phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.
79. Vị đă tu lên bậc trên không có ư định chửi rủa, không có ư định khinh bỉ, không có ư định hạ nhục, có ư muốn đùa giỡn người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói th́ ―(như trên)― “Có lẽ những người này là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư;” vị nói th́ phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.
80. Vị đă tu lên bậc trên không có ư định chửi rủa, không có ư định khinh bỉ, không có ư định hạ nhục, có ư muốn đùa giỡn người chưa tu lên bậc trên rồi nói như vầy: “Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác;” vị nói th́ ―(như trên)― “Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cơi trời chờ đợi chúng tôi;” vị nói th́ phạm tội dubbhāsita theo từng lời nói.
81. Vị (nói để) đề cập đến ư nghĩa, vị (nói để) đề cập đến Pháp, vị (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về nói lời mắng nhiếc là thứ nh́.
--ooOoo--
6. 1. 3. ĐIỀU HỌC VỀ NÓI ĐÂM THỌC
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tạo ra sự đâm thọc giữa các tỳ khưu đă nảy sanh sự xung đột, đă nảy sanh sự căi cọ, đă tiến đến sự tranh luận, sau khi nghe từ vị này rồi kể lại cho vị kia đưa đến sự chia rẽ với vị này, sau khi nghe từ vị kia rồi kể lại cho vị này đưa đến sự chia rẽ với vị kia; v́ thế các sự xung đột chưa sanh khởi được sanh khởi, và các sự xung đột đă sanh khởi càng phát triển rộng lớn và tăng thêm nhiều hơn nữa. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)―, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại tạo ra sự đâm thọc giữa các tỳ khưu đă nảy sanh sự xung đột, đă nảy sanh sự căi cọ, đă tiến đến sự tranh luận, sau khi nghe từ vị này rồi kể lại cho vị kia đưa đến sự chia rẽ với vị này, sau khi nghe từ vị kia rồi kể lại cho vị này đưa đến sự chia rẽ với vị kia; v́ thế các sự xung đột chưa sanh khởi được sanh khởi, và các sự xung đột đă sanh khởi càng phát triển rộng lớn và tăng thêm nhiều hơn nữa?”
2. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tạo ra sự đâm thọc giữa các tỳ khưu đă nảy sanh sự xung đột, đă nảy sanh sự căi cọ, đă tiến đến sự tranh luận, sau khi nghe từ vị này rồi kể lại cho vị kia đưa đến sự chia rẽ với vị này, sau khi nghe từ vị kia rồi kể lại cho vị này đưa đến sự chia rẽ với vị kia; v́ thế các sự xung đột chưa sanh khởi được sanh khởi, và các sự xung đột đă sanh khởi càng phát triển rộng lớn và tăng thêm nhiều hơn nữa, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại tạo ra sự đâm thọc giữa các tỳ khưu đă nảy sanh sự xung đột, đă nảy sanh sự căi cọ, đă tiến đến sự tranh luận, sau khi nghe từ vị này rồi kể lại cho vị kia đưa đến sự chia rẽ với vị này, sau khi nghe từ vị kia rồi kể lại cho vị này đưa đến sự chia rẽ với vị kia; v́ thế các sự xung đột chưa sanh khởi được sanh khởi, và các sự xung đột đă sanh khởi càng phát triển rộng lớn và tăng thêm nhiều hơn nữa vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi (tạo ra) sự đâm thọc giữa các tỳ khưu th́ phạm tội pācittiya.”
3. Sự đâm thọc nghĩa là sự đâm thọc v́ hai nguyên do: của vị ao ước được thương hoặc là của vị có ư định chia rẽ. Vị tạo ra sự đâm thọc theo mười biểu hiện: theo sự sanh ra, theo tên gọi, theo ḍng họ, theo công việc, theo nghề nghiệp, theo bệnh tật, theo đặc điểm, theo phiền năo, theo sự vi phạm, và bằng sự sỉ vả.
4. Sự sanh ra nghĩa là có hai sự sanh ra: sự sanh ra thấp kém và sự sanh ra cao quư. Sự sanh ra thấp kém nghĩa là sự sanh ra của hạng cùng đinh, sự sanh ra của hạng đan tre, sự sanh ra của hạng thợ săn, sự sanh ra của hạng làm xe, sự sanh ra của hạng hốt rác; sự sanh ra ấy gọi là sự sanh ra thấp kém. Sự sanh ra cao quư là sự sanh ra của hạng Sát-đế-lỵ và sự sanh ra của Bà-la-môn; sự sanh ra ấy gọi là sự sanh ra cao quư. ―(như trên)―
5. Sự sỉ vả nghĩa là có hai sự sỉ vả: sự sỉ vả thấp kém và sự sỉ vả cao quư. Sự sỉ vả thấp kém nghĩa là (nói rằng): “Ngươi là con lạc đà, ngươi là con cừu, ngươi là con ḅ, ngươi là con lừa, ngươi là loài thú, ngươi đi địa ngục, không có cơi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi,” đệm vào tiếng ‘ya,’ hoặc đệm vào tiếng ‘bha,’ hoặc gọi là ‘kāṭa’ đối với người nam và ‘koṭacikā’ đối với người nữ; sự sỉ vả ấy gọi là sự sỉ vả thấp kém. Sự sỉ vả cao quư nghĩa là (nói rằng): “Ngươi là người thông thái, ngươi là người có kinh nghiệm, ngươi là người thông minh, ngươi là người học rộng, ngươi là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cơi trời chờ đợi ngươi;” sự sỉ vả ấy gọi là sự sỉ vả cao quư.
6. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
7. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
8. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Avakaṇṇaka, là Javakaṇṇaka, là Dhaniṭṭhaka, là Saviṭṭhaka, là Kulavaḍḍhaka” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
9. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Buddharakkhita, là Dhammarakkhita, là Saṅgharakkhita” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
10. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Kosiya, là Bhāradvāja” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
11. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là Gotama, là Moggallāna, là Kaccāna, là Vāseṭṭha” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
12. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là thợ mộc, người hốt dọn bông hoa” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
13. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là nông phu, thương buôn, người chăn ḅ” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
14. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là thợ đan tre, thợ làm gốm, thợ dệt, thợ thuộc da, thợ hớt tóc” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
15. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là quản lư, kế toán, thư kư” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
16. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là người bệnh cùi, người bệnh mụt nhọt, người bệnh chàm, người bệnh lao phổi, người bệnh động kinh” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
17. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là người bệnh tiểu đường” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
18. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là quá cao, quá lùn, quá đen, quá trắng” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
19. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là không quá cao, không quá lùn, không quá đen, không quá trắng” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
20. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi bị tham khuấy nhiễu, bị sân khuấy nhiễu, bị si khuấy nhiễu” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
21. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi có tham đă ĺa, có sân đă ĺa, có si đă ĺa” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
22. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi vi phạm tội pārājika, vi phạm tội saṅghādisesa, vi phạm tội thullaccaya, vi phạm tội pācittiya, vi phạm tội pāṭidesanīya, vi phạm tội dukkaṭa, vi phạm tội dubbhāsita” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
23. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là vị vi phạm vào ḍng Thánh” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
24. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là con lạc đà, con cừu, con ḅ, con lừa, loài thú, người địa ngục, không có cơi trời cho ngươi, khổ cảnh chờ đợi ngươi” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
25. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói ngươi là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là vị Pháp sư, không có khổ cảnh cho ngươi, cơi trời chờ đợi ngươi” th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
26. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Ở đây có một số vị là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
27. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Ở đây có một số vị là Sát-đế-lỵ, là Bà-la-môn.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
28. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Ở đây có một số vị là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho những người ấy, cơi trời chờ đợi những người ấy.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
29. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Có lẽ những người này là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
30. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ―(như trên)― ‘Có lẽ những người nào là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, những người ấy không có khổ cảnh, cơi trời chờ đợi những người ấy.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
31. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Chúng tôi không phải là hạng cùng đinh, hạng đan tre, hạng thợ săn, hạng làm xe, hạng hốt rác.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói. ―(như trên)―
32. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên (nói rằng): “Vị tên (như vầy) nói: ‘Chúng tôi không phải là thông thái, có kinh nghiệm, thông minh, học rộng, là Pháp sư, không có khổ cảnh cho chúng tôi, cơi trời chờ đợi chúng tôi.’ Vị ấy chỉ nói điều ấy, không nói điều khác” th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
33. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên th́ phạm tội pācittiya theo từng lời nói.
34. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ vị đă tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
35. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ người chưa tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với vị đă tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
36. Vị đă tu lên bậc trên nghe từ người chưa tu lên bậc trên rồi tạo ra sự đâm thọc đối với người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa theo từng lời nói.
37. Vị không ao ước được thương, vị không có ư định chia rẽ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về nói đâm thọc là thứ ba.
--ooOoo--
6. 1. 4. ĐIỀU HỌC VỀ PHÁP THEO TỪNG CÂU
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dạy các cư sĩ đọc Pháp theo từng câu. Các cư sĩ sống không tôn kính, không nghe lời, cư xử không thích đáng đối với các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)―, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại dạy các cư sĩ đọc Pháp theo từng câu khiến các cư sĩ sống không tôn kính, không nghe lời, cư xử không thích đáng đối với các tỳ khưu?”
2. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi dạy các cư sĩ đọc Pháp theo từng câu khiến các cư sĩ sống không tôn kính, không nghe lời, cư xử không thích đáng đối với các tỳ khưu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại dạy các cư sĩ đọc Pháp theo từng câu khiến các cư sĩ sống không tôn kính, không nghe lời, cư xử không thích đáng đối với các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào dạy người chưa tu lên bậc trên đọc Pháp theo từng câu th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu và tỳ khưu ni, (các người) c̣n lại là người chưa tu lên bậc trên.
Theo từng câu nghĩa là một câu (của bài kệ), đọc tiếp theo, chỉ mỗi một âm, đọc ḥa theo. Một câu (của bài kệ) nghĩa là bắt đầu đọc một lượt, chấm dứt một lượt. Đọc tiếp theo nghĩa là người đọc trước người đọc sau rồi chấm dứt một lượt. Chỉ mỗi một âm nghĩa là khi đang đọc chung ‘Rūpaṃ aniccaṃ,’ vị (tỳ khưu) chỉ đọc chữ ‘Rū’ rồi ngưng. Đọc ḥa theo nghĩa là khi đang đọc ‘Rūpaṃ aniccaṃ,’ (người chưa tu lên bậc trên) phát ra âm ‘Vedanā aniccā.’ Điều ǵ là một câu (của bài kệ), điều ǵ là đọc tiếp theo, điều ǵ là chỉ mỗi một âm, điều ǵ là đọc ḥa theo, tất cả điều ấy gọi là Pháp theo từng câu.
Pháp nghĩa là được giảng bởi đức Phật, được giảng bởi các vị Thinh Văn, được giảng bởi các vị ẩn sĩ, được giảng bởi chư Thiên, có liên quan đến mục đích, có liên quan đến Giáo Pháp.
Dạy đọc: Vị dạy đọc theo câu th́ phạm tội pācittiya theo mỗi một câu. Vị dạy đọc theo từ th́ phạm tội pācittiya theo mỗi một từ.
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, vị dạy đọc Pháp theo từng câu th́ phạm tội pācittiya. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị dạy đọc Pháp theo từng câu th́ phạm tội pācittiya. Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, vị dạy đọc Pháp theo từng câu th́ phạm tội pācittiya.
Vị đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Vị đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Vị đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên th́ vô tội.
Trong khi (được) bảo đọc tụng chung, trong khi thực hiện việc học chung, vị dạy người (chưa tu lên bậc trên) đọc (bỏ băng) phần đă được học thuộc ḷng nhiều lần, vị dạy người (chưa tu lên bậc trên) đang đọc sai, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về Pháp theo từng câu là thứ tư.
--ooOoo--
6. 1. 5. ĐIỀU HỌC VỀ NẰM CHUNG CHỖ NGỤ
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, các cư sĩ thường đi đến tu viện để nghe Pháp. Khi Pháp đă được thuyết giảng, các tỳ khưu trưởng lăo đi về trú xá của các vị. Các tỳ khưu mới tu cùng với các cư sĩ nằm ngủ ngay tại nơi ấy ở pḥng phục vụ; các vị bị thất niệm, không tỉnh giác, lơa thể, mớ ngủ, ngáy ngủ. Các cư sĩ phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức lại nằm ngủ bị thất niệm, không tỉnh giác, lơa thể, mớ ngủ, ngáy ngủ?” Các tỳ khưu đă nghe được các cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu lại nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên?”
2. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy lại nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
3. Sau đó, khi đă ngự tại thành Āḷavī theo như ư thích, đức Thế Tôn đă ra đi du hành về phía thành Kosambī. Trong khi tuần tự du hành, Ngài đă ngự đến thành Kosambī. Tại nơi đó trong thành Kosambī, đức Thế Tôn ngự ở tu viện Badarikā. Các tỳ khưu đă nói với đại đức Rāhula điều này: - “Này đệ Rāhula, điều học đă được đức Thế Tôn quy định là: ‘Không được nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên.’ Này đệ Rāhula, hăy t́m chỗ ngủ.” Khi ấy, trong khi không có được chỗ ngủ, đại đức Rāhula đă nằm ngủ ở nhà tiêu. Sau đó vào canh cuối của đêm, đức Thế Tôn sau khi thức dậy đă đi đến nhà tiêu, sau khi đi đến đă tằng hắng. Đại đức Rāhula cũng đă tằng hắng lại. - “Ai đó vậy?” - “Bạch Thế Tôn, con là Rāhula.” - “Này Rāhula, sau con lại nằm ở đây?” Khi ấy, đại đức Rāhula đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên hai hoặc ba đêm. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên quá hai ba đêm th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu, (các người) c̣n lại gọi là người chưa tu lên bậc trên.
Quá hai ba đêm: là hơn hai hoặc ba đêm.
Với: là cùng chung.
Chỗ ngụ nghĩa là đă được lợp kín toàn bộ đă được che kín xung quanh toàn bộ, đă được lợp kín phần lớn đă được che kín xung quanh phần lớn.
Nằm chung chỗ ngụ: vào ngày thứ tư lúc mặt trời đă lặn, khi người chưa tu lên bậc trên đang nằm vị tỳ khưu nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Khi vị tỳ khưu đang nằm, người chưa tu lên bậc trên nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Sau khi đứng dậy rồi (cả hai) lại nằm xuống th́ phạm tội pācittiya.
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, vị nằm chung chỗ ngụ quá hai ba đêm th́ phạm tội pācittiya. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị nằm chung chỗ ngụ quá hai ba đêm th́ phạm tội pācittiya. Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, vị nằm chung chỗ ngụ quá hai ba đêm th́ phạm tội pācittiya.
Trong chỗ lợp kín một nửa, che kín xung quanh một nửa th́ phạm tội dukkaṭa. Vị đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Vị đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Vị đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên th́ vô tội.
Vị ngụ hai ba đêm, vị ngụ chưa đủ hai ba đêm, sau khi ngụ hai đêm vào đêm thứ ba đi ra ngoài trước rạng đông rồi lại trú ngụ tiếp, trong chỗ không được lợp kín toàn bộ, trong chỗ không được che kín xung quanh toàn bộ, trong chỗ không được lợp kín phần nhiều, trong chỗ không được che kín xung quanh phần nhiều, khi người chưa tu lên bậc trên đang nằm th́ vị tỳ khưu ngồi, khi vị tỳ khưu đang nằm th́ người chưa tu lên bậc trên ngồi, hoặc là cả hai đều ngồi, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nhất về nằm chung chỗ ngụ là thứ năm.
--ooOoo--
6. 1. 6. ĐIỀU HỌC THỨ NH̀ VỀ NẰM CHUNG CHỖ NGỤ
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Anuruddha trong khi đang đi đến thành Sāvatthī trong xứ sở Kosala nhằm lúc chiều tối đă ghé lại ngôi làng nọ. Vào lúc bấy giờ, ở trong ngôi làng ấy có nhà nghỉ trọ của người đàn bà nọ đă được sắp đặt.[4] Khi ấy, đại đức Anuruddha đă đi đến gặp người đàn bà ấy, sau khi đến đă nói với người đàn bà ấy điều này: - “Này chị gái, nếu chị không phiền ḷng chúng tôi có thể ngụ một đêm ở phước xá.” - “Thưa ngài, ngài có thể ngụ.” Những khách lữ hành khác cũng đă đi đến gặp người đàn bà ấy, sau khi đến đă nói với người đàn bà ấy điều này: - “Thưa bà, nếu bà không phiền ḷng chúng tôi có thể trú một đêm ở phước xá.” - “Có ngài Sa-môn đă đến trước, nếu vị ấy cho phép th́ các ông có thể trú lại.” Khi ấy, những khách lữ hành ấy đă đi đến gặp đại đức Anuruddha, sau khi đến đă nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, nếu ngài không phiền ḷng chúng tôi có thể trú một đêm ở phước xá.” - “Này các đạo hữu, hăy trú lại.”
2. Khi ấy, người đàn bà ấy do sự nh́n thấy đại đức Anuruddha nên đă đem ḷng say đắm. Sau đó, người đàn bà ấy đă đi đến gặp đại đức Anuruddha, sau khi đến đă nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, bị quấy rầy bởi những người này ngài sẽ ngụ không được an lạc. Thưa ngài, tốt thay tôi có thể sắp đặt cho ngài chiếc giường ở bên trong.” Đại đức Anuruddha đă nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, người đàn bà ấy đă sắp đặt chiếc giường của ḿnh ở bên trong cho đại đức Anuruddha rồi đă khoác xiêm y và trang sức, xức hương thơm rồi đi đến gặp đại đức Anuruddha, sau khi đến đă nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, ngài là đẹp dáng, đáng nh́n, khả ái, và thiếp là đẹp dáng, đáng nh́n, khả ái. Thưa ngài, tốt thay thiếp có thể là vợ của ngài.” Khi được nói như thế, đại đức Anuruddha đă im lặng. Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, người đàn bà ấy đă nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, ngài là đẹp dáng, đáng nh́n, khả ái, và thiếp là đẹp dáng, đáng nh́n, khả ái. Thưa ngài, tốt thay ngài hăy chấp nhận thiếp đây và tất cả tài sản.” Đến lần thứ ba, đại đức Anuruddha đă im lặng.
Sau đó, người đàn bà ấy đă cởi ra tấm áo choàng và đi qua đi lại phía trước đại đức Anuruddha, rồi đứng lại, rồi ngồi xuống, rồi nằm xuống. Khi ấy, đại đức Anuruddha đă thu thúc các giác quan, cũng không nh́n người đàn bà ấy và cũng không nói. Khi ấy, người đàn bà ấy (nghĩ rằng): “Ngài thật là kỳ diệu! Ngài thật là phi thường! Nhiều người bỏ ra cả trăm cả ngàn v́ ta, thế mà khi được đích thân ta van xin vị Sa-môn này lại không chịu chấp nhận ta đây và tất cả tài sản,” rồi đă quấn lại tấm áo choàng, đê đầu ở hai chân của đại đức Anuruddha và đă nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, tội lỗi đă chiếm ngự lấy con khiến con như là ngu khờ, như là mê muội, như là không có đạo đức nên con đă hành động như thế. Thưa ngài, đối với con đây xin ngài đại đức ghi nhận tội lỗi là tội lỗi hầu để ngăn ngừa trong tương lai.” - “Này chị gái, đúng như vậy, tội lỗi đă chiếm ngự lấy cô khiến cô như là ngu khờ, như là mê muội, như là không có đạo đức nên cô đă hành động như thế. Và này chị gái, chính từ việc đó cô đă thấy được tội lỗi là tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp, nay chúng tôi ghi nhận điều ấy cho cô. Này chị gái, chính điều này là sự tiến bộ trong giới luật của bậc Thánh: ‘Người nào sau khi thấy được tội lỗi là tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp sẽ có được sự ngăn ngừa trong tương lai.’”
4. Sau đó, khi trải qua đêm ấy người đàn bà ấy đă tự tay làm hài ḷng và toại ư đại đức Anuruddha với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đại đức Anuruddha đă thọ thực xong bàn tay đă rời khỏi b́nh bát, người đàn bà ấy đă ngồi xuống ở một bên. Đại đức Anuruddha đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người đàn bà ấy đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đại đức Anuruddha chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, người đàn bà ấy đă nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, thật là tuyệt vời! Thưa ngài, thật là tuyệt vời! Thưa ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đă được úp lại, mở ra vật đă bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nh́n thấy được các h́nh dáng;’ tương tợ như thế Pháp đă được ngài đại đức Anuruddha giảng rơ bằng nhiều phương tiện. Thưa ngài, con đây xin quy y đức Thế Tôn ấy, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin ngài đại đức chấp nhận con là nữ cư sĩ đă đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”
5. Sau đó, đại đức Anuruddha đă đi đến thành Sāvatthī và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Anuruddha lại nằm chung chỗ ngụ với người nữ?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này Anuruddha, nghe nói ngươi nằm chung chỗ ngụ với người nữ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này Anuruddha, v́ sao ngươi lại nằm chung chỗ ngụ với người nữ vậy? Này Anuruddha, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào nằm chung chỗ ngụ với người nữ th́ phạm tội pācittiya.”
6. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Người nữ: nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, ngay cả đứa bé gái mới sanh ngày hôm ấy cho đến bà lăo.
Với: là cùng chung.
Chỗ ngụ nghĩa là đă được lợp kín toàn bộ đă được che kín xung quanh toàn bộ, đă được lợp kín phần lớn đă được che kín xung quanh phần lớn.
Nằm chung chỗ ngụ: là lúc mặt trời đă lặn, khi người nữ đang nằm vị tỳ khưu nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Khi vị tỳ khưu đang nằm, người nữ nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Sau khi đứng dậy rồi (cả hai) lại nằm xuống th́ phạm tội pācittiya.
Người nữ, nhận biết là người nữ, vị nằm chung chỗ ngụ th́ phạm tội pācittiya. Người nữ, có sự hoài nghi, vị nằm chung chỗ ngụ th́ phạm tội pācittiya. Người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị nằm chung chỗ ngụ th́ phạm tội pācittiya.
Trong chỗ lợp kín một nửa, che kín xung quanh một nửa, phạm tội dukkaṭa. Vị nằm chung chỗ ngụ với nữ Dạ-xoa, hoặc với ma nữ, hoặc với người vô căn, hoặc với thú cái th́ phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ th́ vô tội.
Trong chỗ không được lợp kín toàn bộ, trong chỗ không được che kín xung quanh toàn bộ, trong chỗ không được lợp kín phần nhiều, trong chỗ không được che kín xung quanh phần nhiều, trong khi người nữ đang nằm th́ vị tỳ khưu ngồi, trong khi vị tỳ khưu đang nằm th́ người nữ ngồi, hoặc cả hai đều ngồi, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́ về nằm chung chỗ ngụ là thứ sáu.
--ooOoo--
6. 1. 7. ĐIỀU HỌC VỀ THUYẾT PHÁP
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là vị thường tới lui với các gia đ́nh và đi đến nhiều gia đ́nh ở thành Sāvatthī. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Udāyi đă mặc y, cầm y bát, rồi đi đến gia đ́nh nọ. Vào lúc bấy giờ, bà chủ nhà đang ngồi ở cửa lớn của căn nhà. Cô con dâu đang ngồi ở cửa pḥng trong. Khi ấy, đại đức Udāyi đă đi đến gặp bà chủ nhà, sau khi đến đă thuyết Pháp thầm th́ bên tai của bà chủ nhà. Khi ấy, cô con dâu đă khởi ư điều này: “Vị Sa-môn ấy là t́nh nhân của mẹ chồng hay là đang tán tỉnh?”
2. Sau đó, khi đă thuyết Pháp thầm th́ bên tai của bà chủ nhà, đại đức Udāyi đă đi đến gặp cô con dâu, sau khi đến đă thuyết Pháp thầm th́ bên tai của cô con dâu. Khi ấy, bà chủ nhà đă khởi ư điều này: “Vị Sa-môn ấy là t́nh nhân của con dâu hay là đang tán tỉnh?”
3. Sau đó, khi đă thuyết Pháp thầm th́ bên tai của cô con dâu, đại đức Udāyi đă ra đi. Khi ấy, bà chủ nhà đă nói với cô con dâu điều này: - “Này con, vị Sa-môn ấy đă nói ǵ với con vậy?” - “Thưa mẹ, vị ấy đă thuyết Pháp cho con. Vậy đă nói ǵ với mẹ?” - “Cũng đă thuyết Pháp cho mẹ.” Hai người nữ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao đại đức Udāyi lại thuyết Pháp thầm th́ bên tai, không lẽ Pháp không nên được thuyết giảng công khai và minh bạch?”
4. Các tỳ khưu đă nghe được các người nữ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Udāyi lại thuyết Pháp đến người nữ?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này Udāyi, nghe nói ngươi thuyết Pháp đến người nữ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại thuyết Pháp đến người nữ vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào thuyết Pháp đến người nữ th́ phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
5. Vào lúc bấy giờ, các nữ cư sĩ sau khi nh́n thấy các tỳ khưu đă nói điều này: - “Xin các ngài đại đức hăy thuyết Pháp.” - “Này các chị gái, không được phép thuyết Pháp đến người nữ.” - “Xin các ngài đại đức hăy thuyết Pháp năm sáu câu thôi, có thể biết được chỉ với chừng ấy.” - “Này các chị gái, không được phép thuyết Pháp đến người nữ.” Rồi trong khi ngần ngại, các vị đă không thuyết. Các nữ cư sĩ phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức khi được chúng tôi thỉnh cầu lại không thuyết Pháp?” Các tỳ khưu đă nghe được các nữ cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thuyết Pháp năm sáu câu đến người nữ. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào thuyết Pháp đến người nữ hơn năm sáu câu th́ phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
6. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cho phép thuyết Pháp năm sáu câu đến người nữ.” Các vị ấy sau khi bảo người nam không trí suy xét ngồi gần rồi thuyết Pháp đến người nữ quá năm sáu câu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại bảo người nam không trí suy xét ngồi gần rồi thuyết Pháp đến người nữ quá năm sáu câu?”
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi bảo người nam không trí suy xét ngồi gần rồi thuyết Pháp đến người nữ quá năm sáu câu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại bảo người nam không trí suy xét ngồi gần rồi thuyết Pháp đến người nữ quá năm sáu câu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào thuyết Pháp đến người nữ hơn năm sáu câu ngoại trừ có người nam có trí suy xét th́ phạm tội pācittiya.”
8. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Người nữ: nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có trí suy xét, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là (lời nói) thô tục và không thô tục.
Hơn năm sáu câu: là vượt quá năm sáu câu.[5]
Pháp nghĩa là được giảng bởi đức Phật, được giảng bởi các vị Thinh Văn, được giảng bởi các vị ẩn sĩ, được giảng bởi chư Thiên, có liên quan đến mục đích, có liên quan đến Giáo Pháp.
Thuyết: vị thuyết theo câu th́ phạm tội pācittiya theo mỗi một câu. Vị thuyết theo từ th́ phạm tội pācittiya theo mỗi một từ.
Ngoại trừ có người nam có trí suy xét: trừ ra có người nam có trí suy xét.
Người nam có trí suy xét nghĩa là có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là (lời nói) thô tục và không thô tục.
Người nữ, nhận biết là người nữ, vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có người nam có trí suy xét. Người nữ, có sự hoài nghi, vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có người nam có trí suy xét. Người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có người nam có trí suy xét.
Vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu đến nữ Dạ-xoa, hoặc ma nữ, hoặc người vô căn, hoặc loài thú có thân người nữ th́ phạm tội dukkaṭa ngoại trừ có người nam có trí suy xét. Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa. Kkhông phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ th́ vô tội.
Vị thuyết Pháp hơn năm sáu câu có người nam có trí suy xét, vị thuyết Pháp chưa tới năm sáu câu, vị sau khi đứng dậy ngồi xuống lại rồi thuyết Pháp, vị thuyết trong khi người nữ đứng dậy rồi ngồi xuống lại, vị thuyết đến người nữ khác,[6] vị hỏi câu hỏi, vị trả lời khi được hỏi câu hỏi, trong khi đang thuyết v́ lợi ích của người nam khác th́ người nữ lắng nghe, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về thuyết Pháp là thứ bảy.
--ooOoo--
6. 1. 8. ĐIỀU HỌC VỀ TUYÊN BỐ SỰ THỰC CHỨNG
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu thân thiết đồng quan điểm đă vào mùa (an cư) mưa ở bờ sông Vaggumudā. Vào lúc bấy giờ, xứ Vajjī có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành, vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực.
2. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Hiện nay, xứ Vajjī có sự khó khăn về vật thực, đời sống khổ cực, dịch bệnh hoành hành, vật thực được phân phối theo thẻ, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. C̣n chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không căi cọ nhau, vậy bằng phương thức nào chúng ta có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực?”
3. Một số vị đă nói như vầy: - “Này các đại đức, chúng ta hăy quyết định làm công việc cho các người tại gia đi; như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự ḥa hợp, thân thiện, không căi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực.”
4. Một số vị đă nói như vầy: - “Này các đại đức, thôi đi! Việc ǵ lại quyết định làm công việc cho các người tại gia? Này các đại đức, chúng ta hăy đưa tin tức cho các người tại gia đi; như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự ḥa hợp, thân thiện, không căi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực.”
5. Một số vị đă nói như vầy: - “Này các đại đức, thôi đi! Việc ǵ lại quyết định làm công việc cho các người tại gia? Việc ǵ lại đưa tin tức cho các người tại gia? Này các đại đức, chúng ta sẽ nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia rằng: ‘Vị tỳ khưu như vầy đạt sơ thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt nhị thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt tam thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt tứ thiền, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhập Lưu, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhất Lai, vị tỳ khưu như vầy là vị Bất Lai, vị tỳ khưu như vầy là vị A-la-hán, vị tỳ khưu như vầy có ba Minh, vị tỳ khưu như vầy có sáu Thắng Trí;’ như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự ḥa hợp, thân thiện, không căi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực.”
6. - “Này các đại đức, chính điều này là tốt hơn hết tức là việc chúng ta nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia.” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia: - “Vị tỳ khưu như vầy đạt sơ thiền, ―(như trên)― vị tỳ khưu như vầy có sáu Thắng Trí.”
7. Khi ấy, những người dân ấy (nghĩ rằng): “Quả thật điều lợi ích đă có cho chúng ta! Quả thật chúng ta đă đạt được điều tốt! Chúng ta có được các tỳ khưu như vầy trong số họ vào mùa (an cư) mưa! Quả thật từ trước đến nay không có các tỳ khưu như vầy vào mùa (an cư) mưa như là các vị tỳ khưu có giới có thiện pháp này vậy!” Họ cúng dường đến các tỳ khưu những vật thực loại mềm mà họ không ăn cho chính bản thân, không dâng đến cha mẹ, không cho đến vợ con, không cho đến các tôi tớ và người làm công, không cho đến bạn bè và các quan lại, không cho đến các thân quyến cùng huyết thống. Họ cúng dường đến các tỳ khưu những vật thực loại cứng, những thức nếm, những thức uống mà họ không uống cho chính bản thân, không dâng đến cha mẹ, không cho đến vợ con, không cho đến các tôi tớ và người làm công, không cho đến bạn bè và các quan lại, không cho đến các thân quyến cùng huyết thống.
8. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă có được tướng mạo, căn quyền sung măn, sắc diện rạng rỡ, sắc thân an tịnh. Điều này đă trở thành thông lệ cho các tỳ khưu đă trải qua mùa (an cư) mưa là đi đến diện kiến đức Thế Tôn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy trải qua ba tháng mùa (an cư) mưa đă thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, ra đi về phía thành Vesālī. Trong khi tuần tự du hành, các vị đă đi đến thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
9. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa ở các phương th́ ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân h́nh nổi đầy gân; trái lại các vị tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā có được tướng mạo, căn quyền sung măn, sắc diện rạng rỡ, sắc thân an tịnh. Điều này đă trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến.
10. Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với vị các tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā điều này: - “Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không căi cọ nhau đă sống qua mùa (an cư) mưa có được thoải mái không? Và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực?” - “Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc đều tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con có sự hợp nhất, thân thiện, không căi cọ nhau đă sống qua mùa (an cư) mưa được thoải mái, và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực.” Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi. Các đấng Như lai hỏi có liên quan đến lợi ích và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề. Chư Phật Thế Tôn hỏi các tỳ khưu bởi hai lư do: “Chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc sẽ quy định điều học cho các đệ tử.”
11. Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói với các vị tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā điều này: - “Này các tỳ khưu, các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không căi cọ nhau đă sống qua mùa (an cư) mưa được thoải mái và không bị khó nhọc v́ đồ ăn khất thực như thế nào?” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, các ngươi có thực chứng không?” - “Bạch Thế Tôn, có thực chứng.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao các ngươi lại ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia v́ lư do của bao tử vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào tuyên bố pháp thượng nhân đến người chưa tu lên bậc trên (nếu) đă thực chứng th́ phạm tội pācittiya.”
12. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu và tỳ khưu ni, (các người) c̣n lại là người chưa tu lên bậc trên.
13. Pháp thượng nhân nghĩa là thiền, sự giải thoát, định, sự chứng đạt, trí tuệ và sự thấy biết, sự tu tập về Đạo, sự thực chứng về Quả, sự dứt bỏ phiền năo, sự không c̣n bị che lấp của tâm, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng. Thiền: là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Sự giải thoát: là vô phiền năo giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát.[7] Định: là vô phiền năo định, vô tướng định, vô nguyện định. Sự chứng đạt: là sự chứng đạt về vô phiền năo, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện.
Trí tuệ và sự thấy biết: là ba Minh.
Sự tu tập về Đạo: là bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần.
Sự thực chứng về Quả: là sự thực chứng quả vị Nhập Lưu, sự thực chứng quả vị Nhất Lai, sự thực chứng quả vị Bất Lai, sự thực chứng phẩm vị A-la-hán.
Sự dứt bỏ phiền năo: là sự dứt bỏ tham ái, sự dứt bỏ sân, sự dứt bỏ si.
Sự không c̣n bị che lấp của tâm: nghĩa là tâm không c̣n bị che lấp bởi tham ái, tâm không c̣n bị che lấp bởi sân, tâm không c̣n bị che lấp bởi si.
Sự thỏa thích ở nơi thanh vắng: là sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với sơ thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với nhị thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với tam thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với tứ thiền.
14. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng sơ thiền” th́ phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi chứng sơ thiền” th́ phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng được sơ thiền” th́ phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi có đạt sơ thiền” th́ phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi có trú sơ thiền” th́ phạm tội pācittiya. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ngộ sơ thiền” th́ phạm tội pācittiya.
15. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được nhị thiền, ... tam thiền, ... tứ thiền, ... tôi có đạt tứ thiền ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ tứ thiền” th́ phạm tội pācittiya.
16. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được vô phiền năo giải thoát, ... vô tướng giải thoát, ... vô nguyện giải thoát, ... vô phiền năo định, ... vô tướng định, ... vô nguyện định, ... tôi có đạt vô nguyện định ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ vô nguyện định” th́ phạm tội pācittiya.
17. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sự chứng đạt về vô phiền năo, ... sự chứng đạt về vô tướng, ... sự chứng đạt về vô nguyện, ... tôi có đạt sự chứng đạt về vô nguyện ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ sự chứng đạt về vô nguyện” th́ phạm tội pācittiya.
18. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được ba Minh, ... tôi có đạt ba Minh ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ ba Minh” th́ phạm tội pācittiya.
19. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được bốn sự thiết lập niệm, ... bốn chánh cần, ... bốn nền tảng của thần thông, ... tôi có đạt bốn nền tảng của thần thông, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ bốn nền tảng của thần thông” th́ phạm tội pācittiya.
20. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được năm quyền, ... năm lực, ... tôi có đạt năm lực ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ năm lực” th́ phạm tội pācittiya.
21. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được bảy giác chi, ... tôi có đạt bảy giác chi, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ bảy giác chi” th́ phạm tội pācittiya.
22. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được Thánh Đạo tám chi phần, ... tôi có đạt Thánh Đạo tám chi phần, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ Thánh Đạo tám chi phần” th́ phạm tội pācittiya.
23. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được quả vị Nhập Lưu, ... quả vị Nhất Lai, ... quả vị Bất Lai, ... phẩm vị A-la-hán, ... tôi có đạt phẩm vị A-la-hán, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ phẩm vị A-la-hán” th́ phạm tội pācittiya.
24. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă từ bỏ tham ái, ... tôi đă từ bỏ sân, ... tôi đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si” th́ phạm tội pācittiya.
25. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, ... tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, ... tâm của tôi không bị che lấp bởi si” th́ phạm tội pācittiya.
26. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền, ... nhị thiền, ... tam thiền, ... tứ thiền ở nơi thanh vắng, ... tôi có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ tứ thiền ở nơi thanh vắng” th́ phạm tội pācittiya.
27. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền và nhị thiền, ... tôi có đạt sơ thiền và nhị thiền, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ sơ thiền và nhị thiền” th́ phạm tội pācittiya.
28. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền và tam thiền, ... sơ thiền và tứ thiền, ... tôi có đạt sơ thiền và tứ thiền, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ sơ thiền và tứ thiền” th́ phạm tội pācittiya.
29. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền và vô phiền năo giải thoát, ... và vô tướng giải thoát, ... và vô nguyện giải thoát, ... và vô phiền năo định, ... và vô tướng định, ... và vô nguyện định, ... tôi có đạt sơ thiền và vô nguyện định, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ sơ thiền và vô nguyện định” th́ phạm tội pācittiya.
30. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền và sự chứng đạt về vô phiền năo, ... và sự chứng đạt về vô tướng, ... và sự chứng đạt về vô nguyện, ... tôi có đạt sơ thiền và sự chứng đạt về vô nguyện, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ sơ thiền và sự chứng đạt về vô nguyện” th́ phạm tội pācittiya.
31. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền và ba Minh, ... tôi có đạt sơ thiền và ba Minh, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ sơ thiền và ba Minh” th́ phạm tội pācittiya.
32. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền và bốn sự thiết lập niệm, ... sơ thiền và bốn chánh cần, ... sơ thiền và bốn nền tảng của thần thông, ... tôi có đạt sơ thiền và bốn nền tảng của thần thông, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ sơ thiền và bốn nền tảng của thần thông” th́ phạm tội pācittiya.
33. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền và năm quyền, ... sơ thiền và năm lực, ... tôi có đạt sơ thiền và năm lực, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ sơ thiền và năm lực” th́ phạm tội pācittiya.
34. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền và bảy giác chi, ... tôi có đạt sơ thiền và bảy giác chi, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ sơ thiền và bảy giác chi” th́ phạm tội pācittiya.
35. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền và Thánh Đạo tám chi phần, ... tôi có đạt sơ thiền và Thánh Đạo tám chi phần, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ sơ thiền và Thánh Đạo tám chi phần” th́ phạm tội pācittiya.
36. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền và quả vị Nhập Lưu, ... và quả vị Nhất Lai, ... và quả vị Bất Lai, ... và phẩm vị A-la-hán, ... tôi có đạt sơ thiền và phẩm vị A-la-hán, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ sơ thiền và phẩm vị A-la-hán” th́ phạm tội pācittiya.
37. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền và tôi đă từ bỏ tham ái, ... và tôi đă từ bỏ sân, ... và tôi đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si” th́ phạm tội pācittiya.
38. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” th́ phạm tội pācittiya.
39. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được nhị thiền và tam thiền, ... nhị thiền và tứ thiền, ... tôi có đạt nhị thiền và tứ thiền, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ nhị thiền và tứ thiền” th́ phạm tội pācittiya.
40. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng nhị thiền ―(như trên)― và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” th́ phạm tội pācittiya. ―(như trên)―
41. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được nhị thiền và sơ thiền, ... tôi có đạt nhị thiền và sơ thiền, ... tôi có trú ... tôi đă chứng ngộ nhị thiền và sơ thiền” th́ phạm tội pācittiya. ―(như trên)―
[Phần căn bản đă được tóm lược]
42. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền. ... tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt sơ thiền, ... tôi có trú ... tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đă chứng ngộ sơ thiền” th́ phạm tội pācittiya. ―(như trên)―
43. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân” th́ phạm tội pācittiya. ―(như trên)―
44. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng ... tôi chứng ... tôi đă chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền năo giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền năo định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về vô phiền năo, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện, ba Minh, bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần, quả vị Nhập Lưu, quả vị Nhất Lai, quả vị Bất Lai, và phẩm vị A-la-hán, ... Tôi đă từ bỏ tham ái, ... Tôi đă từ bỏ sân ... Tôi đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” th́ phạm tội pācittiya.
45. Tuyên bố: Vị có ư định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng sơ thiền” lại nói: “Tôi đă chứng nhị thiền,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa.
46. Tuyên bố: Vị có ư định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng sơ thiền” lại nói: “Tôi đă chứng tam thiền, ... tứ thiền, ... vô phiền năo giải thoát, ... vô tướng giải thoát, ... vô nguyện giải thoát, ... vô phiền năo định, ... vô tướng định, ... vô nguyện định, ... sự chứng đạt về vô phiền năo, ... sự chứng đạt về vô tướng, ... sự chứng đạt về vô nguyện, ... ba Minh, ... bốn sự thiết lập niệm, ... bốn chánh cần, ... bốn nền tảng của thần thông, ... năm quyền, ... năm lực, ... bảy giác chi, ... Thánh Đạo tám chi phần, ... quả vị Nhập Lưu, ... quả vị Nhất Lai, ... quả vị Bất Lai, ... phẩm vị A-la-hán, ... tôi đă từ bỏ tham ái, ... tôi đă từ bỏ sân, ... tôi đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, ... tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa.
47. Tuyên bố: Vị có ư định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng nhị thiền” ... lại nói: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa.
48. Tuyên bố: Vị có ư định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng nhị thiền” lại nói: “Tôi đă chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―
[Phần căn bản đă được tóm lược]
49. Tuyên bố: Vị có ư định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại nói: “Tôi đă chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―
50. Tuyên bố: Vị có ư định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại nói: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―
51. Tuyên bố: Vị có ư định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, và tứ thiền” ―(như trên)― Vị có ư định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân” lại nói: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―
52. Tuyên bố: Vị có ư định nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Tôi đă chứng nhị thiền, tam thiền, và tứ thiền” ... “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại nói: “Tôi đă chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được th́ phạm tội pācittiya, (người nghe) không hiểu được th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―
53. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đă cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đă chứng ... chứng ... đă chứng được sơ thiền, vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú sơ thiền, sơ thiền đă được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” th́ phạm tội dukkaṭa.
54. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đă cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đă chứng ... chứng ... đă chứng được nhị thiền, tam thiền, tứ thiền; vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú tứ thiền; tứ thiền đă được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―
55. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đă cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đă chứng ... chứng ... đă chứng được vô phiền năo giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền năo định, vô tướng định, vô nguyện định; vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú vô nguyện định; vô nguyện định đă được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” th́ phạm tội dukkaṭa.
56. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đă cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đă chứng sự chứng đạt về vô phiền năo, ... sự chứng đạt về vô tướng, ... sự chứng đạt về vô nguyện, vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú sự chứng đạt về vô nguyện định; sự chứng đạt về vô nguyện định đă được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” th́ phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―
57. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đă cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đă chứng ... chứng ... đă chứng được ba Minh, ... bốn sự thiết lập niệm, ... bốn chánh cần, ... bốn nền tảng của thần thông, ... năm quyền, ... năm lực, ... bảy giác chi, ... Thánh Đạo tám chi phần, ... quả vị Nhập Lưu, ... quả vị Nhất Lai, ... quả vị Bất Lai, ... phẩm vị A-la-hán, vị tỳ khưu ấy đă từ bỏ tham ái, ... đă từ bỏ sân ... đă từ bỏ, đă quăng bỏ, đă thoát khỏi, đă dứt bỏ, đă xa rời, đă khai trừ, đă đoạn trừ si, vị tỳ khưu ấy có tâm không bị che lấp bởi tham ái, có tâm không bị che lấp bởi sân, và có tâm không bị che lấp bởi si” th́ phạm tội dukkaṭa.
58. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đă cư ngụ trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đă chứng ... chứng... đă chứng được sơ thiền, ... nhị thiền, ... tam thiền, ... tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền ở nơi thanh vắng đă được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy ở nơi thanh vắng” th́ phạm tội dukkaṭa.
59. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đă thọ dụng trú xá của đạo hữu, ... Vị (tỳ khưu) nào đă thọ dụng y của đạo hữu, ... Vị (tỳ khưu) nào đă thọ dụng vật thực của đạo hữu, ... Vị (tỳ khưu) nào đă thọ dụng chỗ trú ngụ của đạo hữu, ... Vị (tỳ khưu) nào đă thọ dụng vật dụng là thuốc men trị bệnh của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đă chứng ... chứng ... đă chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền ở nơi thanh vắng đă được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” th́ phạm tội dukkaṭa.
60. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Trú xá của đạo hữu đă được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, y của đạo hữu đă được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, ... Vật thực của đạo hữu đă được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, ... Chỗ trú ngụ của đạo hữu đă được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, ... Vật dụng là thuốc men trị bệnh của đạo hữu đă được thọ dụng bởi vị (tỳ khưu) nào, vị tỳ khưu ấy đă chứng ... chứng ... đă chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền ở nơi thanh vắng đă được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” th́ phạm tội dukkaṭa.
61. Tuyên bố: Vị nói với người chưa tu lên bậc trên rằng: “Vị (tỳ khưu) nào đạo hữu đă đi đến và đă dâng trú xá, ... và đă dâng y, ... đă dâng vật thực, ... đă dâng chỗ trú ngụ, ... đă dâng vật dụng là dược phẩm trị bệnh, vị tỳ khưu ấy đă chứng ... chứng ... đă chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng; vị tỳ khưu ấy có đạt ... có trú tứ thiền ở nơi thanh vắng, tứ thiền ở nơi thanh vắng đă được thực chứng bởi vị tỳ khưu ấy” th́ phạm tội dukkaṭa.
62. Vị tuyên bố sự thực chứng đến người đă tu lên bậc trên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về tuyên bố sự thực chứng là thứ tám.
--ooOoo--
6. 1. 9. ĐIỀU HỌC VỀ CÔNG BỐ TỘI XẤU
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya gây chuyện xung đột với các tỳ khưu nhóm Lục Sư. Vị ấy sau khi phạm tội xuất ra tinh dịch có sự cố ư đă thỉnh cầu hội chúng hành phạt parivāsa về tội ấy. Hội chúng đă ban cho vị ấy hành phạt parivāsa về tội ấy.
2. Vào lúc bấy giờ, tại thành Sāvatthī có buổi trai phạn của phường hội nọ. Vị ấy đang chịu hành phạt parivāsa nên đă ngồi chỗ ngồi cuối cùng trong nhà ăn. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă nói với các cư sĩ ấy điều này: - “Này các đạo hữu, vị này là đại đức Upananda con trai ḍng Sakya được quen thuộc với quư vị, là vị thường tới lui với các gia đ́nh, là vị thọ dụng vật tín thí bằng chính bàn tay đă gắng sức làm xuất ra tinh dịch. Vị ấy sau khi phạm tội xuất ra tinh dịch có sự cố ư đă thỉnh cầu hội chúng hành phạt parivāsa về tội ấy. Hội chúng đă ban cho vị ấy hành phạt parivāsa về tội ấy. Vị ấy đang chịu hành phạt parivāsa nên đă ngồi chỗ ngồi cuối cùng trong nhà ăn.”
3. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại công bố tội xấu của vị tỳ khưu đến người chưa tu lên bậc trên?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi công bố tội xấu của vị tỳ khưu đến người chưa tu lên bậc trên, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại công bố tội xấu của vị tỳ khưu đến người chưa tu lên bậc trên vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào công bố tội xấu của vị tỳ khưu đến người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu.”
4. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Của tỳ khưu: là của vị tỳ khưu khác.
Tội xấu nghĩa là bốn tội pārājika và mười ba tội saṅghādisesa.
Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu và tỳ khưu ni, (các người) c̣n lại là người chưa tu lên bậc trên.
Công bố: Vị công bố đến người nữ, hoặc đến người nam, hoặc đến người tại gia, hoặc đến vị xuất gia.
Ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu: Trừ ra có sự đồng ư của các tỳ khưu. Có sự đồng ư của các tỳ khưu có sự giới hạn về tội không có sự giới hạn về gia đ́nh, có sự đồng ư của các tỳ khưu có sự giới hạn về gia đ́nh không có sự giới hạn về tội, có sự đồng ư của các tỳ khưu có sự giới hạn về tội và có sự giới hạn về gia đ́nh, có sự đồng ư của các tỳ khưu không có sự giới hạn về tội và không có sự giới hạn về gia đ́nh.
Có sự giới hạn về tội nghĩa là các tội được xét đến: “Nên công bố với chừng ấy tội.” Có sự giới hạn về gia đ́nh nghĩa là các gia đ́nh được xét đến: “Nên công bố đến chừng ấy gia đ́nh.” Có sự giới hạn về tội và có sự giới hạn về gia đ́nh nghĩa là các tội được xét đến và các gia đ́nh được xét đến: “Nên công bố với chừng ấy tội đến chừng ấy gia đ́nh.” Không có sự giới hạn về tội và không có sự giới hạn về gia đ́nh nghĩa là các tội không được xét đến và các gia đ́nh không được xét đến: “Nên công bố với chừng ấy tội đến chừng ấy gia đ́nh.”
Khi có sự giới hạn về tội, trừ ra các tội được xét đến vị công bố các tội khác th́ phạm tội pācittiya.
Khi có sự giới hạn về gia đ́nh, trừ ra các gia đ́nh được xét đến vị công bố đến các gia đ́nh khác th́ phạm tội pācittiya.
Khi có sự giới hạn về tội và có sự giới hạn về gia đ́nh, trừ ra các tội được xét đến và trừ ra các gia đ́nh được xét đến, vị công bố các tội khác đến các gia đ́nh khác th́ phạm tội pācittiya.
Khi không có sự giới hạn về tội và không có sự giới hạn về gia đ́nh th́ vô tội.
Tội xấu, nhận biết là tội xấu, vị công bố đến người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu. Tội xấu, có sự hoài nghi, vị công bố đến người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu. Tội xấu, (lầm) tưởng không phải là tội xấu, vị công bố đến người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu.
Vị công bố tội không phải là tội xấu th́ phạm tội dukkaṭa. Vị công bố sự vi phạm tội xấu hoặc tội không xấu của người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa.
Không phải là tội xấu, (lầm) tưởng là tội xấu, phạm tội dukkaṭa. Không phải là tội xấu, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là tội xấu, nhận biết không phải là tội xấu, phạm tội dukkaṭa.
Vị tuyên bố về sự việc không (tuyên bố) về tội, vị tuyên bố về tội không (tuyên bố) về sự việc, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về công bố tội xấu là thứ chín.
--ooOoo--
6. 1. 10. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC ĐÀO ĐẤT
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, trong khi thực hiện công tŕnh mới các tỳ khưu ở thành Āḷavī tự đào và bảo đào đất. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại tự đào và bảo đào đất, các Sa-môn Thích tử giết hại mạng sống chỉ có một giác quan?” Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ở thành Āḷavī lại tự đào và bảo đào đất?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tự đào và bảo đào đất, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại tự đào và bảo đào đất vậy? Này những kẻ rồ dại, bởi v́ dân chúng nghĩ rằng có mạng sống ở trong đất. Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào tự đào hoặc bảo đào đất th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Đất nghĩa là có hai loại đất: đất màu mỡ và đất không màu mỡ. Đất màu mỡ nghĩa là thuần đất thịt, thuần đất sét, có ít đá, có ít sỏi, có ít mảnh sành, có ít sạn, có ít cát, phần lớn là đất thịt, phần lớn là đất sét, đất chưa được đốt cháy là đất màu mỡ được nói đến. Đống đất thịt hoặc đống đất sét được thấm nước mưa hơn bốn tháng, đây cũng được gọi là đất màu mỡ. Đất không màu mỡ nghĩa là thuần đá, thuần sỏi, thuần mảnh sành, thuần sạn, thuần cát, có ít đất thịt, có ít đất sét, phần lớn là đá, phần lớn là sỏi, phần lớn là mảnh sành, phần lớn là sạn, phần lớn là cát, đă được đốt cháy là đất không màu mỡ được đề cập đến. Đống đất thịt hoặc đống đất sét được thấm nước mưa chưa tới bốn tháng, đây cũng được gọi là đất không màu mỡ.
Đào: là tự ḿnh đào th́ phạm tội pācittiya. Bảo đào: là bảo người khác đào th́ phạm tội pācittiya. Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) đào nhiều lần (vị ra lệnh chỉ) phạm (một) tội pācittiya.
Đất, nhận biết là đất, vị tự đào, hoặc bảo đào, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc đốt cháy, hoặc bảo đốt cháy th́ phạm tội pācittiya. Đất, có sự hoài nghi, vị tự đào, hoặc bảo đào, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc đốt cháy, hoặc bảo đốt cháy th́ phạm tội pācittiya. Đất, (lầm) tưởng không phải là đất, vị tự đào, hoặc bảo đào, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc đốt cháy, hoặc bảo đốt cháy th́ vô tội.
Không phải đất, (lầm) tưởng là đất, phạm tội dukkaṭa. Không phải là đất, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là đất, nhận biết không phải là đất th́ vô tội.
Vị nói rằng: ‘Hăy t́m vật này, hăy bố thí vật này, hăy mang lại vật này, có nhu cầu về vật này, hăy làm vật này thành đúng phép,’ không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về việc đào đất là thứ mười.
Phẩm Nói Dối là thứ nhất.
--ooOoo--
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Nói dối, sự mắng nhiếc, và đâm thọc, câu (Pháp), và hai điều về việc nằm, ngoại trừ với người biết, việc thực chứng, tội xấu, và việc đào xới.
--ooOoo--
[1] Ngài Buddhaghosa nói rằng: “Nghe nói vào thời đức Phật có 80.000 người đàn ông đă từ ḍng Sākya đi xuất gia, Hatthaka con trai ḍng Sakya là một vị trong số đó” (VinA. iv, 735). [2] Đây là nghệ thuật chơi chữ: Nghĩa căn bản của từ āpatti là “sự đạt đến,” nghĩa thông dụng là “sự phạm tội, hay tội vi phạm” như được thấy ở trường hợp thấp kém. C̣n trường hợp cao quư được nêu ra hai hợp từ là sotāpatti (sota-āpatti) và samāpatti (sam-āpatti) do được ghép với āpatti. Từ sotāpatti có ư nghĩa là sự đạt đến ḍng chảy, sự tiến vào ḍng Thánh, tức là quả vị Nhập Lưu; c̣n từ samāpatti có ư nghĩa là sự đạt đến trọn vẹn, sự tự ḿnh đạt đến, dịch là sự chứng đạt. Khó có thể diễn đạt trọn vẹn sang tiếng Việt (ND). [3] Không rơ nghĩa của các từ đệm này, chỉ biết khi đệm vào các từ này th́ có ư chê bai (ND). [4] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng người đàn bà ấy đă lập nên ngôi nhà trọ ấy để làm phước thiện. Khi đi đến ngôi làng ấy, nhiều người biết tin nên đă đến xin trú đêm (VinA. iv, 750). [5] Ngài Buddhaghosa giải thích về chữ “vācā-câu” là “eko gāthāpādo-một câu của bài kệ” (VinA. iv, 751). Và một câu của bài kệ thông thường có ít nhất là 8 âm (ND). [6] Về điểm này, Chú Giải có ghi là sau khi thuyết đến người nữ này chưa đến năm sáu câu, vị ấy chuyển sang thuyết đến người nữ khác. Theo cách ấy, trong một tư thế ngồi vị ấy có thể thuyết đến 100.000 người nữ (VinA. iv, 751). [7] Vô phiền năo giải thoát là nội tâm không c̣n tham sân si, vô tướng giải thoát là nội tâm không c̣n các biểu hiện của tham sân si, vô nguyện giải thoát là không c̣n trạng thái mong mỏi về tham sân si (VinA. ii, 492).
|
|||