|
TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 02
PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU tập II ẤN BẢN 2013 Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda (Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader) |
|||
|
6. 2. PHẨM THẢO MỘC
6. 2. 1. ĐIỀU HỌC VỀ THẢO MỘC
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, trong lúc thực hiện công tŕnh mới, các tỳ khưu ở thành Āḷavī chặt cây và bảo người chặt. Có vị tỳ khưu nọ ở thành Āḷavī cũng chặt cây. Vị Thiên nhân ngụ ở trên cây ấy đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Thưa ngài, ngài có ư định làm chỗ ở cho ḿnh th́ xin ngài chớ phá hủy chỗ ở của chúng tôi.” Vị tỳ khưu ấy trong lúc không lưu tâm đă chặt đi và đă đánh trúng cánh tay đứa bé trai của vị Thiên nhân ấy. Khi ấy, vị Thiên nhân ấy đă khởi ư điều này: “Có lẽ ta nên đoạt mạng sống của vị tỳ khưu này ngay tại nơi đây?” Rồi vị Thiên nhân ấy đă khởi ư điều này: “Việc ta đoạt mạng sống của vị tỳ khưu này ngay tại nơi đây là không đúng đắn, có lẽ ta nên tŕnh sự việc này lên đức Thế Tôn?” Sau đó, vị Thiên nhân ấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- “Này Thiên nhân, lành thay, lành thay! Này Thiên nhân, lành thay ngươi đă không đoạt lấy mạng sống của vị tỳ khưu ấy. Này Thiên nhân, nếu hôm nay ngươi đă đoạt lấy mạng sống của vị tỳ khưu ấy, này Thiên nhân ngươi đă gây ra nhiều sự vô phước. Này Thiên nhân, hăy đi, ở chỗ kia có thân cây mọc riêng biệt. Hăy đi đến nơi ấy.”
2. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại chặt cây và bảo người chặt? Các Sa-môn Thích tử giết hại mạng sống chỉ có một giác quan. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ở thành Āḷavī lại chặt cây và bảo người chặt?”
Khi ấy, đức Thế Tôn ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi chặt cây và bảo người chặt, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại chặt cây và bảo người chặt vậy? Này những kẻ rồ dại, bởi v́ dân chúng nghĩ rằng có mạng sống ở trong thân cây. Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi phá hoại sự sống của thảo mộc th́ phạm tội pācittiya.”
3. Thảo mộc nghĩa là có năm sự sanh ra bởi mầm giống: mầm giống từ rễ, mầm giống từ thân, mầm giống từ mắt chồi, mầm giống từ phần ngọn, mầm giống từ hạt là loại thứ năm.
Mầm giống từ rễ nghĩa là củ nghệ, củ gừng, cây vacā, cây vacattaṃ, cây ngải cứu, cây lê lư (trị bệnh điên?), cây usīraṃ, cỏ bhaddamuttakaṃ, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ rễ, được nảy mầm từ rễ, vật ấy được gọi là mầm giống từ rễ.
Mầm giống từ thân nghĩa là cây sung, cây đa, cây pilakkha, cây udumbara, cây tuyết tùng, cây kapiṭhana, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ thân, được nảy mầm từ thân, vật ấy được gọi là mầm giống từ thân.
Mầm giống từ mắt chồi nghĩa là cây mía, cây tre, cây sậy, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ đoạn nối, được nảy mầm từ đoạn nối, vật ấy được gọi là mầm giống từ mắt chồi.
Mầm giống từ phần ngọn nghĩa là cây húng quế, cỏ lạc đà, cỏ thơm hiriveraṃ, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ phần ngọn, được nảy mầm từ phần ngọn, điều ấy được gọi là mầm giống từ phần ngọn.
Mầm giống từ hạt nghĩa là hạt lúa bắp, hạt rau cải, hoặc là có các loại nào khác được sanh ra từ hạt, được nảy mầm từ hạt, vật ấy được gọi là mầm giống từ hạt.
Mầm giống, nhận biết là mầm giống, vị chặt, hoặc bảo chặt, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc nấu, hoặc bảo nấu th́ phạm tội pācittiya. Mầm giống, có sự hoài nghi, vị chặt, hoặc bảo chặt, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc nấu, hoặc bảo nấu th́ phạm tội dukkaṭa. Mầm giống, (lầm) tưởng không phải là mầm giống, vị chặt, hoặc bảo chặt, hoặc làm vỡ ra, hoặc bảo làm vỡ ra, hoặc nấu, hoặc bảo nấu th́ vô tội.
Không phải mầm giống, (lầm) tưởng là mầm giống, phạm tội dukkaṭa. Không phải là mầm giống, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là mầm giống, nhận biết không phải là mầm giống th́ vô tội.
Vị nói rằng: ‘Hăy t́m vật này, hăy bố thí vật này, hăy mang lại vật này, có nhu cầu về vật này, hăy làm vật này thành đúng phép,’ không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về thảo mộc là thứ nhất.
--ooOoo--
6. 2. 2. ĐIỀU HỌC VỀ NÓI TRÁNH NÉ
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, ở tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, đại đức Channa tự ḿnh hành xử sai nguyên tắc và trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): - “Ai đă vi phạm? Đă vi phạm điều ǵ? Đă vi phạm ở đâu? Đă vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều ǵ?” Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Channa trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): ‘Ai đă vi phạm? Đă vi phạm điều ǵ? Đă vi phạm ở đâu? Đă vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều ǵ?’” ―(như trên)― “Này Channa, nghe nói ngươi trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): ‘Ai đă vi phạm? Đă vi phạm điều ǵ? Đă vi phạm ở đâu? Đă vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều ǵ?’ có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): ‘Ai đă vi phạm? Đă vi phạm điều ǵ? Đă vi phạm ở đâu? Đă vi phạm thế nào? Ngươi nói ai?Ngươi nói điều ǵ?’ Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế th́ hội chúng hăy phán quyết tội nói tránh né đến tỳ khưu Channa. Và này các tỳ khưu, nên phán quyết như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
2. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên phán quyết tội nói tránh né đến tỳ khưu Channa. Đây là lời đề nghị.
3. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại phản kháng cách này hoặc cách khác. Hội chúng phán quyết tội nói tránh né đến tỳ khưu Channa. Đại đức nào đồng ư việc phán quyết tội nói tránh né đến tỳ khưu Channa xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Tội nói tránh né đă được hội chúng phán quyết đến tỳ khưu Channa. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
4. Sau đó, đức Thế Tôn đă khiển trách đại đức Channa bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi nói tránh né th́ phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
5. Vào lúc bấy giờ, trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng, đại đức Channa (nghĩ rằng): “Trong khi phản kháng cách này hoặc cách khác, ta sẽ vi phạm tội” nên đă im lặng gây khó khăn cho hội chúng. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Channa trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại im lặng gây khó khăn cho hội chúng? ―(như trên)― “Này Channa, nghe nói ngươi trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng đă im lặng gây khó khăn cho hội chúng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại im lặng gây khó khăn cho hội chúng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại và bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế th́ hội chúng hăy phán quyết tội gây khó khăn đến tỳ khưu Channa. Và này các tỳ khưu, nên phán quyết như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
6. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại im lặng gây khó khăn cho hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên phán quyết tội gây khó khăn đến tỳ khưu Channa. Đây là lời đề nghị.
7. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Channa này trong lúc được xác định tội ở giữa hội chúng lại im lặng gây khó khăn cho hội chúng. Hội chúng phán quyết tội gây khó khăn đến tỳ khưu Channa. Đại đức nào đồng ư việc phán quyết tội gây khó khăn đến tỳ khưu Channa xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Tội gây khó khăn đă được hội chúng phán quyết đến tỳ khưu Channa. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
8. Sau đó, đức Thế Tôn đă khiển trách đại đức Channa bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi nói tránh né, gây khó khăn th́ phạm tội pācittiya.”
9. Nói tránh né nghĩa là trong lúc được xác định sự việc hoặc tội ở giữa hội chúng, vị không có ư định nói lên điều ấy, không có ư định khơi lại điều ấy, rồi phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): ‘Ai đă vi phạm? Đă vi phạm điều ǵ? Đă vi phạm ở đâu? Đă vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều ǵ?’ việc này nghĩa là nói tránh né.
Gây khó khăn nghĩa là trong lúc được xác định sự việc hoặc tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ư định nói lên điều ấy, không có ư định khơi lại điều ấy, rồi giữ im lặng và gây khó khăn cho hội chúng; việc này nghĩa là gây khó khăn.
Khi tội nói tránh né chưa được phán quyết, trong lúc được xác định sự việc hay tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ư định nói lên điều ấy, không có ư định khơi lại điều ấy, rồi phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): ‘Ai đă vi phạm? Đă vi phạm điều ǵ? Đă vi phạm ở đâu? Đă vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều ǵ?’ th́ phạm tội dukkaṭa.
Khi tội gây khó khăn chưa được phán quyết, trong lúc được xác định sự việc hay tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ư định nói lên điều ấy, không có ư định khơi lại điều ấy, rồi giữ im lặng và gây khó khăn cho hội chúng th́ phạm tội dukkaṭa.
Khi tội nói tránh né đă được phán quyết, trong lúc được xác định sự việc hay tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ư định nói lên điều ấy, không có ư định khơi lại điều ấy, rồi phản kháng cách này hoặc cách khác (nói rằng): ‘Ai đă vi phạm? Đă vi phạm điều ǵ? Đă vi phạm ở đâu? Đă vi phạm thế nào? Ngươi nói ai? Ngươi nói điều ǵ?’ th́ phạm tội pācittiya.
Khi tội gây khó khăn đă được phán quyết, trong lúc được xác định sự việc hay tội vi phạm ở giữa hội chúng, vị không có ư định nói lên điều ấy, không có ư định khơi lại điều ấy, rồi giữ im lặng và gây khó khăn cho hội chúng th́ phạm tội pācittiya.
Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, khi nói tránh né gây khó khăn th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, khi nói tránh né gây khó khăn th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, khi nói tránh né gây khó khăn th́ phạm tội pācittiya.
Hành sự sai pháp, (lầm tưởng) là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp th́ vô tội.
Vị không biết rồi hỏi, hoặc vị bị bệnh rồi không nói, (nghĩ rằng): ‘Hội chúng sẽ có xung đột, hoặc căi cọ, hoặc tranh luận, hoặc tranh căi’ rồi không nói, (nghĩ rằng): ‘Sẽ có sự chia rẽ hội chúng hoặc là sự bất đồng hội chúng’ rồi không nói, (nghĩ rằng): ‘Sẽ thực hiện hành sự hoặc là sai pháp, hoặc là theo phe nhóm, hoặc là đến vị không xứng đáng với hành sự’ rồi không nói, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về nói tránh né là thứ nh́.
--ooOoo--
6. 2. 3. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC PHÀN NÀN
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đại đức Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ và sắp xếp các bữa ăn của hội chúng. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka chỉ là các vị mới tu có phước báu ít ỏi. Các vị ấy thường nhận được những chỗ trú ngụ kém thuộc về hội chúng và những bữa ăn tồi. Các vị ấy phàn nàn về đại đức Dabba Mallaputta với các tỳ khưu rằng: - “Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ theo sự ưa thích và sắp xếp các bữa ăn theo sự ưa thích.”
Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka lại phàn nàn về đại đức Dabba Mallaputta với các tỳ khưu?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi phàn nàn về Dabba Mallaputta với các tỳ khưu, có đúng không vậy? - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại phàn nàn về Dabba Mallaputta với các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi phàn nàn th́ phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka (nghĩ rằng): “Việc phê phán đă bị đức Thế Tôn cấm đoán, đă thế th́ các tỳ khưu chỉ sẽ được nghe thôi” rồi phê phán đại đức Dabba Mallaputta ở xung quanh các vị tỳ khưu rằng: - “Dabba Mallaputta phân bố chỗ trú ngụ theo sự ưa thích và sắp xếp các bữa ăn theo sự ưa thích.” Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Mettiya và Bhummajaka lại phê phán đại đức Dabba Mallaputta?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi phê phán Dabba Mallaputta, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại phê phán Dabba Mallaputta vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi phàn nàn, phê phán th́ phạm tội pācittiya.”
3. Phê phán nghĩa là vị có ư định làm mất thể diện, có ư định làm mất danh dự, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định làm vị phân bố chỗ trú ngụ, hoặc là vị sắp xếp bữa ăn, hoặc là vị phân chia cháo, hoặc là vị phân chia trái cây, hoặc là vị phân chia thức ăn khô, hoặc là vị phân chia vật linh tinh rồi phàn nàn hoặc phê phán vị đă tu lên bậc trên th́ phạm tội pācittiya.
Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, khi phàn nàn phê phán th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, khi phàn nàn phê phán th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, khi phàn nàn phê phán th́ phạm tội pācittiya.
Vị phàn nàn hoặc phê phán người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa. Vị có ư định làm mất thể diện, có ư định làm mất danh dự, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên không được hội chúng chỉ định làm vị phân bố chỗ trú ngụ hoặc là vị sắp xếp bữa ăn, hoặc là vị phân chia cháo, hoặc là vị phân chia trái cây, hoặc là vị phân chia thức ăn khô, hoặc là vị phân chia vật linh tinh rồi phàn nàn hoặc phê phán với vị đă tu lên bậc trên hoặc với người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa.
Vị có ư định làm mất thể diện, có ư định làm mất danh dự, có ư định làm xấu hổ người chưa tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định hoặc không được chỉ định làm vị phân bố chỗ trú ngụ, hoặc là vị sắp xếp bữa ăn, hoặc là vị phân chia cháo, hoặc là vị phân chia trái cây, hoặc là vị phân chia thức ăn khô, hoặc là vị phân chia vật linh tinh, rồi phê phán hoặc phàn nàn với vị đă tu lên bậc trên hoặc với người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa.
Hành sự sai pháp, (lầm tưởng) là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp, phạm tội dukkaṭa.
Vị phàn nàn hoặc phê phán vị (khác) đang hành động theo thói thường v́ ưa thích, v́ sân hận, v́ si mê, v́ sợ hăi; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về việc phàn nàn là thứ ba.
--ooOoo--
6. 2. 4. ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT VỀ CHỖ NẰM NGỒI
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ nhằm lúc mùa lạnh, các tỳ khưu sắp đặt chỗ nằm ngồi ở ngoài trời rồi sưởi ấm thân h́nh. Khi thời giờ được thông báo, các vị trong lúc rời đi đă không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi đă ra đi không thông báo. Chỗ nằm ngồi trở nên ẩm ướt. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu sau khi sắp đặt chỗ nằm ngồi ở ngoài trời, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi lại ra đi không thông báo khiến chỗ nằm ngồi bị ẩm ướt?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi sắp đặt chỗ nằm ngồi ở ngoài trời, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào sau khi tự trải ra hoặc bảo trải ra giường, hoặc ghế, hoặc nệm, hoặc gối kê thuộc về hội chúng ở ngoài trời, trong lúc rời đi không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo th́ phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế. 2. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi ngụ ở ngoài trời rồi mang cất chỗ nằm ngồi lúc c̣n sớm. Đức Thế Tôn đă nh́n thấy các vị tỳ khưu ấy đang mang cất chỗ nằm ngồi lúc c̣n sớm; sau khi nh́n thấy đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, trong tám tháng thông thường không có mưa ta cho phép cất giữ chỗ nằm ngồi ở nơi mái che, hoặc ở gốc cây, hoặc ngay tại chỗ nào các con quạ hoặc chim kên kên không phóng uế.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Thuộc về hội chúng nghĩa là đă được dâng đến, đă được giao hẳn cho hội chúng.
Giường nghĩa là có bốn loại giường: giường lắp ráp, giường xếp, giường chân cong, giường có chân tháo rời được.
Ghế nghĩa là có bốn loại ghế: ghế lắp ráp, ghế xếp, ghế chân cong, ghế có chân tháo rời được.
Nệm nghĩa là có năm loại nệm: nệm len, nệm bông vải, nệm vỏ cây, nệm cỏ, nệm lá.
Vật kê nghĩa là làm bằng bông vải, hoặc làm bằng cây usīra, hoặc làm bằng cỏ muñja, hoặc làm bằng cỏ pabbaja sau khi đă độn vào bên trong th́ được buộc lại.
Sau khi tự trải ra: sau khi tự ḿnh trải ra.
Sau khi bảo trải ra: sau khi bảo người khác trải ra. Vị bảo người chưa tu lên bậc trên trải ra th́ trách nhiệm thuộc về vị ấy. Vị bảo người đă tu lên bậc trên trải ra th́ trách nhiệm thuộc về người đă trải ra.
Trong lúc rời đi không thu dọn vật ấy: không tự ḿnh thu dọn.
Cũng không bảo thu dọn: không bảo người khác thu dọn.
Hoặc ra đi không thông báo: không thông báo vị tỳ khưu, hoặc vị sa di, hoặc người giúp việc tu viện. Vị vượt quá chỗ rơi của cục đất được ném đi bởi người nam (có sức mạnh) bậc trung[1] th́ phạm tội pācittiya.
Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, sau khi trải ra hoặc bảo trải ra ở ngoài trời, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo th́ phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, sau khi trải ra hoặc bảo trải ra ở ngoài trời, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo th́ phạm tội pācittiya.
Sau khi trải ra hoặc bảo trải ra ở ngoài trời tấm lót nền hoặc vải phủ giường ghế hoặc thảm trải nền hoặc thảm lót ngồi hoặc tấm da thú hoặc thảm chùi chân hoặc ghế kê chân, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo th́ phạm tội dukkaṭa.
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong lúc lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân của ḿnh th́ vô tội.
Sau khi thu dọn rồi ra đi, sau khi bảo thu dọn rồi ra đi, vị ra đi có thông báo, vị ra đi khi (vật ấy) đang c̣n được phơi nắng,[2] (vật ấy) đă được bất cứ ai chiếm hữu, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nhất về chỗ nằm ngồi là thứ tư.
--ooOoo--
6. 2. 5. ĐIỀU HỌC THỨ HAI VỀ CHỖ NẰM NGỒI
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư là bạn hữu. Các vị ấy trong khi sống th́ sống chung, trong khi ra đi th́ ra đi chung. Các vị ấy sau khi trải ra chỗ nằm ở trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi đă không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi đă ra đi không thông báo. Chỗ trú ngụ đă bị mối gặm nhấm.
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư sau khi trải ra chỗ nằm ở trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi lại ra đi không thông báo khiến chỗ trú ngụ bị mối gặm nhấm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư sau khi trải ra chỗ nằm ở trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi ra đi không thông báo khiến chỗ trú ngụ bị mối gặm nhấm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy sau khi trải ra chỗ nằm ở trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo (người khác) thu dọn vật ấy, rồi lại ra đi không thông báo khiến chỗ trú ngụ bị mối gặm nhấm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào sau khi tự trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm trong trú xá thuộc về hội chúng, trong lúc rời đi không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Trú xá thuộc về hội chúng nghĩa là đă được dâng đến, đă được giao hẳn cho hội chúng.
Chỗ nằm nghĩa là nệm, tấm lót nền, vải phủ giường ghế, thảm trải nền, thảm đan, tấm da thú, vật lót ngồi, tấm trải nằm, thảm cỏ, thảm lá.
Sau khi tự trải ra: sau khi tự ḿnh trải ra.
Sau khi bảo trải ra: sau khi bảo người khác trải ra.
Trong lúc rời đi không thu dọn vật ấy: không tự ḿnh thu dọn.
Cũng không bảo thu dọn: không bảo người khác thu dọn.
Hoặc ra đi không thông báo: không thông báo vị tỳ khưu, hoặc vị sa di, hoặc người giúp việc tu viện. Vị vượt quá hàng rào của tu viện được rào lại th́ phạm tội pācittiya. Vị vượt qua vùng phụ cận của tu viện không được rào lại th́ phạm tội pācittiya.
Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, vị sau khi trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo th́ phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, vị sau khi trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo th́ phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, vị sau khi trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo th́ phạm tội pācittiya.
Sau khi trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm ở vùng phụ cận của trú xá hoặc trong pḥng phục vụ hoặc ở mái che hoặc ở gốc cây, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi trải ra hoặc bảo trải ra giường hoặc ghế ở trong trú xá hoặc ở vùng phụ cận của trú xá hoặc trong pḥng phục vụ hoặc ở mái che hoặc ở gốc cây, trong lúc rời đi lại không thu dọn cũng không bảo thu dọn vật ấy, hoặc ra đi không thông báo th́ phạm tội dukkaṭa.
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong khi lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân của ḿnh th́ vô tội.
Sau khi thu dọn rồi ra đi, sau khi bảo thu dọn rồi ra đi, vị ra đi có thông báo, (vật ấy) đă được bất cứ ai chiếm hữu, vị có dự tính sau khi đi đến nơi ấy rồi (nhắn tin về) hỏi, vị bị cản trở bởi bất cứ điều ǵ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́ về chỗ nằm ngồi là thứ năm.
--ooOoo--
6. 2. 6. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC CHEN VÀO
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chiếm hữu các chỗ nằm tốt nhất; các tỳ khưu trưởng lăo bảo các vị ấy đứng dậy. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă khởi ư điều này: “Bằng phương kế ǵ chúng ta có thể sống mùa (an cư) mưa ở chính nơi này?” Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lăo rồi nằm xuống (nghĩ rằng): “Người nào bực bội th́ sẽ ra đi.”
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lăo rồi nằm xuống?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi chen vào (chỗ) các tỳ khưu trưởng lăo rồi nằm xuống, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào ở trong trú xá thuộc về hội chúng dầu biết vẫn chen vào (chỗ) của vị tỳ khưu đă đến trước rồi nằm xuống (nghĩ rằng): ‘Người nào bực bội th́ sẽ ra đi.’ Sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Trú xá thuộc về hội chúng nghĩa là đă được dâng đến, đă được giao hẳn cho hội chúng.
Biết nghĩa là vị biết rằng: ‘Vị già cả;’ vị biết rằng: ‘Vị bệnh;’ vị biết rằng: ‘Đă được hội chúng giao cho.’
Chen vào: là sau khi lấn chiếm.
Nằm xuống: Sau khi trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm ở khu vực lân cận của giường hoặc của ghế hoặc của lối vào hoặc của lối ra th́ phạm tội dukkaṭa. Vị nằm xuống hoặc ngồi xuống (ở chỗ ấy) th́ phạm tội pācittiya.
Sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác: không có bất cứ nguyên nhân nào khác khiến (vị ấy) chen vào rồi nằm xuống.
Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, vị chen vào rồi nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, vị chen vào rồi nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, vị chen vào rồi nằm xuống th́ phạm tội pācittiya.
Vị trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm không thuộc khu vực lân cận của giường hoặc của ghế hoặc của lối vào hoặc của lối ra th́ phạm tội dukkaṭa. Vị nằm xuống hoặc ngồi xuống (chỗ ấy) th́ phạm tội dukkaṭa. Vị trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm ở vùng phụ cận của trú xá hoặc trong pḥng phục vụ hoặc ở mái che hoặc ở gốc cây hoặc ở ngoài trời th́ phạm tội dukkaṭa. Vị nằm xuống hoặc ngồi xuống (chỗ ấy) th́ phạm tội dukkaṭa.
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong khi lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân của ḿnh th́ vô tội.
Vị đi vào khi bị bệnh, vị đi vào v́ lạnh hoặc v́ nóng hoặc bị áp bức, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về việc chen vào là thứ sáu.
--ooOoo--
6. 2. 7. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC LÔI KÉO RA
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đang sửa chữa ngôi trú xá lớn nọ ở vùng ven (nghĩ rằng): ‘Chúng ta sẽ sống mùa (an cư) mưa ở đây.’ Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă nh́n thấy các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đang sửa chữa ngôi trú xá, sau khi nh́n thấy đă nói như vầy: - “Này các đại đức, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư này đang sửa chữa ngôi trú xá. Giờ chúng ta sẽ bảo họ rút đi.” Một số vị đă nói như vầy: - “Này các đại đức, hăy chờ đợi trong lúc họ đang sửa chữa. Khi đă được sửa chữa xong th́ chúng ta sẽ bảo họ rút đi.” Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă nói với các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư điều này: - “Này các đại đức, hăy đi đi, trú xá được giao cho chúng tôi.” - “Này các đại đức, sao lại không nói cho biết trước, chúng tôi đă có thể sửa chữa cái khác?” - “Này các đại đức, không phải trú xá thuộc về hội chúng hay sao?” - “Này các đại đức, đúng vậy, trú xá thuộc về hội chúng.” - “Này các đại đức, hăy đi đi, trú xá được giao cho chúng tôi.” - “Này các đại đức, trú xá th́ lớn, các vị ở được, th́ chúng tôi cũng sẽ ở được.” - “Này các đại đức, hăy đi đi, trú xá được giao cho chúng tôi.” Rồi đă nổi giận, bất b́nh nắm (các vị ấy) ở cổ lôi kéo ra ngoài. Trong lúc bị lôi kéo ra ngoài, các vị ấy khóc lóc. Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này các đại đức, v́ sao các vị khóc lóc vậy?” - “Thưa các đại đức, những tỳ khưu nhóm Lục Sư này nổi giận, bất b́nh rồi lôi kéo chúng tôi ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng.”
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư này khi nổi giận, bất b́nh lại lôi kéo các tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nổi giận, bất b́nh rồi lôi kéo các tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi khi nổi giận, bất b́nh lại lôi kéo các tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào nổi giận, bất b́nh rồi lôi kéo hoặc bảo lôi kéo vị tỳ khưu ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.
Nổi giận, bất b́nh: không được hài ḷng, có tâm bực bội, nảy sanh ḷng cay cú.
Trú xá thuộc về hội chúng nghĩa là đă được dâng đến, đă được giao hẳn cho hội chúng.
Lôi kéo ra: sau khi nắm lấy ở trong pḥng rồi lôi kéo ra phía trước th́ phạm tội pācittiya. Sau khi nắm lấy ở phía trước rồi lôi kéo ra bên ngoài th́ phạm tội pācittiya. Với một lần ra sức, mặc dầu kéo đi qua nhiều cánh cửa phạm (chỉ một) tội pācittiya.
Bảo lôi kéo ra: vị ra lệnh người khác th́ phạm tội pācittiya. Được ra lệnh một lần, mặc dầu kéo đi qua nhiều cánh cửa (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya.
Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, vị nổi giận bất b́nh rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra th́ phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, vị nổi giận bất b́nh rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra th́ phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, vị nổi giận bất b́nh rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra th́ phạm tội pācittiya.
Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia th́ phạm tội dukkaṭa. Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra khỏi vùng phụ cận của trú xá, hoặc ra khỏi pḥng phục vụ, hoặc ra khỏi mái che, hoặc ra khỏi gốc cây, hoặc ra khỏi khuôn viên bên ngoài th́ phạm tội dukkaṭa.
Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo người chưa tu lên bậc trên ra khỏi trú xá, hoặc ra khỏi vùng phụ cận của trú xá, hoặc ra khỏi pḥng phục vụ, hoặc ra khỏi mái che, hoặc ra khỏi gốc cây, hoặc ra khỏi khuôn viên bên ngoài th́ phạm tội dukkaṭa. Vị lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia th́ phạm tội dukkaṭa.
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong khi lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân của ḿnh th́ vô tội.
Vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vị không biết hổ thẹn, vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ấy; vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vị bị điên, vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ấy; vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vị thường gây nên các sự xung đột, ... vị thường gây nên các sự căi cọ, ... vị thường gây nên các sự tranh luận, ... vị thường gây nên các sự nói chuyện nhảm nhí, ... vị thường gây nên các sự tranh tụng trong hội chúng, vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia; vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra người đệ tử hoặc người học tṛ không thực hành phận sự đúng đắn, vị lôi kéo hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị kia; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về việc lôi kéo ra là thứ bảy.
--ooOoo--
6. 2. 8. ĐIỀU HỌC VỀ CĂN GÁC LẦU
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu trong trú xá của hội chúng có căn gác lầu, một vị sống ở bên dưới, một vị ở phía trên. Vị tỳ khưu ở trên đă ngồi xuống một cách vội vă ở chiếc giường loại có chân tháo rời được. Chân giường đă rơi xuống và chạm vào đầu của vị tỳ khưu ở bên dưới. Vị tỳ khưu ấy đă thét lên. Các tỳ khưu đă chạy lại và đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, v́ sao đại đức đă thét lên?” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao vị tỳ khưu lại ngồi xuống một cách vội vă ở chiếc giường loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu trong trú xá của hội chúng?” ―(như trên)― “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi ngồi xuống một cách vội vă ở chiếc giường loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu trong trú xá của hội chúng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại ngồi xuống một cách vội vă ở chiếc giường loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu trong trú xá của hội chúng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào ngồi xuống hoặc nằm xuống ở chiếc giường hoặc ghế loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu trong trú xá của hội chúng th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.
Thuộc về hội chúng nghĩa là trú xá đă được dâng đến, đă được giao hẳn cho hội chúng.
Căn gác lầu nghĩa là không đụng vào đầu của người đàn ông (có chiều cao) bậc trung.
Giường loại có chân tháo rời được nghĩa là sau khi khoan lỗ rồi được gắn vào.
Ghế loại có chân tháo rời được nghĩa là sau khi khoan lỗ rồi được gắn vào.
Ngồi xuống: vị ngồi xuống ở chỗ ấy th́ phạm tội pācittiya.
Nằm xuống: vị nằm xuống ở chỗ ấy th́ phạm tội pācittiya.
Thuộc về hội chúng, nhận biết là thuộc về hội chúng, vị ngồi xuống hoặc nằm xuống ở chiếc giường hoặc ghế loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu th́ phạm tội pācittiya. Thuộc về hội chúng, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Thuộc về hội chúng, (lầm) tưởng là thuộc về cá nhân, vị ngồi xuống hoặc nằm xuống ở chiếc giường hoặc ghế loại có chân tháo rời được ở căn gác lầu th́ phạm tội pācittiya.
Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về hội chúng, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân, (lầm tưởng) là thuộc về cá nhân (này) trong khi lại thuộc về cá nhân khác, phạm tội dukkaṭa. Thuộc về cá nhân của ḿnh th́ vô tội.
Ở chỗ không phải là gác lầu, ở gác lầu (thấp) bị va chạm vào đầu, phần bên dưới là không được sử dụng, (gác lầu) đă được lót sàn, (giường ghế) đă được đóng đinh, vị đứng ở trên chỗ ấy lấy xuống hoặc treo lên, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về căn gác lầu là thứ tám.
--ooOoo--
6. 2. 9. ĐIỀU HỌC VỀ TRÚ XÁ LỚN
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, ở tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, vị quan đại thần người hộ độ cho đại đức Channa ra lệnh xây dựng trú xá cho đại đức Channa. Khi ấy, lúc trú xá đă được làm hoàn tất, đại đức Channa đă cho người lợp đi lợp lại, đă cho người tô trét đi tô trét lại khiến trú xá trở nên quá nặng nề rồi sụp đổ xuống. Sau đó, đại đức Channa trong lúc gom góp cỏ và cây gỗ đă làm hư hỏng ruộng lúa mạch của người Bà-la-môn nọ. Khi ấy, người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức lại làm hư hỏng ruộng lúa mạch của chúng tôi?” Các tỳ khưu đă nghe được người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao lúc trú xá đă được làm hoàn tất, đại đức Channa c̣n cho người lợp đi lợp lại, c̣n cho người tô trét đi tô trét lại khiến trú xá trở nên quá nặng nề rồi sụp đổ xuống?” ―(như trên)― “Này Channa, nghe nói lúc trú xá đă được làm hoàn tất ngươi c̣n cho người lợp đi lợp lại, c̣n cho người tô trét đi tô trét lại khiến trú xá trở nên quá nặng nề rồi sụp đổ xuống, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao lúc trú xá đă được làm hoàn tất, ngươi c̣n cho người lợp đi lợp lại, c̣n cho người tô trét đi tô trét lại khiến trú xá trở nên quá nặng nề rồi sụp đổ xuống vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Trong lúc cho xây dựng trú xá lớn, vị tỳ khưu nên đứng ở chỗ không trồng trọt mà quyết định cách thức về hai ba lớp tô đắp đối với việc lắp đặt chốt cửa, đối với việc trang hoàng các lỗ thông hơi, cho đến khung cửa lớn. Nếu vượt quá điều ấy, cho dầu vị đứng ở chỗ không trồng trọt mà quyết định vẫn phạm tội pācittiya.”
3. Trú xá lớn: nghĩa là có thí chủ được đề cập đến.
Trú xá: nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Trong lúc cho xây dựng: là (tự ḿnh) đang làm hoặc đang bảo người làm.
Cho đến khung cửa lớn: là (khoảng rộng) một tầm tay (1 mét 25) ở các khu vực xung quanh của đà ngang và trụ cửa.
Đối với việc lắp đặt chốt cửa: của việc lắp đặt cánh cửa lớn.
Đối với việc trang hoàng các lỗ thông hơi: là của việc trang hoàng các cửa sổ (gồm có các việc): sơn màu trắng, sơn màu đen, sơn màu đỏ, trang hoàng h́nh ṿng hoa, trang hoàng h́nh tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại.
Nên đứng ở chỗ không trồng trọt mà quyết định cách thức về hai ba lớp tô đắp: Được trồng trọt nghĩa là các loại lúa bắp và rau cải. Nếu đứng ở chỗ được trồng trọt mà xác định th́ phạm tội dukkaṭa. Khi đang cho tô đắp theo đường thằng, sau khi đă quyết định hai đường và đă chỉ thị đường thứ ba th́ nên rời đi. Khi đang cho tô đắp theo đường ṿng, sau khi đă quyết định hai đường ṿng và đă chỉ thị đường ṿng thứ ba th́ nên rời đi.
Nếu vượt quá điều ấy, cho dầu vị đứng ở chỗ không trồng trọt mà quyết định: Vị đang cho tô đắp bằng ngói th́ phạm tội pācittiya theo từng viên ngói. Vị đang cho tô đắp bằng đá phiến th́ phạm tội pācittiya theo từng viên đá phiến. Vị đang cho tô đắp bằng vữa hồ th́ phạm tội pācittiya theo từng cục vữa hồ. Vị đang cho tô đắp bằng cỏ th́ phạm tội pācittiya theo từng nắm cỏ. Vị đang cho tô đắp bằng lá th́ phạm tội pācittiya theo từng tấm lá.
Vượt quá hai hay ba cách thức, nhận biết là vượt quá, vị quyết định th́ phạm tội pācittiya. Vượt quá hai hay ba cách thức, có sự hoài nghi, vị quyết định th́ phạm tội pācittiya. Vượt quá hai hay ba cách thức, (lầm) tưởng là chưa quá, vị quyết định th́ phạm tội pācittiya.
Chưa vượt quá hai hay ba cách thức, (lầm tưởng) là đă vượt quá, phạm tội dukkaṭa. Chưa vượt quá hai hay ba cách thức, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Chưa vượt quá hai hay ba cách thức, nhận biết là chưa quá th́ vô tội.
Trong hai hay ba cách thức, khi chưa đủ hai hay ba cách thức, trong hang đá, trong hang động, trong cốc liêu bằng cỏ, v́ nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, trừ ra nhà ở c̣n tất cả các nơi th́ không phạm tội, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về trú xá lớn là thứ chín.
--ooOoo--
6. 2. 10. ĐIỀU HỌC VỀ (NƯỚC) CÓ SINH VẬT
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, trong lúc thực hiện công tŕnh mới các tỳ khưu ở thành Āḷavī trong khi biết nước có sinh vật vẫn tưới và bảo tưới lên cỏ và đất sét.
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu ở thành Āḷavī trong khi biết nước có sinh vật vẫn tưới và bảo tưới lên cỏ và đất sét?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi trong khi biết nước có sinh vật vẫn tưới và bảo tưới lên cỏ và đất sét, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi trong khi biết nước có sinh vật vẫn tưới và bảo tưới lên cỏ và đất sét vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào trong khi biết nước có sinh vật vẫn tưới hoặc bảo tưới lên cỏ hay đất sét th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Biết nghĩa là tự ḿnh biết hoặc các người khác thông báo cho vị ấy.
Tưới: vị tự ḿnh tưới th́ phạm tội pācittiya.
Bảo tưới: Vị ra lệnh cho người khác th́ phạm tội pācittiya. Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) tưới nhiều lần, (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya.
Khi có sinh vật, nhận biết là có sinh vật, vị tưới hoặc bảo tưới lên cỏ hay đất sét th́ phạm tội pācittiya. Khi có sinh vật, có sự hoài nghi, vị tưới hoặc bảo tưới lên cỏ hay đất sét th́ phạm tội dukkaṭa. Khi có sinh vật, (lầm) tưởng là không có sinh vật, vị tưới hoặc bảo tưới lên cỏ hay đất sét th́ vô tội.
Khi không có sinh vật, (lầm tưởng) là có sinh vật, phạm tội dukkaṭa. Khi không có sinh vật, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi không có sinh vật, nhận biết là không có sinh vật th́ vô tội.
Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về (nước) có sinh vật là thứ mười.
Phẩm Thảo Mộc là thứ nh́.
--ooOoo--
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Thảo mộc, nói tráo trở, trong khi phê phán, hai điều về vị rời đi, vị đến trước, việc lôi kéo ra, loại có chân tháo rời được, cửa lớn, và có sinh vật.
--ooOoo--
6. 3. PHẨM GIÁO GIỚI TỲ KHƯU NI
6. 3. 1. ĐIỀU HỌC VỀ GIÁO GIỚI
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trưởng lăo trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă bàn bạc điều này: - “Này các đại đức, hiện nay các tỳ khưu trưởng lăo trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Này các đại đức, vậy chúng ta cũng giáo giới các tỳ khưu ni.”
2. Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă đi đến gặp các tỳ khưu ni và đă nói điều này: - “Này các sư tỷ, hăy đi đến gặp chúng tôi. Chúng tôi cũng sẽ giáo giới.” Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đă đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Lục Sư, sau khi đến đă đảnh lễ các tỳ khưu nhóm Lục Sư rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă nói Pháp thoại đến các tỳ khưu ni chỉ chút ít, sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi đă giải tán (nói rằng): - “Này các sư tỷ, hăy đi đi.”
3. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đức Thế Tôn đă nói với các tỳ khưu ni ấy đang đứng một bên điều này: - “Này các tỳ khưu ni, chắc hẳn việc giáo giới đă có hiệu quả?” - “Bạch ngài, làm sao sự giáo giới sẽ có hiệu quả khi các ngài đại đức nhóm Lục Sư nói Pháp thoại chỉ chút ít, sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán?”
4. Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các tỳ khưu ni ấy bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, các tỳ khưu ni ấy đă đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
5. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nói Pháp thoại cho các tỳ khưu ni chỉ chút ít, sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán, có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại nói Pháp thoại cho các tỳ khưu ni chỉ chút ít, sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị giáo giới tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
6. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo giới tỳ khưu ni. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo giới tỳ khưu ni. Đại đức nào đồng ư với việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo giới tỳ khưu ni xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́: ―(như trên)―
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo giới tỳ khưu ni. Đại đức nào đồng ư việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị giáo giới tỳ khưu ni xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Vị tỳ khưu tên (như vầy) đă được hội chúng chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
7. Sau đó, đức Thế Tôn đă khiển trách các tỳ khưu nhóm Lục Sư bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào chưa được chỉ định mà giáo giới tỳ khưu ni th́ phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
8. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trưởng lăo đă được chỉ định trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc y như thế thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă bàn bạc điều này: - “Này các đại đức, hiện nay các tỳ khưu trưởng lăo đă được chỉ định trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc y như thế thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Này các đại đức, vậy chúng ta hăy đi ra khỏi ranh giới, sau khi chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni cho lẫn nhau, chúng ta hăy giáo giới các tỳ khưu ni.”
9. Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă đi ra khỏi ranh giới và đă chỉ định là vị giáo giới tỳ khưu ni cho lẫn nhau, sau đó đă đi đến gặp các tỳ khưu ni và đă nói điều này: - “Này các sư tỷ, chúng tôi cũng đă được chỉ định. Hăy đi đến gặp chúng tôi. Chúng tôi cũng sẽ giáo giới.” Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đă đi đến gặp các tỳ khưu nhóm Lục Sư, sau khi đến đă đảnh lễ các tỳ khưu nhóm Lục Sư rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă nói Pháp thoại đến các tỳ khưu ni chỉ chút ít, sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi đă giải tán (nói rằng): - “Này các sư tỷ, hăy đi đi.”
10. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đức Thế Tôn đă nói với các tỳ khưu ni ấy đang đứng một bên điều này: - “Này các tỳ khưu ni, chắc hẳn việc giáo giới đă có hiệu quả?” - “Bạch ngài, làm sao sự giáo giới sẽ có hiệu quả khi các ngài đại đức nhóm Lục Sư nói Pháp thoại chỉ chút ít, sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán?” Khi ấy, đức Thế Tôn bằng bài Pháp thoại đă chỉ dạy, ―(như trên)― hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
11. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nói Pháp thoại cho các tỳ khưu ni chỉ chút ít, sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại nói Pháp thoại cho các tỳ khưu ni chỉ chút ít, sau đó trải qua cả ngày với chuyện nhảm nhí rồi giải tán vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
12. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị giáo giới tỳ khưu ni là vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Là vị có giới, sống thu thúc trong sự thu thúc của giới bổn Pātimokkha, là vị đă được thành tựu về hành xứ,[3] thấy được sự sợ hăi trong những tội nhỏ nhặt, là vị thọ tŕ và thực hành trong các điều học. Là vị nghe nhiều, ghi nhớ điều đă nghe, tích lũy điều đă nghe, các Pháp nào là toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ư nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ, các Pháp có h́nh thức như thế được nghe nhiều, được thuộc nằm ḷng, được ôn tập bằng khẩu, được suy xét bằng tâm, được khéo phân tích bằng kiến thức. Cả hai giới bổn Pātimokkha được khéo truyền thừa một cách chi tiết, khéo được chia chẽ, khéo được thực hành, khéo được xác định theo từng điều học theo từng từ ngữ. Là vị có giọng nói rơ ràng, có cách nói lôi cuốn. Được nhiều tỳ khưu ni quư mến và ưa thích. Có năng lực giáo giới các tỳ khưu ni. Trước đây không có vi phạm tội nghiêm trọng đối với người nữ đă xuất gia mặc y ca-sa theo đức Thế Tôn ấy.[4] Là vị được hai mươi năm hoặc hơn hai mươi năm (thâm niên). Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này làm vị giáo giới tỳ khưu ni.
13. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Chưa được chỉ định nghĩa là chưa được chỉ định bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Giáo giới: vị giáo giới với tám Trọng Pháp th́ phạm tội pācittiya. Vị giáo giới với pháp khác th́ phạm tội dukkaṭa. Vị giáo giới cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng th́ phạm tội dukkaṭa.
14. Vị tỳ khưu được chỉ định ấy nên quét dọn chỗ ngụ, chuẩn bị nước uống nước rửa, sắp đặt chỗ ngồi, sau khi giữ lại vị thứ nh́[5] rồi nên ngồi xuống. Các tỳ khưu ni đi đến nơi ấy nên đảnh lễ vị tỳ khưu ấy rồi nên ngồi xuống ở một bên. Vị tỳ khưu được chỉ định ấy nên hỏi rằng: “Này các sư tỷ, các vị đă đến đầy đủ chưa?”[6] Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, chúng tôi đă đến đầy đủ,” (nên hỏi rằng): “Này các sư tỷ, tám Trọng Pháp có được thực hành không?” Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, có được thực hành,” (nên nói rằng): “Này các sư tỷ, đây là lời giáo giới” rồi nên ban lời giáo giới. Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, không được thực hành,” (các tỳ khưu ni) nên được nhắc lại rằng:
15. “Tỳ khưu ni đă tu lên bậc trên được một trăm năm nên thực hành sự đảnh lễ, đứng dậy chào, chắp tay, phận sự thích hợp đến vị tỳ khưu vừa tu lên bậc trên vào ngày hôm ấy. Đây là pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời. Tỳ khưu ni không nên an cư mùa mưa ở trú xứ không có tỳ khưu. Đây cũng là pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời. Tỳ khưu ni vào mỗi nửa tháng nên mong mỏi hai việc từ hội chúng tỳ khưu: việc hỏi ngày Uposatha và việc đi đến (để nghe) giáo giới. Đây cũng là pháp ―(như trên)― Tỳ khưu ni sau khi măn mùa (an cư) mưa nên hành lễ Pavāraṇā ở cả hai hội chúng dựa trên ba yếu tố: hoặc do thấy, hoặc do nghe, hoặc v́ nghi ngờ. Đây cũng là pháp ―(như trên)― Tỳ khưu ni vi phạm giới nghiêm trọng nên thực hành hành phạt mānatta nửa tháng ở cả hai hội chúng. Đây cũng là pháp ―(như trên)― Cô ni tu tập sự đă thực hành điều học về sáu pháp trong hai năm nên tầm cầu sự tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng. Đây cũng là pháp ―(như trên)― Tỳ khưu ni không v́ bất cứ nguyên do ǵ được phép sỉ vả hoặc chửi rủa tỳ khưu. Đây cũng là pháp ―(như trên)― Kể từ hôm nay, việc khuyên bảo của các tỳ khưu ni đến các tỳ khưu bị ngăn cấm, việc khuyên bảo của các tỳ khưu đến các tỳ khưu ni không bị ngăn cấm. Đây cũng là pháp cần được thực hành tốt đẹp, thực hành nghiêm chỉnh, tôn trọng, cung kính, và không được vi phạm cho đến trọn đời.”
16. Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, chúng tôi đă đến đầy đủ,” vị nói về pháp khác th́ phạm tội dukkaṭa. Nếu (các tỳ khưu ni) đáp rằng: “Thưa ngài, chúng tôi chưa đầy đủ,”[7] vị nói về tám Trọng Pháp th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi không ban lời giáo giới, vị nói về pháp khác th́ phạm tội dukkaṭa.
17. Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–(lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya.
18. Hành sự sai Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–(lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya.
19. Hành sự sai Pháp–(lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp–(lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp–(lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–(lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya.
20. Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp–nhận biết là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya.
21. Hành sự sai Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya.
22. Hành sự sai Pháp–(lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp–(lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp–(lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya.
23. Hành sự đúng Pháp–(lầm tưởng) là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội dukkaṭa. Hành sự đúng Pháp–(lầm tưởng) là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới ―(như trên)― –(lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội dukkaṭa.
24. Hành sự đúng Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới ―(như trên)― có sự hoài nghi, vị giáo giới ―(như trên)― nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội dukkaṭa.
25. Hành sự đúng Pháp–nhận biết là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni chưa đầy đủ–nhận biết là chưa đầy đủ, vị giáo giới ―(như trên)― có sự hoài nghi, vị giáo giới ―(như trên)― (lầm tưởng) là đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội dukkaṭa.
26. Hành sự đúng Pháp–(lầm tưởng) là hành sự sai Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới ―(như trên)― có sự hoài nghi, vị giáo giới ―(như trên)― nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội dukkaṭa.
27. Hành sự đúng Pháp–có sự hoài nghi, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới ―(như trên)― có sự hoài nghi, vị giáo giới ―(như trên)― nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội dukkaṭa.
28. Hành sự đúng Pháp–nhận biết là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–(lầm tưởng) là chưa đầy đủ, vị giáo giới th́ phạm tội dukkaṭa. Hành sự đúng Pháp–nhận biết là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–có sự hoài nghi, vị giáo giới th́ phạm tội dukkaṭa. Hành sự đúng Pháp–nhận biết là hành sự đúng Pháp, hội chúng tỳ khưu ni đầy đủ–nhận biết là đầy đủ, vị giáo giới th́ vô tội.
29. Vị đang ban cho phần đọc tụng,[8] vị đang ban cho phần giải thích,[9] vị nhắc lại khi được nói rằng: “Thưa ngài, xin hăy nhắc lại,” vị hỏi câu hỏi, vị giảng giải khi được hỏi câu hỏi, các tỳ khưu ni lắng nghe vị đang nói v́ lợi ích của người khác, vị (giáo giới) cho cô ni tu tập sự, (vị giáo giới) cho sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về giáo giới là thứ nhất.
--ooOoo--
6. 3. 2. ĐIỀU HỌC VỀ (MẶT TRỜI) ĐĂ LẶN
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trưởng lăo giáo giới các tỳ khưu ni theo phiên. Vào lúc bấy giờ là phiên của đại đức Cūḷapanthaka giáo giới các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đă nói như vầy: - “Bây giờ ngày hôm nay sự giáo giới sẽ là không có hiệu quả. Bây giờ ngài đại đức Cūḷapanthaka sẽ nói đi nói lại chính lời cảm hứng ấy.”
2. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đă đi đến gặp đại đức Cūḷapanthaka, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Cūḷapanthaka rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Cūḷapanthaka đă nói với các tỳ khưu ni ấy đang ngồi một bên điều này:
- “Này các sư tỷ, các vị đă đến đầy đủ chưa?”
- “Thưa ngài, chúng tôi đă đến đầy đủ.”
- “Này các sư tỷ, tám Trọng Pháp có được thực hành không?”
- “Thưa ngài, có được thực hành.”
- “Này các sư tỷ, đây là lời giáo giới.” Sau khi ban lời trên, vị ấy đă đọc đi đọc lại bài cảm hứng này:
Đối với vị hiền trí có tăng thượng tâm, không bị xao lăng, đang rèn luyện trong các đạo lộ trí tuệ, an tịnh, luôn có niệm, các sự sầu muộn không hiện hữu ở vị như thế ấy.”[10]
3. Các tỳ khưu ni đă nói như vầy: - “Không phải chúng tôi đă nói rằng: ‘Bây giờ ngày hôm nay sự giáo giới sẽ là không có hiệu quả. Bây giờ ngài đại đức Cūḷapanthaka sẽ nói đi nói lại chính lời cảm hứng ấy’ hay sao?” Đại đức Cūḷapanthaka đă nghe được lời nói trao đổi này của các tỳ khưu ni ấy. Khi ấy, đại đức Cūḷapanthaka đă bay lên không trung rồi đi kinh hành trong không trung trên bầu trời, rồi đứng lại, rồi ngồi xuống, rồi nằm xuống, rồi biến thành khói, rồi cháy rực lên, rồi biến mất. Vị ấy nói lên chính bài cảm hứng ấy và nhiều Phật ngôn khác.
Các tỳ khưu ni đă nói như vầy: - “Thưa ngài, thật là kỳ diệu! Thưa ngài, thật là phi thường! Quả thật từ trước đến nay, sự giáo giới cho chúng tôi trước đây không được hiệu quả như vầy, như là (sự giáo giới) của ngài đại đức Cūḷapanthaka!”
4. Sau đó, đại đức Cūḷapanthaka đă giáo giới các tỳ khưu ni ấy cho đến khi trời tối hẳn mới giải tán (nói rằng): - “Này các sư tỷ, hăy đi về.” Khi ấy, cửa thành đă đóng nên các tỳ khưu ni ấy đă trú lại bên ngoài thành đến sáng sớm mới đi vào thành phố. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các tỳ khưu ni này không c̣n Phạm hạnh; họ đă ở lại với các tỳ khưu trong tu viện bây giờ mới đi vào thành phố.”
5. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Cūḷapanthaka lại giáo giới các tỳ khưu ni khi mặt trời đă lặn?” ―(như trên)― “Này Cūḷapanthaka, nghe nói ngươi giáo giới các tỳ khưu ni khi mặt trời đă lặn, có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này Cūḷapanthaka, v́ sao ngươi lại giáo giới các tỳ khưu ni khi mặt trời đă lặn vậy? Này Cūḷapanthaka, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Dầu đă được chỉ định, nếu vị tỳ khưu giáo giới tỳ khưu ni khi mặt trời đă lặn th́ phạm tội pācittiya.”
6. Đă được chỉ định nghĩa là đă được chỉ định bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư.
Khi mặt trời đă lặn: khi mặt trời đă đi xuống ở bên dưới.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Giáo giới: vị giáo giới với tám Trọng Pháp hoặc với pháp khác th́ phạm tội pācittiya.
Khi (mặt trời) đă lặn, nhận biết là đă lặn, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Khi (mặt trời) đă lặn, có sự hoài nghi, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya. Khi (mặt trời) đă lặn, (lầm tưởng) là chưa lặn, vị giáo giới th́ phạm tội pācittiya.
Vị giáo giới cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng th́ phạm tội dukkaṭa. Khi (mặt trời) chưa lặn, (lầm tưởng) là đă lặn, phạm tội dukkaṭa. Khi (mặt trời) chưa lặn, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi (mặt trời) chưa lặn, nhận biết là chưa lặn th́ vô tội.
Vị đang ban cho phần đọc tụng, vị đang ban cho phần giải thích,vị nhắc lại khi được nói rằng: ‘Thưa ngài, xin hăy nhắc lại,’ vị hỏi câu hỏi, vị giảng giải khi được hỏi câu hỏi, các tỳ khưu ni lắng nghe vị đang nói v́ lợi ích của người khác, vị (giáo giới) cho cô ni tu tập sự, (vị giáo giới) cho sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về (mặt trời) đă lặn là thứ nh́.
--ooOoo--
6. 3. 3. ĐIỀU HỌC VỀ CHỖ NGỤ CỦA TỲ KHƯU NI
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng ḍng Sakya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni rồi giáo giới cho các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư. Các tỳ khưu ni đă nói với các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư điều này: - “Này các ni sư, hăy đi. Chúng ta sẽ đi việc giáo giới.”
- “Này các ni sư, chúng tôi cũng nên đi v́ lư do giáo giới, tuy nhiên các ngài đại đức nhóm Lục Sư đây giáo giới cho chúng tôi ngay tại đây.”
Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư không đi việc giáo giới?”
2, Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni lại giáo giới cho các tỳ khưu ni?” ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sau khi đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni rồi giáo giới cho các tỳ khưu ni, có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi sau khi đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni lại giáo giới cho các tỳ khưu ni vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào sau khi đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni rồi giáo giới cho các tỳ khưu ni th́ phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
3. Vào lúc bấy giờ, bà Mahāpajāpatī Gotamī bị bệnh. Các tỳ khưu trưởng lăo đă đi đến thăm bà Mahāpajāpatī Gotamī, sau khi đến đă nói với bà Mahāpajāpatī Gotamī điều này: - “Này Gotamī, sức khoẻ bà có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?”
- “Thưa các ngài, sức khoẻ tôi không khá. Mọi việc không được thuận tiện. Thưa các ngài, xin hăy giảng Pháp.”
- “Này sư tỷ, sau khi đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni không được phép giảng Pháp cho các tỳ khưu ni.” Rồi trong lúc ngần ngại đă không thuyết giảng.
4. Sau đó, vào buổi sáng đức Thế Tôn đă mặc y, cầm y bát, đi đến thăm bà Mahāpajāpatī Gotamī, sau khi đến đă ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đă nói với bà Mahāpajāpatī Gotamī điều này: - “Này Gotamī, sức khoẻ bà có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?”
- “Bạch ngài, trước đây các tỳ khưu trưởng lăo đi đến gặp con thường giảng Pháp cho con, v́ thế con được an lạc. Giờ đây, các vị (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn đă ngăn cấm,’ trong lúc ngần ngại không thuyết giảng, v́ thế con không được an lạc.
5. Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Mahāpajāpatī Gotamī bằng bài Pháp thoại rồi đă từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép sau khi đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni được giáo giới tỳ khưu ni bị bệnh. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào sau khi đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni rồi giáo giới cho các tỳ khưu ni th́ phạm tội pācittiya, ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là vị tỳ khưu ni bị bệnh. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
6. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Chỗ ngụ của tỳ khưu ni nghĩa là nơi nào các tỳ khưu ni cư ngụ dầu chỉ một đêm.
Sau khi đi đến: sau khi đi lại nơi ấy.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Giáo giới: vị giáo giới với tám Trọng Pháp th́ phạm tội pācittiya.
Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.
Vị tỳ khưu ni bị bệnh nghĩa là không thể đi v́ việc giáo giới hoặc v́ việc cộng trú.
Người nữ đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị sau khi đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni rồi giáo giới th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Người nữ đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị sau khi đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni rồi giáo giới th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Người nữ đă tu lên bậc trên, (lầm tưởng) là chưa tu lên bậc trên, vị sau khi đi đến chỗ ngụ của tỳ khưu ni rồi giáo giới th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ.
Vị giáo giới bằng pháp khác th́ phạm tội dukkaṭa. Vị giáo giới cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng th́ phạm tội dukkaṭa.
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm tưởng) là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên th́ vô tội.
Khi có duyên cớ, vị đang ban cho phần đọc tụng, vị đang ban cho phần giải thích, vị nhắc lại khi được nói rằng: ‘Thưa ngài, xin hăy nhắc lại,’ vị hỏi câu hỏi, vị giảng giải khi được hỏi câu hỏi, các tỳ khưu ni lắng nghe vị đang nói v́ lợi ích của người khác, vị (giáo giới) cho cô ni tu tập sự, (vị giáo giới) cho sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về chỗ ngụ của tỳ khưu ni là thứ ba.
--ooOoo--
6. 3. 4. ĐIỀU HỌC VỀ VẬT CHẤT
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trưởng lăo trong khi giáo giới các tỳ khưu ni có nhận được lợi lộc thuộc về các vật dụng như y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư nói như vầy: - “Các tỳ khưu trưởng lăo không v́ tôn kính Pháp mà giáo giới các tỳ khưu ni; các tỳ khưu trưởng lăo giáo giới các tỳ khưu ni v́ nguyên nhân vật chất.
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại phát ngôn như vầy: ‘Các tỳ khưu trưởng lăo không v́ tôn kính Pháp mà giáo giới các tỳ khưu ni; các tỳ khưu trưởng lăo giáo giới các tỳ khưu ni v́ nguyên nhân vật chất’?” ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi phát ngôn như vầy: ‘Các tỳ khưu trưởng lăo không v́ tôn kính Pháp mà giáo giới các tỳ khưu ni; các tỳ khưu trưởng lăo giáo giới các tỳ khưu ni v́ nguyên nhân vật chất,’ có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại phát ngôn như vầy: ‘Các tỳ khưu trưởng lăo không v́ tôn kính Pháp mà giáo giới các tỳ khưu ni; các tỳ khưu trưởng lăo giáo giới các tỳ khưu ni v́ nguyên nhân vật chất’? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào nói như vầy: ‘Các tỳ khưu giáo giới cho các tỳ khưu ni v́ nguyên nhân vật chất’ th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
V́ nguyên nhân vật chất: v́ nguyên nhân y phục, v́ nguyên nhân vật thực, v́ nguyên nhân chỗ trú ngụ, v́ nguyên nhân vật dụng là dược phẩm trị bệnh, v́ nguyên nhân tôn trọng, v́ nguyên nhân cung kính, v́ nguyên nhân tôn vinh, v́ nguyên nhân đảnh lễ, v́ nguyên nhân cúng dường.
Nói như vầy: Vị có ư định làm mất thể diện, có ư định làm mất danh dự, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định làm vị giáo giới tỳ khưu ni rồi nói như vầy: “Vị giáo giới v́ nguyên nhân y phục, v́ nguyên nhân vật thực, v́ nguyên nhân chỗ trú ngụ, v́ nguyên nhân vật dụng là dược phẩm trị bệnh, v́ nguyên nhân tôn trọng, v́ nguyên nhân cung kính, v́ nguyên nhân tôn vinh, v́ nguyên nhân đảnh lễ, v́ nguyên nhân cúng dường;” vị nói th́ phạm tội pācittiya.
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, vị nói như thế th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, vị nói như thế th́ phạm tội pācittiya. Hành sự sai Pháp, (lầm tưởng) là hành sự đúng Pháp, vị nói như thế th́ phạm tội pācittiya.
Vị có ư định làm mất thể diện, có ư định làm mất danh dự, có ư định làm xấu hổ vị đă tu lên bậc trên không được hội chúng chỉ định làm vị giáo giới tỳ khưu ni rồi nói như vầy: ‘Vị giáo giới v́ nguyên nhân y phục, ―(như trên)― v́ nguyên nhân cúng dường;’ vị nói th́ phạm tội dukkaṭa.
Vị có ư định làm mất thể diện, có ư định làm mất danh dự, có ư định làm xấu hổ vị chưa tu lên bậc trên được hội chúng chỉ định hoặc không được chỉ định làm vị giáo giới tỳ khưu ni rồi nói như vầy: ‘Vị giáo giới v́ nguyên nhân y phục, v́ nguyên nhân vật thực, v́ nguyên nhân chỗ trú ngụ, v́ nguyên nhân vật dụng là dược phẩm trị bệnh, v́ nguyên nhân tôn trọng, v́ nguyên nhân cung kính, v́ nguyên nhân tôn vinh, v́ nguyên nhân đảnh lễ, v́ nguyên nhân cúng dường;’ vị nói th́ phạm tội dukkaṭa.
Hành sự sai pháp, (lầm tưởng) là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp, phạm tội dukkaṭa.
Vị nói về vị đang giáo giới theo thói thường v́ nguyên nhân y phục, v́ nguyên nhân vật thực, v́ nguyên nhân chỗ trú ngụ, v́ nguyên nhân vật dụng là dược phẩm trị bệnh, v́ nguyên nhân tôn trọng, v́ nguyên nhân cung kính, v́ nguyên nhân tôn vinh, v́ nguyên nhân đảnh lễ, v́ nguyên nhân cúng dường; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về vật chất là thứ tư.
--ooOoo--
6. 3. 5 .ĐIỀU HỌC VỀ CHO Y
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực ở con đường nọ trong thành Sāvatthī. Có vị tỳ khưu ni nọ cũng đi khất thực ở con đường ấy. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này sư tỷ, hăy đi. Vật thực được bố thí ở chỗ kia.” Vị ni ấy cũng đă nói như vầy: - “Thưa ngài, hăy đi. Vật thực được bố thí ở chỗ kia.” Do sự gặp gỡ thường xuyên, họ đă trở nên thân thiết.
2. Vào lúc bấy giờ, y của hội chúng được chia ra. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy sau khi đi việc giáo giới đă đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đă đảnh lễ vị tỳ khưu ấy rồi đứng ở một bên. Vị tỳ khưu ấy đă nói với vị tỳ khưu ni ấy đang đứng một bên điều này: - “Này sư tỷ, đây là phần chia y của tôi; chị nên nhận lấy.” - “Thưa ngài, xin vâng. Y của tôi đă tàn tệ.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă cho y đến vị tỳ khưu ni ấy. Ngay cả y của vị tỳ khưu ấy cũng đă tàn tệ. Các tỳ khưu đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, bây giờ hăy làm y của đại đức đi.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
3. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu lại cho y đến tỳ khưu ni?” ―(như trên)―
- “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi cho y đến tỳ khưu ni, có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
- “Này tỳ khưu, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân quyến?”
- “Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.”
- “Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều ǵ thích hợp hay không thích hợp, điều ǵ đúng hay không đúng đối với người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại cho y đến tỳ khưu ni không phải là thân quyến vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào cho y đến tỳ khưu ni không phải là thân quyến th́ phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
4. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không đưa y ra trao đổi với các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các ngài đại đức lại không đưa y ra trao đổi với chúng tôi?” Các tỳ khưu đă nghe được các tỳ khưu ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép đưa ra trao đổi với năm hạng là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, sa di ni. Này các tỳ khưu, ta cho phép đưa ra trao đổi với năm hạng này. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào cho y đến tỳ khưu ni không phải là thân quyến th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ sự trao đổi.”
5. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
(Người nữ) không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ ḍng bên mẹ hoặc từ ḍng bên cha.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Ngoại trừ sự trao đổi: trừ ra sự trao đổi, vị cho (y) th́ phạm tội pācittiya.
Không phải là nữ thân quyến, nhận biết không phải là nữ thân quyến, vị cho y th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ sự trao đổi. Không phải là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, vị cho y th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ sự trao đổi. Không phải là nữ thân quyến, (lầm) tưởng là nữ thân quyến, vị cho y th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ sự trao đổi.
Vị cho y đến cô ni tu lên bậc trên ở một hội chúng th́ phạm tội dukkaṭa ngoại trừ sự trao đổi. Là nữ thân quyến, (lầm) tưởng không phải là nữ thân quyến, phạm tội dukkaṭa. Là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Là nữ thân quyến, nhận biết là nữ thân quyến th́ vô tội.
Với vị (tỳ khưu ni) là nữ thân quyến, sự trao đổi vật lớn bằng vật nhỏ hoặc vật nhỏ bằng vật lớn, vị tỳ khưu ni lấy do sự thân thiết, vị ni lấy trong một thời hạn, vị cho vật dụng khác ngoại trừ y, (cho đến) cô ni tu tập sự, (cho đến) sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về cho y là thứ năm.
--ooOoo--
6. 3. 6. ĐIỀU HỌC VỀ MAY Y
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu Udāyi là rành rẽ làm công việc may y. Có vị tỳ khưu ni nọ đă đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đă nói với đại đức Udāyi điều này: - “Thưa ngài, tốt thay ngài đại đức hăy may y cho tôi.” Sau đó, đại đức Udāyi đă may y cho tỳ khưu ni ấy, sau khi khéo nhuộm, khéo sửa soạn, đă vẽ lên h́nh ảnh gợi cảm ở giữa,[11] rồi gấp lại, và để riêng.
2. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đă đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đă nói với đại đức Udāyi điều này: - “Thưa ngài, y ấy đâu rồi?” - “Này sư tỷ, hăy mang đi và để riêng y này c̣n được gấp như vầy. Khi nào hội chúng tỳ khưu ni đi đến về việc giáo giới, khi ấy hăy khoác y này lên và đi ở phía sau cùng của hội chúng tỳ khưu ni.”
3. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đă mang đi và để riêng y ấy c̣n được gấp như thế. Đến khi hội chúng tỳ khưu ni đi đến nghe giáo giới, khi ấy mới khoác y ấy lên và đi ở phía sau cùng của hội chúng tỳ khưu ni. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các tỳ khưu ni này thật là quá quắt, trơ trẽn, vô liêm sĩ bởi v́ dám vẽ h́nh ảnh gợi cảm lên trên y?” Các tỳ khưu ni đă nói như vầy: - “Việc làm này là của ai?” - “Là của ngài đại đức Udāyi.” - “Thậm chí đối với những kẻ quá quắt, trơ trẽn, vô liêm sĩ, h́nh thức như vầy cũng không thể trưng bày. Chả lẽ lại là của ngài đại đức Udāyi?”
4. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Udāyi lại may y cho tỳ khưu ni?” ―(như trên)―
- “Này Udāyi, nghe nói ngươi may y cho tỳ khưu ni, có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
- “Này Udāyi, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân quyến?”
- “Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.”
- “Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều ǵ thích hợp hay không thích hợp, điều ǵ làm hài ḷng hay không làm hài ḷng người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại may y cho tỳ khưu ni không phải là thân quyến vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào may y hoặc bảo may y cho tỳ khưu ni không phải là thân quyến th́ phạm tội pācittiya.”
5. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
(Người nữ) không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ ḍng bên mẹ hoặc từ ḍng bên cha.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y.
May: vị tự ḿnh may th́ phạm tội pācittiya theo từng đường kim.
Bảo may: vị ra lệnh người khác th́ phạm tội pācittiya. Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) may nhiều lần vị (ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya.
Không phải là nữ thân quyến, nhận biết không phải là nữ thân quyến, vị may y hoặc bảo may y th́ phạm tội pācittiya. Không phải là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, vị may y hoặc bảo may y th́ phạm tội pācittiya. Không phải là nữ thân quyến, (lầm) tưởng là nữ thân quyến, vị may y hoặc bảo may y th́ phạm tội pācittiya.
Vị may y hoặc bảo may y cho cô ni tu lên bậc trên ở một hội chúng th́ phạm tội dukkaṭa. Là nữ thân quyến, (lầm) tưởng không phải là nữ thân quyến, phạm tội dukkaṭa. Là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Là nữ thân quyến, nhận biết là nữ thân quyến th́ vô tội.
Trường hợp vị (tỳ khưu ni) là nữ thân quyến, vị may hoặc bảo may vật dụng khác ngoại trừ y, (trường hợp) cô ni tu tập sự, (trường hợp) sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về may y là thứ sáu.
--ooOoo--
6. 3. 7. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC HẸN TRƯỚC
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư hẹn trước rồi đi chung đường xa với các tỳ khưu ni. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống y như chúng ta đi dạo với vợ, các Sa-môn Thích tử này cũng đi dạo với các tỳ khưu ni y như thế.”
2. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại hẹn trước rồi đi chung đường xa với các tỳ khưu ni?” ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi hẹn trước rồi đi chung đường xa với các tỳ khưu ni, có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại hẹn trước rồi đi chung đường xa với các tỳ khưu ni vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào hẹn trước rồi đi chung đường xa với vị tỳ khưu ni ngay cả (đi) từ làng này sang làng khác[12] th́ phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
3. Vào lúc bấy giờ, nhiều tỳ khưu và tỳ khưu ni đi đường xa từ thành Sāketa đến thành Sāvatthī. Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy sau khi nh́n thấy các tỳ khưu ấy đă nói điều này: - “Chúng tôi sẽ cùng đi với các ngài đại đức.” - “Này các sư tỷ, không được phép hẹn trước rồi đi chung đường xa với vị tỳ khưu ni. Hoặc là các chị hăy đi trước hoặc là chúng tôi sẽ đi trước.” - “Thưa các ngài, các ngài đại đức là những người cao quư. Chính các ngài đại đức hăy đi trước.”
4. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy trong khi đi sau ở giữa đường đă bị bọn đạo tặc cướp bóc c̣n bị làm ô uế nữa. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đă đi đến thành Sāvatthī và đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép trên con đường cần phải đi chung với đoàn xe, được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng, sau khi hẹn trước được đi chung đường xa với vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào sau khi hẹn trước rồi đi chung đường xa với vị tỳ khưu ni ngay cả (đi) từ làng này sang làng khác th́ phạm tội pācittiya, ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: con đường cần phải đi chung với đoàn xe, được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”
5. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Với: cùng chung.
Sau khi hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này sư tỷ, chúng ta hăy đi. Thưa ngài, chúng ta hăy đi. Thưa ngài, chúng ta hăy đi. Này sư tỷ, chúng ta hăy đi. Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày mai chúng ta hăy đi” th́ phạm tội dukkaṭa.
Ngay cả từ làng này sang làng khác: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống th́ phạm tội pācittiya theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, th́ phạm tội pācittiya theo từng khoảng cách nửa do-tuần.[13]
Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.
Con đường cần phải đi chung với đoàn xe nghĩa là con đường không có đoàn xe không thể đi được.
Có sự nguy hiểm nghĩa là trên con đường ấy chỗ cắm trại của bọn cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm được thấy.
Có sự kinh hoàng nghĩa là trên con đường ấy dân chúng bị giết bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy. Sau khi đi đến chỗ có sự kinh hoàng, khi nh́n thấy không có sự kinh hoàng th́ nên giải tán (nói rằng): ‘Này các sư tỷ, hăy đi đi.’
Khi đă hẹn trước, nhận biết là đă hẹn trước, vị đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Khi đă hẹn trước, có sự hoài nghi, vị đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Khi đă hẹn trước, (lầm) tưởng là không hẹn trước, vị đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ.
Vị tỳ khưu hẹn trước c̣n vị tỳ khưu ni không hẹn trước, th́ phạm tội dukkaṭa. Khi không hẹn trước, (lầm) tưởng là đă hẹn trước, phạm tội dukkaṭa. Khi không hẹn trước, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi không hẹn trước, nhận biết là không hẹn trước th́ vô tội.
Khi có duyên cớ, các vị sau khi không hẹn trước rồi đi, vị tỳ khưu ni hẹn trước c̣n vị tỳ khưu không hẹn trước, các vị đi ngoài giờ hẹn ước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về việc hẹn trước là thứ bảy.
--ooOoo--
6. 3. 8. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC LÊN THUYỀN
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi hẹn trước rồi cùng lên một chiếc thuyền với các tỳ khưu ni. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống y như chúng ta du ngoạn với vợ trên một chiếc thuyến, các Sa-môn Thích tử này sau khi hẹn trước rồi du ngoạn với các tỳ khưu ni trên một chiếc thuyến y như thế.”
2. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi hẹn trước rồi cùng lên một chiếc thuyền với các tỳ khưu ni?” ―(như trên)―
- “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sau khi hẹn trước rồi cùng lên một chiếc thuyền với các tỳ khưu ni, có đúng không vậy?”
- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi sau khi hẹn trước rồi cùng lên một chiếc thuyền với các tỳ khưu ni vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào sau khi hẹn trước rồi cùng với vị tỳ khưu ni lên chung một chiếc thuyền đi ngược ḍng hoặc đi xuôi ḍng th́ phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
3. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu và tỳ khưu ni đi đường xa từ thành Sāketa đến thành Sāvatthī. Khoảng giữa đường, có con sông cần phải vượt qua. Khi ấy, các tỳ khưu ni ấy đă nói với các tỳ khưu ấy điều này: - “Chúng tôi sẽ vượt qua cùng với các ngài đại đức.” - “Này các sư tỷ, không được phép hẹn trước rồi cùng lên một chiếc thuyền với vị tỳ khưu ni. Hoặc là các vị hăy vượt qua trước hoặc là chúng tôi sẽ vượt qua trước.” - “Thưa các ngài, các ngài đại đức là những người cao quư. Chính các ngài đại đức hăy vượt qua trước.”
4. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy trong khi vượt qua sau đă bị bọn đạo tặc cướp giật c̣n bị làm ô uế nữa. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đă đi đến thành Sāvatthī và đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép khi vượt ngang qua (sông) sau khi hẹn trước được lên chung một chiếc thuyền với vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào sau khi hẹn trước rồi cùng với vị tỳ khưu ni lên chung một chiếc thuyền đi ngược ḍng hoặc đi xuôi ḍng th́ phạm tội pācittiya, ngoại trừ vượt ngang qua (sông).”
5. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Với: cùng chung.
Sau khi hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này sư tỷ, chúng ta hăy lên (thuyền). Thưa ngài, chúng ta hăy lên (thuyền). Thưa ngài, chúng ta hăy lên (thuyền). Này sư tỷ, chúng ta hăy lên (thuyền). Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày mai chúng ta hăy lên (thuyền)” th́ phạm tội dukkaṭa. Khi vị tỳ khưu ni đă lên (thuyền), vị tỳ khưu lên (thuyền) th́ phạm tội pācittiya. Khi vị tỳ khưu đă lên (thuyền), vị tỳ khưu ni lên (thuyền) th́ phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai cùng lên (thuyền) th́ phạm tội pācittiya.
Đi ngược ḍng: đi lên phía trên.
Đi xuôi ḍng: đi xuống phía dưới.
Ngoại trừ vượt ngang qua (sông): trừ ra sự vượt ngang qua (sông).
Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống th́ phạm tội pācittiya theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, th́ phạm tội pācittiya theo từng khoảng cách nửa do-tuần. Khi đă hẹn trước, nhận biết là đă hẹn trước, vị lên chung một chiếc thuyền đi ngược ḍng hoặc đi xuôi ḍng th́ phạm tội pācittiya, ngoại trừ vượt ngang qua (sông). Khi đă hẹn trước, có sự hoài nghi, vị lên chung một chiếc thuyền đi ngược ḍng hoặc đi xuôi ḍng th́ phạm tội pācittiya, ngoại trừ vượt ngang qua (sông). Khi đă hẹn trước, (lầm) tưởng là không hẹn trước, vị lên chung một chiếc thuyền đi ngược ḍng hoặc đi xuôi ḍng th́ phạm tội pācittiya, ngoại trừ vượt ngang qua (sông).
Vị tỳ khưu hẹn trước c̣n vị tỳ khưu ni không hẹn trước, th́ phạm tội dukkaṭa. Khi không hẹn trước, (lầm) tưởng là đă hẹn trước, phạm tội dukkaṭa. Khi không hẹn trước, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi không hẹn trước, nhận biết là không hẹn trước th́ vô tội.
Khi vượt ngang qua (sông), các vị không hẹn trước rồi lên (thuyền), vị tỳ khưu ni hẹn trước c̣n vị tỳ khưu không hẹn trước, các vị lên (thuyền) ngoài giờ hẹn ước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về việc lên thuyền là thứ tám.
--ooOoo--
6. 3. 9. ĐIỀU HỌC VỀ ĐƯỢC MÔI GIỚI
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā là vị thường tới lui với gia đ́nh nọ và là vị nhận vật thực thường kỳ. Và các tỳ khưu trưởng lăo đă được gia chủ ấy thỉnh mời. Khi ấy vào buổi sáng, tỳ khưu ni Thullanandā đă mặc y, cầm y bát, đi đến gia đ́nh ấy, sau khi đến đă nói với gia chủ ấy điều này:
- “Này gia chủ, việc ǵ mà nhiều vật thực loại cứng loại mềm này được chuẩn bị vậy?”
- “Thưa ni sư, tôi đă thỉnh mời các vị trưởng lăo.”
- “Này gia chủ, các trưởng lăo của ngươi là những vị nào vậy?”
- “Ngài Sāriputta, ngài Mahāmoggallāna, ngài Mahākaccāna, ngài Mahākoṭṭhita, ngài Mahākappina, ngài Mahācunda, ngài Anuruddha, ngài Revata, ngài Upāli, ngài Ānanda, ngài Rāhula.”
- “Này gia chủ, việc ǵ khiến ngươi lại thỉnh mời những hạng thứ yếu trong khi các khổng long đang c̣n tồn tại?”
- “Thưa ni sư, những vị nào là các khổng long của cô vậy?”
- “Ngài Devadatta, ngài Kokālika, ngài Kaṭamorakatissako con trai của Khaṇḍadevī, ngài Samuddadatto.”
Lúc này lời nói này của tỳ khưu ni Thullanandā đă bị gián đoạn nửa chừng. Rồi các tỳ khưu trưởng lăo đă đi vào. - “Này gia chủ, có đúng là các khổng long đă được ngươi thỉnh mời không?” - “Này ni sư, ngay mới đây cô đă gọi các ngài đại đức là những hạng thứ yếu, bây giờ là các khổng long.” Rồi đă kéo ra khỏi nhà và chấm dứt phần bữa ăn thường kỳ.
2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao Devadatta trong khi biết vật thực được tỳ khưu ni môi giới cho vẫn thọ thực?” ―(như trên)― “Này Devadatta, nghe nói ngươi trong khi biết vật thực được tỳ khưu ni môi giới cho vẫn thọ thực, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi trong khi biết vật thực được tỳ khưu ni môi giới cho vẫn thọ thực vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào trong khi biết thức ăn được tỳ khưu ni môi giới cho vẫn thọ thực th́ phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
3. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ xuất gia ở thành Rājagaha đă đi đến gia đ́nh thân quyến. Dân chúng (nói rằng): “Lâu lắm ngài đại đức mới đến,” rồi đă làm bữa ăn thịnh soạn. Có vị tỳ khưu ni thường lui tới với gia đ́nh ấy đă nói với những người ấy điều này: - “Này các đạo hữu, hăy dâng thức ăn đến ngài đại đức.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán thọ thực trong khi biết thức ăn được tỳ khưu ni môi giới cho,” trong khi ngần ngại đă không thọ nhận và không thể đi khất thực nên bữa ăn đă bị lỡ. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, khi có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ ta cho phép thọ thực trong khi biết thức ăn được tỳ khưu ni môi giới cho. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào trong khi biết thức ăn được tỳ khưu ni môi giới cho vẫn thọ thực th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ.”
4. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Biết nghĩa là tự ḿnh biết, hoặc các người khác thông báo cho vị ấy, hoặc vị ni ấy thông báo.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Môi giới cho nghĩa là đối với những người trước đây không có ư định dâng cúng, không có ư định tiếp đăi, vị ni ấy môi giới rằng: “Ngài là vị tŕ tụng, ngài là vị nghe nhiều, ngài là vị tŕ Kinh, ngài là vị thông Luật, ngài là vị Pháp sư, hăy dâng cúng đến ngài, hăy phục vụ ngài.”
Thức ăn nghĩa là loại vật thực nào đó thuộc về năm loại vật thực.
Ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ: trừ ra có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ.
Có sự chuẩn bị bởi gia chủ nghĩa là các thân quyến, hoặc (những người) đă nói lời thỉnh cầu, hoặc (vật thực) đă được chuẩn bị thường kỳ. 5. Ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ, vị (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ ăn,’ rồi thọ lănh th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi một lần nuốt xuống th́ phạm tội pācittiya.
Khi được môi giới cho, nhận biết đă được môi giới cho, vị thọ thực th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ. Khi được môi giới cho, có sự hoài nghi, vị thọ thực th́ phạm tội dukkaṭa ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ. Khi được môi giới cho, (lầm) tưởng là không được môi giới cho, vị thọ thực th́ vô tội ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ.
Được vị ni tu lên bậc trên từ một hội chúng môi giới cho, vị thọ thực th́ phạm tội dukkaṭa ngoại trừ có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ. Khi không được môi giới cho, (lầm) tưởng là đă được môi giới cho, phạm tội dukkaṭa. Khi không được môi giới cho, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi không được môi giới cho, nhận biết là không được môi giới cho th́ vô tội.
Khi có sự chuẩn bị trước bởi gia chủ, cô ni tu tập sự môi giới cho, vị sa di ni môi giới cho, tất cả (các thức khác) trừ ra năm loại vật thực, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về được môi giới là thứ chín.
--ooOoo--
6. 3. 10. ĐIỀU HỌC VỀ NGỒI NƠI KÍN ĐÁO
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, người vợ cũ của đại đức Udāyi đă xuất gia nơi các tỳ khưu ni. Tỳ khưu ni ấy thường xuyên đi đến gặp đại đức Udāyi. Đại đức Udāyi cũng thường xuyên đi đến gặp tỳ khưu ni ấy. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đă cùng với tỳ khưu ni ấy một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo.
Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Udāyi lại cùng với tỳ khưu ni một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo?” ―(như trên)― “Này Udāyi, nghe nói ngươi cùng với tỳ khưu ni một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại cùng với tỳ khưu ni một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào cùng với tỳ khưu ni một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo th́ phạm tội pācittiya.”
3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Với: cùng chung.
Một nam một nữ: chỉ có vị tỳ khưu và vị tỳ khưu ni.
Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai. Kín đáo đối với mắt: nghĩa là không thể nh́n thấy trong khi bị che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên. Kín đáo đối với tai: nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng) b́nh thường.
Ngồi: Khi vị tỳ khưu ni đang ngồi, vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần th́ phạm tội pācittiya. Trong khi vị tỳ khưu đang ngồi, vị tỳ khưu ni ngồi gần hoặc nằm gần th́ phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai đang ngồi hoặc cả hai đang nằm th́ phạm tội pācittiya.
Chỗ kín đáo, nhận biết là chỗ kín đáo, vị ngồi xuống một nam một nữ th́ phạm tội pācittiya. Chỗ kín đáo, có sự hoài nghi, vị ngồi xuống một nam một nữ th́ phạm tội pācittiya. Chỗ kín đáo, (lầm) tưởng là chỗ không kín đáo, vị ngồi xuống một nam một nữ th́ phạm tội pācittiya.
Chỗ không kín đáo, (lầm) tưởng là chỗ kín đáo, phạm tội dukkaṭa. Chỗ không kín đáo, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Chỗ không kín đáo, nhận biết là chỗ không kín đáo th́ vô tội.
Có bất cứ người nam nào có trí suy xét là người thứ nh́, vị đứng không ngồi, không mong mỏi chỗ kín đáo, đang bận tâm chuyện khác rồi ngồi xuống, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học về ngồi nơi kín đáo là thứ mười.
Phẩm Giáo Giới là thứ ba.
--ooOoo--
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Vị chưa được chỉ định, (mặt trời) đă lặn, chỗ ngụ của tỳ khưu ni, v́ vật chất, với việc cho (y), vị may (y), (hẹn nhau đi) đường xa, (chung) thuyền, vị có thể thọ thực, một nam và một nữ, các điều ấy là mười.
--ooOoo--
[1] Tài liệu The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách là 6 mét (?). [2] Nghĩ rằng: “Sau khi quay trở lại, ta sẽ thu dọn” (VinA. iv, 776). [3] Ācāra-gocara: hành xứ, tức là sở hành và các chỗ đi lại, thân cận. Ngài Buddhaghosa giải thích là vị không thực hành tà mạng như là cho tre, v.v... không đi đến các nơi không nên đi như gái điếm, v.v... và có được hành xứ là các gia đ́nh đầy đủ đức tin, v.v... (VinA. iv, 788). [4] Khi c̣n tại gia, không có đụng chạm cơ thể với tỳ khưu ni, không thực hiện việc đôi lứa với các cô ni tu tập sự và các sa di ni (VinA. iv, 791). [5] Để khỏi bị phạm tội khi thuyết Pháp đến người nữ (Sđd. 792). [6] “Samaggattha bhaginiyo ti” được ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Sabbā āgatthatā ti” nên được dịch như trên thay v́ “Các sư tỷ có được hợp nhất không?” (Sđd. 792). [7] “vaggamhāyyā ti” thay v́ dịch “Thưa ngài, chúng tôi là phe nhóm,” chúng tôi dịch như trên cho phù hợp mạch văn. [8] Vị đang đọc tụng phần Pāli của tám Trọng Pháp (VinA. iv, 800). [9] Vị đang đọc Chú Giải về phần Pāli của tám Trọng Pháp (Sđd.). [10] Udāna, Meghiyavagga, Sāriputtasuttaṃ; Theragāthā, Ekakanipāta, Ekudāniyattheragāthā. [11] Chú giải cho biết rằng: “Sau khi nhuộm y, đại đức Udāyi đă dùng nhiều màu sắc phác họa ở phần giữa của y ấy h́nh ảnh người nam và người nữ với sự thực hiện việc đôi lứa c̣n chưa kết thúc” (VinA. iv, 804). [12] Gāmantaraṃ = gāma-antaraṃ: khoảng giữa của các làng. [13] Tài liệu The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của nửa do-tuần là 8 km, tức 5 miles.
|
|||