Trang Chính

Trang Các Bản Dịch Mới

Font VU-Times

 

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 02

 

PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU tập II

ẤN BẢN 2013

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

(Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

6. 6. PHẨM UỐNG RƯỢU

 

 

6. 6. 1. ĐIỀU HỌC VỀ UỐNG RƯỢU

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn trong khi du hành ở xứ Cetiya đă đi đến Bhaddavatikā. Những người giữ ḅ, chăn dê, nông phu, khách đi đường đă nh́n thấy đức Thế Tôn từ đàng xa đang đi lại, sau khi nh́n thấy đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn chớ đi đến Ambatittha. Bạch ngài, ở Ambatittha có con rồng sống trong khu ẩn cư của đạo sĩ thờ lửa, là con rắn có pháp thuật, có nọc độc khủng khiếp, chớ để nó hăm hại đức Thế Tôn.”

 

Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đă im lặng. Đến lần thứ nh́, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, những người giữ ḅ, chăn dê, nông phu, khách đi đường đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn chớ đi đến Ambatittha. Bạch ngài, ở Ambatittha có con rồng sống trong khu ẩn cư của đạo sĩ thờ lửa, là con rắn có pháp thuật, có nọc độc khủng khiếp, chớ để nó hăm hại đức Thế Tôn.” Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đă im lặng.

 

2. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đă ngự đến Bhaddavatikā. Tại nơi đó, đức Thế Tôn đă trú ngụ ở Bhaddavatikā. Khi ấy, đại đức Sāgata đă đi về phía khu ẩn cư của đạo sĩ thờ lửa thuộc vùng Ambatittha, sau khi đến đă đi vào nhà thờ lửa, rồi đă sắp đặt tấm thảm trải bằng cỏ, ngồi xuống, xếp (chân) thế kiết già, giữ thân thẳng, tập trung niệm ở phía trước. Khi ấy, con rồng ấy sau khi nh́n thấy đại đức Sāgata đi vào, có sự khó chịu, có tâm bực bội, đă phun khói. Đại đức Sāgata cũng đă phun khói. Khi ấy, con rồng không c̣n đè nén được cơn giận nên đă phun ra lửa. Đại đức Sāgata cũng đă nhập thiền đề mục lửa và đă phun ra lửa. Sau đó, đại đức Sāgata đă dùng lửa (của ḿnh) đoạt lấy ngọn lửa của con rồng ấy rồi đă đi về phía Bhaddavatikā.

 

Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi đă ngự tại Bhaddavatikā theo như ư thích đă ra đi du hành về phía thành Kosambī. Các cư sĩ ở thành Kosambī đă nghe được rằng: “Nghe nói ngài đại đức Sāgata đă gây chiến với con rồng ở Ambatittha.”

 

3. Sau đó, trong khi tuần tự du hành, đức Thế Tôn đă ngự đến thành Kosambī. Khi ấy, các cư sĩ ở thành Kosambī sau khi đi ra tiếp đón đức Thế Tôn đă đi đến gặp đại đức Sāgata, sau khi đến đă đảnh lễ đại đức Sāgata rồi đứng ở một bên. Khi đă đứng một bên, các cư sĩ ở thành Kosambī đă nói với đại đức Sāgata điều này: - “Thưa ngài, vật ǵ các ngài đại đức khó có được và ưng ư? Chúng tôi nên chuẩn bị vật ǵ?” Khi được nói như thế, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă nói với các cư sĩ ở thành Kosambī điều này: - “Này các đạo hữu, có thứ rượu cất tên Bồ Câu th́ các tỳ khưu khó có được và ưng ư, hăy chuẩn bị thức ấy.”

 

Sau đó, các cư sĩ ở thành Kosambī đă chuẩn bị rượu cất tên Bồ Câu ở mỗi nhà, rồi khi nh́n thấy đại đức Sāgata đang đi khất thực đă nói với đại đức Sāgata điều này: - “Thưa ngài, xin ngài đại đức Sāgata hăy uống rượu cất tên Bồ Câu. Thưa ngài, xin ngài đại đức Sāgata hăy uống rượu cất tên Bồ Câu.” Sau đó, khi đă uống rượu cất tên Bồ Câu ở mỗi nhà, đại đức Sāgata trong lúc đang đi ra khỏi thành phố đă té ngă ở cổng thành.

 

4. Khi ấy, đức Thế Tôn cùng với nhiều vị tỳ khưu đang đi ra khỏi thành phố đă nh́n thấy đại đức Sāgata bị té ngă ở cổng thành, sau khi nh́n thấy đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy đưa Sāgata về.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Các vị tỳ khưu ấy nghe theo lời đức Thế Tôn sau khi đưa đại đức Sāgata về lại tu viện đă đặt nằm xuống, đầu hướng về đức Thế Tôn.

 

Khi ấy, đại đức Sāgata đă xoay tṛn ṿng đưa hai chân hướng về đức Thế Tôn rồi nằm ngủ. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng:

 

- “Này các tỳ khưu, phải chăng Sāgata đă có sự tôn kính và có sự vâng lời đối với Như Lai?”

 

- “Bạch ngài, đúng vậy.”

 

- “Này các tỳ khưu, vậy bây giờ Sāgata có sự tôn kính và có sự vâng lời đối với Như Lai không?”

 

- “Bạch ngài, điều ấy không có.”

 

- “Này các tỳ khưu, phải chăng Sāgata đă gây chiến với con rồng ở Ambatittha?”

 

- “Bạch ngài, đúng vậy.”

 

- “Này các tỳ khưu, vậy bây giờ Sāgata có đủ sức gây chiến với con rắn nước không?”

 

- “Bạch ngài, điều ấy không có.”

 

- “Này các tỳ khưu, vậy loại thức uống nào sau khi uống vào sẽ trở thành mất tỉnh táo th́ có nên uống loại ấy không?”

 

- “Bạch ngài, điều ấy không nên.”

 

- “Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn cho Sāgata, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các tỳ khưu, v́ sao Sāgata lại uống men say vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Khi uống rượu và men say th́ phạm tội pācittiya.”

 

5. Rượu nghĩa là rượu từ bột, rượu từ bánh ngọt, rượu từ cơm, đă được rắc men vào, đă được trộn vào các hương liệu cần thiết.

 

Men say nghĩa là chất mật từ bông hoa, nước trích ra từ trái cây, nước trích ra từ mật ong, nước trích ra từ đường mía đă được trộn vào các hương liệu cần thiết.

 

Uống: vị uống vào dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa th́ phạm tội pācittiya.

 

6. Men say, nhận biết là men say, vị uống vào th́ phạm tội pācittiya. Men say, có sự hoài nghi, vị uống vào th́ phạm tội pācittiya. Men say, (lầm) tưởng không phải là men say, vị uống vào th́ phạm tội pācittiya.

 

7. Không phải là men say, (lầm) tưởng là men say, phạm tội dukkaṭa. Không phải là men say, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là men say, nhận biết không phải là men say th́ vô tội.

 

8. Vị uống vào chất có màu sắc của men say có hương của men say có vị của men say nhưng không phải là men say, khi được nấu chung với xúp, khi được nấu chung với thịt, khi được nấu chung với dầu ăn, ở trong nước mật của trái cây āmalaka, vị uống nước cất không men say, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về uống rượu là thứ nhất.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 6. 2. ĐIỀU HỌC VỀ THỌT LÉT BẰNG NGÓN TAY

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă chọc cười vị tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư bằng cách dùng ngón tay thọt léc. Vị tỳ khưu ấy trong lúc bị cười quá mức không thở được nên đă chết đi. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại chọc cười vị tỳ khưu bằng cách dùng ngón tay thọt léc?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi chọc cười vị tỳ khưu bằng cách dùng ngón tay thọt léc, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại chọc cười vị tỳ khưu bằng cách dùng ngón tay thọt léc vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Khi thọt léc bằng ngón tay th́ phạm tội pācittiya.”

 

2. Thọt léc bằng ngón tay nghĩa là vị đă tu lên bậc trên, có ư định chọc cười vị đă tu lên bậc trên rồi sờ vào cơ thể (vị kia) bằng cơ thể (của ḿnh) th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị chọc cười bằng cách dùng ngón tay thọt léc th́ phạm tội pācittiya. Vị đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị chọc cười bằng cách dùng ngón tay thọt léc th́ phạm tội pācittiya. Vị đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị chọc cười bằng cách dùng ngón tay thọt léc th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị sờ vào vật được gắn liền với cơ thể (vị kia) bằng cơ thể (của ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào cơ thể (vị kia) bằng vật được gắn liền với cơ thể (của ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với cơ thể (vị kia) bằng vật được gắn liền với cơ thể (của ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào cơ thể (vị kia) bằng vật (do ḿnh) ném ra th́ phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với cơ thể (vị kia) bằng vật (do ḿnh) ném ra th́ phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật (do vị kia) ném ra bằng vật (do ḿnh) ném ra th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Với vị chưa tu lên bậc trên, vị sờ vào cơ thể (vị kia) bằng cơ thể (của ḿnh) th́ phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.

 

Không có ư định chọc cười, vị sờ vào khi có việc cần phải làm, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về thọt lét bằng ngón tay là thứ nh́.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 6. 3. ĐIỀU HỌC VỀ CHƠI GIỠN

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đùa nghịch ở trong nước của ḍng sông Aciravatī. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pasenadi xứ Kosala cùng với hoàng hậu Mallikā ngự ở tầng trên của ṭa lâu đài. Đức vua Pasenadi xứ Kosala đă nh́n thấy các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đang đùa nghịch ở trong nước của ḍng sông Aciravatī, sau khi nh́n thấy đă nói với với hoàng hậu Mallikā điều này: - “Này Mallikā, các vị A-la-hán này của khanh đùa nghịch ở trong nước.” - “Tâu đại vương, chắc chắn là điều học chưa được đức Thế Tôn quy định hoặc là các vị tỳ khưu ấy không biết.”

 

2. Sau đó, đức vua Pasenadi xứ Kosala đă khởi ư điều này: “Bằng phương thức nào để ta không phải tŕnh lên đức Thế Tôn mà đức Thế Tôn có thể biết được các tỳ khưu này đă đùa nghịch ở trong nước?” Khi ấy, đức vua Pasenadi xứ Kosala đă cho mời các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đến rồi đă dâng khối đường lớn cho các vị ấy (nói rằng): - “Thưa các ngài, xin hăy dâng lên đức Thế Tôn khối đường này.”

 

Các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đă cầm lấy khối đường ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đức vua Pasenadi xứ Kosala dâng khối đường này đến đức Thế Tôn.” - “Này các tỳ khưu, đức vua đă gặp các ngươi ở đâu?” - “Bạch Thế Tôn, trong khi đang đùa nghịch ở trong nước của ḍng sông Aciravatī.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại đùa nghịch ở trong nước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Khi chơi giỡn ở trong nước th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Chơi giỡn ở trong nước nghĩa là ở trong nước ngập trên mắt cá chân vị có ư định chơi giỡn rồi hụp xuống hoặc trồi lên hoặc bơi lội th́ phạm tội pācittiya.

 

Chơi giỡn ở trong nước, nhận biết là chơi giỡn, phạm tội pācittiya. Chơi giỡn ở trong nước, có sự hoài nghi, phạm tội pācittiya. Chơi giỡn ở trong nước, (lầm) tưởng là không chơi giỡn, phạm tội pācittiya.

 

Vị đùa nghịch ở trong nước ngập dưới mắt cá chân th́ phạm tội dukkaṭa. Vị đùa nghịch với chiếc thuyền th́ phạm tội dukkaṭa. Vị đập vỗ trong nước bằng cánh tay hoặc bằng bàn chân hoặc với khúc cây hoặc với mảnh sành th́ phạm tội dukkaṭa. Vị đùa nghịch nước hoặc cháo chua hoặc sữa tươi hoặc sữa pha loăng hoặc nước nhuộm y hoặc nước tiểu hoặc nước bùn chứa ở trong chậu th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Không chơi giỡn ở trong nước, (lầm) tưởng là chơi giỡn, phạm tội dukkaṭa. Không chơi giỡn ở trong nước, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không chơi giỡn ở trong nước, nhận biết là không chơi giỡn ở trong nước th́ vô tội.

 

Không có ư định chơi giỡn, vị đi xuống nước khi có việc cần phải làm rồi hụp xuống hoặc trồi lên hoặc bơi lội, trong khi đi sang bờ bên kia rồi hụp xuống hoặc trồi lên hoặc bơi lội, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về chơi giỡn là thứ ba.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 6. 4. ĐIỀU HỌC VỀ SỰ KHÔNG TÔN TRỌNG

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Kosambī, tu viện Ghosita. Vào lúc bấy giờ, đại đức Channa hành xử không đúng nguyên tắc. Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này đại đức Channa, chớ hành động như thế. Điều ấy không được phép.” Vị ấy hành động tỏ ra vẻ không tôn trọng.

 

Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Channa lại thể hiện sự không tôn trọng?” ―(như trên)― “Này Channa, nghe nói ngươi thể hiện sự không tôn trọng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại thể hiện sự không tôn trọng vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Khi có sự không tôn trọng th́ phạm tội pācittiya.”

 

2. Sự không tôn trọng nghĩa là có hai sự không tôn trọng: sự không tôn trọng người và sự không tôn trọng Pháp.

 

Sự không tôn trọng người nghĩa là khi đang được vị đă tu lên bậc trên nói về điều đă được quy định, vị (nghĩ rằng): “Vị này bị phạt án treo, hoặc bị xem thường, hoặc bị khiển trách, hoặc lời nói của vị này sẽ không được thực hiện” rồi thể hiện sự không tôn trọng th́ phạm tội pācittiya.

 

Sự không tôn trọng Pháp nghĩa là khi đang được vị đă tu lên bậc trên nói về điều đă được quy định, vị (nghĩ rằng): “Làm thế nào để điều này có thể được hủy bỏ, hoặc được thủ tiêu, hoặc được biến mất?” hoặc là vị không có ư muốn học tập điều ấy rồi thể hiện sự không tôn trọng th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị thể hiện sự không tôn trọng th́ phạm tội pācittiya. Vị đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị thể hiện sự không tôn trọng th́ phạm tội pācittiya. Vị đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị thể hiện sự không tôn trọng th́ phạm tội pācittiya.

 

Khi đang được vị đă tu lên bậc trên nói về điều không được quy định, vị (nghĩ rằng): “Thực hành điều này không đưa đến sự đoạn trừ, không đưa đến sự từ khước, không đưa đến sự hoan hỷ, không đưa đến sự giảm thiểu, không đưa đến sự ra sức nỗ lực” rồi thể hiện sự không tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Khi đang được vị chưa tu lên bậc trên nói về điều đă được quy định hoặc không được quy định, vị (nghĩ rằng): “Thực hành điều này không đưa đến sự đoạn trừ, không đưa đến sự từ khước, không đưa đến sự hoan hỷ, không đưa đến sự giảm thiểu, không đưa đến sự ra sức nỗ lực” rồi thể hiện sự không tôn trọng th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.

 

Vị nói rằng: ‘Sự học tập, sự giải thích của các vị thầy dạy học của chúng tôi là như vậy,’ vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về sự không tôn trọng là thứ tư.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 6. 5. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC LÀM CHO KINH SỢ

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đă làm các vị tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư kinh sợ. Trong lúc bị làm cho kinh sợ, các vị ấy khóc lóc. Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này các đại đức, v́ sao các vị khóc lóc?” - “Thưa các đại đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư này đă làm chúng tôi kinh sợ.” Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại làm vị tỳ khưu kinh sợ?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi làm vị tỳ khưu kinh sợ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại làm vị tỳ khưu kinh sợ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào làm vị tỳ khưu kinh sợ th́ phạm tội pācittiya.”

 

2. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu khác.

 

Làm kinh sợ: vị đă tu lên bậc trên có ư định làm kinh sợ vị đă tu lên bậc trên rồi đem lại cảnh sắc hoặc cảnh thinh hoặc cảnh khí hoặc cảnh vị hoặc cảnh xúc th́ phạm tội pācittiya cho dầu vị kia bị kinh sợ hoặc không bị kinh sợ. Vị kể về sự nguy hiểm của trộm cướp hoặc sự nguy hiểm của thú dữ hoặc sự nguy hiểm của quỷ sứ th́ phạm tội pācittiya cho dầu vị kia bị kinh sợ hoặc không bị kinh sợ.

 

Vị đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị làm kinh sợ th́ phạm tội pācittiya. Vị đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị làm kinh sợ th́ phạm tội pācittiya. Vị đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị làm kinh sợ th́ phạm tội pācittiya.

 

Có ư định làm kinh sợ vị chưa tu lên bậc trên rồi đem lại cảnh sắc hoặc cảnh thinh hoặc cảnh khí hoặc cảnh vị hoặc cảnh xúc th́ phạm tội dukkaṭa cho dầu vị kia bị kinh sợ hoặc không bị kinh sợ. Vị kể về sự nguy hiểm của trộm cướp hoặc sự nguy hiểm của thú dữ hoặc sự nguy hiểm của quỷ sứ th́ phạm tội dukkaṭa cho dầu vị kia bị kinh sợ hoặc không bị kinh sợ.

 

Vị chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Vị chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Vị chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.

 

6. Vị không có ư định làm kinh sợ rồi đem lại cảnh sắc hoặc cảnh thinh hoặc cảnh khí hoặc cảnh vị hoặc cảnh xúc, (hay là) kể về sự nguy hiểm của trộm cướp hoặc sự nguy hiểm của thú dữ hoặc sự nguy hiểm của quỷ sứ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về việc làm cho kinh sợ là thứ năm.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 6. 6. ĐIỀU HỌC VỀ NGỌN LỬA

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại xứ Bhagga, thành Susumāragira, trong rừng Bhesakalā, chỗ vườn nai. Vào lúc bấy giờ trong tháng mùa lạnh, các tỳ khưu sau khi đốt lên ngọn lửa ở khúc gỗ lớn có lỗ hổng nọ rồi sưởi ấm. Và ở trong lỗ hổng ấy có con rắn đen bị đốt nóng bởi ngọn lửa nên ḅ ra ngoài và tấn công các vị tỳ khưu. Các tỳ khưu đă chạy nơi này nơi nọ.

 

Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu lại đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy lại đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào có ư định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa th́ phạm tội pācittiya.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

2. Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu bị bệnh. Các tỳ khưu thăm hỏi bệnh t́nh đă nói với các tỳ khưu bị bệnh điều này: - “Này các đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?” - “Này các đại đức, trước đây chúng tôi đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn đă cấm đoán,’ trong lúc ngần ngại nên không sưởi ấm; v́ thế chúng tôi không được thoải mái.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa rồi sưởi ấm. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào không bị bệnh có ư định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa th́ phạm tội pācittiya.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

3. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại ngay cả trong việc thắp đèn, trong việc đốt lửa, luôn cả ở nhà tắm hơi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa khi có các nhân duyên như thế. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào không bị bệnh có ư định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có nhân duyên như thế.”

 

4. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Không bệnh nghĩa là vị có được sự thoải mái khi không có ngọn lửa.

 

Bị bệnh nghĩa là vị không có sự thoải mái khi không có ngọn lửa.

 

Có ư định sưởi ấm: có ư muốn hơ nóng.

 

Ngọn lửa nghĩa là lửa được đề cập đến.

 

Đốt lên: vị tự ḿnh đốt lên th́ phạm tội pācittiya.

 

Bảo đốt lên: vị ra lệnh người khác th́ phạm tội pācittiya. Khi được ra lệnh một lần, dầu (vị kia) đốt nhiều lần vị (ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya.

 

Ngoại trừ có nhân duyên như thế: trừ ra có nhân duyên như thế.

 

Không bị bệnh, nhận biết là không bị bệnh, vị có ư định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có nhân duyên như thế. Không bị bệnh, có sự hoài nghi, vị có ư định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có nhân duyên như thế. Không bị bệnh, (lầm) tưởng là bị bệnh, vị có ư định sưởi ấm rồi đốt lên hoặc bảo đốt lên ngọn lửa th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có nhân duyên như thế.

 

Vị nhặt lên khúc củi đang cháy th́ phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, (lầm) tưởng là không bị bệnh, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Bị bệnh, nhận biết là bị bệnh th́ vô tội.

 

Vị bị bệnh, vị sưởi ấm khi (ngọn lửa) đă được thực hiện bởi vị khác, vị sưởi ấm ở chỗ tro tàn (không c̣n ngọn lửa), khi thắp đèn, khi đốt lửa (nung b́nh bát), ở trong nhà tắm hơi, ngoại trừ có nhân duyên như thế, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về ngọn lửa là thứ sáu.

 

--ooOoo--

 

 

6. 6. 7. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC TẮM

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu thường tắm ở ḍng sông Tapodā.[1] Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha (nghĩ rằng): “Ta sẽ gội đầu” rồi đă đi đến sông Tapodā và đă chờ đợi ở một bên (nghĩ rằng): “Đến khi các ngài đại đức tắm xong.” Các tỳ khưu đă tắm đến khi trời tối hẳn.

 

Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha sau khi gội đầu xong vào ban đêm th́ cửa thành đă đóng nên đă ngụ lại bên ngoài thành. Vào lúc sáng sớm, đức vua với dầu thoa chưa được tẩm hương đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đă nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đang ngồi một bên điều này: - “Tâu đại vương, v́ sao ngài lại đến sớm với dầu thoa chưa được tẩm hương?” Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

2. Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

 

Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại rồi đă hỏi các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu sau khi nh́n thấy ngay cả đức vua vẫn tắm không biết chừng mực?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy sau khi nh́n thấy ngay cả đức vua vẫn tắm không biết chừng mực vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng th́ phạm tội pācittiya.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

3. Vào lúc bấy giờ, nhằm lúc trời nóng nực nhằm lúc trời oi bức, các tỳ khưu trong lúc ngần ngại không tắm rồi đi ngủ với thân thể đẫm mồ hôi. Y và chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vào lúc trời nóng nực vào lúc trời oi bức ta cho phép tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Nghĩ rằng): ‘Một tháng rưỡi c̣n lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

4. Vào lúc bấy giờ, có các tỳ khưu bị bệnh. Các tỳ khưu thăm hỏi bệnh t́nh đă nói với các tỳ khưu bị bệnh điều này: - “Này các đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được thuận tiện không?” - “Này các đại đức, trước đây chúng tôi tắm khi chưa đủ nửa tháng, nhờ thế chúng tôi được thoải mái. Giờ đây, (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn đă cấm đoán,’ trong lúc ngần ngại nên không tắm; v́ thế chúng tôi không được thoải mái.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Biết rằng): ‘Một tháng rưỡi c̣n lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

5. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi thực hiện công tŕnh mới, trong lúc ngần ngại không tắm rồi đi ngủ với thân thể đẫm mồ hôi. Y và chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, trong trường hợp có công việc ta cho phép tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Nghĩ rằng): ‘Một tháng rưỡi c̣n lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh, trường hợp có công việc; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

6. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sau khi đi đường xa, trong lúc ngần ngại không tắm rồi đi ngủ với thân thể đẫm mồ hôi. Y và chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, trong trường hợp đi đường xa ta cho phép tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Nghĩ rằng): ‘Một tháng rưỡi c̣n lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh, trường hợp có công việc, trường hợp đi đường xa; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”

 

Và điều học này đă được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

 

7. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu trong khi thực hiện việc may y ở ngoài trời đă bị bao phủ bởi cơn gió có bụi, và trời th́ mưa lâm râm. Các vị tỳ khưu trong lúc ngần ngại không tắm rồi đi ngủ với thân thể bị ẩm ướt. Y và chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, trong trường hợp mưa gió ta cho phép tắm khi chưa đủ nửa tháng. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào tắm khi chưa đủ nửa tháng th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp ấy là: (Nghĩ rằng): ‘Một tháng rưỡi c̣n lại của mùa nóng’ và tháng đầu tiên của mùa mưa, như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức, trường hợp bị bệnh, trường hợp có công việc, trường hợp đi đường xa, trường hợp mưa gió; đây là duyên cớ trong trường hợp ấy.”

 

8. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Chưa đủ nửa tháng: chưa tới nửa tháng.

 

Tắm: Vị tắm với bột tắm hoặc với đất sét, trong lúc tiến hành th́ phạm tội dukkaṭa. Khi hoàn tất việc tắm th́ phạm tội pācittiya.

 

Ngoại trừ có duyên cớ: trừ ra có duyên cớ.

 

Lúc trời nóng nực nghĩa là một tháng rưỡi c̣n lại của mùa nóng.

 

Lúc trời oi bức nghĩa là tháng đầu tiên của mùa mưa; (nghĩ rằng): ‘Như vậy thành hai tháng rưỡi là lúc trời nóng nực là lúc trời oi bức’ rồi nên tắm.

 

Trường hợp bị bệnh nghĩa là vị không có thoải mái khi không tắm; (nghĩ rằng): ‘Trường hợp bị bệnh’ rồi nên tắm.

 

Trường hợp có công việc nghĩa là ngay cả việc căn pḥng được quét bụi; (nghĩ rằng): ‘Trường hợp có công việc’ rồi nên tắm.

 

Trường hợp đi đường xa nghĩa là (nghĩ rằng) ‘Ta sẽ đi nửa do tuần[2] rồi nên tắm. Vị sắp sửa đi th́ nên tắm. Vị đă đi th́ nên tắm.

 

Trường hợp mưa gió nghĩa là các vị tỳ khưu đă bị bao phủ bởi cơn gió có bụi, hoặc là hai hoặc ba giọt nước mưa đă rơi trên thân thể; (nghĩ rằng): ‘Trường hợp mưa gió’ rồi nên tắm.

 

Chưa đủ nửa tháng, nhận biết là chưa đủ, vị tắm th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Chưa đủ nửa tháng, có sự hoài nghi, vị tắm th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ. Chưa đủ nửa tháng, (lầm) tưởng là đă hơn, vị tắm th́ phạm tội pācittiya ngoại trừ có duyên cớ.

 

Hơn nửa tháng, (lầm) tưởng là chưa đủ, phạm tội dukkaṭa. Hơn nửa tháng, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hơn nửa tháng, nhận biết là đă hơn th́ vô tội.

 

Khi có duyên cớ, vị tắm khi được nửa tháng, vị tắm khi hơn nửa tháng, vị tắm khi đi sang bờ bên kia sông, ở tất cả các xứ sở vùng biên địa,[3] trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về việc tắm là thứ bảy.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 6. 8. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC LÀM HOẠI SẮC

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu và các du sĩ ngoại đạo đang đi đường xa từ thành Sāketa đến thành Sāvatthī. Giữa đường, bọn trộm cướp đă xuất hiện và cướp bóc các vị ấy. Quân lính của đức vua xuất phát từ thành Sāvatthī sau khi bắt được bọn cướp ấy cùng với đồ đạc đă phái sứ giả đến gặp các tỳ khưu (nói rằng): - “Các đại đức hăy đi đến, các vị hăy nhận ra y của chính ḿnh rồi hăy lấy.” Các vị tỳ khưu không nhận ra. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức lại không nhận biết y của chính bản thân?” Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

2. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ­ấy nhân sự kiện ấy sau khi triệu tập hội chúng tỳ khưu lại đă nói Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế th́ ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu v́ mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, ―(như trên)― nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nhận được y mới nên áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc là màu xanh, màu bùn, màu đen sẫm. Nếu vị tỳ khưu không áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc mà sử dụng y mới th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Mới nghĩa là đề cập đến việc làm thành đúng phép chưa được thực hiện.

 

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y.

 

Nên áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc: nên áp dụng dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa.

 

Màu xanh nghĩa là có hai loại màu xanh: màu xanh của rỉ đồng và màu xanh lá cây.

 

Màu bùn nghĩa là nước (bùn) được đề cập đến.

 

Màu đen sẫm nghĩa là bất cứ (phẩm màu) ǵ liên quan đến màu đen.

 

Nếu vị tỳ khưu không áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc: sau khi không áp dụng một cách hoại sắc nào đó trong ba cách hoại sắc dầu chỉ với (một chút ở) đầu cọng cỏ kusa, vị sử dụng y mới th́ phạm tội pācittiya.

 

Khi chưa áp dụng, nhận biết là chưa áp dụng, vị sử dụng th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa áp dụng, có sự hoài nghi, vị sử dụng th́ phạm tội pācittiya. Khi chưa áp dụng, (lầm) tưởng là đă áp dụng, vị sử dụng th́ phạm tội pācittiya.

 

Khi đă áp dụng, (lầm) tưởng là chưa áp dụng, phạm tội dukkaṭa. Khi đă áp dụng, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi đă áp dụng, nhận biết là đă áp dụng th́ vô tội.

 

Sau khi áp dụng rồi sử dụng, việc làm thành đúng phép bị hư hoại, chỗ đă thực hiện việc làm thành đúng phép bị sờn, (y) chưa được làm thành đúng phép được may chung với (y) đă được làm thành đúng phép, khi có miếng vá, khi có làm đường viền, khi có sự mạng lại, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về việc làm hoại sắc là thứ tám.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 6. 9. ĐIỀU HỌC VỀ CHÚ NGUYỆN ĐỂ DÙNG CHUNG

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến vị tỳ khưu là đệ tử của người anh lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện (của vị ấy). Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu: - “Này các đại đức, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya này sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến tôi lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện.”

 

Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến vị tỳ khưu lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện?” ―(như trên)― “Này Upananda, nghe nói ngươi sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến vị tỳ khưu lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến vị tỳ khưu lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào sau khi đích thân chú nguyện để dùng chung y đến vị tỳ khưu hoặc đến vị tỳ khưu ni hoặc đến vị ni tu tập sự hoặc đến vị sa di hoặc đến vị sa di ni lại sử dụng khi chưa có sự xả lời nguyện th́ phạm tội pācittiya.”

 

2. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Đến vị tỳ khưu: là đến vị tỳ khưu khác.

 

Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đă được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.

 

Cô ni tu tập sự nghĩa là người nữ thực hành sự học tập về sáu pháp trong hai năm.

 

Sa di nghĩa là người nam tu tập theo mười điều học.

 

Sa di ni nghĩa là người nữ tu tập theo mười điều học.

 

Đích thân: sau tự ḿnh chú nguyện để dùng chung.

 

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.

 

Sự chú nguyện để dùng chung nghĩa là có hai sự chú nguyện để dùng chung: sự chú nguyện để dùng chung có mặt và sự chú nguyện để dùng chung vắng mặt.

 

Sự chú nguyện để dùng chung có mặt nghĩa là (nói rằng): ‘Tôi chú nguyện để dùng chung y này đến ngươi hoặc đến vị tên (như vầy).’

 

Sự chú nguyện để dùng chung vắng mặt nghĩa là (nói rằng): ‘Tôi trao y này đến ngươi v́ mục đích chú nguyện để dùng chung.’ Vị kia nên nói rằng: ‘Ai là bạn bè hoặc là người thân thiết của ngài?’ ‘Vị tên (như vầy) và tên (như vầy).’ Vị kia nên nói rằng: ‘Tôi sẽ trao cho những người ấy. Ngài hăy sử dụng vật sở hữu của những người ấy hoặc ngài hăy phân phát hoặc ngài hăy tiến hành như là có duyên cớ.’

 

Chưa có sự xả lời nguyện nghĩa là chưa được cho lại[4] đến vị ấy hoặc là vị ấy sử dụng trong khi không có thân thiết với vị kia th́ phạm tội pācittiya.

 

Chưa có sự xả lời nguyện, nhận biết là chưa có sự xả lời nguyện, vị sử dụng th́ phạm tội pācittiya. Chưa có sự xả lời nguyện, có sự hoài nghi, vị sử dụng th́ phạm tội pācittiya. Chưa có sự xả lời nguyện, (lầm) tưởng là đă có sự xả lời nguyện, vị sử dụng th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị chú nguyện để dùng riêng hoặc vị phân phát (y ấy) th́ phạm tội dukkaṭa. Có sự xả lời nguyện, (lầm) tưởng là chưa có sự xả lời nguyện, phạm tội dukkaṭa. Có sự xả lời nguyện, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Có sự xả lời nguyện, nhận biết là đă có sự xả lời nguyện th́ vô tội.

 

Hoặc là vị kia cho lại, hoặc là vị ấy (vị chủ nhân) sử dụng trong khi thân thiết với vị kia, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về chú nguyện để dùng chung là thứ chín.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 6. 10. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC THU GIẤU Y

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư có các vật dụng không được cất giữ. Các tỳ khưu nhóm Lục Sư thu giấu b́nh bát và luôn cả y của các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư. Các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư đă nói với các tỳ khưu nhóm Lục Sư điều này: - “Này các đại đức, hăy cho lại chúng tôi b́nh bát và luôn cả y nữa.” Các tỳ khưu nhóm Lục Sư cười. Các vị ấy khóc lóc. Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này các đại đức, v́ sao các vị khóc lóc?” - “Thưa các đại đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư này thu giấu b́nh bát và luôn cả y của chúng tôi.”

 

2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại thu giấu b́nh bát và luôn cả y của các tỳ khưu?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thu giấu b́nh bát và luôn cả y của các tỳ khưu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi lại thu giấu b́nh bát và luôn cả y của các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào thu giấu hoặc bảo thu giấu b́nh bát hoặc y hoặc tấm lót ngồi hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng của vị tỳ khưu cho dầu chỉ muốn cười giỡn th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Của vị tỳ khưu: là của vị tỳ khưu khác.

 

B́nh bát nghĩa là có hai loại b́nh bát: b́nh bát sắt và b́nh bát đất.

 

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.

 

Tấm lót ngồi nghĩa là vật có đường biên được nói đến.

 

Ống đựng kim nghĩa là có kim hoặc không có kim.

 

Dây thắt lưng nghĩa là có hai loại dây thắt lưng: loại tết bằng vải sợi, loại tết kiểu đuôi heo.

 

Thu giấu: vị tự ḿnh thu giấu th́ phạm tội pācittiya.

 

Bảo thu giấu: vị ra lệnh vị khác th́ phạm tội pācittiya. Khi được ra lệnh một lần, dầu (vị kia) thu giấu nhiều lần (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya.

 

Cho dầu chỉ muốn cười giỡn: là có ư định đùa nghịch.

 

Vị đă tu lên bậc trên, nhận biết là đă tu lên bậc trên, vị thu giấu hoặc bảo thu giấu b́nh bát hoặc y hoặc tấm lót ngồi hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng cho dầu chỉ muốn cười giỡn th́ phạm tội pācittiya. Vị đă tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Vị đă tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị thu giấu hoặc bảo thu giấu b́nh bát hoặc y hoặc tấm lót ngồi hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng cho dầu chỉ muốn cười giỡn th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị thu giấu hoặc bảo thu giấu vật dụng khác cho dầu chỉ muốn cười giỡn th́ phạm tội dukkaṭa. Vị thu giấu hoặc bảo thu giấu b́nh bát hoặc y hoặc vật dụng khác của người chưa tu lên bậc trên cho dầu chỉ muốn cười giỡn th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đă tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.

 

Không có ư định đùa giỡn, vị thu dọn vật được để lộn xộn, vị thu dọn (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ cho lại sau khi thuyết giảng bài Pháp,’ vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về việc thu giấu y là thứ mười.

 

Phẩm Uống Rượu là thứ sáu.

 

--ooOoo--

 

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

 

Rượu, ngón tay, việc chơi giỡn (ở trong nước), sự không tôn trọng, sự làm cho kinh sợ, ngọn lửa, việc tắm, việc hoại sắc, đích thân (chú nguyện), và việc thu giấu.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 7. PHẨM CÓ SINH VẬT

 

 

6. 7. 1. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC CỐ Ư (GIẾT) SINH VẬT

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là cung thủ. Và các con quạ làm vị ấy không vui. Vị ấy sau khi lần lượt bắn trúng các con quạ rồi đă chặt đầu và cắm thành xâu ở cây cọc nhọn. Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này đại đức, ai đă đoạt lấy mạng sống các con quạ này vậy?” - “Này các đại đức, chính tôi. Các con quạ làm tôi không vui.”

 

2. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Udāyi lại cố ư đoạt lấy mạng sống sinh vật?” ―(như trên)― “Này Udāyi, nghe nói ngươi cố ư đoạt lấy mạng sống sinh vật, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại cố ư đoạt lấy mạng sống sinh vật vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào cố ư đoạt lấy mạng sống sinh vật th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Cố ư: sự vi phạm trong khi biết, trong khi có ư định, sau khi đă suy nghĩ, sau khi đă khẳng định.

 

Sinh vật nghĩa là đề cập đến sinh vật là loài thú.

 

Đoạt lấy mạng sống: vị cắt đứt mạng quyền, làm hủy hoại, làm tổn hại sự tiếp nối th́ phạm tội pācittiya.

 

Sinh vật, nhận biết là sinh vật, vị đoạt lấy mạng sống th́ phạm tội pācittiya. Sinh vật, có sự hoài nghi, vị đoạt lấy mạng sống th́ phạm tội dukkaṭa. Sinh vật, (lầm) tưởng không phải là sinh vật, vị đoạt lấy mạng sống th́ vô tội.

 

4. Không phải là sinh vật, (lầm) tưởng là sinh vật, phạm tội dukkaṭa. Không phải là sinh vật, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là sinh vật, nhận biết không phải là sinh vật th́ vô tội.

 

5. Không cố ư, khi thất niệm, vị không biết, vị không có ư định gây tử vong, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về việc cố ư (giết) sinh vật là thứ nhất.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 7. 2. ĐIỀU HỌC VỀ (NƯỚC) CÓ SINH VẬT

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi biết nước có sinh vật vẫn sử dụng.

 

Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi biết nước có sinh vật vẫn sử dụng?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi trong khi biết nước có sinh vật vẫn sử dụng, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi trong khi biết nước có sinh vật vẫn sử dụng vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào trong khi biết nước có sinh vật vẫn sử dụng th́ phạm tội pācittiya.”

 

2. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Biết nghĩa là tự ḿnh biết hoặc những người khác thông báo cho vị ấy. Trong khi biết rằng: ‘Có sinh vật,’ trong khi biết rằng: ‘Chúng sẽ bị chết do việc sử dụng,’ vị sử dụng th́ phạm tội pācittiya.

 

Có sinh vật, nhận biết là có sinh vật, vị sử dụng th́ phạm tội pācittiya. Có sinh vật, có sự hoài nghi, vị sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa. Có sinh vật, (lầm) tưởng là không có sinh vật, vị sử dụng th́ vô tội.

 

Không có sinh vật, (lầm) tưởng là có sinh vật, phạm tội dukkaṭa. Không có sinh vật, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không có sinh vật, nhận biết là không có sinh vật th́ vô tội.

 

Trong khi biết rằng: ‘Không có sinh vật,’ trong khi biết rằng: ‘Chúng sẽ không bị chết do việc sử dụng’ rồi sử dụng, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về (nước) có sinh vật là thứ nh́.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 7. 3. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC KHƠI LẠI

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi biết sự tranh tụng đă được giải quyết đúng theo Pháp vẫn khơi lại để làm hành sự lần nữa (nói rằng): - “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đă được thực hiện sai nên được thực hiện lại, hành sự chưa được giải quyết, đă được giải quyết sai nên được giải quyết lại.

 

Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi biết sự tranh tụng đă được giải quyết đúng theo Pháp vẫn khơi lại để làm hành sự lần nữa?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi trong khi biết sự tranh tụng đă được giải quyết đúng theo Pháp vẫn khơi lại để làm hành sự lần nữa, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi trong khi biết sự tranh tụng đă được giải quyết đúng theo Pháp vẫn khơi lại để làm hành sự lần nữa vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào trong khi biết sự tranh tụng đă được giải quyết đúng theo pháp vẫn khơi lại để làm hành sự lần nữa th́ phạm tội pācittiya.”

 

2. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Biết nghĩa là tự ḿnh biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.

 

Đúng theo pháp nghĩa là được thực hiện theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo Sư; việc này gọi là đúng theo pháp.

 

Sự tranh tụng nghĩa là có bốn sự tranh tụng: sự tranh tụng liên quan đến tranh căi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.

 

Khơi lại để làm hành sự lần nữa: vị khơi lại (nói rằng): “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đă được thực hiện sai nên được thực hiện lại, hành sự chưa được giải quyết, đă được giải quyết sai nên được giải quyết lại” th́ phạm tội pācittiya.

 

Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị khơi lại th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị khơi lại th́ phạm tội dukkaṭa. Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị khơi lại th́ vô tội.

 

Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp th́ vô tội.

 

Vị khơi lại trong khi biết rằng: ‘Hành sự đă được thực hiện hoặc là sai pháp, hoặc là theo phe nhóm, hoặc là đến vị không đáng bị hành sự,’ vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về việc khơi lại là thứ ba.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 7. 4. ĐIỀU HỌC VỀ TỘI XẤU XA

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya sau khi vi phạm tội làm xuất ra tinh dịch có sự cố ư đă thông báo đến vị tỳ khưu là đệ tử của người anh rằng: - “Này đại đức, tôi đă vi phạm tội làm xuất ra tinh dịch có sự cố ư. Chớ thông báo cho bất cứ ai.” Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi vi phạm tội làm xuất ra tinh dịch có sự cố ư đă cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa của tội ấy. Hội chúng đă ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, vị nọ sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu ấy đă nói điều này: - “Này đại đức, sau khi vi phạm tội làm xuất ra tinh dịch có sự cố ư tôi đă cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa của tội ấy. Hội chúng đă ban hành phạt parivāsa của tội ấy đến tôi đây. Tôi đây đang thực hành parivāsa. Này đại đức, tôi xin tŕnh báo. Đại đức hăy ghi nhận về tôi là: ‘Vị có tŕnh báo.’”

 

2. - “Này đại đức, vị nào khác vi phạm tội này, có phải vị ấy cũng làm như vầy?” - “Này đại đức, đúng vậy.” - “Này đại đức, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya này sau khi vi phạm tội làm xuất ra tinh dịch có sự cố ư, vị ấy đă thông báo đến tôi rằng: ‘Chớ thông báo cho bất cứ ai.’” - “Này đại đức, có phải đại đức đă che giấu?” - “Này đại đức, đúng vậy.” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

 

- “V́ sao vị tỳ khưu trong khi biết tội xấu xa của vị tỳ khưu vẫn che giấu?” ―(như trên)― “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi trong khi biết tội xấu xa của vị tỳ khưu vẫn che giấu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi trong khi biết tội xấu xa của vị tỳ khưu vẫn che giấu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào trong khi biết tội xấu xa của vị tỳ khưu vẫn che giấu th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Của vị tỳ khưu nghĩa là của vị tỳ khưu khác.

 

Biết nghĩa là tự ḿnh biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.

 

Tội xấu xa nghĩa là bốn tội pārājika và mười ba tội saṅghādisesa.

 

Che giấu: Vị (nghĩ rằng): “Sau khi biết được điều này, các vị sẽ quở trách, các vị sẽ nhắc nhở, các vị sẽ rầy la, các vị sẽ chê bai, các vị sẽ làm cho xấu hổ; ta sẽ không thông báo,” khi vừa buông bỏ trách nhiệm th́ phạm tội pācittiya.

 

Tội xấu xa, nhận biết là tội xấu xa, vị che giấu th́ phạm tội pācittiya. Tội xấu xa, có sự hoài nghi, vị che giấu th́ phạm tội dukkaṭa. Tội xấu xa, (lầm) tưởng là tội không xấu xa, vị che giấu th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Vị che giấu tội không xấu xa th́ phạm tội dukkaṭa. Vị che giấu sự vi phạm xấu xa hoặc không xấu xa của người chưa tu lên bậc trên th́ phạm tội dukkaṭa. Tội không xấu xa, (lầm) tưởng là tội xấu xa, phạm tội dukkaṭa. Tội không xấu xa, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Tội không xấu xa, nhận biết là tội không xấu xa, phạm tội dukkaṭa.

 

Vị (nghĩ rằng): ‘Sẽ có sự xung đột, hoặc sự căi cọ, hoặc sự tranh luận, hoặc sự tranh căi đến hội chúng’ rồi không thông báo, vị (nghĩ rằng): ‘Sẽ có sự chia rẽ hội chúng hoặc là sự bất đồng trong hội chúng’ rồi không thông báo, vị (nghĩ rằng): ‘Vị này hung bạo thô lỗ sẽ gây nguy hiểm đến mạng sống hoặc nguy hiểm đến Phạm hạnh’ rồi không thông báo, trong khi không nh́n thấy các tỳ khưu thích hợp khác rồi không thông báo, vị không có ư định che giấu rồi không thông báo, vị (nghĩ rằng): ‘Sẽ được nhận biết do hành động của chính vị ấy’ rồi không thông báo, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về tội xấu xa là thứ tư.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 7. 5. ĐIỀU HỌC VỀ NGƯỜI KÉM HAI MƯƠI TUỔI

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, trong thành Rājagaha có nhóm mười bảy thiếu niên là bạn bè. Thiếu niên Upāli là thủ lănh của chúng. Khi ấy, cha mẹ của Upāli đă khởi ư điều này: “Có phương cách ǵ để sau khi chúng ta từ trần, Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc?” Rồi cha mẹ của Upāli đă khởi ư điều này: “Nếu Upāli có thể học chữ viết, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đă khởi ư điều này: “Nếu Upāli học chữ viết th́ các ngón tay sẽ bị đau.” Rồi cha mẹ của Upāli đă khởi ư điều này: “Nếu Upāli có thể học tính toán, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đă khởi ư điều này: “Nếu Upāli học tính toán th́ ngực sẽ bị đau. Nếu Upāli có thể học hội họa, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đă khởi ư điều này: “Nếu Upāli học hội họa th́ các con mắt sẽ bị đau.

 

2. C̣n những Sa-môn Thích tử này có giới luật thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm ngủ trên những cái giường kín gió, nếu Upāli có thể xuất gia nơi các vị Sa-môn Thích tử, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.”

 

Thiếu niên Upāli đă nghe được cuộc nói chuyện trao đổi này của cha mẹ. Sau đó, thiếu niên Upāli đă đi đến gặp những thiếu niên ấy, sau khi đến đă nói với những thiếu niên ấy điều này: - “Này các bạn, hăy đến, chúng ta sẽ xuất gia nơi các vị Sa-môn Thích tử.” - “Này bạn, nếu bạn sẽ xuất gia, như thế chúng tôi cũng sẽ xuất gia.”

 

3. Sau đó, những thiếu niên ấy đă đi đến gặp cha mẹ của từng người một và đă nói điều này: - “Hăy cho phép chúng con rời nhà xuất gia sống không nhà.” Khi ấy, cha mẹ của những thiếu niên ấy (nghĩ rằng): “Tất cả những đứa trẻ này có cùng ước muốn, có ư định tốt đẹp” rồi đă chấp thuận. Chúng đă đi đến gặp các tỳ khưu và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu đă cho chúng xuất gia và đă cho tu lên bậc trên. Các vị ấy, vào lúc hừng sáng của đêm, sau khi thức dậy khóc lóc rằng: - “Hăy cho cháo, hăy cho bữa ăn, hăy cho vật để nhai.” Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này các sư đệ, hăy chờ đến khi trời sáng. nếu có cháo th́ các đệ sẽ húp cháo, nếu có bữa ăn th́ các đệ sẽ ăn, nếu có vật để nhai th́ các đệ sẽ nhai; c̣n nếu cháo, hoặc bữa ăn, hoặc vật để nhai không có, th́ các đệ sẽ ăn sau khi đi khất thực.” Mặc dầu được các tỳ khưu nói như thế, các tỳ khưu (thiếu niên) ấy cũng vẫn khóc lóc rằng: - “Hăy cho cháo, hăy cho bữa ăn, hăy cho vật để nhai.” Rồi đă tiêu tiểu ở chỗ nằm ngồi. Đức Thế Tôn sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm đă nghe được tiếng của các đứa trẻ, sau khi nghe đă bảo đại đức Ānanda rằng: - “Này Ānanda, tiếng của các đứa trẻ ấy là ǵ vậy?” Khi ấy, đại đức Ānanda đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

4. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại rồi đă hỏi các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu trong khi biết người chưa đủ hai mươi tuổi vẫn cho tu lên bậc trên, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, v́ sao những kẻ rồ dại ấy trong khi biết người chưa đủ hai mươi tuổi vẫn cho tu lên bậc trên vậy? Này các tỳ khưu, người chưa đủ hai mươi tuổi không có khả năng chịu đựng đối với sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài ḅ sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đă sanh khởi. Và này các tỳ khưu, người đă được hai mươi tuổi có khả năng chịu đựng đối với sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài ḅ sát, các lối nói lăng mạ công kích, có khuynh hướng cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đă sanh khởi. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào trong khi biết người chưa đủ hai mươi tuổi vẫn cho tu lên bậc trên th́ người ấy chưa được tu lên bậc trên và các vị tỳ khưu ấy bị chê trách; đây là tội pācittiya trong trường hợp ấy.”

 

5. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Biết nghĩa là tự ḿnh biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.

 

Người chưa đủ hai mươi tuổi nghĩa là người chưa đạt được hai mươi tuổi.

 

(Nghĩ rằng): ‘Ta sẽ cho tu lên bậc trên’ rồi t́m kiếm nhóm (tỳ khưu), hoặc vị thầy (đọc tuyên ngôn), hoặc là b́nh bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới th́ phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị th́ phạm tội dukkaṭa. Do hai lời tuyên ngôn của hành sự th́ phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn của hành sự, thầy tế độ phạm tội pācittiya, nhóm (chứng minh) và vị thầy (đọc tuyên ngôn) phạm tội dukkaṭa.

 

Người chưa đủ hai mươi tuổi, nhận biết là chưa đủ hai mươi tuổi, vị cho tu lên bậc trên th́ phạm tội pācittiya. Người chưa đủ hai mươi tuổi, có sự hoài nghi, vị cho tu lên bậc trên th́ phạm tội pācittiya. Người chưa đủ hai mươi tuổi, (lầm) tưởng là tṛn đủ hai mươi tuổi, vị cho tu lên bậc trên th́ vô tội.

 

Người tṛn đủ hai mươi tuổi, (lầm) tưởng là chưa đủ hai mươi tuổi, phạm tội dukkaṭa. Người tṛn đủ hai mươi tuổi, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người tṛn đủ hai mươi tuổi, nhận biết là tṛn đủ hai mươi tuổi th́ vô tội.

 

Vị cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi (lầm) tưởng là tṛn đủ hai mươi tuổi, vị cho tu lên bậc trên người tṛn đủ hai mươi tuổi khi nhận biết là tṛn đủ hai mươi tuổi, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”[5]

 

Điều học về người kém hai mươi tuổi là thứ năm.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 7. 6. ĐIỀU HỌC VỀ ĐÁM NGƯỜI ĐẠO TẶC

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có đoàn xe nọ có ư định đi về phía tây của thành Rājagaha. Có vị tỳ khưu nọ đă nói với những người ấy điều này: - “Tôi cũng sẽ cùng đi với quư vị.” - “Thưa ngài, chúng tôi sẽ đi ṿng tránh trạm thuế.” - “Này các đạo hữu, các người tự biết lấy.” Những viên chức đă nghe được rằng: “Nghe nói đoàn xe sẽ đi ṿng tránh trạm thuế” nên họ đă canh giữ các con đường. Sau đó, những viên chức ấy đă bắt được đoàn xe ấy, đă tịch thu, rồi đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Thưa ngài, v́ sao trong khi ngài biết mà vẫn đi chung với đám người đạo tặc?” Sau khi giữ lại, họ đă thả ra. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi đến thành Sāvatthī và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

 

- “V́ sao vị tỳ khưu trong khi biết vẫn hẹn trước rồi đi chung đường xa với đám người đạo tặc?” ―(như trên)― “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi trong khi biết vẫn hẹn trước rồi đi chung đường xa với đám người đạo tặc, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi trong khi biết vẫn hẹn trước rồi đi chung đường xa với đám người đạo tặc vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào trong khi biết vẫn hẹn trước rồi đi chung đường xa với đám người đạo tặc ngay cả từ làng này sang làng khác th́ phạm tội pācittiya.”

 

2. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Biết nghĩa là tự ḿnh biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.

 

Đám người đạo tặc nghĩa là bọn trộm cướp có các hành động đă được thực hiện, hoặc có các hành động chưa được thực hiện, hoặc là họ đi trộm của các vị vua, hoặc đi ṿng tránh trạm thuế.

 

Với: cùng chung.

 

(Sau khi) hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này các đạo hữu, chúng ta hăy đi. Thưa ngài, chúng ta hăy đi. Thưa ngài, chúng ta hăy đi. Này các đạo hữu, chúng ta hăy đi. Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày mai chúng ta hăy đi” th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Ngay cả từ làng này sang làng khác: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống th́ phạm tội pācittiya theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, th́ phạm tội pācittiya theo từng khoảng cách nửa do-tuần.

 

Đám người đạo tặc, nhận biết là đám người đạo tặc, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác th́ phạm tội pācittiya. Đám người đạo tặc, có sự hoài nghi, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác th́ phạm tội dukkaṭa. Đám người đạo tặc, (lầm) tưởng không phải là đám người đạo tặc, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác th́ vô tội.

 

Vị tỳ khưu hẹn trước c̣n đám người không hẹn trước th́ phạm tội dukkaṭa. Không phải là đám người đạo tặc, (lầm) tưởng là đám người đạo tặc, phạm tội dukkaṭa. Không phải là đám người đạo tặc, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là đám người đạo tặc, nhận biết không phải là đám người đạo tặc th́ vô tội.

 

Sau khi không hẹn trước rồi đi, đám người hẹn trước c̣n vị tỳ khưu không hẹn trước, vị đi ngoài giờ hẹn ước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về đám người đạo tặc là thứ sáu.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 7. 7. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC HẸN TRƯỚC

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc đi đến thành Sāvatthī ở trong xứ sở Kosala đă đi ngang qua cổng làng nọ. Có người đàn bà nọ sau khi gây gỗ với chồng đă đi ra khỏi làng, sau khi nh́n thấy vị tỳ khưu ấy đă nói điều này: - “Thưa ngài, ngài đại đức sẽ đi đâu?” - “Này chị gái, tôi sẽ đi thành Sāvatthī.” - “Tôi sẽ cùng đi với ngài đại đức.” - “Này chị gái, cô có thể đi.” Sau đó, chồng của người đàn bà ấy đă đi ra khỏi làng và đă hỏi dân chúng rằng: - “Này quư vị, quư vị có nh́n thấy người đàn bà h́nh dáng như vầy không?” - “Này ông, cô ấy đi với vị xuất gia rồi.” Sau đó, người đàn ông ấy đă đuổi theo và nắm lấy vị tỳ khưu ấy, đă đánh đập, rồi thả ra. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy trong lúc giận dỗi đă ngồi xuống ở gốc cây nọ. Khi ấy, người đàn bà ấy đă nói với người đàn ông ấy điều này: - “Này ông, vị tỳ khưu ấy đă không dụ dỗ tôi đi, mà chính tôi đi chung với vị tỳ khưu ấy. Vị tỳ khưu ấy không làm ǵ cả. Hăy đi đến và xin lỗi vị ấy.” Khi ấy, người đàn ông ấy đă xin lỗi vị tỳ khưu ấy.

 

2. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đi đến thành Sāvatthī và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao vị tỳ khưu lại hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ?” ―(như trên)― “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ ngay cả từ làng này sang làng khác th́ phạm tội pācittiya.”

 

3. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Người nữ nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có trí suy xét, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là (lời nói) thô tục và không thô tục.

 

Với: cùng chung.

 

(Sau khi) hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này chị gái, chúng ta hăy đi. Thưa ngài, chúng ta hăy đi. Thưa ngài, chúng ta hăy đi. Này chị gái, chúng ta hăy đi. Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày mai chúng ta hăy đi” th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Ngay cả từ làng này sang làng khác: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống th́ phạm tội pācittiya theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, th́ phạm tội pācittiya theo từng khoảng cách nửa do-tuần.

 

Người nữ, nhận biết là người nữ, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác th́ phạm tội pācittiya. Người nữ, có sự hoài nghi, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác th́ phạm tội pācittiya. Người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị tỳ khưu hẹn trước c̣n người nữ không hẹn trước th́ phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu hẹn trước rồi đi chung đường xa với nữ Dạ-xoa, hoặc với ma nữ, hoặc với người vô căn, hoặc với loài thú cái h́nh người ngay cả từ làng này sang làng khác th́ phạm tội dukkaṭa.

 

Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ th́ vô tội.

 

Sau khi không hẹn trước rồi đi, người nữ hẹn trước c̣n vị tỳ khưu không hẹn trước, vị đi ngoài giờ hẹn ước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về việc hẹn trước là thứ bảy.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 7. 8. ĐIỀU HỌC VỀ VỊ ARIṬṬHA

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu tên Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng có tà kiến ác sanh khởi như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” Nhiều vị tỳ khưu đă nghe được rằng: - “Nghe nói tỳ khưu tên Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng đă có tà kiến ác sanh khởi như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’”

 

2. Sau đó, các tỳ khưu ấy đă đi đến gặp tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng, sau khi đến đă nói với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng điều này: - “Này đại đức Ariṭṭha, nghe nói đại đức đă có tà kiến ác sanh khởi như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành,’ có đúng không vậy?” - “Này các đại đức, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” - “Này đại đức Ariṭṭha, chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi v́ việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi v́ đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức Ariṭṭha, đức Thế Tôn đă giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại ấy có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành. Đức Thế Tôn đă giảng giải rằng dục t́nh chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi c̣n nhiều hơn. Dục t́nh đă được đức Thế Tôn giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi c̣n nhiều hơn. Dục t́nh đă được đức Thế Tôn giảng giải như là miếng thịt, ―(như trên)― Dục t́nh đă được đức Thế Tôn giảng giải như là cây đuốc cỏ, ―(như trên)― Dục t́nh đă được đức Thế Tôn giảng giải như là hố than cháy rực, ―(như trên)― Dục t́nh đă được đức Thế Tôn giảng giải như là giấc mơ, ―(như trên)― Dục t́nh đă được đức Thế Tôn giảng giải như là vật vay mượn, ―(như trên)― Dục t́nh đă được đức Thế Tôn giảng giải như là trái trên cây, ―(như trên)― Dục t́nh đă được đức Thế Tôn giảng giải như là ḷ sát sanh, ―(như trên)― Dục t́nh đă được đức Thế Tôn giảng giải như là mũi lao nhọn, ―(như trên)― Dục t́nh đă được đức Thế Tôn giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi c̣n nhiều hơn.”

 

3. Khi được các tỳ khưu ấy nói như thế, tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng do có sự ngoan cố, chấp giữ, và bảo thủ tà kiến ác ấy nên vẫn phát biểu giống như thế: - “Này các đại đức, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” Và như thế, các tỳ khưu ấy đă không thể giúp cho tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng thoát khỏi tà kiến ác ấy. Sau đó, các tỳ khưu ấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

4. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng rằng: - “Này Ariṭṭha, nghe nói tà kiến ác đă sanh khởi ở ngươi như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành,’ có đúng không vậy?” - “Bạch ngài, đúng như vậy. Theo như con hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” - “Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại hiểu Pháp được ta thuyết giảng là như thế? Này kẻ rồ dại, không phải ta đă giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành? Dục t́nh đă được ta giảng giải là chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi c̣n nhiều hơn. Dục t́nh đă được ta giảng giải như là bộ xương, ―(như trên)― Dục t́nh đă được ta giảng giải như là miếng thịt, ―(như trên)― Dục t́nh đă được ta giảng giải như là cây đuốc cỏ, ―(như trên)― Dục t́nh đă được ta giảng giải như là hố than cháy rực, ―(như trên)― Dục t́nh đă được ta giảng giải như là giấc mơ, ―(như trên)― Dục t́nh đă được ta giảng giải như là vật vay mượn, ―(như trên)― Dục t́nh đă được ta giảng giải như là trái trên cây, ―(như trên)― Dục t́nh đă được ta giảng giải như là ḷ sát sanh, ―(như trên)― Dục t́nh đă được ta giảng giải như là mũi lao nhọn, ―(như trên)― Dục t́nh đă được ta giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi c̣n nhiều hơn.

 

5. Và này kẻ rồ dại, hơn nữa ngươi không những vu khống ta do sự hiểu biết sai lạc của bản thân mà ngươi c̣n làm tổn hại chính bản thân và tích lũy nhiều điều vô phước nữa. Này kẻ rồ dại, bởi v́ điều ấy sẽ đem lại cho ngươi sự thất bại và khổ đau lâu dài. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào nói như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị tỳ khưu ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như vầy: ‘Đại đức chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi v́ việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi v́ đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức, đức Thế Tôn đă giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu mà vị tỳ khưu ấy vẫn chấp giữ y như thế, th́ vị tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội pācittiya.”

 

6. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Nói như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’

 

Vị tỳ khưu ấy: là vị tỳ khưu nói như thế.

 

Bởi các tỳ khưu: bởi các vị tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: ‘Đại đức chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi v́ việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi v́ đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức, đức Thế Tôn đă giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Nên được nói đến lần thứ nh́. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị sau khi nghe mà không nói th́ phạm tội dukkaṭa.

 

7. Vị tỳ khưu ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: ‘Đại đức chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi v́ việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi v́ đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức, đức Thế Tôn đă giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Nên được nói đến lần thứ nh́. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ phạm tội dukkaṭa.

 

8. Vị tỳ khưu ấy cần được các tỳ khưu nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đă có tà kiến ác sanh khởi như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đă có tà kiến ác sanh khởi như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy. Đại đức nào đồng ư việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nh́: ―(như trên)―

 

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đă có tà kiến ác sanh khởi như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy. Đại đức nào đồng ư việc nhắc nhở vị tỳ khưu tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Vị tỳ khưu tên (như vầy) đă được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ tà kiến ấy. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

9. Do lời đề nghị th́ phạm tội dukkaṭa. Do hai lời tuyên ngôn của hành sự th́ phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn của hành sự th́ phạm tội pācittiya.

 

Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ th́ phạm tội pācittiya. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ th́ phạm tội pācittiya.

 

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa.

 

Vị chưa được nhắc nhở, vị dứt bỏ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về vị Ariṭṭha là thứ tám.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 7. 9. ĐIỀU HỌC VỀ VIỆC HƯỞNG THỤ CHUNG VỚI VỊ BỊ ÁN TREO

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi biết tỳ khưu Ariṭṭha là vị phát ngôn như thế, là vị không thực hành thuận pháp và không dứt bỏ tà kiến ấy mà vẫn hưởng thụ chung, vẫn cộng trú, vẫn nằm chung chỗ ngụ. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi biết tỳ khưu Ariṭṭha là vị phát ngôn như thế, là vị không thực hành thuận pháp và không dứt bỏ tà kiến ấy mà vẫn hưởng thụ chung, vẫn cộng trú, vẫn nằm chung chỗ ngụ?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi trong khi biết tỳ khưu Ariṭṭha là vị phát ngôn như thế, là vị không thực hành thuận pháp và không dứt bỏ tà kiến ấy mà vẫn hưởng thụ chung, vẫn cộng trú, vẫn nằm chung chỗ ngụ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi trong khi biết tỳ khưu Ariṭṭha là vị phát ngôn như thế, là vị không thực hành thuận pháp và không dứt bỏ tà kiến ấy mà vẫn hưởng thụ chung, vẫn cộng trú, vẫn nằm chung chỗ ngụ vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Vị tỳ khưu nào trong khi biết vị tỳ khưu là vị phát ngôn như thế, là vị không thực hành thuận pháp, và không dứt bỏ tà kiến ấy mà vẫn hưởng thụ chung, hoặc vẫn cộng trú, hoặc vẫn nằm chung chỗ ngụ th́ phạm tội pācittiya.”

 

2. Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Biết nghĩa là tự ḿnh biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.

 

Vị phát ngôn như thế: là vị nói như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’

 

Không thực hành thuận pháp nghĩa là bị phạt án treo, chưa được phục hồi.

 

Với vị không dứt bỏ tà kiến ấy: với vị không dứt bỏ tà kiến đó.

 

(Hoặc vẫn) hưởng thụ chung: sự hưởng thụ chung nghĩa là có hai sự hưởng thụ chung: Sự hưởng thụ chung về vật chất và sự hưởng thụ chung về Pháp. Sự hưởng thụ chung về vật chất nghĩa là vị cho hoặc thọ nhận vật chất th́ phạm tội pācittiya. Sự hưởng thụ chung về Pháp nghĩa là vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo câu th́ phạm tội pācittiya theo mỗi một câu. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo từ th́ phạm tội pācittiya theo mỗi một từ.

 

Hoặc (vẫn) cộng trú: Vị thực hiện lễ Uposatha hoặc lễ Pavāraṇā hoặc hành sự của hội chúng cùng với vị bị phạt án treo th́ phạm tội pācittiya.

 

Hoặc (vẫn) nằm chung chỗ ngụ: Ở chỗ chung mái che, khi vị bị phạt án treo đang nằm vị tỳ khưu nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Khi vị tỳ khưu đang nằm, vị bị phạt án treo nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Sau khi đứng dậy, (cả hai) lại nằm xuống th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị bị phạt án treo, nhận biết là bị phạt án treo, vị hưởng thụ chung hoặc cộng trú hoặc nằm chung chỗ ngụ th́ phạm tội pācittiya. Vị bị phạt án treo, có sự hoài nghi, vị hưởng thụ chung hoặc cộng trú hoặc nằm chung chỗ ngụ th́ phạm tội dukkaṭa. Vị bị phạt án treo, (lầm) tưởng là không bị phạt án treo, vị hưởng thụ chung hoặc cộng trú hoặc nằm chung chỗ ngụ th́ vô tội.

 

Vị không bị phạt án treo, (lầm) tưởng là bị phạt án treo, phạm tội dukkaṭa. Vị không bị phạt án treo, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Vị không bị phạt án treo, nhận biết là không bị phạt án treo th́ vô tội.

 

Vị biết rằng: ‘Vị không bị phạt án treo,’ vị biết rằng: ‘Vị đă bị phạt án treo và đă được phục hồi,’ vị biết rằng: ‘Vị đă dứt bỏ tà kiến ấy,’ vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về việc hưởng thụ chung với vị bị án treo là thứ chín.

 

--ooOoo--

 

 

 

6. 7. 10. ĐIỀU HỌC VỀ SA DI KAṆṬAKA

 

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, sa di tên Kaṇṭaka có tà kiến ác sanh khởi như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” Nhiều vị tỳ khưu đă nghe được rằng: - “Nghe nói sa di tên Kaṇṭaka đă có tà kiến ác sanh khởi như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’” Sau đó, các tỳ khưu ấy đă đi đến gặp sa di tên Kaṇṭaka, sau khi đến đă nói với sa di tên Kaṇṭaka điều này: - “Này sa di Kaṇṭaka, nghe nói ngươi đă có tà kiến ác sanh khởi như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành,’ có đúng không vậy?” - “Thưa các ngài, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”

 

2. - “Này sa di Kaṇṭaka, chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi v́ việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi v́ đức Thế Tôn không có nói như thế. Này sa di Kaṇṭaka, đức Thế Tôn đă giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành. Đức Thế Tôn đă giảng giải rằng dục t́nh chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi c̣n nhiều hơn. Dục t́nh đă được đức Thế Tôn giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi c̣n nhiều hơn. ―(như trên)―

 

―(như trên)― Dục t́nh đă được đức Thế Tôn giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi c̣n nhiều hơn.” Khi được các vị tỳ khưu ấy nói như thế, sa di Kaṇṭaka do có sự ngoan cố, chấp giữ, và bảo thủ tà kiến ác ấy nên vẫn phát biểu giống như thế: - “Thưa các ngài, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”

 

3. Và như thế, các vị tỳ khưu ấy đă không thể giúp cho sa di Kaṇṭaka thoát khỏi tà kiến ác ấy. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đă hỏi sa di Kaṇṭaka rằng: - “Này Kaṇṭaka, nghe nói tà kiến ác đă sanh khởi ở ngươi như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành,’ có đúng không vậy?” - “Bạch ngài, đúng như vậy. Theo như con hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”

 

4. - “Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi lại hiểu Pháp được ta thuyết giảng là như thế? Này kẻ rồ dại, không phải ta đă giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành? Dục t́nh đă được ta giảng giải là chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi c̣n nhiều hơn. Dục t́nh đă được ta giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi c̣n nhiều hơn. ―(như trên)― Dục t́nh đă được ta giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi c̣n nhiều hơn. Và này kẻ rồ dại, hơn nữa ngươi không những vu khống ta do sự hiểu biết sai lạc của bản thân mà ngươi c̣n làm tổn hại chính bản thân và tích lũy nhiều điều vô phước nữa. Này kẻ rồ dại, bởi v́ điều ấy sẽ đem lại cho ngươi sự thất bại và khổ đau lâu dài. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, như thế th́ hội chúng hăy trục xuất sa di Kaṇṭaka. Và này các tỳ khưu, nên trục xuất như vầy: ‘Này sa di Kaṇṭaka, kể từ hôm nay không được tuyên bố đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của ngươi nữa. Ngay cả việc các sa di khác được hưởng là việc nằm chung chỗ ngụ với các tỳ khưu hai ba đêm, việc ấy không có cho ngươi nữa. Hăy đi chỗ khác, hăy biến mất đi.’” Sau đó, hội chúng đă trục xuất sa di Kaṇṭaka.

 

 Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi biết sa di Kaṇṭaka là kẻ đă bị trục xuất như thế mà vẫn dụ dỗ, vẫn bảo phục vụ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi biết sa di Kaṇṭaka là kẻ đă bị trục xuất như thế mà vẫn dụ dỗ, vẫn bảo phục vụ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi trong khi biết sa di Kaṇṭaka là kẻ đă bị trục xuất như thế mà vẫn dụ dỗ, vẫn bảo phục vụ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, v́ sao các ngươi trong khi biết sa di Kaṇṭaka là kẻ đă bị trục xuất như thế mà vẫn dụ dỗ, vẫn bảo phục vụ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 

Nếu có vị sa di nói như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị sa di ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như sau: ‘Này ông sa di, ngươi chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi v́ việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi v́ đức Thế Tôn không có nói như thế. Này ông sa di, đức Thế Tôn đă giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Và khi được các tỳ khưu nói như vậy mà vị sa di ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị sa di ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như sau: ‘Này ông sa di, kể từ hôm nay không được tuyên bố đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo sư của ngươi nữa. Ngay cả việc các sa di khác được hưởng là việc nằm chung chỗ ngụ với các tỳ khưu hai ba đêm, việc ấy không có cho ngươi nữa. Hăy đi chỗ khác, hăy biến mất đi.’ Vị tỳ khưu nào trong khi biết vị sa di là kẻ đă bị trục xuất như thế mà vẫn dụ dỗ, hoặc vẫn bảo phục vụ, hoặc vẫn hưởng thụ chung, hoặc vẫn nằm chung chỗ ngụ th́ phạm tội pācittiya.”

 

6. Vị sa di nghĩa là vị sāmaṇera được nói đến.

 

Nói như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đă được đức Thế Tôn thuyết giảng th́ những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’

 

Vị sa di ấy: là vị sa di nói như thế.

 

Bởi các tỳ khưu: bởi các tỳ khưu khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: ‘Này ông sa di, ngươi chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi v́ việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi v́ đức Thế Tôn không có nói như thế. Này ông sa di, đức Thế Tôn đă giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Nên được nói đến lần thứ nh́. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị sa di ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ th́ vị sa di ấy nên được nói bởi các tỳ khưu như sau: ‘Này ông sa di, kể từ hôm nay không được tuyên bố đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo sư của ngươi nữa, và việc các sa di khác được hưởng là việc nằm chung chỗ ngụ với các tỳ khưu hai ba đêm, ngay cả việc ấy không có cho ngươi nữa. Hăy đi chỗ khác, hăy biến mất đi.’

 

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―

 

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ư nghĩa này.

 

Biết nghĩa là tự ḿnh biết, hoặc những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.

 

Đă bị trục xuất như thế: đă bị trục xuất như vậy.

 

Vị sa di nghĩa là vị sāmaṇera được nói đến.

 

Hoặc vẫn dụ dỗ: Vị dụ dỗ (nói rằng): ‘Ta sẽ cho ngươi b́nh bát hoặc y hoặc sự đọc tụng hoặc sự hỏi han’ th́ phạm tội pācittiya.

 

Hoặc vẫn bảo phục vụ: Vị chấp nhận bột tắm hoặc đất sét hoặc gỗ chà răng hoặc nước rửa mặt của vị (sa di) ấy th́ phạm tội pācittiya.

 

Hoặc vẫn hưởng thụ chung: sự hưởng thụ chung nghĩa là có hai sự hưởng thụ chung: Sự hưởng thụ chung về vật chất và sự hưởng thụ chung về Pháp. Sự hưởng thụ chung về vật chất nghĩa là vị cho hoặc thọ nhận vật chất th́ phạm tội pācittiya. Sự hưởng thụ chung về Pháp nghĩa là vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo câu th́ phạm tội pācittiya theo mỗi một câu. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo từ th́ phạm tội pācittiya theo mỗi một từ.

 

Hoặc vẫn nằm chung chỗ ngụ: ở chỗ chung mái che, khi vị sa di bị trục xuất đang nằm vị tỳ khưu nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Khi vị tỳ khưu đang nằm, vị sa di bị trục xuất nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai nằm xuống th́ phạm tội pācittiya. Sau khi đứng dậy, (cả hai) lại nằm xuống th́ phạm tội pācittiya.

 

Vị bị trục xuất, nhận biết là bị trục xuất, vị dụ dỗ hoặc bảo phục vụ hoặc hưởng thụ chung hoặc nằm chung chỗ ngụ th́ phạm tội pācittiya. Vị bị trục xuất, có sự hoài nghi, vị dụ dỗ hoặc bảo phục vụ hoặc hưởng thụ chung hoặc nằm chung chỗ ngụ th́ phạm tội dukkaṭa. Vị bị trục xuất, (lầm) tưởng là không bị trục xuất, vị dụ dỗ hoặc bảo phục vụ hoặc hưởng thụ chung hoặc nằm chung chỗ ngụ th́ vô tội.

 

Vị không bị trục xuất, (lầm) tưởng là bị trục xuất, phạm tội dukkaṭa. Vị không bị trục xuất, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Vị không bị trục xuất, nhận biết là không bị trục xuất th́ vô tội.

 

Vị biết rằng: ‘Vị (sa di) không bị trục xuất,’ vị biết rằng: ‘Vị (sa di) đă dứt bỏ tà kiến ấy,’ vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên th́ vô tội.”

 

Điều học về vị Kaṇṭaka là thứ mười.

 

Phẩm Có Sinh Vật là thứ mười.

 

--ooOoo--

 

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

 

Cố ư giết hại, có sinh vật, được khơi lại, sự che giấu tội xấu xa, chưa đủ hai mươi tuổi, và đám người, sự hẹn trước, vị Ariṭṭha,vị bị án treo, và sa di Kaṇṭaka nữa; đây là mười điều học.”

 

--ooOoo--

 

 

 

[1] Tapodā (nghĩa là nước nóng) vừa là tên của một cái hồ vừa là tên của một ḍng sông. Nước ở hồ th́ mát nhưng khi ra đến ḍng sông th́ nóng (Pārājikapāḷi - Phân Tích Giới Tỳ Khưu I, TTPV tập 01, điều Pārājika thứ 4, trang 253).

[2] Tương đương 5 miles, hoặc 8 km (theo The Buddhist Monastic Code).

[3] Xem chi tiết ở Mahāvagga 2 - Đại Phẩm 2, TTPV tập 04, chương V, trang 512-515.

[4] Nghĩa là vị kia chưa nói với vị chủ nhân của y rằng: “Ngài hăy sử dụng hoặc ngài hăy phân phát hoặc ngài hăy tiến hành như là có duyên cớ” (VinA. iv, 864).

[5] V́ là trường hợp đầu tiên nên nhóm mười bảy thiếu niên ấy vẫn là tỳ khưu dầu chưa đủ hai mươi tuổi. Các vị này thường khóc lóc khi bị các tỳ khưu nhóm Lục Sư hiếp đáp hoặc vẫn c̣n những hành động của trẻ nít như đi xem lễ hội (điều pācittiya 37), chơi giỡn ở trong nước (điều pācittiya 53), để đồ đạc bừa băi (điều pācittiya 60), v.v... (ND).

                                

 

 

   
 

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 |

 
 

<Mục Lục><Đầu Trang>