Trang Chính

Trang Các Bản Dịch Mới

Font VU-Times

 

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 02

 

PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU tập II

ẤN BẢN 2013

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

(Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

6. 4. PHẨM VẬT THỰC

 

 

6. 4. 1. ĐIỀU HỌC VỀ VẬT THỰC Ở PHƯỚC XÁ

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, ở không xa thành Sāvatthī có phường hội nọ sắp đặt sự thí thực tại phước xá. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư vào buổi sáng sau khi mặc y, cầm y bát, đi vào thành Sāvatthī để khất thực, khi không nhận được đồ ăn khất thực đă đi đến phước xá. Dân chúng (nói rằng): - “Lâu lắm các ngài đại đức mới đến,” họ đă phục vụ một cách trân trọng. Sau đó vào ngày thứ nh́, ―(như trên)― vào ngày thứ ba, các tỳ khưu nhóm Lục Sư vào buổi sáng sau khi mặc y, cầm y bát, đă đi vào thành Sāvatthī để khất thực, khi không nhận được đồ ăn khất thực đă đi đến phước xá và thọ thực. Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă khởi ư điều này: “Chúng ta sẽ làm điều ǵ đây, có nên đi về tu viện rồi ngày mai cũng sẽ trở lại chính nơi này?” Các vị tiếp tục trú ngụ tại chính nơi ấy và thọ dụng vật thực ở phước xá. Các ngoại đạo lánh xa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử cứ tiếp tục cư trú và thọ dụng vật thực ở phước xá? Vật thực ở phước xá được sắp đặt đâu có dành riêng cho các vị này; vật thực ở phước xá được sắp đặt dành cho tất cả!”

 

2. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại tiếp tục cư trú và thọ dụng vật thực ở phước xá?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tiếp tục cư trú và thọ dụng vật thực ở phước xá, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại tiếp tục cư trú và thọ dụng vật thực ở phước xá vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vật thực ở phước xá được thọ dụng một lần. Nếu vượt quá số ấy th́ phạm tội pācittiya.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

3. Vào lúc bấy giờ, đại đức Sāriputta trong khi đi đến thành Sāvatthī ở trong xứ sở Kosala đă ghé lại phước xá nọ. Dân chúng (nói rằng): - “Lâu lắm trưởng lăo mới đến” rồi đă phục vụ một cách trân trọng. Sau đó, khi đại đức Sāriputta đă thọ thực xong, có cơn bệnh ngặt nghèo đă phát khởi. Đại đức đă không thể rời trú xá ấy ra đi. Sau đó vào ngày thứ nh́, những người ấy đă nói với đại đức Sāriputta điều này: - “Thưa ngài, xin hăy thọ thực.” Khi ấy, đại đức Sāriputta (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm tiếp tục cư trú và thọ dụng vật thực ở phước xá,” trong lúc ngần ngại đă không thọ lănh nên bữa ăn đă bị lỡ. Sau đó, đại đức Sāriputta đă đi đến thành Sāvatthī và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

4. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được tiếp tục cư trú và thọ thực ở phước xá. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu không bị bệnh được thọ dụng vật thực ở phước xá một lần. Nếu vượt quá số ấy th́ phạm tội pācittiya.”

 

5. Không bị bệnh nghĩa là có thể ĺa phước xá ấy ra đi.

 

Bệnh nghĩa là không thể ĺa phước xá ấy ra đi.

 

Vật thực ở phước xá nghĩa là loại vật thực nào đó thuộc về năm loại vật thực được phân phát theo nhu cầu không chỉ định (người thọ) ở trong pḥng, hoặc ở mái che, hoặc ở gốc cây, hoặc ở ngoài trời.

 

Vị tỳ khưu không bị bệnh nên thọ thực một lần, nếu (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ ăn’ rồi thọ lănh vượt quá số lần ấy th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, thọ dụng vật thực ở phước xá vượt quá số lần ấy th́ phạm tội pācittiya. Vị không bị bệnh, có sự hoài nghi, thọ dụng vật thực ở phước xá vượt quá số lần ấy th́ phạm tội pācittiya. Vị không bị bệnh, (lầm) tưởng là có bệnh, thọ dụng vật thực ở phước xá vượt quá số lần ấy th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa. Vị bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Vị bị bệnh, nhận biết là bị bệnh th́ vô tội.

 

Vị bị bệnh, vị không bị bệnh thọ thực một lần, vị thọ thực khi chuẩn bị ra đi hoặc khi vừa mới đến, các người chủ thỉnh và mời ăn, được sắp đặt dành riêng (cho vị ấy), được sắp đặt vừa đủ theo nhu cầu (được nhận lănh từng chút từng chút), trừ ra năm loại vật thực (thọ dụng) tất cả (các thức khác) th́ không phạm tội, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về vật thực ở phước xá là thứ nhất.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 4. 2. ĐIỀU HỌC VỀ VẬT THỰC CHUNG NHÓM

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, Devadatta bị mất mát về lợi lộc và danh vọng nên cùng với tùy tùng liên tục yêu cầu các gia đ́nh rồi thọ thực. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại liên tục yêu cầu các gia đ́nh rồi thọ thực? Khi được đầy đủ ai mà không vừa ư? Đồ ngon ngọt ai lại không thích thú?”

 

2. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao Devadatta cùng với tùy tùng lại liên tục yêu cầu các gia đ́nh rồi thọ thực?” ―(như trên)― “Này Devadatta, nghe nói ngươi cùng với tùy tùng liên tục yêu cầu các gia đ́nh rồi thọ thực, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi cùng với tùy tùng lại liên tục yêu cầu các gia đ́nh rồi thọ thực vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp vật thực chung nhóm th́ phạm tội pācittiya.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

3. Vào lúc bấy giờ, dân chúng thỉnh mời các tỳ khưu bị bệnh với bữa trai phạn. Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán vật thực chung nhóm.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu bị bệnh được thọ dụng vật thực chung nhóm. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp vật thực chung nhóm th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

4. Vào lúc bấy giờ, trong thời hạn dâng y dân chúng sau khi chuẩn bị bữa trai phạn có dâng y rồi thỉnh mời các tỳ khưu (nói rằng): “Sau khi mời thọ thực, chúng tôi sẽ dâng y.” Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán vật thực chung nhóm.” Y được phát sanh ít ỏi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực chung nhóm trong thời hạn dâng y. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp vật thực chung nhóm th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

5. Vào lúc bấy giờ, dân chúng thỉnh mời các tỳ khưu là những vị may y với bữa trai phạn. Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán vật thực chung nhóm.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực chung nhóm trong lúc may y. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp vật thực chung nhóm th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y, trong lúc may y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

6. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đi đường xa cùng với dân chúng. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă nói với những người ấy điều này: - “Này các đạo hữu, hăy chờ đợi chốc lát. Chúng tôi sẽ đi khất thực.” Những người ấy đă nói như vầy: - “Thưa các ngài, hăy thọ thực ở ngay đây.” Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không thọ lănh (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán vật thực chung nhóm.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực chung nhóm trong trường hợp đi đường xa. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp vật thực chung nhóm th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y, trong lúc may y, trong lúc đi đường xa. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

7. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đi thuyền cùng với dân chúng. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă nói với những người ấy điều này: - “Này các đạo hữu, hăy vào bờ chốc lát. Chúng tôi sẽ đi khất thực.” Những người ấy đă nói như vầy: - “Thưa các ngài, hăy thọ thực ở ngay đây.” Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không thọ lănh (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán vật thực chung nhóm.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực chung nhóm trong trường hợp lên thuyền. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp vật thực chung nhóm th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y, trong lúc may y, trường hợp đi đường xa, trường hợp lên thuyền. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

8. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu khi trải qua mùa (an cư) mưa ở các nơi đi đến thành Rājagaha để diện kiến đức Thế Tôn. Dân chúng khi nh́n thấy các tỳ khưu người khác xứ sở đă thỉnh mời với bữa trai phạn. Các vị tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán vật thực chung nhóm.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực chung nhóm trong trường hợp đông đảo (các tỳ khưu). Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp vật thực chung nhóm th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y, trong lúc may y, trường hợp đi đường xa, trường hợp lên thuyền, trường hợp đông đảo (các tỳ khưu). Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

9. Vào lúc bấy giờ, có người thân quyến ruột thịt của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă xuất gia nơi các đạo sĩ lơa thể. Khi ấy, người đạo sĩ lơa thể ấy đă đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đă nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này: - “Tâu đại vương, tôi muốn làm bữa ăn cho tất cả các giáo phái khác.” - “Thưa ngài, nếu ngài có thể dâng vật thực đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu là trước tiên hết, như vậy th́ ngài có thể tiến hành.” Sau đó, người đạo sĩ lơa thể ấy đă phái sứ giả đi gặp các tỳ khưu (nói rằng): - “Xin các tỳ khưu hăy nhận lời bữa ăn vào ngày mai của tôi.” Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán vật thực chung nhóm.” Sau đó, người đạo sĩ lơa thể ấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xă giao thân thiện rồi đă đứng ở một bên. Khi đă đứng một bên, người đạo sĩ lơa thể ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Ngài Gotama đă xuất gia, tôi cũng đă xuất gia. Người đă xuất gia th́ xứng đáng để thọ nhận vật thực của người đă xuất gia. Xin ngài Gotama nhận lời tôi về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.” Đức Thế Tôn đă nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, người đạo sĩ lơa thể ấy hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đă ra đi.

 

Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực chung nhóm trong trường hợp bữa trai phạn của Sa-môn. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp vật thực chung nhóm th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y, trong lúc may y, trường hợp đi đường xa, trường hợp lên thuyền, trường hợp đông đảo (các tỳ khưu), trường hợp bữa trai phạn của Sa-môn. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.

 

10. Vật thực chung nhóm nghĩa là nơi nào bốn vị tỳ khưu được thỉnh mời với loại vật thực nào đó trong năm loại vật thực rồi thọ thực, việc này gọi là vật thực chung nhóm.

 

Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.

 

Trường hợp bị bệnh nghĩa là ngay cả (trường hợp) các bàn chân bị nứt nẻ, (nghĩ rằng): ‘Trường hợp bị bệnh’ rồi nên thọ thực. Trong thời hạn dâng y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu th́ tháng cuối cùng của mùa mưa, khi Kaṭhina được thành tựu th́ năm tháng, (nghĩ rằng): ‘Trong thời hạn dâng y’ rồi nên thọ thực. Trong lúc may y nghĩa là trong lúc y đang được may, (nghĩ rằng): ‘Trong lúc may y’ rồi nên thọ thực. Trường hợp đi đường xa nghĩa là (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ đi nửa do tuần’ rồi nên thọ thực, vị đang đi th́ nên thọ thực, vị đă đi th́ nên thọ thực.

 

Trường hợp lên thuyền nghĩa là (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ lên thuyền’ rồi nên thọ thực. Vị đă lên thuyền th́ nên thọ thực. Vị vừa rời (thuyền) th́ nên thọ thực. Trường hợp đông đảo (các tỳ khưu) nghĩa là nơi nào hai hay ba vị tỳ khưu đi khất thực th́ có đủ vật thực. Khi có vị thứ tư đi đến th́ khất thực không có đủ vật thực, (nghĩ rằng): ‘Trường hợp đông đảo’ rồi nên thọ thực. Trường hợp bữa trai phạn của Sa-môn nghĩa là bất cứ người nào thành tựu phẩm chất du sĩ thực hiện bữa trai phạn, (nghĩ rằng): ‘Trường hợp bữa trai phạn của Sa-môn’ rồi nên thọ thực.

 

Ngoại trừ có duyên cớ, (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thọ thực’ rồi thọ lănh th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội pācittiya.

 

Vật thực chung nhóm, nhận biết là vật thực chung nhóm, vị thọ thực th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Vật thực chung nhóm, có sự hoài nghi, vị thọ thực th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Vật thực chung nhóm, (lầm) tưởng không phải là vật thực chung nhóm, vị thọ thực th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ.

 

Không phải vật thực chung nhóm, (lầm) tưởng là vật thực chung nhóm, phạm tội dukkaṭa. Không phải vật thực chung nhóm, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải vật thực chung nhóm, nhận biết không phải là vật thực chung nhóm th́ vô tội.

 

Khi có duyên cớ, hai hoặc ba vị thọ thực chung, sau khi đi khất thực tụ hội chung lại (một chỗ) rồi thọ thực, trong bữa ăn thường kỳ, trong bữa ăn (phân phối) theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng, (thọ dụng) tất cả (các thức khác) th́ không phạm tội trừ ra năm loại vật thực, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về vật thực chung nhóm là thứ nh́.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 4. 3. ĐIỀU HỌC VỀ VẬT THỰC THỈNH SAU

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, trong thành Vesālī sự luân phiên về các bữa trai phạn gồm các thức ăn hảo hạng đă được ấn định. Khi ấy, có người lao công nghèo nọ đă khởi ư điều này: “Theo như cách những người này thực hiện bữa trai phạn một cách trịnh trọng th́ việc này không phải là tầm thường, hay là ta nên thực hiện bữa trai phạn?” Sau đó, người lao công nghèo ấy đă đi đến gặp cậu chủ tên Kira, sau khi đến đă nói với cậu chủ tên Kira ấy rằng:

 

- “Thưa cậu chủ, tôi muốn thực hiện bữa trai phạn dâng hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu, hăy cho tôi tiền lương.” Cậu chủ tên Kira ấy cũng có niềm tin và mộ đạo. Khi ấy, cậu chủ tên Kira ấy đă cho người lao công nghèo ấy tiền lương phụ trội. Sau đó, người lao công nghèo ấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, người lao công nghèo ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời con về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.” - “Này đạo hữu, người hăy biết hội chúng tỳ khưu là đông đảo.” - “Bạch ngài, hội chúng tỳ khưu hăy là đông đảo. Con đă chuẩn bị được nhiều táo. Các thức uống trộn với táo sẽ được đầy đủ.” Đức Thế Tôn đă nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, người lao công nghèo ấy hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

 

2. Các tỳ khưu đă nghe được rằng: “Nghe nói hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu đă được người lao công nghèo thỉnh mời vào ngày mai, các thức uống trộn với táo sẽ được đầy đủ.” Các vị ấy đă đi khất thực vào lúc sáng sớm rồi đă thọ thực. Dân chúng đă nghe được rằng: “Nghe nói hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu đă được người lao công nghèo thỉnh mời.” Họ đă mang lại cho người lao công nghèo vô số vật thực loại cứng loại mềm.

 

3. Sau đó, khi trải qua đêm ấy người lao công nghèo ấy đă cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn: - “Bạch ngài, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong.” Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đă mặc y, cầm y bát, đi đến tư gia của người lao công nghèo ấy, sau khi đến đă ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, người lao công nghèo ấy đă phục vụ các tỳ khưu ở trong nhà ăn. Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này đạo hữu, hăy dâng chút ít thôi. Này đạo hữu, hăy dâng chút ít thôi.” - “Thưa các ngài, chớ có thọ lănh chỉ chút ít (v́ nghĩ rằng): ‘Người lao công này nghèo.’ Tôi đă cho chuẩn bị sẵn sàng vô số vật thực loại cứng loại mềm. Thưa các ngài, hăy thọ lănh theo như ước muốn.” - “Này đạo hữu, không phải v́ lư do này mà chúng tôi thọ lănh chỉ chút ít, tuy nhiên vào lúc sáng sớm chúng tôi đă đi khất thực và đă thọ thực rồi; v́ thế chúng tôi thọ lănh chỉ chút ít.” Khi ấy, người lao công nghèo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức đă được tôi thỉnh mời c̣n thọ thực ở nơi khác? Không lẽ tôi không đủ khả năng để bố thí theo như ước muốn hay sao?” Các tỳ khưu đă nghe được người lao công nghèo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.

 

4. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu khi được thỉnh mời ở nơi khác lại thọ thực ở nơi khác?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu khi được thỉnh mời ở nơi khác c̣n thọ thực ở nơi khác, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy khi được thỉnh mời ở nơi khác lại thọ thực ở nơi khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp vật thực thỉnh sau th́ phạm tội pācittiya.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

5. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Có vị tỳ khưu khác đă cầm lấy đồ ăn khất thực đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, hăy thọ thực.” - “Này đại đức, thôi đi. Có sự chuẩn bị về bữa ăn cho tôi rồi.” Thức ăn của vị tỳ khưu ấy đă được mang lại khi đă trưa. Vị tỳ khưu ấy đă thọ thực không được như ư. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu bị bệnh được thọ dụng vật thực thỉnh sau. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp vật thực thỉnh sau th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

6. Vào lúc bấy giờ, trong thời hạn dâng y dân chúng sau khi chuẩn bị bữa trai phạn có dâng y rồi thỉnh mời các tỳ khưu (nói rằng): “Sau khi mời thọ thực, chúng tôi sẽ dâng y.” Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán vật thực thỉnh sau.” Y được phát sanh ít ỏi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực thỉnh sau trong thời hạn dâng y. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp vật thực thỉnh sau th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

7. Vào lúc bấy giờ, dân chúng thỉnh mời các tỳ khưu là những vị làm y với bữa trai phạn. Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không nhận lời (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đoán vật thực thỉnh sau.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực thỉnh sau trong lúc may y. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Trường hợp vật thực thỉnh sau th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trường hợp bị bệnh, trong thời hạn dâng y, trong lúc may y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

8. Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đă mặc y, cầm y bát, cùng với đại đức Ānanda là Sa-môn hầu cận đă đi đến gia đ́nh nọ, sau khi đến đă ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau đó, những người ấy đă dâng vật thực đến đức Thế Tôn và đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda trong lúc ngần ngại nên không thọ lănh. - “Này Ānanda, hăy thọ lănh.” - “Bạch Thế Tôn, thôi đi, có sự chuẩn bị về bữa ăn cho con rồi.” - “Này Ānanda, như thế th́ hăy nhường lại (cho vị khác) rồi nhận lấy.” Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ dụng vật thực thỉnh sau sau khi đă nhường lại (cho vị khác). Và này các tỳ khưu, nên nhường lại như vầy: ‘Tôi cho sự chuẩn bị về bữa ăn của tôi đến vị tên (như vầy).’”

 

9. Vật thực thỉnh sau nghĩa là khi đă được thỉnh mời với bất cứ loại vật thực nào thuộc về năm loại vật thực, trừ ra món ấy vị thọ thực bất cứ loại vật thực nào khác thuộc về năm loại vật thực; điều này gọi là vật thực thỉnh sau.

 

Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.

 

Trường hợp bị bệnh nghĩa là không thể ngồi ở một chỗ để thọ thực theo như ư muốn, (nghĩ rằng): ‘Trường hợp bị bệnh’ rồi nên thọ thực.

 

Trong thời hạn dâng y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu th́ tháng cuối cùng của mùa mưa, khi Kaṭhina được thành tựu th́ năm tháng, (nghĩ rằng): ‘Trong thời hạn dâng y’ rồi nên thọ thực.

 

Trong lúc may y nghĩa là trong lúc y đang được may, (nghĩ rằng): ‘Trong lúc may y’ rồi nên thọ thực.

 

Ngoại trừ có duyên cớ, (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thọ thực’ rồi thọ lănh th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội pācittiya.

 

Vật thực thỉnh sau, nhận biết là vật thực thỉnh sau, vị thọ thực th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Vật thực thỉnh sau, có sự hoài nghi, vị thọ thực th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Vật thực thỉnh sau, (lầm) tưởng không phải là vật thực thỉnh sau, vị thọ thực th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ.

 

Không phải vật thực thỉnh sau, (lầm) tưởng là vật thực thỉnh sau, phạm tội dukkaṭa. Không phải vật thực thỉnh sau, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải vật thực thỉnh sau, nhận biết không phải là vật thực thỉnh sau th́ vô tội.

 

Khi có duyên cớ, sau khi nhường lại (cho vị khác) rồi thọ thực, vị thọ thực hai hoặc ba sự thỉnh mời chung một lượt, vị thọ thực theo tuần tự của sự thỉnh mời, khi được toàn bộ cả làng thỉnh mời th́ thọ thực ở bất cứ nơi nào ở trong ngôi làng ấy, khi được toàn bộ cả phường hội thỉnh mời th́ thọ thực ở bất cứ nơi nào ở trong phường hội ấy, khi được thỉnh mời vị nói rằng: ‘Tôi sẽ nhận đồ khất thực,’ trong bữa ăn thường kỳ, trong bữa ăn (phân phối) theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng, tất cả (các thức khác) trừ ra năm loại vật thực, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về vật thực thỉnh sau là thứ ba.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 4. 4. ĐIỀU HỌC VỀ NGƯỜI MẸ CỦA KĀṆĀ

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, mẹ của Kāṇā là nữ cư sĩ có niềm tin và mộ đạo. Kāṇā đă được gả cho người đàn ông nọ ở thôn làng. Khi ấy, Kāṇā đă đi đến nhà mẹ v́ công việc cần làm nào đó. Sau đó, chồng của Kāṇā đă phái người đưa tin đi đến gặp Kāṇā (nhắn rằng): “Kāṇā hăy trở về. Tôi muốn sự trở về của Kāṇā.” Khi ấy, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā (nghĩ rằng): “Thật xấu hổ khi đi với tay không!” nên đă nấu bánh ngọt. Khi bánh ngọt chín, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ đă đi vào nhà của nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā.

 

Khi ấy, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā đă bảo dâng bánh ngọt đến vị tỳ khưu ấy. Vị ấy sau khi ra đi đă thông báo cho vị khác. Bà ta cũng đă bảo dâng bánh ngọt đến vị ấy. Vị ấy sau khi ra đi cũng đă thông báo cho vị khác. Bà ta cũng đă bảo dâng bánh ngọt đến vị ấy. Bánh ngọt được chuẩn bị như thế đă không c̣n.

 

Đến lần thứ nh́, chồng của Kāṇā đă phái người đưa tin đi đến gặp Kāṇā (nhắn rằng): “Kāṇā hăy trở về. Tôi muốn sự trở về của Kāṇā.” Đến lần thứ nh́, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā (nghĩ rằng): “Thật xấu hổ khi đi với tay không!” nên đă nấu bánh ngọt. Khi bánh ngọt chín, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ đă đi vào nhà của nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā. Khi ấy, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā đă bảo dâng bánh ngọt đến vị tỳ khưu ấy. Vị ấy sau khi ra đi đă thông báo cho vị khác. Bà ta cũng đă bảo dâng bánh ngọt đến vị ấy. Vị ấy sau khi ra đi cũng đă thông báo cho vị khác. Bà ta cũng đă bảo dâng bánh ngọt đến vị ấy. Bánh ngọt được chuẩn bị như thế đă không c̣n.

 

Đến lần thứ ba, chồng của Kāṇā đă phái người đưa tin đi đến gặp Kāṇā (nhắn rằng): “Kāṇā hăy trở về. Tôi muốn sự trở về của Kāṇā. Nếu Kāṇā không trở về, tôi sẽ dắt về người vợ khác.” Đến lần thứ ba, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā (nghĩ rằng): “Thật xấu hổ khi đi với tay không!” nên đă nấu bánh ngọt. Khi bánh ngọt chín, có vị tỳ khưu đi khất thực nọ đă đi vào nhà của nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā. Khi ấy, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā đă bảo dâng bánh ngọt đến vị tỳ khưu ấy. Vị ấy sau khi ra đi đă thông báo cho vị khác. Bà ta cũng đă bảo dâng bánh ngọt đến vị ấy. Vị ấy sau khi ra đi cũng đă thông báo cho vị khác. Bà ta cũng đă bảo dâng bánh ngọt đến vị ấy. Bánh ngọt được chuẩn bị như thế đă không c̣n. Sau đó, chồng của Kāṇā đă dắt về người vợ khác. Kāṇā đă nghe được rằng: “Nghe nói người vợ khác đă được người đàn ông ấy dắt về.” Cô ấy đă đứng khóc lóc.

 

2. Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đă mặc y, cầm y bát, đi đến nhà của nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā, sau khi đến đă ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đă nói với nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā đang ngồi một bên điều này: - “V́ sao Kāṇā này lại khóc vậy?” Khi ấy, nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā đă kể lại sự việc ấy cho đức Thế Tôn. Sau đó, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho nữ cư sĩ mẹ của Kāṇā bằng bài Pháp thoại rồi đă từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

 

3. Vào lúc bấy giờ, có đoàn xe nọ có ư định từ thành Rājagaha đi về phía tây. Có vị tỳ khưu đi khất thực nọ đă đi vào khất thực ở đoàn xe ấy. Có nam cư sĩ nọ đă bảo dâng đến vị tỳ khưu ấy bánh lúa mạch. Vị ấy sau khi ra đi đă thông báo cho vị khác. Ông ta cũng đă bảo dâng bánh lúa mạch đến vị ấy. Vị ấy sau khi ra đi cũng đă thông báo cho vị khác. Ông ta cũng đă bảo dâng bánh lúa mạch đến vị ấy. Vật dự pḥng đường xa được chuẩn bị như thế đă không c̣n. Khi ấy, nam cư sĩ ấy đă nói với những người ấy điều này: - “Này các ông, hăy chờ đến ngày mai. Vật dự pḥng đường xa được chuẩn bị như thế đă được dâng đến các ngài đại đức. Tôi sẽ chuẩn bị vật dự pḥng đường xa.” - “Này ông, chúng tôi không thể chờ đợi. Đoàn xe đă khởi hành.” Rồi họ đă ra đi. Khi ấy, nam cư sĩ ấy sau khi chuẩn bị vật dự pḥng đường xa, trong khi đi ở phía sau, th́ bọn đạo tặc đă đánh cướp. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại thọ lănh không biết chừng mực? Người này sau khi bố thí cho các vị ấy rồi trong khi đi sau đă bị đánh cướp bởi bọn đạo tặc.”

 

4. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế th́ ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu v́ mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm đem lại sự an lạc cho hội chúng, ―(như trên)― và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu khi đi đến gia đ́nh được yêu cầu nhận lănh các bánh ngọt hoặc các bánh lúa mạch, vị tỳ khưu đang mong mỏi th́ nên thọ lănh hai hoặc ba b́nh bát đầy. Nếu thọ lănh quá số lượng ấy th́ phạm tội pācittiya. Sau khi thọ lănh hai hoặc ba b́nh bát đầy, khi mang về từ nơi ấy th́ nên chia sẻ cùng với các tỳ khưu. Đây là sự đúng đắn trong trường hợp ấy.”

 

5. Khi vị tỳ khưu đi đến gia đ́nh: Gia đ́nh nghĩa là có bốn loại gia đ́nh: gia đ́nh Sát-đế-lỵ, gia đ́nh Bà-la-môn, gia đ́nh thương buôn, và gia đ́nh hạng cùng đinh.

 

Đi đến: là đi đến nơi ấy.

 

Bánh ngọt nghĩa là bất cứ thức ǵ được chuẩn bị nhằm mục đích làm quà biếu.

 

Bánh lúa mạch nghĩa là bất cứ thức ǵ được chuẩn bị nhằm mục đích làm vật dự pḥng đường xa.

 

Được yêu cầu nhận lănh: (Nói rằng): “Ngài thích chừng nào hăy lấy chừng ấy.”

 

(Với vị) đang mong mỏi: (với vị) đang ước muốn.

 

Nên thọ lănh hai hoặc ba b́nh bát đầy: Nên thọ lănh đầy hai hoặc ba b́nh bát.

 

Nếu thọ lănh quá số lượng ấy: Vị thọ lănh quá số lượng ấy th́ phạm tội pācittiya. Sau khi thọ lănh hai hoặc ba b́nh bát đầy, vị đi ra khỏi nơi ấy nh́n thấy vị tỳ khưu khác nên thông báo rằng: ‘Tôi đă thọ lănh hai ba b́nh bát đầy ở nơi kia, chớ thọ lănh ở đó.’ Nếu sau khi nh́n thấy, vị không thông báo th́ phạm tội dukkaṭa. Nếu đă được thông báo vị thọ lănh th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Khi mang về từ nơi ấy th́ nên chia sẻ cùng với các tỳ khưu: là sự đi trở về, sau khi mang về th́ nên chia sẻ.

 

 Đây là sự đúng đắn trong trường hợp ấy: đây là sự hợp lư trong trường hợp ấy.

 

Hơn hai ba b́nh bát đầy, nhận biết là hơn, vị thọ lănh th́ phạm tội pācittiya. Hơn hai ba b́nh bát đầy, có sự hoài nghi, vị thọ lănh th́ phạm tội pācittiya. Hơn hai ba b́nh bát đầy, (lầm) tưởng là c̣n kém, vị thọ lănh th́ phạm tội pācittiya.

 

C̣n kém hai ba b́nh bát đầy, (lầm) tưởng là hơn, phạm tội dukkaṭa. C̣n kém hai ba b́nh bát đầy, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. C̣n kém hai ba b́nh bát đầy, nhận biết là c̣n kém th́ vô tội.

 

Vị thọ lănh hai hoặc ba b́nh bát đầy, vị thọ lănh c̣n kém hai hoặc ba b́nh bát đầy, họ bố thí vật đă được chuẩn bị không v́ mục đích làm quà biếu hoặc không v́ mục đích làm vật dự pḥng đường xa, họ bố thí phần c̣n thừa khi đă chuẩn bị v́ mục đích làm quà biếu hoặc v́ mục đích làm vật dự pḥng đường xa, họ bố thí khi sự ra đi đă bị hủy bỏ, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về người mẹ của Kāṇā là thứ tư.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 4. 4. ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT VỀ NGĂN (VẬT THỰC)

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người Bà-la-môn nọ đă thỉnh mời và dâng bữa ăn đến các tỳ khưu. Khi thọ thực xong và đă ngăn (vật thực dâng thêm), các tỳ khưu đă đi đến các gia đ́nh thân quyến rồi một số vị đă thọ thực thêm, một số vị đă nhận lấy đồ khất thực rồi ra đi. Sau đó, người Bà-la-môn ấy đă nói với hàng xóm điều này: - “Này quư ông, các tỳ khưu đă được tôi làm hài ḷng. Hăy đến, tôi cũng sẽ làm hài ḷng quư ông.” Những người ấy đă nói như vầy: - “Này ông, có phải ông sẽ làm hài ḷng chúng tôi không? Ngay cả những vị đă được ông thỉnh mời c̣n đi đến các nhà của chúng tôi, một số đă thọ thực thêm, một số đă nhận lấy đồ khất thực rồi ra đi.” Khi ấy, người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các đại đức sau khi thọ thực trong nhà của chúng tôi lại thọ thực ở nơi khác? Không lẽ tôi không đủ khả năng để bố thí theo như ước muốn hay sao?”

 

2. Các tỳ khưu đă nghe được người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu thọ thực xong và đă ngăn (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu thọ thực xong và đă ngăn (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác, có đúng không vậy?”

 

- “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy thọ thực xong và đă ngăn (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào thọ thực xong và đă ngăn (vật thực dâng thêm) lại nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

3. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu mang lại các đồ ăn khất thực hảo hạng cho các tỳ khưu bị bệnh. Các vị bị bệnh ăn không được như ư. Các tỳ khưu đổ bỏ các đồ ăn ấy. Đức Thế Tôn đă nghe được tiếng động ồn, tiếng động lớn, tiếng kêu của các con quạ, sau khi nghe đă bảo đại đức Ānanda rằng: - “Này Ānanda, tiếng động ồn, tiếng động lớn, tiếng kêu của các con quạ ấy là ǵ vậy?” Khi ấy, đại đức Ānanda đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Ānanda, các tỳ khưu có thọ thực thức ăn thừa của vị bệnh không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, không thọ thực.” Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thọ thực thức ăn thừa của vị bị bệnh và của vị không bị bệnh. Và này các tỳ khưu, nên làm thành thức ăn thừa như vầy: “Tất cả chừng này là đủ rồi.” Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào thọ thực xong và đă ngăn (vật thực dâng thêm) lại nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm không phải là thức ăn thừa th́ phạm tội pācittiya.

 

4. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Thọ thực xong nghĩa là bất cứ loại vật thực nào thuộc về năm loại vật thực đă được ăn, dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa.

 

Đă ngăn (vật thực dâng thêm) nghĩa là việc ăn được ghi nhận, vật thực được ghi nhận, (thí chủ) đứng trong tầm tay (1 mét 25) dâng lên (vật thực) và sự khước từ được ghi nhận.

 

Không phải là thức ăn thừa nghĩa là việc làm thành đúng phép chưa được thực hiện, việc thọ lănh chưa được thực hiện, việc nâng lên chưa được thực hiện, (việc dâng) đă được thực hiện ở ngoài tầm tay, đă được thực hiện bởi vị chưa thọ thực xong, được thực hiện bởi vị đă thọ thực xong đă ngăn (vật thực dâng thêm) đă từ chỗ ngồi đứng dậy nhưng chưa nói: ‘Tất cả chừng này là đủ rồi,’ không phải là thức ăn thừa của vị bị bệnh; vật này gọi là không phải thức ăn thừa.

 

Thức ăn thừa nghĩa là việc làm thành đúng phép đă được thực hiện, việc thọ lănh đă được thực hiện, việc nâng lên đă được thực hiện, (việc dâng) đă được thực hiện ở trong tầm tay, đă được thực hiện bởi vị đă thọ thực xong, được thực hiện bởi vị đă thọ thực xong đă ngăn (vật thực dâng thêm) đă từ chỗ ngồi đứng dậy và đă nói: ‘Tất cả chừng này là đủ rồi,’ là thức ăn thừa của vị bị bệnh; vật này gọi là thức ăn thừa.

 

Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần c̣n lại gọi là vật thực cứng.

 

Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt. (Nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi thọ lănh th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội pācittiya.

 

Không phải thức ăn thừa, nhận biết không phải là thức ăn thừa, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya. Không phải thức ăn thừa, có sự hoài nghi, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya. Không phải thức ăn thừa, (lầm) tưởng là thức ăn thừa, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị thọ lănh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời v́ mục đích vật thực th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Thức ăn thừa, (lầm) tưởng không phải là thức ăn thừa, phạm tội dukkaṭa. Thức ăn thừa, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Thức ăn thừa, nhận biết là thức ăn thừa th́ vô tội.

 

Sau khi bảo làm thành thức ăn thừa rồi thọ thực, sau khi bảo làm thành thức ăn thừa vị (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ ăn’ rồi thọ lănh, vị mang theo v́ nhu cầu của vị khác rồi đi, vị thọ thực phần c̣n thừa của vị bị bệnh, vị thọ dụng vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời khi có duyên cớ,[1] vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học thứ nhất về việc ngăn (vật thực) là thứ năm.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 4. 6. ĐIỀU HỌC THỨ NH̀ VỀ NGĂN (VẬT THỰC)

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu đang đi đường xa đến thành Sāvatthī ở trong xứ Kosala. Một vị tỳ khưu hành xử sai nguyên tắc. Vị tỳ khưu thứ nh́ đă nói với vị tỳ khưu kia điều này: - “Này đại đức, chớ làm như thế. Điều này không được phép.” Vị kia đă kết oan trái với vị ấy. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă đi đến thành Sāvatthī.

 

Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthī có bữa trai phạn dâng đến hội chúng của phường hội nọ. Vị tỳ khưu thứ nh́ thọ thực xong và đă ngăn (vật thực dâng thêm). C̣n vị tỳ khưu kết oan trái sau khi đi đến nhà thân quyến đă cầm lấy đồ ăn rồi đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, hăy thọ thực.” - “Này đại đức, thôi đi. Tôi đă đầy.” - “Này đại đức, đồ ăn ngon lắm. Hăy thọ thực.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy trong lúc bị vị tỳ khưu kia nài ép nên đă thọ thực đồ ăn ấy. Vị tỳ khưu kết oan trái đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, ngay cả ngươi vẫn nghĩ rằng ta cần được nhắc nhở trong khi ngươi đă thọ thực xong và đă ngăn (vật thực dâng thêm) lại thọ thực thức ăn không phải là đồ c̣n thừa.” - “Này đại đức, sao lại không chỉ bảo?” - “Này đại đức, sao lại không hỏi?”

 

2. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao vị tỳ khưu lại yêu cầu vị tỳ khưu đă thọ thực xong và đă ngăn (vật thực dâng thêm) nhận lănh thức ăn không phải là đồ c̣n thừa?” ―(như trên)― “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi yêu cầu vị tỳ khưu đă thọ thực xong và đă ngăn (vật thực dâng thêm) nhận lănh thức ăn không phải là đồ c̣n thừa, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại yêu cầu vị tỳ khưu đă thọ thực xong và đă ngăn (vật thực dâng thêm) nhận lănh thức ăn không phải là đồ c̣n thừa vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào có ư muốn bươi móc lỗi lầm trong khi biết rơ vị tỳ khưu đă thọ thực xong và đă ngăn (vật thực dâng thêm) vẫn yêu cầu nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm không phải là thức ăn thừa (nói rằng): ‘Này tỳ khưu, hăy nhai hoặc hăy ăn đi;’ khi vị kia đă ăn th́ phạm tội pācittiya.

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.

 

Thọ thực xong nghĩa là bất cứ loại vật thực nào thuộc về năm loại vật thực đă được ăn, dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa.

 

Đă ngăn (vật thực dâng thêm) nghĩa là việc ăn được ghi nhận, vật thực được ghi nhận, (thí chủ) đứng trong tầm tay (1 mét 25) dâng lên (vật thực), và sự từ chối được ghi nhận.

 

Không phải là thức ăn thừa nghĩa là việc làm thành đúng phép chưa được thực hiện, việc thọ lănh chưa được thực hiện, việc nâng lên chưa được thực hiện, (việc dâng) đă được thực hiện ở ngoài tầm tay, được thực hiện bởi vị chưa thọ thực xong, được thực hiện bởi vị đă thọ thực xong đă ngăn (vật thực dâng thêm) đă từ chỗ ngồi đứng dậy nhưng chưa nói: ‘Tất cả chừng này là đủ rồi,’ không phải là thức ăn thừa của vị bị bệnh; vật này gọi là không phải thức ăn thừa.

 

Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần c̣n lại gọi là vật thực cứng.

 

Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt.

 

Yêu cầu nhận lănh: (Nói rằng): ‘Đại đức thích chừng nào hăy lấy chừng ấy.’

 

Biết nghĩa là tự ḿnh biết, hoặc các người khác thông báo cho vị ấy, hoặc vị kia thông báo.

 

Có ư muốn bươi móc lỗi lầm: (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ quở trách, ta sẽ nhắc nhở, ta sẽ làm cho hối lỗi, ta sẽ làm cho nhớ lại, ta sẽ làm cho xấu hổ.’ Vị mang lại th́ phạm tội dukkaṭa. Với lời nói của vị ấy, (vị kia nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi thọ lănh th́ (vị ấy) phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần (vị kia) nuốt xuống th́ (vị ấy) phạm tội pācittiya.

 

Về vị đă ngăn (vật thực dâng thêm), nhận biết là đă ngăn (vật thực dâng thêm), vị yêu cầu nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm không phải là thức ăn thừa th́ phạm tội pācittiya. Về vị đă ngăn (vật thực dâng thêm), có sự hoài nghi, vị yêu cầu nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm không phải là thức ăn thừa th́ phạm tội dukkaṭa. Về vị đă ngăn (vật thực dâng thêm), (lầm) tưởng là chưa ngăn (vật thực dâng thêm), vị yêu cầu nhận lănh vật thực cứng hoặc vật thực mềm không phải là thức ăn thừa th́ vô tội.

 

Vị mang lại vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời v́ mục đích vật thực th́ phạm tội dukkaṭa. Với lời nói của vị ấy, (vị kia nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi thọ lănh th́ (vị ấy) phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần (vị kia) nuốt xuống th́ (vị ấy) phạm tội dukkaṭa.

 

Về vị chưa ngăn (vật thực dâng thêm), (lầm) tưởng là đă ngăn (vật thực dâng thêm), phạm tội dukkaṭa. Về vị chưa ngăn (vật thực dâng thêm), có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Về vị chưa ngăn (vật thực dâng thêm), nhận biết là chưa ngăn (vật thực dâng thêm) th́ vô tội.

 

Vị sau khi bảo làm thành thức ăn thừa rồi cho; sau khi bảo làm thành thức ăn thừa rồi cho (nói rằng): ‘Hăy thọ thực;’ vị cho (nói rằng): ‘Hăy đi (và) mang theo v́ nhu cầu của vị khác;’ vị cho phần c̣n thừa của vị bị bệnh; vị cho vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời (nói rằng): ‘Hăy thọ dụng khi có duyên cớ;’ vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học thứ nh́ về ngăn (vật thực) là thứ sáu.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 4. 7. ĐIỀU HỌC VỀ VẬT THỰC SÁI GIỜ

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, ở thành Rājagaha có lễ hội ở trên đỉnh núi. Các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đă đi để xem lễ hội ở trên đỉnh núi. Dân chúng sau khi nh́n thấy các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đă cho các vị ấy tắm, đă cho xức dầu, đă mời ăn, rồi đă dâng vật thực cứng. Các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư sau khi nhận lấy vật thực cứng đă đi về tu viện và đă nói với các tỳ khưu nhóm Lục Sư điều này: - “Này các đại đức, có đây, các vị hăy nhai vật thực cứng đi.” - “Này các đại đức, vật thực cứng đă được các ngươi nhận từ đâu vậy?” Các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu nhóm Lục Sư. - “Này các đại đức, có phải các ngươi đă thọ dụng vật thực vào lúc sái thời?” - “Này các đại đức, đúng vậy.” Các tỳ khưu nhóm Lục Sư phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư lại thọ dụng vật thực vào lúc sái thời?”

 

2. Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư lại thọ dụng vật thực vào lúc sái thời?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thọ dụng vật thực vào lúc sái thời, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại thọ dụng vật thực vào lúc sái thời vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm vào lúc sái thời th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Lúc sái thời nghĩa là từ lúc đă quá nửa ngày cho đến rạng đông (ngày hôm sau).

 

Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần c̣n lại gọi là vật thực cứng.

 

Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt. Vị (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi thọ lănh th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội pācittiya.

 

Vào lúc sái thời, nhận biết là lúc sái thời, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya. Vào lúc sái thời, có sự hoài nghi, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya. Vào lúc sái thời, (lầm) tưởng là lúc đúng thời, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị thọ lănh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời v́ mục đích vật thực th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Vào lúc đúng thời, (lầm) tưởng là lúc sái thời, phạm tội dukkaṭa. Vào lúc đúng thời, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Vào lúc đúng thời, nhận biết là lúc đúng thời th́ vô tội.

 

Vị thọ dụng vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời khi có duyên cớ; vị bị điên; vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về vật thực sái giờ là thứ bảy.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 4. 8. ĐIỀU HỌC VỀ TÍCH TRỮ (VẬT THỰC)

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, thầy tế độ của đại đức Ānanda là đại đức Veḷaṭṭhasīsa cư ngụ ở trong rừng. Vị ấy sau khi đi khất thực đă đem về tu viện phần cơm không bị dính thức ăn rồi đem phơi khô và để riêng. Khi có nhu cầu về thực phẩm vị ấy ngâm đi ngâm lại với nước rồi thọ dụng; năm ba bữa vị ấy mới đi vào làng để khất thực.

 

Các tỳ khưu đă nói với đại đức Veḷaṭṭhasīsa điều này: - “Này đại đức, v́ sao năm ba bữa đại đức mới đi vào làng để khất thực?”

 

2. Khi ấy, đại đức Veḷaṭṭhasīsa đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. - “Này đại đức, có phải đại đức thọ dụng vật thực đă được tích trữ?” - “Này các đại đức, đúng vậy.” Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Veḷaṭṭhasīsa lại thọ dụng vật thực đă được tích trữ?” ―(như trên)― “Này Veḷaṭṭhasīsa, nghe nói ngươi thọ dụng vật thực đă được tích trữ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này Veḷaṭṭhasīsa, v́ sao ngươi lại thọ dụng vật thực đă được tích trữ vậy? Này Veḷaṭṭhasīsa, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm đă được tích trữ th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Đă được tích trữ nghĩa là đă được thọ lănh hôm nay qua ngày kế tiếp.

 

Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần c̣n lại gọi là vật thực cứng.

 

Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt. Vị (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi thọ lănh th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội pācittiya.

 

Vật đă được tích trữ, nhận biết là vật đă được tích trữ, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya. Vật đă được tích trữ, có sự hoài nghi, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya. Vật đă được tích trữ, (lầm) tưởng không phải là vật đă được tích trữ, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị thọ lănh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời v́ mục đích vật thực th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Không phải là vật đă được tích trữ, (lầm) tưởng là vật đă được tích trữ, phạm tội dukkaṭa. Không phải là vật đă được tích trữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là vật đă được tích trữ, nhận biết là không phải là vật đă được tích trữ th́ vô tội.

 

Vị cất giữ vật dùng đến hết ngọ rồi thọ dụng cho đến hết ngọ, vị cất giữ vật dùng đến hết đêm rồi thọ dụng trong đêm, vị cất giữ vật dùng trong bảy ngày rồi thọ dụng trong bảy ngày, vị thọ dụng vật dùng suốt đời khi có duyên cớ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về tích trữ (vật thực) là thứ tám.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 4. 9 ĐIỀU HỌC VẬT THỰC THƯỢNG HẠNG

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng? Khi được đầy đủ ai mà không vừa ư? Đồ ngon ngọt ai lại không thích thú?” Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Các loại vật thực thượng hạng như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía, cá, thịt, sữa tươi, sữa đông, vị tỳ khưu nào yêu cầu các loại vật thực thượng hạng như thế cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng th́ phạm tội pācittiya.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

2. Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu bị bệnh. Các tỳ khưu thăm hỏi bệnh t́nh đă nói với các tỳ khưu bị bệnh điều này: - “Này các đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?” - “Này các đại đức, trước đây chúng tôi yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn đă cấm đoán,’ trong lúc ngần ngại chúng tôi đă không yêu cầu, v́ thế không được thoải mái.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Các loại vật thực thượng hạng như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía, cá, thịt, sữa tươi, sữa đông, vị tỳ khưu nào không bị bệnh mà yêu cầu các loại vật thực thượng hạng như thế cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Các loại vật thực thượng hạng: Bơ lỏng nghĩa là bơ lỏng từ loài ḅ, hoặc là bơ lỏng từ loài dê, hoặc là bơ lỏng từ loài trâu, hoặc bơ lỏng từ các loài thú nào có thịt được phép (thọ thực).[2] Bơ đặc nghĩa là bơ đặc của chính các loài thú ấy. Dầu ăn nghĩa là dầu mè, dầu hạt mù tạt, dầu có chứa mật ong, dầu cây eraṇḍa, dầu từ mỡ thú. Mật ong nghĩa là mật của loài ong. Đường mía nghĩa là được sản xuất từ cây mía. nghĩa là loài di chuyển trong nước được đề cập đến. Thịt nghĩa là thịt của các loài thú nào có thịt được phép (thọ dụng). Sữa tươi nghĩa là sữa tươi từ loài ḅ, hoặc là sữa tươi từ loài dê, hoặc là sữa tươi từ loài trâu, hoặc là sữa tươi từ các loài thú nào có thịt được phép (thọ dụng). Sữa đông nghĩa là sữa đông của các loài thú ấy.

 

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Các loại vật thực thượng hạng như thế: các loại vật thực thượng hạng có h́nh thức như thế.

 

Không bị bệnh nghĩa là vị có được sự thoải mái khi không có các loại vật thực thượng hạng.

 

Bị bệnh nghĩa là vị không có sự thoải mái khi không có các loại vật thực thượng hạng.

 

Vị không bị bệnh mà yêu cầu cho nhu cầu của bản thân, trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. (Nghĩ rằng): ‘Với sự đạt được, ta sẽ thọ dụng’ rồi thọ lănh th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội pācittiya.

 

Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng th́ phạm tội pācittiya. Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng th́ phạm tội pācittiya. Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị yêu cầu các loại vật thực thượng hạng cho nhu cầu của bản thân rồi thọ dụng th́ phạm tội pācittiya.

 

Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh th́ vô tội.

 

Vị bị bệnh, sau khi bị bệnh rồi yêu cầu th́ hết bệnh và thọ dụng, vị thọ dụng phần c̣n lại của vị bị bệnh, của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về vật thực thượng hạng là thứ chín.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 4. 10. ĐIỀU HỌC VỀ TĂM XỈA RĂNG

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ cư ngụ ở nghĩa địa là vị chuyên sử dụng vật đă bị quăng bỏ. Vị ấy khi được dân chúng bố thí lại không muốn thọ lănh. Vị ấy tự ḿnh nhặt lấy các vật cúng vong ở trong nghĩa địa, ở gốc cây, ở ngưỡng cửa rồi thọ dụng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao vị tỳ khưu này lại tự ḿnh nhặt lấy các vật cúng vong của chúng tôi rồi thọ dụng? Vị tỳ khưu này cứng cáp vạm vỡ, chúng tôi nghĩ là có ăn thịt người?” Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao vị tỳ khưu lại đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng?” ―(như trên)― “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng th́ phạm tội pācittiya.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

2. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại về nước và tăm xỉa răng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép tự ḿnh cầm lấy nước và tăm xỉa răng rồi thọ dụng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng ngoại trừ nước và tăm xỉa răng th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Chưa được bố thí nghĩa là chưa thọ lănh được đề cập đến.

 

Đă được bố thí nghĩa là trong khi cho (vật thí) bằng thân, hoặc bằng vật dính liền với thân, hoặc bằng cách buông ra, (thí chủ) đứng trong tầm tay (1 mét 25), vị nhận lănh bằng thân hoặc bằng vật được gắn liền với thân; điều này gọi là đă được bố thí.

 

Thức ăn nghĩa là ngoại trừ nước và tăm xỉa răng, bất cứ vật ǵ được nuốt vào vật ấy gọi là thức ăn.

 

Ngoại trừ nước và tăm xỉa răng: trừ ra nước và tăm xỉa răng. Vị (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi cầm lấy th́ phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống th́ phạm tội pācittiya.

 

Chưa được thọ lănh, nhận biết là chưa được thọ lănh, vị đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ nước và tăm xỉa răng. Chưa được thọ lănh, có sự hoài nghi, vị đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ nước và tăm xỉa răng. Chưa được thọ lănh, (lầm) tưởng là đă được thọ lănh, vị đưa thức ăn chưa được bố thí vào miệng th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ nước và tăm xỉa răng.

 

Đă được thọ lănh, (lầm) tưởng là chưa được thọ lănh, phạm tội dukkaṭa. Đă được thọ lănh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Đă được thọ lănh, nhận biết là đă được thọ lănh th́ vô tội.

 

Trường hợp nước và tăm xỉa răng, vị tự ḿnh nhặt lấy rồi thọ dụng bốn loại vật dơ có tính quan trọng[3] khi có duyên cớ và không có người làm cho đúng phép, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về tăm xỉa răng là thứ mười.

 

Phẩm Vật Thực là thứ tư.

 

--ooOoo--

 

 

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

 Vật thực (ở phước xá), vật thực chung nhóm, (thọ thực) nơi khác, bánh ngọt, và hai chuyện ngăn (vật thực) đă được đề cập, vào lúc sái thời, vật được tích trữ, sữa tươi, với tăm xỉa răng, ấy là mười điều.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 5. PHẨM ĐẠO SĨ LƠA THỂ

 

 

6. 5. 1. ĐIỀU HỌC VỀ ĐẠO SĨ LƠA THỂ

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, có vật thực cứng phát sanh đến hội chúng. Khi ấy, đại đức Ānanda đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Ānanda, như thế th́ hăy cho bánh ngọt đến những người dùng vật thực thừa.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Nghe theo lời đức Thế Tôn, đại đức Ānanda đă bảo những người dùng vật thực thừa ngồi xuống theo thứ tự rồi trong lúc cho mỗi người một cái bánh ngọt đă cho người nữ du sĩ ngoại đạo nọ hai cái bánh ngọt nghĩ rằng một cái. Các nữ du sĩ ngoại đạo xung quanh đă nói với nữ du sĩ ngoại đạo ấy điều này: - “Vị Sa-môn ấy là t́nh nhân của cô.” - “Vị Sa-môn ấy không phải là t́nh nhân của tôi. Vị ấy đă cho hai cái bánh ngọt nghĩ rằng một cái.”

 

Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, đại đức Ānanda trong lúc cho mỗi người một cái bánh ngọt đă cho chính nữ du sĩ ngoại đạo ấy hai cái bánh ngọt nghĩ rằng một cái. Các nữ du sĩ ngoại đạo xung quanh đă nói với nữ du sĩ ngoại đạo ấy điều này: - “Vị Sa-môn ấy là t́nh nhân của cô.” - “Vị Sa-môn ấy không phải là t́nh nhân của tôi. Vị ấy đă cho hai cái bánh ngọt nghĩ rằng một cái.” - “T́nh nhân! Không phải là t́nh nhân!” Các cô ấy đă căi vă nhau.

 

2. Có đạo sĩ lơa thể nọ đă đi đến nơi phân phát thực phẩm. Có vị tỳ khưu nọ sau khi nghiền cơm với nhiều bơ lỏng rồi đă cho người đạo sĩ lơa thể ấy một khối cơm lớn. Khi ấy, người đạo sĩ lơa thể ấy đă cầm lấy khối cơm ấy rồi ra đi. Một đạo sĩ lơa thể khác đă nói với người đạo sĩ lơa thể ấy điều này: - “Này huynh đệ, từ đâu ngươi đă có được khối cơm vậy?” - “Này huynh đệ, đă có được từ nơi phân phát thực phẩm của gia chủ đầu trọc tức là Sa-môn Gotama ấy.” Các nam cư sĩ đă nghe được cuộc nói chuyện này của những người đạo sĩ lơa thể ấy.

 

Sau đó, các nam cư sĩ ấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, các nam cư sĩ ấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, những tu sĩ ngoại đạo này có ư muốn bôi nhọ đức Phật, có ư muốn bôi nhọ Giáo Pháp, có ư muốn bôi nhọ Hội Chúng. Bạch ngài, tốt thay các ngài đại đức không nên tự tay cho đến các tu sĩ ngoại đạo.” Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho các nam cư sĩ ấy bằng bài Pháp thoại. Sau đó, các nam cư sĩ ấy khi đă được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

 

3. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy sau khi triệu tập hội chúng tỳ khưu lại đă nói Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế th́ ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu v́ mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, ―(như trên)― nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào tự tay cho vật thực cứng hoặc vật thực mềm đến đạo sĩ lơa thể, hoặc nam du sĩ ngoại đạo, hoặc nữ du sĩ ngoại đạo th́ phạm tội pācittiya.”

 

4. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Đạo sĩ lơa thể nghĩa là bất cứ người lơa thể nào thành tựu pháp du sĩ.

 

Nam du sĩ ngoại đạo nghĩa là bất cứ người nam thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu và sa di.

 

Nữ du sĩ ngoại đạo nghĩa là bất cứ người nữ nào thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu ni, vị ni tu tập sự, và sa di ni.

 

Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, nước và tăm xỉa răng; phần c̣n lại gọi là vật thực cứng.

 

Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt.

 

Cho: Vị cho bằng thân, hoặc bằng vật được gắn liền với thân, hoặc bằng cách buông ra th́ phạm tội pācittiya.

 

Tu sĩ ngoại đạo, nhận biết là tu sĩ ngoại đạo, vị tự tay cho vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya. Tu sĩ ngoại đạo, có sự hoài nghi, vị tự tay cho vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya. Tu sĩ ngoại đạo, (lầm) tưởng không phải là tu sĩ ngoại đạo, vị tự tay cho vật thực cứng hoặc vật thực mềm th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị cho nước và tăm xỉa răng th́ phạm tội dukkaṭa. Không phải là tu sĩ ngoại đạo, (lầm) tưởng là tu sĩ ngoại đạo, phạm tội dukkaṭa. Không phải là tu sĩ ngoại đạo, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là tu sĩ ngoại đạo, nhận biết không phải là tu sĩ ngoại đạo th́ vô tội.

 

Vị bảo (người khác) cho và không (tự ḿnh) cho, vị cho sau khi đă để gần bên, vị cho vật thoa bên ngoài, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về đạo sĩ lơa thể là thứ nhất.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 5. 2. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC ĐUỔI ĐI

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă nói với vị tỳ khưu là đệ tử của người anh điều này: - “Này đại đức, hăy đến. Chúng ta sẽ đi vào làng để khất thực.” Sau khi không bảo (thí chủ) bố thí cho vị ấy rồi đă đuổi đi (nói rằng): - “Này đại đức, hăy đi đi. Nói chuyện hoặc ngồi với ngươi ta không được thoải mái. Nói chuyện hoặc ngồi mỗi một ḿnh ta c̣n có sự an lạc.” Khi ấy thời giờ đă cận, vị tỳ khưu ấy đă không thể đi khất thực. Khi đi trở về, vị ấy đă không có được phần phân chia về vật thực nên bữa ăn đă bị lỡ.

 

2. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi đến tu viện và đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya nói với vị tỳ khưu rằng: ‘Này đại đức, hăy đến. Chúng ta sẽ đi vào làng để khất thực,’ sau khi không bảo (thí chủ) bố thí cho vị ấy rồi lại đuổi đi?” ―(như trên)― “Này Upananda, nghe nói ngươi nói với vị tỳ khưu rằng: ‘Này đại đức, hăy đến. Chúng ta sẽ đi vào làng để khất thực,’ sau khi không bảo (thí chủ) bố thí cho vị ấy rồi đuổi đi, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi nói với vị tỳ khưu rằng: ‘Này đại đức, hăy đến. Chúng ta sẽ đi vào làng để khất thực,’ sau khi không bảo (thí chủ) bố thí cho vị ấy rồi lại đuổi đi vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào nói với vị tỳ khưu như vầy: ‘Này đại đức, hăy đến. Chúng ta sẽ đi vào làng hoặc thị trấn để khất thực,’ sau khi bảo (thí chủ) bố thí hoặc không bảo (thí chủ) bố thí cho vị ấy rồi đuổi đi (nói rằng): ‘Này đại đức, hăy đi đi. Nói chuyện hoặc ngồi với ngươi ta không được thoải mái. Nói chuyện hoặc ngồi mỗi một ḿnh ta c̣n có sự an lạc.’ Sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.

 

Này đại đức, hăy đến. (Chúng ta sẽ đi vào) làng hoặc thị trấn: Làng, thị trấn, thành phố, làng luôn cả thị trấn.

 

Sau khi bảo (thí chủ) bố thí cho vị ấy: Sau khi bảo (thí chủ) bố thí xúp, hoặc bữa ăn, hoặc vật thực cứng, hoặc vật thực mềm.

 

Sau khi không bảo (thí chủ) bố thí: Sau khi không bảo (thí chủ) bố thí bất cứ vật ǵ.

 

Đuổi đi: Vị có ư định cười, có ư định đùa giỡn, có ư định ngồi ở chỗ kín đáo, có ư định hành xử sai nguyên tắc với người nữ rồi nói như vầy: ‘Này đại đức, hăy đi đi. Nói chuyện hoặc ngồi với ngươi ta không được thoải mái. Nói chuyện hoặc ngồi mỗi một ḿnh ta c̣n có sự an lạc,’ rồi đuổi đi th́ phạm tội dukkaṭa. Khi (vị kia) đang ĺa khỏi tầm nh́n hoặc tầm nghe, (vị đuổi đi) phạm tội dukkaṭa. Khi (vị kia) đă ĺa khỏi, (vị đuổi đi) phạm tội pācittiya.

 

Sau khi thực hiện chỉ nguyên nhân ấy không điều nào khác: không phải bất cứ nguyên nhân nào khác để đuổi đi.

 

Vị đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị đuổi đi th́ phạm tội pācittiya. Vị đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị đuổi đi th́ phạm tội pācittiya. Vị đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị đuổi đi th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị đưa ra lời ám chỉ về tật xấu (của vị kia) th́ phạm tội dukkaṭa. Vị đuổi đi người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa. Vị đưa ra lời ám chỉ về tật xấu (của người chưa tu lên bậc trên) th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.

 

Vị đuổi đi (nói rằng): ‘Cả hai đi chung sẽ không có vật thực,’ sau khi nh́n thấy vật có giá trị cao (nghĩ rằng): ‘Vị ấy sẽ sanh khởi tâm tham’ rồi đuổi đi, sau khi nh́n thấy người nữ (nghĩ rằng): ‘Vị ấy sẽ sanh khởi sự không phấn chấn’ rồi đuổi đi, vị đuổi đi (nói rằng): ‘Hăy mang về cháo hoặc bữa ăn hoặc vật thực cứng hoặc vật thực mềm cho vị bị bệnh, hoặc cho vị ở lại, hoặc cho vị canh giữ tu viện,’ không có ư định hành xử sai nguyên tắc, vị đuổi đi khi có việc cần phải làm, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về việc đuổi đi là thứ nh́.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 5. 3. ĐIỀU HỌC VỀ CHỈ CÓ CẶP VỢ CHỒNG

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya sau khi đi đến nhà của người bạn đă ngồi trong pḥng ngủ với vợ của người ấy. Khi ấy, người đàn ông ấy đă đi đến gặp đại đức Upananda con trai ḍng Sakya, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Upananda con trai ḍng Sakya rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, người đàn ông ấy đă nói với người vợ điều này: - “Hăy dâng đồ khất thực đến ngài đại đức.” Khi ấy, người đàn bà ấy đă dâng đồ khất thực đến đại đức Upananda con trai ḍng Sakya.

 

Sau đó, người đàn ông ấy đă nói với đại đức Upananda con trai ḍng Sakya điều này: - “Thưa ngài, xin hăy đi bởi v́ đồ khất thực đă được dâng đến ngài đại đức.” Khi ấy, người đàn bà ấy biết được rằng: “Người đàn ông này đă bị ám ảnh (bởi dục)!” nên đă nói với đại đức Upananda con trai ḍng Sakya điều này: - “Thưa ngài, xin hăy ngồi lại, chớ có đi.”

 

Đến lần thứ nh́, người đàn ông ấy ―(như trên)― Đến lần thứ ba, người đàn ông ấy đă nói với đại đức Upananda con trai ḍng Sakya điều này: - “Thưa ngài, xin hăy đi bởi v́ đồ khất thực đă được dâng đến ngài đại đức.” Đến lần thứ ba, người đàn bà ấy đă nói với đại đức Upananda con trai ḍng Sakya điều này: - “Thưa ngài, xin hăy ngồi lại, chớ có đi.”

 

2. Khi ấy, người đàn ông ấy đă đi ra ngoài và phàn nàn với các tỳ khưu rằng: - “Thưa các ngài, ngài đại đức Upananda này đă ngồi trong pḥng ngủ với vợ của tôi. Vị ấy khi được tôi mời đi lại không chịu đi. Chúng tôi có nhiều phận sự có nhiều công việc phải làm.”

 

Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya sau khi đi vào gia đ́nh chỉ có cặp vợ chồng lại ngồi xuống?” ―(như trên)― “Này Upananda, nghe nói ngươi sau khi đi vào gia đ́nh chỉ có cặp vợ chồng rồi ngồi xuống, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi sau khi đi vào gia đ́nh chỉ có cặp vợ chồng lại ngồi xuống vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào sau khi đi vào gia đ́nh chỉ có cặp vợ chồng rồi ngồi xuống th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Gia đ́nh chỉ có cặp vợ chồng nghĩa là chỉ có người đàn bà và người đàn ông. Cả hai chưa đi ra, cả hai chưa đoạn ĺa ái dục.

 

Sau khi đi vào: sau khi đi vào bên trong.

 

Ngồi xuống: Trong ngôi nhà lớn, vị đi qua khỏi khung cửa lớn một tầm tay (1 mét 25) rồi ngồi xuống th́ phạm tội pācittiya. Trong ngôi nhà nhỏ, vị vượt qua khỏi trung tâm của nhà rồi ngồi xuống th́ phạm tội pācittiya.

 

Trong pḥng ngủ, nhận biết là pḥng ngủ, vị đi vào gia đ́nh chỉ có cặp vợ chồng rồi ngồi xuống th́ phạm tội pācittiya. Trong pḥng ngủ, có sự hoài nghi, vị đi vào gia đ́nh chỉ có cặp vợ chồng rồi ngồi xuống th́ phạm tội pācittiya. Trong pḥng ngủ, (lầm) tưởng không phải là pḥng ngủ, vị đi vào gia đ́nh chỉ có cặp vợ chồng rồi ngồi xuống th́ phạm tội pācittiya.

 

Không phải là pḥng ngủ, (lầm) tưởng là pḥng ngủ, phạm tội dukkaṭa. Không phải là pḥng ngủ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là pḥng ngủ, nhận biết không phải là pḥng ngủ th́ vô tội.

 

Trong ngôi nhà lớn vị không đi qua khỏi khung cửa lớn một tầm tay rồi ngồi xuống, trong ngôi nhà nhỏ vị không vượt qua khỏi trung tâm của nhà rồi ngồi xuống, có vị tỳ khưu thứ nh́, cả hai (vợ chồng) đă đi ra khỏi, cả hai đă đoạn ĺa ái dục, không phải ở trong pḥng ngủ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về chỉ có cặp vợ chồng là thứ ba.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 5. 4. ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT VỀ NGỒI NƠI KÍN ĐÁO

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya sau khi đi đến nhà của người bạn đă cùng với vợ của người ấy ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất. Khi ấy, người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ngài đại đức Upananda lại cùng với vợ tôi ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất?”

 

2. Các tỳ khưu đă nghe được người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya lại cùng với người nữ ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất?” ―(như trên)― “Này Upananda, nghe nói ngươi cùng với người nữ ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại cùng với người nữ ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào cùng với người nữ ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Người nữ: nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, ngay cả đứa bé gái mới sanh ngày hôm ấy cho đến bà lăo.

 

Với: cùng chung.

 

Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai. Kín đáo đối với mắt: nghĩa là không thể nh́n thấy trong khi bị che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên. Kín đáo đối với tai: nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng) b́nh thường.

 

Được che khuất: nghĩa là chỗ ngồi được che khuất bởi bức tường, bởi cánh cửa, bởi tấm màn, bởi khung chắn, bởi cội cây, bởi cột nhà, bởi nhà kho, hoặc bởi bất cứ vật ǵ.

 

Ngồi: Khi người nữ đang ngồi, vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần th́ phạm tội pācittiya. Trong lúc vị tỳ khưu đang ngồi, người nữ ngồi gần hoặc nằm gần th́ phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai đang ngồi, hoặc cả hai đang nằm th́ phạm tội pācittiya.

 

Là người nữ, nhận biết là người nữ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất th́ phạm tội pācittiya. Là người nữ, có sự nghi ngờ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất th́ phạm tội pācittiya. Là người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị cùng với nữ Dạ-xoa, hoặc ma nữ, hoặc người vô căn, hoặc loài thú cái dạng người ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ th́ vô tội.

 

Có bất cứ người nam nào có trí suy xét là người thứ nh́, vị đứng không ngồi, không mong mỏi chỗ kín đáo, đang bận tâm chuyện khác rồi ngồi xuống, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học thứ nhất về ngồi nơi kín đáo là thứ tư.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 5. 5. ĐIỀU HỌC THỨ NH̀ VỀ NGỒI NƠI KÍN ĐÁO

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya sau khi đi đến nhà của người bạn đă cùng với vợ của người ấy một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo. Khi ấy, người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao ngài đại đức Upananda lại cùng với vợ tôi một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo?”

 

2. Các tỳ khưu đă nghe được người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya lại cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo?” ―(như trên)― “Này Upananda, nghe nói ngươi cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào cùng với người nữ một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Người nữ: nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có trí suy xét, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là (lời nói) thô tục và không thô tục.

 

Với: cùng chung.

 

Một nam một nữ: chỉ có vị tỳ khưu và người nữ.

 

Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai. Kín đáo đối với mắt: nghĩa là không thể nh́n thấy trong khi bị che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên. Kín đáo đối với tai: nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng) b́nh thường.

 

Ngồi: Khi người nữ đang ngồi, vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần th́ phạm tội pācittiya. Trong lúc vị tỳ khưu đang ngồi, người nữ ngồi gần hoặc nằm gần th́ phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai đang ngồi, hoặc cả hai đang nằm th́ phạm tội pācittiya.

 

Là người nữ, nhận biết là người nữ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo một nam một nữ th́ phạm tội pācittiya. Là người nữ, có sự nghi ngờ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo một nam một nữ th́ phạm tội pācittiya. Là người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo một nam một nữ th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị cùng với nữ Dạ-xoa, hoặc ma nữ, hoặc người vô căn, hoặc loài thú cái dạng người ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo một nam một nữ th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ th́ vô tội.

 

Có bất cứ người nam nào có trí suy xét là người thứ nh́, vị đứng không ngồi, không mong mỏi chỗ kín đáo, đang bận tâm chuyện khác rồi ngồi xuống, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học thứ nh́ về ngồi nơi kín đáo là thứ năm.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 5. 6. ĐIỀU HỌC VỀ ĐI THĂM VIẾNG

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, gia đ́nh hộ độ của đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă thỉnh mời đại đức Upananda con trai ḍng Sakya với bữa trai phạn và cũng đă thỉnh mời các vị tỳ khưu khác với bữa trai phạn. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya thường đi giao thiệp với các gia đ́nh trước bữa ăn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă nói với những người ấy điều này: - “Này các đạo hữu, hăy dâng bữa trai phạn.” - “Thưa các ngài, xin hăy chờ đến khi ngài đại đức Upananda đến.” Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, các vị tỳ khưu ấy đă nói với những người ấy điều này: - “Này các đạo hữu, hăy dâng bữa trai phạn trước khi thời giờ đi quá.” - “Thưa các ngài, chúng tôi đă làm bữa trai phạn v́ nguyên nhân là ngài đại đức Upananda. Thưa các ngài, xin hăy chờ đến khi ngài đại đức Upananda đến.”

 

2. Sau đó, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya sau khi đi giao thiệp với các gia đ́nh trước bữa ăn đă đi đến trễ. Các tỳ khưu đă không thọ thực được như ư. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya khi đă được thỉnh mời, khi đă có bữa trai phạn c̣n đi thăm viếng các gia đ́nh trước bữa ăn?” ―(như trên)― “Này Upananda, nghe nói ngươi khi đă được thỉnh mời, khi đă có bữa trai phạn c̣n đi thăm viếng các gia đ́nh trước bữa ăn, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi khi đă được thỉnh mời, khi đă có bữa trai phạn c̣n đi thăm viếng các gia đ́nh trước bữa ăn vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào khi đă được thỉnh mời, khi đă có bữa trai phạn c̣n đi thăm viếng các gia đ́nh trước bữa ăn th́ phạm tội pācittiya.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

3. Vào lúc bấy giờ, gia đ́nh hộ độ của tỳ khưu Upananda con trai ḍng Sakya đă cho người đem lại vật thực loại cứng nhằm dâng đến hội chúng (dặn ḍ) rằng: “Nên tŕnh cho ngài đại đức Upananda thấy rồi mới dâng đến hội chúng.” Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đi vào làng để khất thực. Khi ấy, những người ấy sau khi đi đến tu viện đă hỏi các vị tỳ khưu rằng: - “Thưa các ngài, ngài đại đức Upananda ở đâu vậy?” - “Này các đạo hữu, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya này đă đi vào làng để khất thực.” - “Thưa các ngài, vật thực loại cứng này (được dặn ḍ rằng): ‘Nên tŕnh cho ngài đại đức Upananda thấy rồi mới dâng đến hội chúng.’” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, như vậy th́ sau khi thọ lănh các ngươi hăy để riêng ra cho đến khi Upananda trở về.”

 

4. Khi ấy, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cấm đi thăm viếng các gia đ́nh trước bữa ăn” nên đă đi giao thiệp với các gia đ́nh sau bữa ăn rồi về lại trong ngày. Món vật thực cứng đă bị bỏ đi. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya lại đi thăm viếng các gia đ́nh sau bữa ăn?” ―(như trên)― “Này Upananda, nghe nói ngươi đi thăm viếng các gia đ́nh sau bữa ăn, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại đi thăm viếng các gia đ́nh sau bữa ăn vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào khi đă được thỉnh mời, khi đă có bữa trai phạn c̣n đi thăm viếng các gia đ́nh trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn th́ phạm tội pācittiya.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

5. Vào lúc bấy giờ, nhằm thời hạn dâng y các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không đi giao thiệp với các gia đ́nh. Y được phát sanh ít ỏi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép đi giao thiệp với các gia đ́nh trong thời hạn dâng y. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào khi đă được thỉnh mời, khi đă có bữa trai phạn c̣n đi thăm viếng các gia đ́nh trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trong thời hạn dâng y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

6. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu làm công việc may y. Và có nhu cầu về kim, chỉ, dao nhỏ. Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không đi giao thiệp với các gia đ́nh. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép đi giao thiệp với các gia đ́nh trong lúc may y. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào khi đă được thỉnh mời, khi đă có bữa trai phạn c̣n đi thăm viếng các gia đ́nh trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trong thời hạn dâng y, trong lúc may y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

7. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu bị bệnh có nhu cầu về các dược phẩm. Các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không đi giao thiệp với các gia đ́nh. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép (vị tỳ khưu) có sự thông báo đến vị tỳ khưu hiện diện được đi giao thiệp với các gia đ́nh. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào khi đă được thỉnh mời, khi đă có bữa trai phạn, chưa có sự thông báo đến vị tỳ khưu hiện diện lại đi thăm viếng các gia đ́nh trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: trong thời hạn dâng y, trong lúc may y. Đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.

 

8. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Đă được thỉnh mời nghĩa là đă được thỉnh mời với bất cứ loại vật thực nào thuộc về năm loại vật thực.

 

Có bữa trai phạn nghĩa là đă được thỉnh mời với món ǵ th́ bữa trai phạn là với món đó.

 

Vị tỳ khưu hiện diện nghĩa là có thể có sự thông báo để đi vào (làng).

 

Vị tỳ khưu không hiện diện nghĩa là không thể có sự thông báo để đi vào (làng).

 

Trước bữa ăn nghĩa là đă được thỉnh mời với món ǵ th́ c̣n chưa thọ thực món đó.

 

Sau bữa ăn nghĩa là đă được thỉnh mời với món ǵ th́ (món đó) đă được thọ thực cho dầu vào lúc rạng đông.

 

Gia đ́nh nghĩa là có bốn loại gia đ́nh: gia đ́nh Sát-đế-lỵ, gia đ́nh Bà-la-môn, gia đ́nh thương buôn, và gia đ́nh hạng cùng đinh.

 

Đi thăm viếng các gia đ́nh: Vị đang bước vào khu vực lân cận ngôi nhà của người khác th́ phạm tội dukkaṭa. Vị vượt qua ngưỡng cửa bước thứ nhất th́ phạm tội dukkaṭa. Vị vượt qua ngưỡng cửa bước thứ nh́ th́ phạm tội pācittiya.

 

Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có nguyên cớ.

 

Trong thời hạn dâng y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu th́ tháng cuối cùng của mùa mưa, khi Kaṭhina được thành tựu th́ năm tháng.

 

Trong lúc may y nghĩa là trong lúc y đang được may.

 

Đă được thỉnh mời, nhận biết là đă được thỉnh mời, vị không thông báo đến vị tỳ khưu hiện diện lại đi thăm viếng các gia đ́nh trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Đă được thỉnh mời, có sự nghi ngờ, vị không thông báo đến vị tỳ khưu hiện diện lại đi thăm viếng các gia đ́nh trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Đă được thỉnh mời, (lầm) tưởng là không được thỉnh mời, vị không thông báo đến vị tỳ khưu hiện diện lại đi thăm viếng các gia đ́nh trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ.

 

Không được thỉnh mời, (lầm) tưởng là đă được thỉnh mời, phạm tội dukkaṭa. Không được thỉnh mời, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không được thỉnh mời, nhận biết là không được thỉnh mời th́ vô tội.

 

Khi có duyên cớ, sau khi thông báo đến vị tỳ khưu hiện diện rồi đi vào (làng), không có vị tỳ khưu hiện diện rồi đi vào (làng) không thông báo, đường đi ngang qua ngôi nhà của người khác, đường đi ngang qua khu vực lân cận ngôi nhà (của người khác), vị đi đến tu viện ở giữa làng, vị đi đến chỗ ngụ của các tỳ khưu ni, vị đi đến chỗ ngủ của các tu sĩ ngoại đạo, vị đi trở về, vị đi đến nhà thí thực, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về đi thăm viếng là thứ sáu.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 5. 7. ĐIỀU HỌC VỀ VỊ MAHĀNĀMA

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng ḍng Sakya, trong thành Kapilavatthu, tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, Mahānāma ḍng Sakya có dược phẩm dồi dào. Khi ấy, Mahānāma ḍng Sakya đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Mahānāma ḍng Sakya đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, tôi muốn thỉnh cầu hội chúng về (việc dâng) dược phẩm trong bốn tháng.” - “Này Mahānāma, tốt lắm, tốt lắm! Này Mahānāma, như thế ngươi hăy thỉnh cầu hội chúng về (việc dâng) dược phẩm trong bốn tháng.” Các tỳ khưu ngần ngại không nhận lời. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép chấp nhận sự thỉnh cầu về (việc dâng) vật dụng trong bốn tháng.”

 

2. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu yêu cầu dược phẩm (số lượng) ít ỏi ở Mahānāma ḍng Sakya. Giống như trước đây, dược phẩm của Mahānāma ḍng Sakya vẫn dồi dào. Đến lần thứ nh́, Mahānāma ḍng Sakya đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Mahānāma ḍng Sakya đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, tôi muốn thỉnh cầu hội chúng về (việc dâng) dược phẩm trong bốn tháng kế tiếp.” - “Này Mahānāma, tốt lắm, tốt lắm! Này Mahānāma, như thế ngươi hăy thỉnh cầu hội chúng về (việc dâng) dược phẩm trong bốn tháng kế tiếp.” Các tỳ khưu ngần ngại không nhận lời. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép chấp nhận sự thỉnh cầu tiếp tục.”

 

3. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu yêu cầu dược phẩm (số lượng) rất ít ỏi ở Mahānāma ḍng Sakya. Giống như trước đây, dược phẩm của Mahānāma ḍng Sakya vẫn dồi dào. Đến lần thứ ba, Mahānāma ḍng Sakya đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Mahānāma ḍng Sakya đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, tôi muốn thỉnh cầu hội chúng về (việc dâng) dược phẩm đến trọn đời.” - “Này Mahānāma, tốt lắm, tốt lắm! Này Mahānāma, như thế ngươi hăy thỉnh cầu hội chúng về (việc dâng) dược phẩm đến trọn đời.” Các tỳ khưu ngần ngại không nhận lời. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép chấp nhận sự thỉnh cầu vĩnh viễn.”

 

4. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư quấn y bê bối, trùm y luộm thuộm, không được chỉnh tề. Mahānāma ḍng Sakya là người phát biểu rằng: - “Thưa các ngài, tại sao các ngài lại quấn y bê bối, trùm y luộm thuộm, không được chỉnh tề? Chẳng phải vị xuất gia nên quấn y đàng hoàng, trùm y gọn gàng, có sự chỉnh tề hay sao?” Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă kết oan trái với Mahānāma ḍng Sakya. Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă khởi ư điều này: “Có phương kế ǵ chúng ta có thể làm cho Mahānāma ḍng Sakya bị xấu hổ?” Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă khởi ư điều này: “Này các đại đức, hội chúng đă được Mahānāma ḍng Sakya thỉnh cầu về (việc dâng) dược phẩm. Này các đại đức, vậy chúng ta hăy yêu cầu Mahānāma ḍng Sakya về bơ lỏng đi.”

 

5. Sau đó, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă đi đến gặp Mahānāma ḍng Sakya, sau khi đến đă nói với Mahānāma ḍng Sakya điều này: - “Này đạo hữu, có nhu cầu về một chum[4] bơ lỏng.” - “Thưa các ngài, xin hăy chờ đợi đến ngày mai. Nhiều người đă đi đến trại ḅ để lấy bơ lỏng; các ngài sẽ mang đi đúng hẹn.”

 

Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă nói với Mahānāma ḍng Sakya điều này: - “Này đạo hữu, có nhu cầu về một chum bơ lỏng.” - “Thưa các ngài, xin hăy chờ đợi đến ngày mai. Nhiều người đă đi đến trại ḅ để lấy bơ lỏng; các ngài sẽ mang đi đúng hẹn.” - “Này đạo hữu, đạo hữu không chịu bố thí khi được yêu cầu, việc ǵ khiến đạo hữu nói lời thỉnh cầu khi không có ư định bố thí vậy?”

 

6. Khi ấy, Mahānāma ḍng Sakya phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao khi được nói rằng: ‘Thưa các ngài, xin hăy chờ đợi đến ngày mai’ các đại đức lại không chịu chờ đợi?” Các tỳ khưu đă nghe được Mahānāma ḍng Sakya phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư khi được Mahānāma ḍng Sakya nói rằng: ‘Thưa các ngài, xin hăy chờ đợi đến ngày mai’ lại không chịu chờ đợi?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi khi được Mahānāma ḍng Sakya nói rằng: ‘Thưa các ngài, xin hăy chờ đợi đến ngày mai’ lại không chịu chờ đợi, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi khi được Mahānāma ḍng Sakya nói rằng: ‘Thưa các ngài, xin hăy chờ đợi đến ngày mai’ lại không chịu chờ đợi vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu không bị bệnh nên chấp nhận sự thỉnh cầu về (việc dâng) vật dụng trong bốn tháng, ngoại trừ có sự thỉnh cầu tiếp tục, ngoại trừ có sự thỉnh cầu đến trọn đời. Nếu chấp nhận vượt quá hạn ấy th́ phạm tội pācittiya.”

 

7. Vị tỳ khưu không bị bệnh nên chấp nhận sự thỉnh cầu về (việc dâng) vật dụng trong bốn tháng: Sự thỉnh cầu (để dâng vật dụng) cho trường hợp bị bệnh nên được chấp nhận.

 

Sự thỉnh cầu tiếp tục cũng nên được chấp nhận: (Nói rằng): “Khi nào tôi bị bệnh, khi ấy tôi sẽ yêu cầu.”

 

Sự thỉnh cầu đến trọn đời cũng nên được chấp nhận: (Nói rằng): “Khi nào tôi bị bệnh, khi ấy tôi sẽ yêu cầu.”

 

Nếu chấp nhận vượt quá hạn ấy: Có sự thỉnh cầu có sự giới hạn về dược phẩm không có sự giới hạn về đêm. Có sự thỉnh cầu có sự giới hạn về đêm không có sự giới hạn về dược phẩm. Có sự thỉnh cầu có sự giới hạn về dược phẩm và có sự giới hạn về đêm. Có sự thỉnh cầu không có sự giới hạn về dược phẩm và không có sự giới hạn về đêm.

 

Có sự giới hạn về dược phẩm nghĩa là các dược phẩm được xét đến rồi (nói rằng): ‘Tôi nói lời thỉnh cầu với chừng này dược phẩm.’

 

Có sự giới hạn về đêm nghĩa là các đêm được xét đến rồi (nói rằng): ‘Tôi nói lời thỉnh cầu trong (thời hạn) chừng này đêm.’

 

Có sự giới hạn về dược phẩm và có sự giới hạn về đêm nghĩa là các dược phẩm được xét đến và các đêm được xét đến rồi (nói rằng): ‘Tôi nói lời thỉnh cầu với chừng này dược phẩm trong (thời hạn) chừng này đêm.’

 

Không có sự giới hạn về dược phẩm và không có sự giới hạn về đêm nghĩa là các dược phẩm không được xét đến và các đêm không được xét đến.

 

Khi có sự giới hạn về dược phẩm, trừ ra các dược phẩm đă được thỉnh cầu, vị yêu cầu các loại dược phẩm khác th́ phạm tội pācittiya. Khi có sự giới hạn về đêm, trừ ra các đêm đă được thỉnh cầu, vị yêu cầu trong các đêm khác th́ phạm tội pācittiya. Khi có sự giới hạn về sự thỉnh cầu và có sự giới hạn về đêm, trừ ra các dược phẩm đă được thỉnh cầu và trừ ra các đêm đă được thỉnh cầu, vị yêu cầu các loại dược phẩm khác trong các đêm khác th́ phạm tội pācittiya. Khi không có sự giới hạn về sự thỉnh cầu và không có sự giới hạn về đêm th́ vô tội.

 

Khi không cần dùng dược phẩm, vị yêu cầu dược phẩm th́ phạm tội pācittiya. Khi cần dùng dược phẩm này, vị yêu cầu dược phẩm khác th́ phạm tội pācittiya.

 

Khi đă quá hạn ấy, nhận biết là đă quá hạn ấy, vị yêu cầu dược phẩm th́ phạm tội pācittiya. Khi đă quá hạn ấy, có sự hoài nghi, vị yêu cầu dược phẩm th́ phạm tội pācittiya. Khi đă quá hạn ấy, (lầm) tưởng là chưa quá hạn ấy, vị yêu cầu dược phẩm th́ phạm tội pācittiya.

 

Khi chưa quá hạn ấy, (lầm) tưởng là đă quá hạn ấy, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn ấy, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hạn ấy, nhận biết là chưa quá hạn ấy th́ vô tội.

 

8. Vị yêu cầu các loại dược phẩm đă được thỉnh cầu, vị yêu cầu trong (thời hạn) các đêm đă được thỉnh cầu, sau khi nói rơ rồi yêu cầu: “Chúng tôi đă được quư vị thỉnh cầu các loại dược phẩm này, giờ chúng tôi có nhu cầu về dược phẩm loại này và loại này,” sau khi nói rơ rồi yêu cầu: “(Thời hạn) các đêm chúng tôi được quư vị thỉnh cầu đă trôi qua, giờ chúng tôi có nhu cầu về dược phẩm,” của các thân quyến, của những người nói lời thỉnh cầu, v́ nhu cầu của vị khác, bằng vật sở hữu của bản thân, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về vị Mahānāma là thứ bảy.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 5. 8. ĐIỀU HỌC VỀ QUÂN ĐỘI ĐỘNG BINH

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala cùng với quân đội đi đánh trận. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă đi để xem quân đội động binh.

 

Đức vua Pasenadi xứ Kosala đă nh́n thấy các tỳ khưu nhóm Lục Sư đang đi lại từ đàng xa, sau khi nh́n thấy đă cho người gọi đến rồi đă nói điều này: - “Thưa các ngài, v́ sao các ngài lại đi đến nơi này?” - “Chúng tôi có ư muốn nh́n thấy đại vương.” - “Thưa các ngài, việc ǵ lại nh́n trẫm đang say sưa chiến trận? Sao không chiêm ngưỡng đức Thế Tôn?”

 

2. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại đi đến để xem quân đội động binh? Chúng tôi không có lợi nhuận, chúng tôi thu nhập khó khăn, chúng tôi v́ lư do nuôi mạng, v́ nguyên nhân vợ con mà phải đi vào quân đội.”

 

Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đi để xem quân đội động binh?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đi để xem quân đội động binh, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại đi để xem quân đội động binh vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào đi để xem quân đội động binh th́ phạm tội pācittiya.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

3. Vào lúc bấy giờ, có người cậu của vị tỳ khưu nọ bị bệnh ở trong binh đội. Người ấy đă phái sứ giả đi đến gặp vị tỳ khưu ấy (nhắn rằng): “Bởi v́ cậu bị bệnh ở trong binh đội. Đại đức hăy đi đến. Cậu mong sự đi đến của đại đức.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă khởi ư rằng: “Đức Thế Tôn đă quy định điều học cho các tỳ khưu rằng: “Không được đi để xem quân đội động binh, và người cậu này của ta th́ bị bệnh ở trong binh đội, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép đi đến binh đội khi có nhân duyên như thế. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào đi để xem quân đội động binh th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có nhân duyên như thế.”

 

4. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Động binh nghĩa là quân đội sau khi đi ra từ làng th́ đóng trại hoặc là tiến tới.

 

Quân đội nghĩa là các tượng binh, các kỵ binh, các xa binh, các bộ binh. (Tượng binh) th́ mười hai người đàn ông một con voi. (Kỵ binh) th́ ba người đàn ông một con ngựa. (Xa binh) th́ bốn người đàn ông một chiếc xe. (Bộ binh) th́ bốn người đàn ông có tên ở tay. Vị đi để xem th́ phạm tội dukkaṭa. Đứng ở nơi ấy nh́n th́ phạm tội pācittiya. Sau khi rời khỏi khu vực lân cận của việc nh́n, vị lại nh́n nữa th́ phạm tội pācittiya.

 

Ngoại trừ có nhân duyên như thế: trừ ra có nhân duyên như thế.

 

Khi động binh, nhận biết là động binh, vị đi để xem th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có nhân duyên như thế. Khi động binh, có sự hoài nghi, vị đi để xem th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có nhân duyên như thế. Khi động binh, (lầm) tưởng không phải là động binh, vị đi để xem th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có nhân duyên như thế.

 

Vị đi để xem mỗi một (loại binh chủng) th́ phạm tội dukkaṭa. Đứng ở nơi ấy nh́n th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi rời khỏi khu vực lân cận của việc nh́n, vị lại nh́n nữa th́ phạm tội dukkaṭa.

 

6. Không phải là động binh, (lầm) tưởng là động binh, phạm tội dukkaṭa. Không phải là động binh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là động binh, nhận biết không phải là động binh th́ vô tội.

 

Vị đứng ở trong tu viện nh́n thấy, (việc động binh) di chuyển đến chỗ đứng hoặc chỗ ngồi hoặc chỗ nằm của vị tỳ khưu, vị nh́n thấy khi đi ngược chiều, có nhân duyên như thế, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về quân đội động binh là thứ tám.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 5. 9. ĐIỀU HỌC VỀ TRÚ NGỤ NƠI BINH ĐỘI

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, khi có công việc cần thiết các tỳ khưu nhóm Lục Sư sau khi đi đến nơi binh đội rồi trú ngụ trong binh đội hơn hai ba đêm. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại trú ngụ trong binh đội? Chúng tôi không có lợi nhuận, chúng tôi thu nhập khó khăn, chúng tôi v́ lư do nuôi mạng, v́ nguyên nhân vợ con mà phải sống trong binh đội.”

 

2. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại trú ngụ trong binh đội hơn hai ba đêm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi trú ngụ trong binh đội hơn hai ba đêm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại trú ngụ trong binh đội hơn hai ba đêm vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Nếu có nhân duyên nào đó khiến vị tỳ khưu ấy đi đến nơi binh đội, vị tỳ khưu ấy nên trú ngụ trong binh đội hai ba đêm; nếu vượt hơn số ấy th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Nếu có nhân duyên nào đó khiến vị tỳ khưu ấy đi đến nơi binh đội: nếu có duyên cớ, nếu có việc cần làm.

 

Vị tỳ khưu ấy nên trú ngụ trong binh đội hai ba đêm: nên trú hai ba đêm.

 

Nếu vượt hơn số ấy: khi mặt trời lặn vào ngày thứ tư, vị trú ngụ trong binh đội th́ phạm tội pācittiya.

 

Khi hơn hai ba đêm, nhận biết là đă hơn, vị trú ngụ trong binh đội th́ phạm tội pācittiya. Khi hơn hai ba đêm, có sự hoài nghi, vị trú ngụ trong binh đội th́ phạm tội pācittiya. Khi hơn hai ba đêm, (lầm) tưởng là c̣n kém, vị trú ngụ trong binh đội th́ phạm tội pācittiya.

 

4. Khi c̣n kém hai ba đêm, (lầm) tưởng là đă hơn, phạm tội dukkaṭa. Khi c̣n kém hai ba đêm, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi c̣n kém hai ba đêm, nhận biết c̣n kém th́ vô tội.

 

5. Vị trú ngụ hai ba đêm, vị trú ngụ c̣n kém hai ba đêm, sau khi trú ngụ hai đêm vào đêm thứ ba sau khi đi ra khỏi trước rạng đông rồi trú ngụ trở lại, vị bị bệnh rồi trú ngụ, vị trú ngụ v́ có việc cần làm đối với người bệnh, ở binh đội bị quân địch bao vây, vị bị cản trở bởi điều ǵ đó, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học về trú ngụ nơi binh đội.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 5. 10. ĐIỀU HỌC VỀ NƠI TẬP TRẬN

 

 

1.   Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, trong khi trú ngụ hai ba đêm trong binh đội các tỳ khưu nhóm Lục Sư đi đến nơi tập trận, nơi đóng quân, nơi dàn binh, đội chủ lực. Có vị tỳ khưu nọ thuộc nhóm Lục Sư sau khi đi đến nơi tập trận đă bị trúng mũi tên. Dân chúng đă chế giễu vị tỳ khưu ấy rằng: - “Thưa ngài, chắc hẳn đă là trận chiến cừ khôi? Ngài chiếm được bao nhiêu mục tiêu?” Trong khi bị những người ấy chế giễu, vị tỳ khưu ấy đă xấu hổ.

 

2. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại đi đến để xem nơi tập trận? Chúng tôi không có lợi nhuận, chúng tôi thu nhập khó khăn, chúng tôi v́ lư do nuôi mạng, v́ nguyên nhân vợ con mà phải đi đến nơi tập trận.” Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đi để xem nơi tập trận?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đi để xem nơi tập trận, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại đi để xem nơi tập trận vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Nếu trong khi trú ngụ ở binh đội hai ba đêm vị tỳ khưu đi đến nơi tập trận, hoặc nơi đóng quân, hoặc nơi dàn binh, hoặc đội chủ lực th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Nếu vị tỳ khưu trong khi trú ngụ ở binh đội hai ba đêm: trong khi trú ngụ hai ba đêm.

 

Nơi tập trận nghĩa là nơi nào chiến trận được nh́n thấy.

 

Nơi đóng quân nghĩa là chừng này tượng binh, chừng này kỵ binh, chừng này xa binh, chừng này bộ binh.

 

Nơi dàn binh nghĩa là các tượng binh hăy từ nơi này; các kỵ binh hăy từ nơi này; các xa binh hăy từ nơi này; các bộ binh hăy từ nơi này.

 

Đội chủ lực nghĩa là đội tượng binh chủ lực, đội kỵ binh chủ lực, đội xa binh chủ lực, đội bộ binh chủ lực. Đội tượng binh chủ lực ít nhất là ba con voi, đội kỵ binh chủ lực ít nhất là ba con ngựa, đội xa binh chủ lực ít nhất là ba xe, đội bộ binh chủ lực ít nhất là bốn người đàn ông có vũ khí ở tay.

 

Vị đi để xem th́ phạm tội dukkaṭa. Đứng ở nơi ấy nh́n th́ phạm tội pācittiya. Sau khi rời khỏi khu vực lân cận của việc nh́n, vị lại nh́n nữa th́ phạm tội pācittiya.

 

5. Vị đi để xem mỗi một (loại binh chủng) th́ phạm tội dukkaṭa. Đứng ở nơi ấy nh́n th́ phạm tội dukkaṭa. Sau khi rời khỏi khu vực lân cận của việc nh́n, vị lại nh́n nữa th́ phạm tội dukkaṭa.

 

6. Vị đứng ở trong tu viện nh́n thấy, sự tập trận di chuyển đến và được nh́n thấy ở chỗ đứng hoặc ở chỗ ngồi hoặc ở chỗ nằm của vị tỳ khưu, vị nh́n thấy khi đi ngược chiều, khi có việc cần phải làm vị đi rồi nh́n thấy, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Dứt điều học về nơi tập trận.

 

Phẩm Đạo Sĩ Lơa Thể là thứ năm.

 

--ooOoo--

 

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

Vị đạo sĩ lơa thể, việc đuổi đi, có cặp vợ chồng, nơi kín đáo hai chuyện, và vị có bữa trai phạn, dược phẩm, bị động binh, (trú ngụ) nơi binh đội, nơi tập trận.

 

--ooOoo--

 

 

 

[1] Khi có cơn khát vị thọ dụng vật dùng hết đêm để chận đứng cơn khát; khi có bệnh sanh khởi, vị thọ dụng vật dùng trong bảy ngày hoặc vật dùng suốt đời để làm giảm nhẹ cơn bệnh th́ vô tội (VinA. iv, 831).

[2] Thịt của mười loài thú vị tỳ khưu không được phép thọ thực được đề cập ở Mahāvagga – Đại Phẩm  gồm có: thịt người, thịt voi, thịt ngựa, thịt chó, thịt rắn, thịt sư tử, thịt hổ, thịt beo, thịt gấu, thịt chó sói (TTPV tập 05, chương VI, trang 37-40).

[3] Bốn loại vật dơ có tính quan trọng (cattāri mahāvikatāni) là: phân (gūthaṃ), nước tiểu (muttaṃ), tro (chārikaṃ), và đất sét (mattikaṃ) được sử dụng trong trường hợp bị rắn cắn (Mahāvagga – Đại Phẩm, TTPV tập 5, chương VI, trang 17).

[4] Chum (doṇa) là đơn vị đo thể tích, 1 doṇa = 4 āḷhaka. Để dễ h́nh dung, sức chứa của b́nh bát cỡ lớn là ½ āḷhaka, vậy số lượng bơ lỏng được yêu cầu là 8 lần b́nh bát cỡ lớn (ND).

                                

 

 

   
 

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 |

 
 

<Mục Lục><Đầu Trang>