|
TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 02
PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU tập II ẤN BẢN 2013 Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda (Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader) |
|||
|
7. CHƯƠNG PĀṬIDESANĪYA
Bạch chư đại đức, bốn điều pāṭidesanīya này được đưa ra đọc tụng.
7. 1. ĐIỀU HỌC PĀṬIDESANĪYA THỨ NHẤT
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ sau khi đi khất thực ở trong thành Sāvatthī đến lúc đi trở về đă nh́n thấy vị tỳ khưu nọ và đă nói điều này: - “Này ngài đại đức, hăy nhận lănh vật thực.” - “Này sư tỷ, tốt lắm!” Rồi đă nhận lănh hết tất cả. Khi thời giờ đă kề cận, vị ni ấy đă không thể đi khất thực nên bữa ăn đă bị lỡ. Sau đó, vào ngày thứ nh́―(như trên)― vào ngày thứ ba, vị tỳ khưu ni ấy sau khi đi khất thực ở trong thành Sāvatthī đến lúc đi trở về đă nh́n thấy vị tỳ khưu ấy và đă nói điều này: - “Này ngài đại đức, hăy nhận lănh vật thực.” - “Này sư tỷ, tốt lắm!” Rồi đă nhận lănh hết tất cả. Khi thời giờ đă kề cận, vị ni ấy đă không thể đi khất thực nên bữa ăn đă bị lỡ.
2. Sau đó vào ngày thứ tư, vị tỳ khưu ni ấy run lập cập đi trên đường. Người gia chủ đại phú đang đi xe ngược chiều đă nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này ni sư, hăy tránh ra.” Vị ni ấy trong lúc bước xuống đă bị té ngă ngay tại chỗ ấy. Người gia chủ đại phú đă xin lỗi vị tỳ khưu ni ấy: - “Thưa ni sư, xin hăy thứ lỗi. Ni sư đă bị tôi làm té ngă.” - “Này gia chủ, không phải ta đă bị ngươi làm té ngă mà chính v́ ta đây đuối sức.” - “Thưa ni sư, v́ sao ni sư đuối sức?” Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đă kể lại sự việc ấy cho người gia chủ đại phú. Người gia chủ đại phú ấy đă đưa vị tỳ khưu ni ấy về nhà, dâng thức ăn, rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức lại nhận lănh vật thực từ tay của tỳ khưu ni? Là người nữ có lợi lộc khó khăn!”
3. Các tỳ khưu đă nghe được người gia chủ đại phú phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao tỳ khưu lại nhận lănh vật thực từ tay của tỳ khưu ni?” ―(như trên)― “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi nhận lănh vật thực từ tay của tỳ khưu ni, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” - “Này tỳ khưu, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân quyến?” - “Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.” - “Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều ǵ thích hợp hay không thích hợp, điều ǵ đúng hay không đúng đối với người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại nhận lănh vật thực từ tay tỳ khưu ni không phải là thân quyến vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm từ tay tỳ khưu ni không phải là thân quyến đă đi vào xóm nhà, rồi nhai hoặc ăn th́ vị tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đă vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”
4. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
(Người nữ) không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ ḍng bên mẹ hoặc từ ḍng bên cha.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
Xóm nhà nghĩa là con đường có xe cộ, ngơ cụt, giao lộ, căn nhà.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần c̣n lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, súp, bánh, cá, thịt. Vị (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi thọ nhận th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi một lần nuốt xuống th́ phạm tội pāṭidesanīya.
Không phải là nữ thân quyến, nhận biết không phải là nữ thân quyến, vị tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm từ tay của vị ni đă đi vào xóm nhà rồi nhai hoặc ăn th́ phạm tội pāṭidesanīya. Không phải là nữ thân quyến, có sự hoài nghi, vị tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm từ tay của vị ni đă đi vào xóm nhà rồi nhai hoặc ăn th́ phạm tội pāṭidesanīya. Không phải là nữ thân quyến, (lầm) tưởng là nữ thân quyến, vị tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm từ tay của vị ni đă đi vào xóm nhà rồi nhai hoặc ăn th́ phạm tội pāṭidesanīya.
Vị nhận lănh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời v́ mục đích vật thực th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi một lần nuốt xuống th́ phạm tội dukkaṭa. Vị (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi nhận lănh từ tay của vị ni tu lên bậc trên từ một hội chúng th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi một lần nuốt xuống th́ phạm tội dukkaṭa.
Nữ thân quyến, (lầm) tưởng không phải là nữ thân quyến, phạm tội dukkaṭa. Nữ thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Nữ thân quyến, nhận biết là nữ thân quyến th́ vô tội.
Từ vị (tỳ khưu ni) là nữ thân quyến, (vị ni) bảo (người khác) trao cho chứ không tự trao cho, (vị ni) sau khi để xuống rồi cho, ở trong tu viện, ở chỗ trú ngụ của các tỳ khưu ni, ở chỗ ngủ của các tu sĩ ngoại đạo, khi đi trở về, (vị ni) mang từ làng về rồi cho, (vị ni) cho vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời (nói rằng): ‘Hăy thọ dụng khi có duyên cớ,’ từ cô ni tu tập sự, từ sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học pāṭidesanīya thứ nhất.
--ooOoo--
7. 2. ĐIỀU HỌC PĀṬIDESANĪYA THỨ NH̀
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu được thỉnh mời đang thọ thực ở các gia đ́nh. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đứng hướng dẫn sự phục vụ đến các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nói rằng): - “Hăy dâng xúp ở đây, hăy dâng cơm ở chỗ này.” Các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực theo như ư thích. Các tỳ khưu khác thọ thực không được như ư. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư không ngăn cản các tỳ khưu ni đang hướng dẫn sự phục vụ?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi không ngăn cản các tỳ khưu ni đang hướng dẫn sự phục vụ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại không ngăn cản các tỳ khưu ni đang hướng dẫn sự phục vụ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Trường hợp các tỳ khưu được thỉnh mời thọ thực ở các gia đ́nh. Nếu tại nơi ấy có vị tỳ khưu ni đứng hướng dẫn sự phục vụ (nói rằng): ‘Hăy dâng xúp ở đây, hăy dâng cơm ở chỗ này.’ Vị tỳ khưu ni ấy nên bị từ chối bởi các tỳ khưu ấy (nói rằng): ‘Này sư tỷ, hăy lui ra cho đến khi nào các tỳ khưu thọ thực xong.’ Nếu không một vị tỳ khưu nào lên tiếng để từ chối tỳ khưu ni ấy (nói rằng): ‘Này sư tỷ, hăy lui ra cho đến khi nào các tỳ khưu thọ thực xong’ th́ các tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, chúng tôi đă vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; chúng tôi xin thú nhận tội ấy.’’’
2. Trường hợp các tỳ khưu được thỉnh mời thọ thực ở các gia đ́nh: Gia đ́nh nghĩa là có bốn loại gia đ́nh: gia đ́nh Sát-đế-lỵ, gia đ́nh Bà-la-môn, gia đ́nh thương buôn, và gia đ́nh hạng cùng đinh.
Được thỉnh mời thọ thực: được thỉnh mời thọ thực loại vật thực nào đó thuộc về năm loại vật thực.
Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.
(Vị ni) đang hướng dẫn sự phục vụ nghĩa là (nói rằng): ‘Hăy dâng xúp ở đây, hăy dâng cơm ở chỗ này’ thuận theo t́nh bạn bè, thuận theo sự đồng quan điểm, thuận theo sự thân thiết, thuận theo sự có chung thầy tế độ, thuận theo sự có chung thầy dạy học; điều này gọi là (vị ni) đang hướng dẫn sự phục vụ.
Bởi các tỳ khưu ấy: bởi các vị tỳ khưu đang thọ thực.
Vị tỳ khưu ni ấy: là vị tỳ khưu ni đang hướng dẫn sự phục vụ. Các tỳ khưu ấy nên từ chối vị tỳ khưu ni ấy (nói rằng): ‘Này sư tỷ, hăy lui ra cho đến khi nào các tỳ khưu thọ thực xong.’ Nếu không một vị tỳ khưu nào từ chối, vị (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi nhận lănh th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi một lần nuốt xuống th́ phạm tội pāṭidesanīya.
Người nữ đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị không ngăn cản vị ni đang hướng dẫn sự phục vụ th́ phạm tội pāṭidesanīya. Người nữ đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị không ngăn cản vị ni đang hướng dẫn sự phục vụ th́ phạm tội pāṭidesanīya. Người nữ đă tu lên bậc trên, (lầm tưởng) là chưa tu lên bậc trên, vị không ngăn cản vị ni đang hướng dẫn sự phục vụ th́ phạm tội pāṭidesanīya.
Vị không ngăn cản vị ni tu lên bậc trên từ một hội chúng đang hướng dẫn sự phục vụ th́ phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm tưởng) là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên th́ vô tội.
(Vị tỳ khưu ni) bảo (người khác) dâng chớ không tự dâng bữa ăn của bản thân, (vị ni) tự dâng chớ không bảo dâng bữa ăn của những người khác, (vị ni) bảo dâng vật chưa được dâng, (vị ni) bảo dâng nơi nào chưa được dâng, (vị ni) bảo dâng đồng đều cho tất cả, cô ni tu tập sự hướng dẫn sự phục vụ, vị sa di ni hướng dẫn sự phục vụ, trừ ra năm loại vật thực c̣n tất cả (các thức khác) không phạm tội, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học pāṭidesanīya thứ nh́.
--ooOoo--
7. 3. ĐIỀU HỌC PĀṬIDESANĪYA THỨ BA
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, ở trong thành Sāvatthī có gia đ́nh nọ cả hai (vợ chồng) đều mộ đạo, tăng trưởng về đức tin, và dứt bỏ về của cải. Ở trong gia đ́nh ấy, khi có vật thực cứng hoặc vật thực mềm ǵ phát sanh trước bữa ăn, họ đều phân phát tất cả vật thực ấy đến các vị tỳ khưu, đôi lúc họ không c̣n ǵ (để ăn). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại thọ lănh không biết chừng mực? Những người này sau khi bố thí cho các vị này đôi lúc không c̣n ǵ (để ăn).” Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
2. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, (trường hợp) gia đ́nh nào tăng trưởng về đức tin và dứt bỏ về của cải, ta cho phép ban cho sự công nhận là bậc hữu học đến gia đ́nh có hiện trạng như thế bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ nh́. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
3. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Gia đ́nh tên (như vầy) tăng trưởng về đức tin và dứt bỏ về của cải. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự công nhận là bậc hữu học đến gia đ́nh tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Gia đ́nh tên (như vầy) tăng trưởng về đức tin và dứt bỏ về của cải. Hội chúng ban cho sự công nhận là bậc hữu học đến gia đ́nh tên (như vầy). Đại đức nào đồng ư với việc ban cho sự công nhận là bậc hữu học đến gia đ́nh tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.
Sự công nhận là bậc hữu học đă được hội chúng ban cho đến gia đ́nh tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ư nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Trường hợp các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học, vị tỳ khưu nào tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học theo h́nh thức như thế, rồi nhai hoặc ăn th́ vị tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đă vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
4. Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthī có lễ hội. Dân chúng thỉnh mời các tỳ khưu rồi dâng vật thực. Gia đ́nh ấy cũng đă thỉnh mời các tỳ khưu. Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học rồi nhai hoặc ăn.” Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Có điều ǵ với cuộc sống của chúng tôi khiến các ngài đại đức không thọ lănh của chúng tôi?” Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
5. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, với vị đă được thỉnh mời ta cho phép tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học rồi nhai hoặc ăn. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Trường hợp các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học, vị tỳ khưu nào không được thỉnh mời trước, tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học theo h́nh thức như thế, rồi nhai hoặc ăn th́ vị tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đă vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
6. Vào lúc bấy giờ, có tỳ khưu nọ là vị thường lui tới với gia đ́nh ấy. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu ấy đă mặc y cầm y bát đi đến gia đ́nh ấy, sau khi đến đă ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ấy bị bệnh. Khi ấy, những người ấy đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Thưa ngài, xin hăy thọ thực.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán vị không được thỉnh mời tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học rồi nhai hoặc ăn,” trong lúc ngần ngại đă không thọ lănh và đă không thể đi khất thực nên bữa ăn đă bị lỡ. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi về tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy, nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, với vị tỳ khưu bị bệnh ta cho phép tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học rồi nhai hoặc ăn. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Trường hợp các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học, vị tỳ khưu nào không được thỉnh mời trước, không bị bệnh, tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học theo h́nh thức như thế, rồi nhai hoặc ăn th́ vị tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đă vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”
8. Trường hợp các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học: Gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học nghĩa là gia đ́nh nào tăng trưởng về đức tin, dứt bỏ về của cải, và sự công nhận là bậc hữu học bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ nh́ đă được ban cho gia đ́nh có hiện trạng như thế.
Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Ở các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học theo h́nh thức như thế: ở các gia đ́nh đă được công nhận là bậc hữu học theo h́nh thức như vậy.
Không được thỉnh mời nghĩa là không được thỉnh mời vào ngày nay hoặc ngày mai, họ thỉnh mời khi (vị tỳ khưu) đi vào vùng phụ cận của ngôi nhà; việc này gọi là không được thỉnh mời.
Được thỉnh mời nghĩa là được thỉnh mời vào ngày nay hoặc ngày mai, họ thỉnh mời khi (vị tỳ khưu) không đi vào vùng phụ cận của ngôi nhà; việc này gọi là được thỉnh mời.
Không bị bệnh nghĩa là có thể đi khất thực.
Bị bệnh nghĩa là không thể đi khất thực.
Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần c̣n lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, súp, bánh, cá, thịt. Vị không được thỉnh mời, không bị bệnh (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi thọ nhận th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi một lần nuốt xuống th́ phạm tội pāṭidesanīya.
Đă được công nhận là bậc hữu học, nhận biết đă được công nhận là bậc hữu học, vị không được thỉnh mời, không bị bệnh, tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm rồi nhai hoặc ăn th́ phạm tội pāṭidesanīya. Đă được công nhận là bậc hữu học, có sự hoài nghi, vị không được thỉnh mời, không bị bệnh, tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm rồi nhai hoặc ăn th́ phạm tội pāṭidesanīya. Đă được công nhận là bậc hữu học, (lầm tưởng) chưa được công nhận là bậc hữu học, vị không được thỉnh mời, không bị bệnh, tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm rồi nhai hoặc ăn th́ phạm tội pāṭidesanīya.
Vị nhận lănh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời v́ mục đích vật thực th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi một lần nuốt xuống th́ phạm tội dukkaṭa.
Chưa được công nhận là bậc hữu học, (lầm tưởng) đă được công nhận là bậc hữu học, phạm tội dukkaṭa. Chưa được công nhận là bậc hữu học, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Chưa được công nhận là bậc hữu học, nhận biết chưa được công nhận là bậc hữu học th́ vô tội.
Vị đă được thỉnh mời, vị bị bệnh, vị thọ thực phần c̣n lại của vị đă được thỉnh mời hoặc của vị bị bệnh, vật thực đă được sắp đặt tại nơi ấy là của những người (thí chủ) khác, (gia đ́nh ấy) sau khi đem ra khỏi nhà rồi dâng, bữa ăn thường kỳ, bữa ăn theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng, (người ấy) dâng vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời (nói rằng): ‘Hăy thọ dụng khi có duyên cớ,’ vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học pāṭidesanīya thứ ba.
--ooOoo--
7. 4. ĐIỀU HỌC PĀṬIDESANĪYA THỨ TƯ
1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng ḍng Sakya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các nô lệ của ḍng Sakya nổi loạn. Các người nữ ḍng Sakya muốn làm bữa trai phạn ở những chỗ trú ngụ trong rừng. Các nô lệ của ḍng Sakya đă nghe được rằng: “Nghe nói các người nữ ḍng Sakya có ư định làm bữa trai phạn ở những chỗ trú ngụ trong rừng.” Chúng đă canh giữ các con đường. Các người nữ ḍng Sakya đă mang thực phẩm thượng hạng loại cứng loại mềm đi đến chỗ trú ngụ ở trong rừng. Các nô lệ của ḍng Sakya đă xuất hiện, cướp bóc, và làm nhục các người nữ ḍng Sakya. Những người ḍng Sakya đă xuất hiện bắt giữ bọn cướp cùng với các đồ đạc rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức không thông báo về bọn cướp đang ẩn náu trong tu viện?” Các tỳ khưu đă nghe được những người ḍng Sakya phàn nàn, phê phán, chê bai. ―(như trên)― Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
2. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế th́ ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu v́ mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm đem lại sự an lạc cho hội chúng, ―(như trên)― nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Trường hợp những chỗ trú ngụ ở trong rừng được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng, vị tỳ khưu nào trong khi đang sống ở những chỗ trú ngụ có h́nh thức như thế, sau khi tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm chưa được báo tin trước ở trong khuôn viên tu viện, rồi nhai hoặc ăn, th́ vị tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đă vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
3. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ ở những chỗ trú ngụ trong rừng bị bệnh. Dân chúng mang vật thực cứng vật thực mềm đi đến chỗ trú ngụ trong rừng. Khi ấy, những người ấy đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Thưa ngài, xin hăy thọ thực.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán sau khi tự tay thọ lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở những chỗ trú ngụ trong rừng rồi nhai hoặc ăn,” trong lúc ngần ngại đă không nhận lănh, và đă không thể đi khất thực nên bữa ăn đă bị lỡ. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
4. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, với vị tỳ khưu bị bệnh ta cho phép sau khi tự tay thọ lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở những chỗ trú ngụ trong rừng rồi nhai hoặc ăn. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Trường hợp những chỗ trú ngụ ở trong rừng được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng, vị tỳ khưu nào trong khi đang sống ở những chỗ trú ngụ có h́nh thức như thế, sau khi tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm chưa được báo tin trước ở trong khuôn viên tu viện, không bị bệnh rồi nhai hoặc ăn th́ vị tỳ khưu ấy nên thú nhận rằng: ‘Bạch chư đại đức, tôi đă vi phạm tội đáng chê trách, không có lợi ích, cần phải thú nhận; tôi xin thú nhận tội ấy.’”
5. Trường hợp những chỗ trú ngụ ở trong rừng: Ở trong rừng nghĩa là chỗ trú ngụ cách (căn nhà) cuối cùng khoảng cách 500 cây cung.[1]
Có sự nguy hiểm nghĩa là trong tu viện hoặc trong vùng phụ cận tu viện, chỗ cắm trại của bọn cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm được thấy.
Có sự kinh hoàng nghĩa là trong tu viện hoặc trong vùng phụ cận tu viện, dân chúng bị giết bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy.
Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.
Ở những chỗ trú ngụ có h́nh thức như thế: ở các chỗ trú ngụ có h́nh thức như vậy.
Chưa được báo tin nghĩa là đă được báo tin đến năm hạng (người đồng đạo);[2] điều này gọi là chưa được báo tin. Đă được báo tin (ở các nơi khác) ngoại trừ tu viện hoặc vùng phụ cận tu viện; điều này gọi là chưa được báo tin.
6. Đă được báo tin nghĩa là bất cứ người nữ nào hoặc người nam nào đi đến tu viện và vùng phụ cận tu viện rồi thông báo rằng: “Thưa ngài, sẽ mang lại vật thực cứng hoặc vật thực mềm của người tên (như vầy).” Nếu có sự nguy hiểm, nên nói rằng: “Có sự nguy hiểm.” Nếu có sự kinh hoàng, nên nói rằng: “Có sự kinh hoàng.” Nếu (người ấy) nói lại rằng: “Thưa ngài, hăy vậy đi. Sẽ được mang lại” th́ nên nói với bọn trộm cướp rằng: “Dân chúng đi đến nơi đây, hăy lui ra.” Khi đă được báo tin liên quan đến cháo, vật phụ thuộc của cháo được mang lại; điều này nghĩa là đă được báo tin. Khi đă được báo tin liên quan đến bữa ăn, vật phụ thuộc của bữa ăn được mang lại; điều này nghĩa là đă được báo tin. Khi đă được báo tin liên quan đến vật thực cứng, vật phụ thuộc của vật thực cứng được mang lại; điều này nghĩa là đă được báo tin. Khi đă được báo tin liên quan đến gia đ́nh, người nào trong gia đ́nh ấy mang lại vật thực cứng hoặc vật thực mềm; điều này nghĩa là đă được báo tin. Khi đă được báo tin liên quan đến ngôi làng, người nào trong ngôi làng ấy mang lại vật thực cứng hoặc vật thực mềm; điều này nghĩa là đă được báo tin. Khi đă được báo tin liên quan đến phường hội, người nào trong phường hội ấy mang lại vật thực cứng hoặc vật thực mềm; điều này nghĩa là đă được báo tin.
7. Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần c̣n lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, súp, bánh, cá, thịt.
Khuôn viên tu viện nghĩa là bên trong tu viện đối với tu viện đă được rào lại, là vùng phụ cận đối với tu viện không được rào lại.
Không bị bệnh nghĩa là có thể đi khất thực.
Bị bệnh nghĩa là không thể đi khất thực.
(Vật thực) chưa được báo tin, vị không bị bệnh (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi thọ nhận th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi một lần nuốt xuống th́ phạm tội pāṭidesanīya.
Khi chưa được báo tin, nhận biết là chưa được báo tin, sau khi tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở trong khuôn viên tu viện, vị không bị bệnh nhai hoặc ăn th́ phạm tội pāṭidesanīya. Khi chưa được báo tin, có sự hoài nghi, sau khi tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở trong khuôn viên tu viện, vị không bị bệnh nhai hoặc ăn th́ phạm tội pāṭidesanīya. Khi chưa được báo tin, (lầm) tưởng là đă được báo tin, sau khi tự tay nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm ở trong khuôn viên tu viện, vị không bị bệnh nhai hoặc ăn th́ phạm tội pāṭidesanīya.
Vị nhận lănh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời v́ mục đích vật thực th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi một lần nuốt xuống th́ phạm tội dukkaṭa.
Khi đă được báo tin, (lầm) tưởng là chưa được báo tin, phạm tội dukkaṭa. Khi đă được báo tin, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi đă được báo tin, nhận biết là đă được báo tin th́ vô tội.
Khi đă được báo tin, vị bị bệnh, vị thọ thực phần c̣n lại trong trường hợp đă được báo tin hoặc của vị bị bệnh, vị thọ lănh ở bên ngoài tu viện rồi thọ thực ở bên trong tu viện, vị thọ thực rễ cây hoặc vỏ cây hoặc lá cây hoặc bông hoa hoặc trái cây sanh trưởng tại nơi ấy, vị thọ dụng vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời khi có duyên cớ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học pāṭidesanīya thứ tư.
--ooOoo--
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Với vị ni không phải là thân quyến, hướng dẫn sự phục vụ, (gia đ́nh) bậc hữu học, và với vị ở trong rừng, là bốn điều pāṭidesanīya đă được giảng rơ bởi đấng Toàn Giác.
--ooOoo--
Bạch chư đại đức, bốn điều pāṭidesanīya đă được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nh́, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt các điều Pāṭidesanīya.
--ooOoo--
8. CHƯƠNG SEKHIYA
Bạch chư đại đức, các pháp sekhiyā[3] này được đưa ra đọc tụng.
8. 1. 1.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư quấn y (nội)[4] để ḷng tḥng phía trước và phía sau. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại quấn y (nội) để ḷng tḥng phía trước và phía sau giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?”
Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại quấn y (nội) để ḷng tḥng phía trước và phía sau?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy sau khi nói Pháp thoại đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi các tỳ khưu nhóm Lục Sư rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi quấn y (nội) để ḷng tḥng phía trước và phía sau, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại quấn y (nội) để ḷng tḥng phía trước và phía sau vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“‘Ta sẽ quấn y (nội) tṛn đều’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên quấn y (nội) cho tṛn đều với việc che kín ṿng bụng nơi lỗ rún và ṿng đầu gối. Vị nào quấn y (nội) để ḷng tḥng ở phía trước hoặc phía sau do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nhất.
--ooOoo--
8. 1. 2.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trùm y (vai trái)[5] để ḷng tḥng phía trước và phía sau. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ trùm y (vai trái) tṛn đều’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên trùm y (vai trái) cho tṛn đều sau khi đă làm bằng nhau cả hai mép y. Vị nào trùm y (vai trái) để ḷng tḥng ở phía trước hoặc phía sau do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́.
--ooOoo--
8. 1. 3.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư để hở thân rồi đi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Mặc y che kín đáo, ta sẽ đi ở nơi xóm nhà’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Vị mặc che kín đáo (mới) nên đi ở nơi xóm nhà. Vị nào để hở thân rồi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ ba.
--ooOoo--
8. 1. 4.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư để hở thân rồi ngồi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Mặc y che kín đáo, ta sẽ ngồi ở nơi xóm nhà’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Vị mặc y che kín đáo (mới) nên ngồi ở nơi xóm nhà. Vị nào để hở thân rồi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đă vào đến nơi trú ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tư.
--ooOoo--
8. 1. 5.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư múa máy tay chân khi đi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Khéo thu thúc, ta sẽ đi ở nơi xóm nhà’ là việc học tập nên được thực hành.
2. Vị khéo thu thúc (mới) nên đi ở nơi xóm nhà. Vị nào múa máy tay chân khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ năm.
--ooOoo--
8. 1. 6.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư múa máy tay chân khi ngồi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Khéo thu thúc, ta sẽ ngồi ở nơi xóm nhà’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Vị khéo thu thúc (mới) nên ngồi ở nơi xóm nhà. Vị nào múa máy tay chân khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ sáu.
--ooOoo--
8. 1. 7.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nh́n chỗ này chỗ nọ khi đi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ đi ở nơi xóm nhà với mắt nh́n xuống’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên đi ở nơi xóm nhà với mắt nh́n xuống thấy khoảng cách bằng cái cày.[6] Vị nào nh́n chỗ này chỗ nọ khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ bảy.
--ooOoo--
8. 1. 8.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nh́n chỗ này chỗ nọ khi ngồi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ ngồi ở nơi xóm nhà với mắt nh́n xuống’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên ngồi ở nơi xóm nhà với mắt nh́n xuống thấy khoảng cách bằng cái cày. Vị nào nh́n chỗ này chỗ nọ khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tám.
--ooOoo--
8. 1. 9.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi ở nơi xóm nhà với sự vén y lên. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với sự vén y lên’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên đi ở nơi xóm nhà với sự vén y lên. Vị nào vén y lên một bên hoặc cả hai bên khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ chín.
--ooOoo--
8. 1. 10.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở nơi xóm nhà với sự vén y lên. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với sự vén y lên’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với sự vén y lên. Vị nào vén y lên một bên hoặc cả hai bên khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đă vào đến nơi trú ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười.
Phẩm Tṛn Đều là thứ nhất.
--ooOoo--
8. 2. 1.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư cười tiếng cười lớn khi đi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với tiếng cười vang’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên đi ở nơi xóm nhà với tiếng cười vang. Vị nào cười tiếng cười lớn khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị chỉ mỉm cười khi có sự việc đáng cười, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nhất.
--ooOoo--
8. 2. 2.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư cười tiếng cười lớn khi ngồi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với tiếng cười vang’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với tiếng cười vang. Vị nào cười tiếng cười lớn khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị chỉ mỉm cười khi có sự việc đáng cười, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́.
--ooOoo--
8. 2. 3.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư gây tiếng động ồn tiếng động lớn khi đi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ đi ở nơi xóm nhà với giọng nói nhỏ nhẹ”[7] là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên đi ở nơi xóm nhà với giọng nói nhỏ nhẹ. Vị nào gây tiếng động ồn tiếng động lớn khi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ ba.
--ooOoo--
8. 2. 4.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư gây tiếng động ồn tiếng động lớn khi ngồi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ ngồi ở nơi xóm nhà với giọng nói nhỏ nhẹ’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên ngồi ở nơi xóm nhà với giọng nói nhỏ nhẹ. Vị nào gây tiếng động ồn tiếng động lớn khi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tư.
--ooOoo--
8. 2. 5.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư thân trong khi đung đưa thân h́nh. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa thân’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên đi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư thân. Nên giữ thân ngay thẳng rồi đi. Vị nào đi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư thân trong khi đung đưa thân h́nh do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ năm.
--ooOoo--
8. 2. 6.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư thân trong khi đung đưa thân h́nh. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa thân’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư thân. Nên giữ thân ngay thẳng rồi ngồi. Vị nào ngồi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư thân trong khi đung đưa thân h́nh do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đă vào đến nơi trú ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ sáu.
--ooOoo--
8. 2. 7.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi ở nơi xóm nhà có sự lắc lư cánh tay trong khi đung đưa cánh tay. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa cánh tay’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên đi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư cánh tay. Nên giữ yên cánh tay rồi đi. Vị nào đi ở nơi xóm nhà có sự lắc lư cánh tay trong khi đung đưa cánh tay do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ bảy.
--ooOoo--
8. 2. 8.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở nơi xóm nhà có sự lắc lư cánh tay trong khi đung đưa cánh tay. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với sự đung đưa cánh tay’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư cánh tay. Nên giữ yên cánh tay rồi ngồi. Vị nào ngồi ở nơi xóm nhà có sự lắc lư cánh tay trong khi đung đưa cánh tay do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tám.
--ooOoo--
8. 2. 9.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư đầu trong khi đung đưa cái đầu. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư đầu’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên đi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư đầu. Nên giữ đầu ngay thẳng rồi đi. Vị nào đi ở nơi xóm nhà với với sự lắc lư đầu trong khi đung đưa cái đầu do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ chín.
--ooOoo--
8. 2. 10.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở nơi xóm nhà với sự với sự lắc lư đầu trong khi đung đưa cái đầu. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư đầu’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với sự lắc lư đầu. Nên giữ đầu ngay thẳng rồi ngồi. Vị nào ngồi ở nơi xóm nhà với với sự lắc lư đầu trong khi đung đưa cái đầu do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đă vào đến nơi trú ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười.
Phẩm Cười Vang là thứ nh́.
--ooOoo--
8. 3. 1.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chống nạnh đi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không chống nạnh đi ở nơi xóm nhà ’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên chống nạnh đi ở nơi xóm nhà. Vị nào chống nạnh một bên hoặc hai bên rồi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nhất.
--ooOoo--
8. 3. 2.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chống nạnh ngồi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không chống nạnh ngồi ở nơi xóm nhà’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên chống nạnh ngồi ở nơi xóm nhà. Vị nào chống nạnh một bên hoặc hai bên rồi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đă vào đến nơi trú ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́.
--ooOoo--
8. 3. 3.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trùm y luôn cả đầu rồi đi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không trùm đầu lại đi ở nơi xóm nhà’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Vị trùm đầu lại không nên đi ở nơi xóm nhà. Vị nào trùm y luôn cả đầu rồi đi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ ba.
--ooOoo--
8. 3. 4.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trùm y luôn cả đầu rồi ngồi ở nơi xóm nhà. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không trùm đầu lại ngồi ở nơi xóm nhà’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Vị trùm đầu lại không nên ngồi ở nơi xóm nhà. Vị nào trùm y luôn cả đầu rồi ngồi ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tư.
--ooOoo--
8. 3. 5.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót. Vị nào đi ở nơi xóm nhà với sự nhón gót do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ năm.
--ooOoo--
8. 3. 6.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở nơi xóm nhà với sự ôm đầu gối. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không ngồi ở nơi xóm nhà với sự ôm đầu gối’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên ngồi ở nơi xóm nhà với sự ôm đầu gối. Vị nào ngồi ở nơi xóm nhà với sự ôm đầu gối bằng tay hoặc ôm đầu gối bằng miếng vải do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đă vào đến nơi trú ngụ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ sáu.
--ooOoo--
8. 3. 7.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ lănh đồ khất thực không nghiêm trang như là có ư muốn đổ bỏ. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ thọ lănh đồ khất thực một cách nghiêm trang’[8] là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên thọ lănh đồ khất thực một cách nghiêm trang. Vị nào thọ lănh đồ khất thực không nghiêm trang như là có ư muốn đổ bỏ do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ bảy.
--ooOoo--
8. 3. 8.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nh́n chỗ này chỗ nọ khi thọ lănh đồ khất thực. Ngay cả trong lúc vung văi luôn cả trong lúc làm tràn ra ngoài các vị đều không hay biết. ―(như trên)―
“‘Chú tâm ở b́nh bát, ta sẽ thọ lănh đồ khất thực’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên thọ lănh đồ khất thực với sự chú tâm ở b́nh bát. Vị nào nh́n chỗ này chỗ nọ khi thọ lănh đồ khất thực do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)―vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tám.
--ooOoo--
8. 3. 9.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư, trong khi thọ lănh đồ khất thực, thọ lănh quá nhiều xúp. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ thọ lănh đồ khất thực với lượng xúp tương xứng’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Xúp nghĩa là có hai loại xúp: xúp đậu mugga và xúp đậu māsa là nên được mang đi bằng tay. Nên thọ lănh đồ khất thực với lượng xúp tương xứng. Vị nào thọ lănh quá nhiều xúp do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, khi (xúp) có thêm nhiều món khác nhau để tăng hương vị, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, do vật sở hữu của bản thân, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ chín.
--ooOoo--
8. 3. 10.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ lănh đồ khất thực được làm vun đầy lên. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ thọ lănh đồ khất thực vừa ngang miệng (b́nh bát)’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên thọ lănh đồ khất thực vừa ngang miệng (b́nh bát). Vị nào thọ lănh đồ khất thực được làm vun đầy lên do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười.
Phẩm Chống Nạnh là thứ ba.
--ooOoo--
8. 4. 1.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ dụng đồ khất thực không nghiêm trang như là không có ư muốn ăn. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ thọ dụng đồ khất thực một cách nghiêm trang’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên thọ dụng đồ khất thực một cách nghiêm trang. Vị nào thọ dụng đồ khất thực không nghiêm trang như là không có ư muốn ăn do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nhất.
--ooOoo--
8. 4. 2.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nh́n chỗ này chỗ nọ khi thọ dụng đồ khất thực. Ngay cả trong lúc vung văi lẫn trong lúc làm tràn ra ngoài các vị đều không hay biết. ―(như trên)―
“‘Chú tâm ở b́nh bát, ta sẽ thọ dụng đồ khất thực’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên thọ dụng đồ khất thực với sự chú tâm ở b́nh bát. Vị nào nh́n chỗ này chỗ nọ khi thọ dụng đồ khất thực do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́.
--ooOoo--
8. 4. 3.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư lựa chọn chỗ này chỗ kia rồi thọ dụng đồ khất thực. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ thọ dụng đồ khất thực theo tuần tự’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên thọ dụng đồ khất thực theo tuần tự. Vị nào lựa chọn chỗ này chỗ kia khi thọ dụng đồ khất thực do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị lựa chọn trong lúc bố thí đến những vị khác, vị lựa chọn trong lúc bỏ sang vật đựng khác, (khi lấy ra) các món đặc biệt, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ ba.
--ooOoo--
8. 4. 4.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư, trong lúc thọ dụng đồ khất thực, thọ dụng quá nhiều xúp. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ thọ dụng đồ khất thực với lượng xúp tương xứng’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Xúp nghĩa là có hai loại xúp: xúp đậu mugga và xúp đậu māsa là nên được mang đi bằng tay. Nên thọ dụng đồ khất thực với lượng xúp tương xứng. Vị nào thọ dụng quá nhiều xúp do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, khi (xúp) có thêm nhiều món khác nhau để tăng hương vị, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, do vật sở hữu của bản thân, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tư.
--ooOoo--
8. 4. 5.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư vun lên thành đống rồi thọ dụng đồ khất thực. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không vun lên thành đống rồi thọ dụng đồ khất thực’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên vun lên thành đống rồi thọ dụng đồ khất thực. Vị nào vun lên thành đống rồi thọ thực do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi gom chung phần ít ỏi c̣n sót lại làm vun lên rồi thọ dụng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ năm.
--ooOoo--
8. 4. 6.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dùng cơm che lấp xúp và thức ăn với ư muốn được nhiều hơn. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không dùng cơm che lấp xúp hoặc thức ăn với ư muốn được nhiều hơn’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên dùng cơm che lấp xúp hoặc thức ăn với ư muốn được nhiều hơn. Vị nào dùng cơm che lấp xúp hoặc thức ăn với ư muốn được nhiều hơn do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, các thí chủ phủ kín lại rồi bố thí, không có ư muốn được nhiều hơn, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ sáu.
--ooOoo--
8. 4. 7.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư yêu cầu xúp và cơm v́ nhu cầu của bản thân rồi thọ thực. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại yêu cầu xúp và cơm v́ nhu cầu của bản thân rồi thọ thực? Khi được đầy đủ ai mà không vừa ư? Đồ ngon ngọt ai lại không thích thú?”
2. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại yêu cầu xúp và cơm v́ nhu cầu của bản thân rồi thọ thực?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi yêu cầu xúp và cơm v́ nhu cầu của bản thân rồi thọ thực, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại yêu cầu xúp và cơm v́ nhu cầu của bản thân rồi thọ thực vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“‘Ta sẽ không yêu cầu xúp và cơm v́ nhu cầu của bản thân rồi thọ thực’ là việc học tập nên được thực hành.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
3. Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu bị bệnh. Các tỳ khưu thăm hỏi bệnh t́nh đă nói với các vị bị bệnh điều này: - “Này các đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?” - “Này các đại đức, trước đây chúng tôi yêu cầu xúp và cơm v́ nhu cầu của bản thân rồi thọ thực, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn đă cấm đoán,’ trong lúc ngần ngại nên không yêu cầu, v́ thế chúng tôi không được thoải mái.” Các vị tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được yêu cầu xúp và cơm v́ nhu cầu của bản thân rồi thọ thực. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“‘Khi không bị bệnh, ta sẽ không yêu cầu xúp và cơm v́ nhu cầu của bản thân rồi thọ thực’ là việc học tập nên được thực hành.”
4. Vị không bị bệnh không nên yêu cầu xúp và cơm v́ nhu cầu của bản thân rồi thọ thực. Vị nào không bị bệnh mà yêu cầu xúp và cơm v́ nhu cầu của bản thân rồi thọ thực do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
5. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, do vật sở hữu của bản thân, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ bảy.
--ooOoo--
8. 4. 8.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nh́n vào b́nh bát của các vị khác với ư định t́m lỗi. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không nh́n vào b́nh bát của các vị khác với ư định t́m lỗi’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên nh́n vào b́nh bát của các vị khác với ư định t́m lỗi. Vị nào nh́n vào b́nh bát của các vị khác với ư định t́m lỗi do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ cho’ hoặc ‘Ta sẽ bảo (người khác) cho’ rồi nh́n, vị không có ư định t́m lỗi, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tám.
--ooOoo--
8. 4. 9.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư làm vắt cơm lớn. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không làm vắt cơm quá lớn’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên làm vắt cơm quá lớn. Vị nào làm vắt cơm quá lớn do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ chín.
--ooOoo--
8. 4. 10.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư làm những nắm cơm dài rồi thọ thực. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ làm nắm cơm tṛn đều’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Nên làm nắm cơm tṛn đều. Vị nào làm nắm cơm dài do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười.
Phẩm Nghiêm Trang là thứ tư.
--ooOoo--
8. 5. 1.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến. Vị nào há miệng ra khi vắt cơm chưa được đưa đến do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nhất.
--ooOoo--
8. 5. 2.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đưa trọn bàn tay vào miệng trong lúc thọ thực. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không đưa trọn bàn tay vào miệng trong lúc thọ thực’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Trong lúc thọ thực, không nên đưa trọn bàn tay vào miệng. Vị nào đưa trọn bàn tay vào miệng trong lúc thọ thực do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́.
--ooOoo--
8. 5. 3.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nói khi miệng có vắt cơm. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không nói khi miệng có vắt cơm’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên nói khi miệng có vắt cơm. Vị nào nói khi miệng có vắt cơm do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ ba.
--ooOoo--
8. 5. 4.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục.[9] ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục. Vị nào thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các vật thực cứng, các thứ trái cây, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tư.
--ooOoo--
8. 5. 5.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một.[10] ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một. Vị nào thọ thực theo lối cắn vắt cơm từng chút một do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ năm.
--ooOoo--
8. 5. 6.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực theo lối làm phồng má (do cơm bị độn vào). ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực theo lối làm phồng má’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thọ thực theo lối làm phồng má. Vị nào làm phồng má một bên hoặc hai bên rồi thọ thực th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, các vật thực cứng, các thứ trái cây, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ sáu.
--ooOoo--
8. 5. 7.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự vung rảy bàn tay. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực có sự vung rảy bàn tay’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thọ thực có sự vung rảy bàn tay. Vị nào thọ thực có sự vung rảy bàn tay do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị vung rảy bàn tay khi rũ bỏ vật dơ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ bảy.
--ooOoo--
8. 5. 8.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự làm rơi đổ cơm. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực có sự làm rơi đổ cơm’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thọ thực có sự làm rơi đổ cơm. Vị nào thọ thực có sự làm rơi đổ cơm do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị làm cơm bị rơi rớt trong lúc rũ bỏ vật dơ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tám.
--ooOoo--
8. 5. 9.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự le lưỡi. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực có sự le lưỡi’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thọ thực có sự le lưỡi. Vị nào thọ thực có sự le lưỡi do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ chín.
--ooOoo--
8. 5. 10.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có làm tiếng chép chép. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực có làm tiếng chép chép’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thọ thực có làm tiếng chép chép. Vị nào thọ thực có làm tiếng chép chép do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười.
Phẩm Vắt Cơm là thứ năm.
--ooOoo--
8. 6. 1.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, ở tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, món nước sữa được chuẩn bị cho hội chúng bởi người Bà-la-môn nọ. Các vị tỳ khưu uống sữa làm tiếng kêu sột sột. Có vị tỳ khưu nọ trước kia là kịch sĩ đă nói như vầy: - “Tôi nghĩ rằng toàn thể hội chúng này bị lạnh.” Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao vị tỳ khưu lại làm tṛ đùa giỡn liên quan đến hội chúng?” ―(như trên)― “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi làm tṛ đùa giỡn liên quan đến hội chúng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại làm tṛ đùa giỡn liên quan đến hội chúng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên làm tṛ đùa giỡn liên quan đến đức Phật, hoặc đến Giáo Pháp, hoặc đến Hội Chúng; vị nào làm th́ phạm tội dukkaṭa. Sau đó, đức Thế Tôn đă khiển trách vị tỳ khưu ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“‘Ta sẽ không thọ thực có làm tiếng sột sột’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thọ thực có làm tiếng sột sột. Vị nào thọ thực có làm tiếng sột sột do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nhất.
--ooOoo--
8. 6. 2.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự liếm tay. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực có sự liếm tay’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thọ thực có sự liếm tay. Vị nào thọ thực có sự liếm tay do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́.
--ooOoo--
8. 6. 3.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự nạo vét b́nh bát.[11] ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực có sự nạo vét b́nh bát’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thọ thực có sự nạo vét b́nh bát. Vị nào thọ thực có sự nạo vét b́nh bát do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi gom chung phần ít ỏi c̣n sót lại vét ra ngoài rồi thọ dụng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ ba.
--ooOoo--
8. 6. 4.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thọ thực có sự liếm môi. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thọ thực có sự liếm môi’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thọ thực có sự liếm môi. Vị nào thọ thực có sự liếm môi do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tư.
--ooOoo--
8. 6. 5.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại xứ Bhagga, trong thành Susumāragira, ở rừng Bhesakalā, chỗ vườn nai. Vào lúc bấy giờ, ở ṭa lâu đài của Kokanada các vị tỳ khưu thọ lănh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại thọ lănh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?”
2. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu lại thọ lănh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thọ lănh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy lại thọ lănh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“‘Ta sẽ không thọ lănh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn’ là việc học tập nên được thực hành.”
3. Không nên thọ lănh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn. Vị nào thọ lănh tô nước uống bằng bàn tay có dính thức ăn do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
4. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị thọ lănh (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ rửa’ hoặc ‘Ta sẽ bảo (người khác) rửa,’ trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ năm.
--ooOoo--
8. 6. 6.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại xứ Bhagga, trong thành Susumāragira, ở rừng Bhesakalā, chỗ vườn nai. Vào lúc bấy giờ, ở ṭa lâu đài của Kokanada các vị tỳ khưu đổ bỏ nước rửa b́nh bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại đổ bỏ nước rửa b́nh bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?”
2. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu lại đổ bỏ nước rửa b́nh bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đổ bỏ nước rửa b́nh bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy lại đổ bỏ nước rửa b́nh bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“‘Ta sẽ không đổ bỏ nước rửa b́nh bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà’ là việc học tập nên được thực hành.”
3. Không nên đổ bỏ nước rửa b́nh bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà. Vị nào đổ bỏ nước rửa b́nh bát có lẫn cơm ở nơi xóm nhà do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
4. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi đă vớt ra (các hột cơm) hoặc sau khi làm nhừ nát hoặc (đổ vào) ở đồ chứa hoặc đem ra bên ngoài rồi đổ bỏ, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ sáu.
--ooOoo--
8. 6. 7.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có dù ở bàn tay. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại thuyết Pháp đến người có dù ở bàn tay?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thuyết Pháp đến người có dù ở bàn tay, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại thuyết Pháp đến người có dù ở bàn tay vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người có dù ở bàn tay’ là việc học tập nên được thực hành.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
2. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại thuyết Pháp đến người bị bệnh có dù ở bàn tay rồi không thuyết. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại không thuyết Pháp đến người bị bệnh có dù ở bàn tay?” Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thuyết Pháp đến người bị bệnh có dù ở bàn tay. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có dù ở bàn tay’ là việc học tập nên được thực hành.”
3. Dù nghĩa là có ba loại dù: dù trắng, dù bằng sậy, dù bằng lá được buộc theo ṿng tṛn, được buộc bằng các thanh cây dẹp.
Pháp nghĩa là được giảng bởi đức Phật, được giảng bởi các vị Thinh Văn, được giảng bởi các vị ẩn sĩ, được giảng bởi chư Thiên có liên quan đến mục đích có liên quan đến Giáo Pháp.
Thuyết: vị thuyết theo câu th́ phạm tội dukkaṭa theo mỗi một câu. Vị thuyết theo từ th́ phạm tội dukkaṭa theo mỗi một từ.
4. Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có dù ở bàn tay. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có dù ở bàn tay do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
5. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ bảy.
--ooOoo--
8. 6. 8.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có gậy ở bàn tay. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có gậy ở bàn tay’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Gậy nghĩa là gậy dài bốn cánh tay của người đàn ông bậc trung (khoảng hai mét), dài hơn không phải là gậy, ngắn hơn không phải là gậy.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có gậy ở bàn tay. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có gậy ở bàn tay do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tám.
--ooOoo--
8. 6. 9.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có dao ở bàn tay. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có dao ở bàn tay’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Dao nghĩa là vũ khí có lưỡi một bên, có lưỡi hai bên.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có dao ở bàn tay. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có dao ở bàn tay do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ chín.
--ooOoo--
8. 6. 10.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có vũ khí ở bàn tay. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có vũ khí ở bàn tay’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Vũ khí nghĩa là cây cung, cây nỏ.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có vũ khí ở bàn tay. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có vũ khí ở bàn tay do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười.
Phẩm Tiếng Sột Sột là thứ sáu.
--ooOoo--
8. 7. 1.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có mang giày. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang giày’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang giày. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh hoặc đứng ở trên giày, hoặc (mang giày) đă được buộc lại, hoặc đă được cởi ra (ở gót chân), do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nhất.
--ooOoo--
8. 7. 2.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có mang dép. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang dép’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có mang dép. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh hoặc đứng ở trên dép, hoặc (mang dép) đă được buộc lại, hoặc đă được cởi ra (ở gót chân), do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ nh́.
--ooOoo--
8. 7. 3.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người ở trên xe. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh ở trên xe’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Xe nghĩa là xe ḅ, xe kéo, xe hàng, xe ngựa, kiệu khiêng, ghế khiêng.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh ở trên xe. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh ở trên xe do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ ba.
--ooOoo--
8. 7. 4.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người đang nằm. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang nằm’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang nằm. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang nằm cho dù ở trên nền đất do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tư.
--ooOoo--
8. 7. 5.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người ngồi ôm đầu gối. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi ôm đầu gối’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi ôm đầu gối. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi ôm đầu gối bằng tay hoặc ôm đầu gối bằng miếng vải do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ năm.
--ooOoo--
8. 7. 6.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người đội khăn ở đầu. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh đội khăn ở đầu’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Đội khăn ở đầu nghĩa là sau khi không để lộ ra tóc ở bên trong rồi đội khăn lên.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh đội khăn ở đầu. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh đội khăn ở đầu do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi bảo mở tóc ở bên trong ra rồi thuyết giảng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ sáu.
--ooOoo--
8. 7. 7.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp đến người có đầu được trùm lại. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh có đầu được trùm lại’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Có đầu được trùm lại nghĩa là đề cập đến đầu đă được (y) trùm lên.
Không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh có đầu được trùm lại. Vị nào thuyết Pháp đến người không bị bệnh có đầu được trùm lại do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi bảo tháo vật trùm đầu ra rồi thuyết giảng, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ bảy.
--ooOoo--
8. 7. 8.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở nền đất rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không ngồi ở nền đất rồi thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi trên chỗ ngồi’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên ngồi ở nền đất rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi. Vị nào ngồi ở nền đất rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ tám.
--ooOoo--
8. 7. 9.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
2. - “Này các tỳ khưu, vào thời trước đây ở thành Bārāṇasī cô vợ của người hạng cùng đinh nọ đă mang thai. Này các tỳ khưu, khi ấy người vợ hạng cùng đinh ấy đă nói với người chồng hạng cùng đinh ấy điều này: - ‘Này tướng công, thiếp muốn ăn xoài.’ - ‘Không có xoài, không phải mùa xoài.’ - ‘Nếu thiếp không có, thiếp sẽ chết.’ Vào lúc bấy giờ, đức vua có cây xoài ra trái liên tục. Này các tỳ khưu, sau đó người hạng cùng đinh ấy đă đi đến nơi cây xoài ấy, sau khi đến đă leo lên cây xoài ấy rồi ngồi yên ẩn nấp.
3. Này các tỳ khưu, khi ấy đức vua đă đi đến cây xoài ấy cùng với viên quan tế tự Bà-la-môn, sau khi đến đă ngồi trên chỗ ngồi cao học thuộc ḷng bài chú thuật. Này các tỳ khưu, khi ấy người hạng cùng đinh đă khởi ư điều này: ‘Cho đến cả đức vua này mà c̣n sai trái bởi v́ đă ngồi trên chỗ ngồi cao mà học thuộc ḷng bài chú thuật. Và người Bà-la-môn này là sai trái bởi v́ đă ngồi ở chỗ ngồi thấp mà dạy bài chú thuật đến người ngồi trên chỗ ngồi cao. Và ta là sai trái khi ta v́ nguyên nhân đàn bà mà lấy trộm xoài của đức vua. Toàn bộ việc này là luẩn quẩn!’ rồi đă rơi xuống ngay tại chỗ ấy (nói rằng):
- ‘Cả hai không biết mục đích, cá hai không nh́n thấy Pháp. Vị dạy bài chú thuật, và vị học đều sai trái.’
(Vị Bà-la-môn đáp): - ‘Ta ăn cơm gạo sālī có trộn lẫn thịt tinh khiết, do đó ta không thực hành các Pháp. Pháp đă được các bậc Thánh nhân ca ngợi.’
(Người hạng cùng đinh): - ‘Này Bà-la-môn, xấu hổ thay sự đạt được tài sản và sự đạt được danh vọng ấy, đó là hành vi với sự bị rơivào đọa xứ hay là có sở hành xử sai trái.
Này vị Bà-la-môn vĩ đại, hăy thoát ra, dầu cho các chúng sanh khác bị đọa đày. Ngài chớ thực hành việc phi pháp, v́ điều ấy ví như đá làm vỡ chum.’
4. Này các tỳ khưu, ngay từ thời ấy (người) ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi dạy bài chú thuật đến người ngồi trên chỗ ngồi cao đă không làm ta hài ḷng, th́ hiện nay điều ǵ khiến cho việc (người) ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người ngồi trên chỗ ngồi cao sẽ làm ta hài ḷng? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“‘Ta sẽ không ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi trên chỗ ngồi cao’ là việc học tập nên được thực hành.”
5. Không nên ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi trên chỗ ngồi cao. Vị nào ngồi ở chỗ ngồi thấp rồi thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi trên chỗ ngồi cao do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
6. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ chín.
--ooOoo--
8. 7. 10.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đứng thuyết Pháp đến người ngồi. ―(như trên)―
“‘Ta sẽ không đứng thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không nên đứng thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi. Vị nào đứng thuyết Pháp đến người không bị bệnh ngồi do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười.
--ooOoo--
8. 7. 11.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi đang đi phía sau thuyết Pháp đến người đang đi phía trước. ―(như trên)―
“‘Khi đang đi phía sau, ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi phía trước’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Trong khi đang đi phía sau không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi phía trước. Vị nào trong khi đang đi phía sau thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi phía trước do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười một.
--ooOoo--
8. 7. 12.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi đang đi bên đường thuyết Pháp đến người đang đi giữa đường. ―(như trên)―
“‘Khi đang đi bên đường, ta sẽ không thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi giữa đường’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Trong khi đang đi bên đường không nên thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi giữa đường. Vị nào trong khi đang đi bên đường thuyết Pháp đến người không bị bệnh đang đi giữa đường do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười hai.
--ooOoo--
8. 7. 13.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đứng đại tiện và tiểu tiện. ―(như trên)―
“‘Khi không bị bệnh, ta sẽ không đứng đại tiện hoặc tiểu tiện’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Khi không bị bệnh, không nên đứng đại tiện hoặc tiểu tiện. Vị nào không bị bệnh đứng đại tiện hoặc tiểu tiện do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, ―(như trên)― vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười ba.
--ooOoo--
8. 7. 14.1. Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ trên cỏ cây xanh. ―(như trên)―
“‘Khi không bị bệnh, ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trên cỏ cây xanh’ là việc học tập nên được thực hành.”
2. Không bị bệnh, không nên đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trên cỏ cây xanh. Vị nào không bị bệnh đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trên cỏ cây xanh do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
3. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, vị đă thực hiện ở chỗ không có cỏ cây xanh rồi khỏa cỏ cây xanh ra che lại, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười bốn.
--ooOoo--
8. 7. 15.1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?”
2. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“‘Ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước’ là việc học tập nên được thực hành.”
Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
3. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bị bệnh ngần ngại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Khi không bị bệnh, ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước’ là việc học tập nên được thực hành.”
4. Khi không bị bệnh, không nên đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước. Vị nào không bị bệnh đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước do không có sự tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.
5. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi thực hiện trên đất rồi xối nước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”
Điều học thứ mười lăm.
Phẩm Giày Dép là thứ bảy.
--ooOoo--
PHẦN TÓM LƯỢC
(Mặc y ) tṛn đều, được che kín, khéo thu thúc, với mắt nh́n xuống, được vén lên, tiếng cười vang, với giọng nói nhỏ nhẹ, và luôn cả ba điều về sự đung đưa.
Sự chống nạnh, trùm đầu, luôn cả sự nhón gót, và ôm đầu gối, (thọ lănh) một cách nghiêm trang, có sự chú tâm ở b́nh bát, lượng xúp tương xứng, và vừa ngang miệng (b́nh bát).
(Thọ dụng) một cách nghiêm trang, và có sự chú tâm ở b́nh bát, theo tuần tự, với lượng xúp tương xứng, vun lên thành đống, và che lấp, việc yêu cầu, với ư định t́m lỗi.
Không quá lớn, tṛn đều, cửa miệng, trọn bàn tay, không nói, việc đưa lên (liên tục), việc cắn (từng chút), việc phồng má, việc vung rảy, việc làm rơi đổ cơm.
Và luôn cả sự le lưỡi, tiếng chép chép, với tiếng sột sột, (liếm) bàn tay, (nạo vét) b́nh bát, và (liếm) môi, (bàn tay) có dính thức ăn, và (nước rửa b́nh bát) có lẫn cơm.
Các đức Như Lai không thuyết giảng Chánh Pháp đến người có dù ở bàn tay, y như thế đến người có gậy ở bàn tay, và những người có dao và vũ khí ở bàn tay.
Và luôn cả người mang giày, dép, ở trên xe, và đang nằm, đến người ngồi ôm đầu gối, đầu đội khăn, và được trùm lại.
Nền đất, ở chỗ ngồi thấp, đứng, (đi) phía sau, và (đi) bên đường, vị đứng không nên làm, ở cỏ cây xanh, và vào trong nước.
--ooOoo--
TÓM LƯỢC CÁC CHƯƠNG ẤY
(Mặc y ) tṛn đều, cười vang, chống nạnh, và nghiêm trang nữa, vắt cơm, luôn cả tiếng sột sột, với giày dép là thứ bảy.
Bảy mươi lăm điều sekhiya đă được quy định bởi đức Gotama, vị Trời tối cao, bậc có danh vọng, nhằm mục đích học tập cho các đệ tử.
--ooOoo--
Bạch chư đại đức, các pháp sekhiyā đă được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nh́, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Các điều Sekhiya.
--ooOoo--
9. CÁC PHÁP DÀN XẾP TRANH TỤNG
Bạch chư đại đức, bảy pháp dàn xếp tranh tụng[12] này được đưa ra đọc tụng.
1. Nhằm đưa đến sự dàn xếp, nhằm đưa đến sự giải quyết các sự tranh tụng đă sanh khởi hoặc chưa sanh khởi, nên áp dụng cách hành xử Luật với sự hiện diện, nên áp dụng cách hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, nên áp dụng cách hành xử Luật khi không điên cuồng, nên phán xử theo sự thừa nhận, thuận theo số đông, theo tội của vị ấy, cách dùng cỏ che lấp.
2. Bạch chư đại đức, bảy pháp dàn xếp tranh tụng đă được đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nh́, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Các đại đức được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Các Pháp Dàn Xếp Tranh Tụng.
--ooOoo--
Bạch chư đại đức, phần mở đầu đă được đọc tụng, bốn điều pārājika đă được đọc tụng, mười ba điều saṅghādisesa đă được đọc tụng, hai điều aniyata đă được đọc tụng, ba mươi điều nissaggiya pācittiya đă được đọc tụng, chín mươi hai điều pācittiya đă được đọc tụng, bốn điều pāṭidesanīya đă được đọc tụng, các pháp sekhiyā đă được đọc tụng, bảy pháp dàn xếp tranh tụng đă được đọc tụng. Bấy nhiêu của đức Thế Tôn ấy đă được truyền lại trong giới bổn, đă được đầy đủ trong giới bổn, được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng. Chính tất cả (chư đại đức) nên học tập các điều học ấy với sự hợp nhất, thân thiện, không căi cọ.”
PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU ĐƯỢC CHẤM DỨT.
--ooOoo--
[1] Sách The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của 500 cây cung độ chừng 1 km. [2] Năm hạng người đồng đạo là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, và sa di ni. [3] Sekhiya: (vị lai phân từ thụ động, ngữ căn √sikkh): cần được học tập, nên được rèn luyện. [4] Động từ nivāseti áp dụng cho antaravāsaka (y nội) nên được dịch là “quấn y (nội).” [5] Động từ pārupati áp dụng cho uttarāsaṅga (thượng y, y vai trái) nên được dịch là “trùm y (vai trái).” [6] Nghĩa là nh́n phía trước ở mặt đất khoảng cách 4 hattha, khoảng 2 mét (VinA. iv, 891). [7] Appasaddo: dịch sát nghĩa là “ít tiếng động, tiếng động nhỏ.” Chú Giải cho ví dụ về tiếng động nhỏ như sau: “Trong căn nhà dài 6 mét có ba vị trưởng lăo ngồi, một vị ngồi đầu này, một vị ngồi giữa, một vị ngồi đàng cuối (như vậy vị ngồi giữa cách đều hai vị kia một khoảng cách là 3 mét). Khi vị thứ nhất nói nhỏ nhẹ th́ vị ngồi ở giữa nghe và xác định được nội dung, c̣n vị kia ngồi cách 6 mét nghe tiếng nói nhưng không xác định được nội dung. Cho đến như vậy là tiếng động nhỏ. Trái lại, nếu vị trưởng lăo thứ ba xác định được nội dung th́ gọi là tiếng động lớn” (VinA. iv, 891). [8] sakkaccan ti satiṃ upaṭṭhapetvā: nghiêm trang là sau khi thiết lập niệm (VinA. iv, 891). [9] Hợp từ piṇḍukkhepakaṃ được dịch sát nghĩa là “sự thảy lên cục (cơm).” Như vậy theo sự xác định ở phần không phạm tội th́ vật thực cứng và các thứ trái cây được phép thảy vào miệng! Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “piṇḍukkhepakan ti piṇḍaṃ ukkhipitvā ukkhipitvā” (VinA. iv, 893), chúng tôi hiểu sự lập lại của bất biến động từ ukkhipitvā là “đưa lên rồi đưa lên” nên đă ghi lại lời dịch Việt là: “thọ thực theo lối đưa thức ăn (vào miệng) một cách liên tục.” [10] Hợp từ kabaḷāvacchedaka được dịch sát nghĩa là “sự cắn vắt cơm làm hai.” Cũng như điều trên, khi xem đến phần không phạm tội với các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, chúng tôi hiểu lời giải thích “kabaḷāvacchedakan ti kabaḷaṃ avacchinditvā avacchindivā” của ngài Buddhaghosa là “cắn đi cắn lại vắt cơm,” “cắn vắt cơm từng chút một,” nói theo cách nôm na là “ăn theo lối nhâm nhi.” [11] Từ nillehakaṃ nghĩa là sự liếm, vét trong ba cụm từ “hattha-nillehakaṃ, patta-nillehakaṃ, oṭṭha-nillehakaṃ” liên quan đến tay, b́nh bát, và môi. Sở dĩ chúng tôi không dịch là “liếm b́nh bát” v́ điều ấy không thể thực hiện được nên ghi là “nạo vét.” Nếu vị tỳ khưu thọ thực trong đĩa th́ từ “liếm” có thể áp dụng (ND). [12] Xem phần giảng giải chi tiết ở Cullavagga - Tiểu Phẩm, TTPV tập 06, chương IV.
|
|||